1
TRƯỜNG ðẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KẾ HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN
BỘ MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Chủ biên: PGS. TS Ngô Thắng Lợi
GIÁO TRÌNH
GIÁO TRÌNHGIÁO TRÌNH
GIÁO TRÌNH
K
KK
KẾ
HO
HOHO
HOẠCH HÓA PHÁT TRI
CH HÓA PHÁT TRICH HÓA PHÁT TRI
CH HÓA PHÁT TRIỂN
N N
N
NHÀ XUẤT BẢN ðẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Hà Nội - 2009
2
Giỏo trỡnh
K
KK
K
HO
HOHO
HOCH HểA
CH HểACH HểA
CH HểA
PHT TRI
PHT TRIPHT TRI
PHT TRIN
NN
N
Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân
Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dânNhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân
Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân
Địa chỉ: 207 Đờng Giải Phóng, Hà Nội
Điện thoại: (04) 38 696 407 - 36 282 486 - 36 282 483
Fax: (04) 36 282 485
Chịu trách nhiệm xuất bản: GS.TS. Nguyễn Thành Độ
Chịu trách nhiệm nội dung:
PGS.TS. Ngô thắng lợi
Biên tập kỹ thuật: Ngọc lan Trịnh quyên
Chế bản: Nguyễn Quang kết
Thiết kế bìa: Mai hoa
Sửa bản in và đọc sách mẫu: Ngọc lan - Trịnh Quyên
In 2.000 cuốn, khổ 16 x 24cm tại Xởng in NXB Đại học KTQD.
Giấy phép xuất bản số: 1134 - 2008/CXB/01 - 227/ĐHKTQD.
In xong và nộp lu chiểu quý I/2009.
3
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
ASEAN Hiệp hội các quốc gia ðông Nam Á
Bộ KH&ðT Bộ Kế hoạch và ðầu tư
Bộ Lð-TBXH Bộ Lao ñộng, Thương binh và xã hội
Bộ NN-PTNT Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CNH Công nghiệp hoá
DSHðKT Dân số hoạt ñộng kinh tế
ðG ðánh giá
FDI ðầu tư trực tiếp nước ngoài
GTSX Giá trị sản xuất
IS Thay thế nhập khẩu
I/C Tích luỹ/tiêu dùng
KH Kế hoạch
KHðT Kế hoạch ñầu tư
KHH Kế hoạch hoá
KHPT Kế hoạch phát triển
KTXH Kinh tế - xã hội
LLLð Lực lượng lao ñộng
NICs Các nước công nghiệp mới
NXB Nhà xuất bản
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức
SNA Hệ thống tài khoản quốc gia
SWOT Mạnh - yếu - cơ hội - thách thức
TD Theo dõi
T/G Thu/chi Ngân sách
UBKHNN Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước
VðT Vốn ñầu tư
VSX Vốn sản xuất
WTO Tổ chức Thương mại thế giới
XHCN Xã hội chủ nghĩa
X/M Xuất/nhập
4
5
LỜI GIỚI THIỆU
Cho ñến nay, lý luận và thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới, kể cả các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển, ñều ñã thừa nhận rằng: Nền kinh tế
thị trường ñã không làm yếu mà ngược lại nó ñòi hỏi và tạo khả năng nâng
cao vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước bằng kế hoạch. Tất nhiên, kế
hoạch ở ñây không phải là kế hoạch theo phương pháp hành chính mệnh lệnh
bằng các chỉ tiêu hiện vật mang tính chất pháp lệnh phát ra từ Trung ương, mà
nó phải là một kế hoạch theo kiểu mới, kế hoạch mang tính ñịnh hướng trên
tầm vĩ mô. Việt Nam vốn là một nước có nền kinh tế kế hoạch hóa (KHH) tập
trung, ñang thực hiện chuyển ñổi sang nền kinh tế thị trường có sự ñiều tiết
của nhà nước và hội nhập quốc tế. Phù hợp với những yêu cầu của cơ chế
kinh tế mới, công tác KHH cũng cần ñược ñổi mới phù hợp nhằm bảo ñảm
cho kế hoạch thực sự là công cụ tổ chức sự can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế thị trường. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với nội dung và bản
chất mới như vậy cần phải ñược hệ thống hoá một cách ñầy ñủ và xây dựng là
một môn học chính cho sinh viên ngành kế hoạch và kinh tế phát triển, là một
môn học bổ trợ quan trọng cho sinh viên thuộc các chuyên ngành kinh tế khác
ở trong các trường ñại học khối kinh tế.
Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển kinh tế - xã hội do Bộ môn kinh tế
phát triển biên soạn, xuất bản (nhà xuất bản Thống kê) năm 2002 và tái bản
năm 2006 ñã ñáp ứng kịp thời những yêu cầu trang bị cho sinh viên những kiến
thức mang tính hệ thống về bản chất, nguyên tắc của kế hoạch hoá trong nền
kinh tế thị trường, các nội dung và phương pháp xây dựng hệ thống kế hoạch
ñịnh hướng phát triển kinh tế - xã hội. Tuy vậy, thời gian gần ñây, Chính phủ
Việt nam, Bộ Kế hoạch và ðầu tư cùng với các cơ quan có liên quan với sự
tham gia tư vấn, hỗ trợ tài chính của nhiều nhà tài trợ, ñã tiến hành các hoạt
ñộng khá thiết thực liên quan ñến ñổi mới công tác KHH từ trung ương ñến ñịa
phương. Kết quả là, công tác KHH trong ñiều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam ngày càng ñược hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn theo thời gian. ðiều
ñó, ñặt việc biên soạn lại giáo trình giảng dạy môn học là thực sự cần thiết.
Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển biên soạn lần này ñặt ra mục tiêu: hệ thống
hóa rõ ràng và ñầy ñủ hơn những khía cạnh lý luận, phương pháp luận của
KHH trong ñiều kiện kinh tế thị trường có sự ñiều tiết của nhà nước theo ñịnh
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam; cập nhật ñầy ñủ, hệ thống và chính xác các
phương pháp cũng như những công cụ sử dụng trong lập kế hoạch phát triển
kinh tế và xã hội ở nước ta; hợp lý hóa hơn về kết cấu toàn bộ giáo trình và
từng vấn ñề nghiên cứu trong mỗi chương. Giáo trình ñặt ra yêu cầu bổ sung có
6
lựa chọn kết quả của những dự án ñổi mới về công tác kế hoạch hiện nay ñang
triển khai ở Việt Nam, phù hợp với thể chế tổ chức hiện hành về công tác kế
hoạch từ trung ương ñến ñịa phương.
Giáo trình ñược kết cấu theo ba phần với 15 chương:
Phần I: Gồm các chương I, II, III, IV,V trình bày các vấn ñề lý luận và
phương pháp luận về kế hoạch hoá phát triển trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam.
Phần II: Gồm các chương VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII,XIII trình bày
nội dung và phương pháp lập các kế hoạch về kinh tế.
Phần III - Gồm các chương XIV, XV, giới thiệu tổng quan về kế hoạch
xã hội và nội dung, phương pháp lập kế hoạch phát triển một số lĩnh vực xã hội
chủ yếu.
Giáo trình ñược biên soạn bởi các GS, Tiến sỹ, Thạc sỹ có nhiều kinh
nghiệm trong nghiên cứu lý luận, thực tiễn và giảng dạy các môn học có liên
quan ñến Kế hoạch hóa phát triển kinh tế, xã hội: PGS,TS Ngô Thắng Lợi, là
chủ biên và trực tiếp biên soạn các chương I, II, VI, VII,VIII, XIV, XV và tham
gia biên soạn chương III, IX; GS,TS Vũ Thị Ngọc Phùng, biên soạn các
chương IX, XI, XII, XIII; GS, TSKH Nguyễn Quang Thái, biên soạn chương
III; TS Phan Thị Nhiệm, biên soạn chương X và tham gia biên soạn chương V;
Th.s Bùi ðức Tuân biên soạn chương V; tham gia biên soạn chương III; Th.s
Vũ Cương tham gia biên soạn chương IV, XIII; Th.s Vũ Thành Hưởng biên
soạn chương IV, tham gia biên soạn chương XIII và hiệu ñính các chương XII,
XIV, XV; Th.s Phạm Thanh Hưng, tham gia biên soạn chương VI, và hiệu ñính
các chương X, XI. Phần bài tập ứng dụng do PGS.TS. Ngô Thắng Lợi, Th.s Vũ
Thành Hưởng và Th.s Phạm Thanh Hưng biên soạn.
Mặc dù ñã có nhiều cố gắng, nhưng công tác KHH ở Việt Nam hiện nay
ñang trong quá trình ñổi mới và hoàn thiện thường xuyên, các vấn ñề ñặt ra khá
phức tạp và có liên quan nhiều ñến ñổi mới thể chế chính sách quản lý kinh tế
trong quá trình thực hiện nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, nên chắc chắn
không tránh khỏi những sai sót. Tập thể tác giả và Bộ môn Kinh tế phát triển
mong muốn nhận ñược những ý kiến ñóp góp quý báu của các ñồng nghiệp,
sinh viên và tất cả bạn ñọc.
Hà Nội, ngày 5 tháng 01 năm 2009
Bộ môn Kinh tế phát triển
7
Phần 1:
Lý luận và phương pháp luận về kế hoạch hoá
phát triển trong nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam
8
9
CHƯƠNG I
NHẬP MÔN KẾ HOẠCH HOÁ PHÁT TRIỂN
"Cần có kế hoạch thật tốt ñể phát triển
kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng
nâng cao ñời sống của nhân dân"
(Hồ Chí Minh)
I. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Quản lý và các chức năng quản lý
Tất cả các hoạt ñộng có ý thức của cá nhân hay tập thể (với các quy
mô khác nhau) ñều cần có hoạt ñộng mang tính chất ñiều khiển. Nếu là các
hoạt ñộng mang quy mô tập thể, chúng ta thường gọi ñó là các hoạt ñộng
quản lý. Các môn học về khoa học quản lý ñã ñịnh nghĩa (ñứng trên góc ñộ
bản chất): Quản lý là sự tác ñộng của chủ thể quản lý ñến ñối tượng quản lý
nhằm hướng ñối tượng quản lý ñi theo một mục tiêu ñịnh sẵn.
Theo khái niệm trên, nếu mô tả theo quy trình, có thể hình dung các
chức năng chủ yếu của quản lý bao gồm:
Trong sơ ñồ trên, xác ñịnh mục tiêu (1) là khâu ñầu tiên trong quy
trình quản lý, nó chỉ ra hướng ñích cần ñạt tới, các mục tiêu cụ thể và những
nhiệm vụ phải thực hiện trong khoảng thời gian nhất ñịnh. Tổ chức(2) là quá
trình thực hiện sự phối hợp hoạt ñộng các bộ phận, kể cả quản lý và bị quản
lý trong quá trình triển khai thực hiện mục tiêu, nó có ý nghĩa quyết ñịnh
ñến việc thực hiện mục tiêu ñặt ra ở bước (1). Kiểm tra (3) là quá trình theo
dõi việc thực hiện các hoạt ñộng của hệ thống quản lý với hai nhiệm vụ: một
là, thúc ñẩy tiến ñộ thực hiện mục tiêu; hai là, phát hiện những vấn ñề có
Xác ñịnh
mục tiêu
Tổ chức
thực hiện
Kiểm tra
ðiều
chỉnh
Hạch
toán
10
liên quan ñến khả năng thực hiện mục tiêu ñặt ra. ðiều chỉnh (4) có nhiệm
vụ xử lý những phát sinh do bước 3 phát hiện ñược. ðể thực hiện ñược mục
tiêu, chúng ta cần phải thực hiện sự ñiều chỉnh nội dung xác ñịnh ở bước
hai, tức là thay ñổi tổ chức. Tuy vậy trong trường hợp cần thiết, cũng có thể
hướng tới sự ñiều chỉnh mục tiêu. Bước cuối cùng của quy trình quản lý là
ñánh giá (5). Có hai nội dung liên quan ñến ñánh giá, ñó là: ñánh giá kết quả
và hiệu quả kinh tế của một quá trình hoạt ñộng quản lý (gọi là hạch toán),
bao gồm có việc xác ñịnh xem, mục tiêu ñặt ra có ñựợc triển khai thực hiện
không? Kết quả thực hiện như thế nào? Chi phí cho việc thực hiện? Hiệu
quả kinh tế tài chính; nội dung ñánh giá thứ hai là ñánh giá tác ñộng, tức là
xem xét việc thực hiện mục tiêu ñặt ra có ảnh hưởng như thế nào ñến sự
phát triển của tổ chức.
2. Kế hoạch
Hiểu theo cách chung nhất, kế hoạch là sự thể hiện mục ñích, kết quả
cũng như cách thức, giải pháp thực hiện cho một hoạt ñộng tương lai. Cách
hiểu tổng quát này ñúng cho các loại kế hoạch, có thể là kế hoạch cho một
hoạt ñộng, một công việc, một dự án cụ thể sắp sửa làm, gọi là kế hoạch
hoạt ñộng (ví dụ như: kế hoạch cho buổi khai giảng năm học, kế hoạch cho
buổi ñi thực tế ở công ty, kế hoạch xây dựng một con ñường v.v ); có thể
là kế hoạch cho sự phát triển tương lai của một cá nhân, gia ñình; hay của
một tổ chức kinh tế, xã hội (gọi là kế hoạch phát triển một ñơn vị, một ñịa
phương hay cả quốc gia). Các kế hoạch phát triển với các mức ñộ quy mô
khác nhau ñều mang tính chất và nội dung ñầy ñủ hơn so với kế hoạch hoạt
ñộng. Theo khía cạnh kế hoạch phát triển, gắn với nội dung của quy trình
quản lý, thì kế hoạch thuộc chức năng ñầu tiên và quan trọng nhất của quy
trình quản lý, ñó là sự thể hiện ý ñồ của chủ thể về sự phát triển trong tương
lai của ñối tượng quản lý và các giải pháp ñể thực thi.
Dù kế hoạch hoạt ñộng, một công việc cụ thể hay kế hoạch phát triển
thì bản chất của công tác này chính là sự hướng tới tương lai, ñược xem
như là nhịp cầu nối từ hiện tại ñến chỗ mà chúng ta muốn ñến trong tương
lai. Tính chất hướng tới tương lai trong KH thể hiện ở hai nội dung: một là,
kế hoạch dự ñoán những gì sẽ xảy ra, ñặt ra kết quả ñạt ñược trong tương
lai; hai là, kế hoạch thực hiện việc sắp ñặt các hoạt ñộng của tương lai, các
công việc cần làm và thứ tự thực hiện các công việc ñể ñạt ñược kết quả ñã
ñịnh. Kế hoạch xác ñịnh xem một quá trình phải làm gì? làm thế nào ? khi
nào làm? ai sẽ làm ? và sâu hơn nữa là làm như thế ñể làm gì. Ví dụ như,
một nhóm sinh viên có ý ñịnh ñi dã ngoại từ trường ñến một ñịa ñiểm cách
11
xã trường 50 km nhân dịp nghỉ lễ quốc khánh 2/9, ñiều ñó chính là họ ñang
làm kế hoạch (nội dung thứ nhất của kế hoạch); Họ phải lựa chọn giữa các
ñường ñi và phương tiện giao thông, thời gian ñi, ñịa ñiểm xuất phát, sắp
xếp một loạt các vấn ñề cho chuyến ñi phù hợp với nguồn lực hiện có của cả
nhóm (nội dung thứ hai của KH). Người nông dân quyết ñịnh chuyển ñổi
giống cây trồng ñể tăng thu nhập của gia ñình, anh ta sẽ phải nghĩ tới việc
trồng cây gì hàng năm, gieo trồng bao nhiều mỗi vụ, khi nào thì gieo trồng,
khi ñưa ra các quyết ñịnh này anh nông dân cũng phải dựa trên sự sẵn có
của các nguồn lực như ñất ñai, giống, lao ñộng, tài chính, công cụ kỹ thuật,
kể cả thời tiết, khí hậu ñiều ñó có nghĩa là người nông dân này ñang làm kế
hoạch. Bộ tài chính là những người chịu trách nhiệm tư vấn cho chính phủ
hàng năm về cân ñối thu chi ngân sách, cũng phải có kế hoạch. Với mục tiêu
tăng thuế và giảm chi tiêu chẳng hạn, họ phải ñưa ra các dự kiến về các loại
thuế cần thu, các khoản chi tiêu nào cần cắt giảm, làm thế nào ñể mở rộng
sản xuất cho xuất khẩu, giảm nhập khẩu mặt hàng gì. ðể ñưa ra các lựa
chọn ñó họ phải xem xét ñến không chỉ vài loại nguồn lực có thể nhận biết
dễ dàng mà toàn bộ sự phức tạp của nền kinh tế.
ðể có kế hoạch, cần phải tiến hành quá trình soạn lập. Tùy theo quy
mô, mức ñộ và tính chất của hoạt ñộng ñể tổ chức quá trình soạn lập với
các mức ñộ khác nhau. Nhiều khi quá trình soạn lập kế hoạch chỉ ñược
hình thành trong ñầu óc, suy nghĩ của chủ thể (ñó là các kế hoạch hoạt
ñộng của cá nhân), cũng có thể là một cuộc trao ñổi tập thể nhanh gọn và
người ñứng ñầu quyết ñịnh xem như là sự thỏa thuận bằng miệng hoặc văn
bản (một hoạt ñộng tập thể nhỏ duy trì trong một thời gian ngắn, như là kế
hoạch cho một cuộc ñi chơi dã ngoại, một buổi liên hoan, một buổi thảo
luận v.v ), các kế hoạch kinh tế, xã hội có liên quan ñến cộng ñồng, kế
hoạch của một doanh nghiệp, một ñịa phương, một ngành hay rộng hơn là
tầm quốc gia thì thông thường quá trình soạn lập phải ñược thể chế hóa
bao gồm các bước khác nhau với tiến ñộ thời gian quy ñịnh khá chính xác.
Kết quả của quá trình soạn lập kế hoạch là một “kế hoạch” ñược hình
thành. Mội “kế hoạch” ở bất kỳ quy mô hay hình thức nào thì nó cũng phải
hàm chứa hai nội dung cơ bản là mục tiêu và cách thức, giải pháp thực
hiện. Tuy vậy, sản phẩm của công tác lập KH cũng khá phong phú, rõ ràng
nhất nó thể hiện ở một văn bản cụ thể cung cấp kế hoạch chi tiết cho hoạt
ñộng trong tương lai, nhưng có thể nó thể hiện dưới dạng một sơ ñồ tổ
chức, ngân sách hàng năm, hoặc một bản ghi nhớ hướng dẫn mọi người
ñảm nhận những nhiệm vụ cụ thể. ðể cho kế hoạch thực sự trở thành công
cụ ñiều hành hoạt ñộng thì, tốt nhất nó phải ñược thực hiện theo cơ chế
12
nhiều bên tham gia (kể cả kế hoạch hành ñộng cá nhân) và ñược quyết
ñịnh trên cơ sở lựa chọn từ nhiều phương án, quá trình soạn lập KH ñược
xem như là công nghệ của sự lựa chọn tối ưu.
Như vậy, ñối tượng lập KH có thể là hoạt ñộng của một cá nhân, một
gia ñình, một tập thể, hay hoạt ñộng kinh tế, xã hội với các mức ñộ quy mô
khác nhau như một một doanh nghiệp, ngành kinh tế - kỹ thuật, ñịa phương,
vùng và phạm vi lớn nhất là toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tất cả các hoạt
ñộng trên, muốn thực hiện một cách tốt ñẹp ñều cần phải có kế hoạch.
Trong khung khổ giáo trình này, chúng ta chỉ ñề cập ñến kế hoạch ở tầm vĩ
mô, tức là kế hoạch trên phạm vi nền kinh tế quốc dân, có thể vận dụng ở
phạm vi một ñịa phương (gọi là kế hoạch phát triển). Kế hoạch phát triển
thể hiện các mục tiêu tổng thể về phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia
(hay một ñịa phương) cần ñạt tới trong một thời kỳ kế hoạch nhất ñịnh và
các giải pháp, chính sách, cách ñi phù hợp nhằm thực hiện mục tiêu ñặt ra
một cách linh hoạt và hiệu quả cao nhất
3. Kế hoạch hóa vĩ mô nền kinh tế quốc dân
Trên thực tế thường hay có sự nhầm lẫn giữa KH và KHH, thậm chí
có người còn ñồng nhất hai khái niệm này và cho rằng KHH là quá trình
soạn lập kế hoạch, kết quả của quá trình KHH là tạo ra các văn bản dự thảo
về những dự ñịnh và giải pháp thực hiện trong tương lai. Chính vì sự nhầm
lẫn ấy mà công tác KH thường ñược kết thúc bằng sự ra ñời của bản KH.
Kết quả là một hoạt ñộng mặc dù có KH nhưng lại không ñược triển khai
thực hiện theo KH và rút cuộc là KH vẫn chỉ là trên giấy, còn các mục tiêu
của KH thì không thực hiện ñược. Thực chất, KH và KHH là hai khái niệm
khác nhau. KH hàm chứa những dự ñịnh về kết quả và giải pháp thực hiện
trong tương lai, nhưng việc xây dựng KH không thể ñược coi là mục ñích
của KHH, nó chỉ là bước ñầu tiên của quy trình KHH. Mục ñích của KHH
phải là làm thế nào ñể thực hiện ñược các mục tiêu ñặt ra trong kế hoạch,
biến những giải pháp, chương trình hành ñộng ñặt ra trong KH thành thực
tế. ðiều ñó có nghĩa là, KHH còn nhấn mạnh ñến các quá trình khác nữa, ñó
là quá trình tổ chức, triển khai các hoạt ñộng trên thực tế theo KH.
Với ý nghĩa tổng quát nhất và cho mọi hoạt ñộng, Diana Conyers
(ðại học Nottingham) và Peter Hills (ðại học Hồng Kông) trong cuốn “Giới
thiệu về kế hoạch phát triển trong thế giới thứ ba” cho rằng: Kế hoạch hóa là
một quá trình liên tục bao gồm việc ñưa ra các mục tiêu cần ñạt tới trong
tương lai; lựa chọn và quyết ñịnh các phương pháp khác nhau trong tổ chức,
13
sử dụng hiệu quả nguồn lực sẵn có nhằm hướng tới việc thực hiện mục tiêu
ñặt ra cho tương lai. Hay theo quan ñiểm của OECD thì: “KHH ñược hiểu là
các hoạt ñộng nhằm tạo ra và thực thi kế hoạch, bao gồm thiết kế ra, vạch
ra từ trước một kế hoạch ñể xây dựng và thực thi” (OECD, 1971). PGS,TS
Ngô Doãn Vịnh, viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ KH&ðT) cho
rằng: “nói một cách ñơn giản, KHH chính là làm cho công việc diễn ra một
cách có KH. Cụ thể hơn, nói KHH tức là nói ñến lập KH và biến KH thành
thực tế cuộc sống ñối với một công việc cụ thể hay ñối với một hệ thống
nhất ñịnh Tất cả các quan ñiểm nói trên ñều ñã nhấn mạnh ñến KHH là một
phương thức quản lý dựa trên mục tiêu, ñó là quá trình thực hiện sự can
thiệp có ý thức, có chủ ñịnh của chủ thể vào ñối tượng quản lý dựa trên cơ
sở kế hoạch (mục tiêu) ñược xác ñịnh trước.
Trên phạm vi nền kinh tế quốc dân, trong cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, khái niệm về kế hoạch hóa kinh tế quốc dân ñược nêu ra trong Từ
ñiển bách khoa toàn thư của Liên Xô như sau: Kế hoạch hóa nền kinh tế
quốc dân là một hoạt ñộng tự giác của Nhà nước chuyên chính vô sản ñể
quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu kinh tế, xã hội thống
nhất xác ñịnh trước, nhằm xác ñịnh quy mô, cơ cấu và các quan hệ cân ñối
hợp lý, tạo ra bước ñi và cơ cấu có lợi nhất với hiệu quả kinh tế cao bằng
cách khai thác mọi tiềm năng ñể không ngừng mở rộng sản xuất và nâng cao
ñời sống nhân dân. Giáo trình Kế hoạch hóa kinh tế quốc dân của khoa Kế
hoạch kinh tế quốc dân, xuất bản năm 1972 ñã ñưa ra ñịnh nghĩa: “ KHH
kinh tế quốc dân về bản chất là một phương pháp quản lý kinh tế quốc dân
của nhà nước chuyên chính vô sản, theo phương thức kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, nhằm xác ñịnh những tốc ñộ và quan hệ cân ñối hợp lý nhất, tạo ra
những bước ñi và cơ cấu có lợi nhất, dự kiến từ trước với hiệu quả kinh tế
cao nhất trong thời kỳ kế hoạch”. Các khái niệm này phản ánh: (1) KHH
chính là một phương thức quản lý nền kinh tế quốc dân bằng mục tiêu; (2)
KHH kinh tế quốc dân bao gồm bao gồm ba mặt công tác: công tác xây
dựng kế hoạch; công tác lãnh ñạo và tổ chức thực hiện kế hoạch và công tác
theo dõi kiểm tra, ñánh giá thực hiện kế hoạch.
Thực tế hiện nay cho thấy, sử dụng kế hoạch với tư cách là công cụ ñể
ñiều tiết hoạt ñộng kinh tế vĩ mô không chỉ tồn tại duy nhất ở trong nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa; hơn nữa, kế hoạch cũng không phải là một công cụ duy
nhất quản lý nền kinh tế quốc dân. Tuy vậy, khái niệm kế hoạch hóa như
trên cũng vẫn giữ ñược cái cốt lõi chính. Theo TS Lê ðăng Doanh “Kế
hoạch hóa ñược hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ hành vi can thiệp một
14
cách có chủ ñịnh của nhà nước vào nền kinh tế vĩ mô ñể ñạt ñược những
mục tiêu ñã ñược ñề ra”; theo quan ñiểm của Thứ trường Bộ KH&ðT Việt
Nam- TS Cao Viết Sinh thì “Kế hoạch hóa là sự thiết lập mối quan hệ giữa
khả năng và mục ñích nhằm ñạt ñược mục tiêu sử dụng có hiệu quả nhất
tiềm năng hiện có”. TS ðặng ðức ðạm cho rằng “ Kế hoạch hóa vĩ mô là
hoạt ñộng của Chính phủ nhằm lựa chọn phương án sử dụng hợp lý các
nguồn lực và quyết ñịnh các giải pháp tác ñộng ñến biến số kinh tế vĩ mô
chủ yếu theo hướng các mục tiêu ñã xác ñịnh trước.”v.v
Tất cả những quan niệm về KHH nói trên, cơ bản vẫn thống nhất với
bản chất của công tác này ñược xác ñịnh trong cơ chế trước, sự khác biệt chỉ
là nhấn mạnh tính “mềm”, tính “linh hoạt” hơn của việc sử dụng công cụ kế
hoạch với tư cách là một trong những công cụ khác nhau ñược Chính phủ sử
dụng ñiều tiết nền kinh tế thị trường. Chúng ta thống nhất sử dụng khái
niệm về kế hoạch hóa ñược xác ñịnh trong Từ ñiển bách khoa Việt Nam như
sau: “Kế hoạch hóa là phương thức quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân của
nhà nước theo mục tiêu, là hoạt ñộng của con người trên cơ sở nhận thức và
vận dụng các quy luật xã hội và tự nhiên, ñặc biệt là quy luật kinh tế ñể tổ
chức quản lý các ñơn vị kinh tế, các ngành, các lĩnh vực và toàn bộ nền kinh
tế Quốc dân theo những mục tiêu thống nhất; dự kiến trước phương hướng,
cơ cấu, tốc ñộ phát triển và có những biện pháp tương ứng bào ñảm thực
hiện, nhằm ñạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao” (tr.469, Từ ñiểm Bách khoa
việt Nam 2 – NXB Từ ñiển Bách khoa, Hà Nội 2002)
Với khái niệm mang tính bản chất trên, KHH nền kinh tế quốc dân
nếu hiểu theo góc ñộ quy trình thực hiện, bao gồm các hoạt ñộng: (1) soạn
lập kế hoạch (mở rộng hơn là soạn lập các văn bản mang tính kế hoạch),
nhiệm vụ chính của bước này là soạn lập kế hoạch, trong ñó nội dung
chính là xác ñịnh mục tiêu, chỉ tiêu phát triển và hệ thống giải pháp chính
sách áp dụng trong thời kỳ kế hoạch; (2) Tổ chức thực hiện kế hoạch, bao
gồm quá trình tổ chức phối hợp haọt ñộng của các bên, sự dụng các chính
sách, giải pháp nhằm khai thác, huy ñộng và sử dụng nguồn lực trong quá
trình thực hiện mục tiêu kế hoạch; (3) Theo dõi, kiểm tra, ñánh giá và ñiều
chỉnh kế hoạch với những yếu tố mới phát sinh trong môi trường kinh tế,
bao gồm quá trình theo dõi thường xuyên hoạt ñộng của hệ thống kinh tế
quốc dân; ñánh giá tình hình thực hiện mục tiêu kế hoạch và tác ñộng của
KH ñến phát triển kinh tế, xã hội; bổ sung và ñiều chỉnh KH trong kỳ hoặc
kỳ KH sau.
KHH nền kinh tế quốc dân, nếu hiểu theo nội dung, bao gồm một hệ
15
thống ñầy ñủ các văn bản hoạch ñịnh của Chính phủ. Tùy theo từng nước,
hệ thống các văn bản hoạch ñịnh có thể khác nhau. Ở Việt Nam, hệ thống
này bao gồm: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển, kế
hoạch phát triển và các chương trình dự án phát triển kinh tế - xã hội. Tất cả
các văn bản trên có mối quan hệ với nhau, nhằm hướng và tổ chức hoạt
ñộng của nền kinh tế theo mục tiêu tổng thể, dài hạn của ñất nước (ñịa
phương, ngành). Như vậy, quy trình kế hoạch hóa phát triển kinh tế - xã hội,
nếu hiểu theo nội dung bao gồm: (1) xây dựng chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội; (2) Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nhằm cụ thể hóa
quan ñiểm và nội dung chiến lược; (3) Xây dựng kế hoạch trung hạn, các
chương trình dự án và kế hoạch ngắn hạn nhằm ñưa chiến lược và quy
hoạch vào thực hiện từng bước.
II. LỊCH SỬ KẾ HOẠCH HOÁ Ở CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
1. Các nước áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung
1.2 Kế hoạch hoá ở Liên Xô cũ.
Cuộc cách mạng của những người cộng sản năm 1917 ở nước Nga ñã
ñưa ra một con ñường lựa chọn cho sự phát triển kinh tế. Sau khi thực hiện
một số chính sách như: chính sách cộng sản thời chiến, chính sách kinh tế
mới, từ năm 1928, Liên xô bắt ñầu áp dụng hình thức kế hoạch tập trung
nền kinh tế quốc dân bằng kế hoạch 5 năm ñầu tiên 1928 - 1932. ðặc trưng
cơ bản của cơ chế này là sự thống trị của hoạt ñộng kế hoạch trong các lĩnh
vực kinh tế - xã hội của ñất nước. Kế hoạch hoá tập trung ở ñây thể hiện ñó
là sự áp ñặt trực tiếp của chính phủ ñối với các ngành, các ñịa phương, các
ñơn vị kinh tế thông qua các quyết ñịnh phát ra từ trung ương. Nhà nước
trực tiếp kiểm soát về vốn, ñất ñai, sự hợp tác hoá nông nghiệp, sự loại bỏ
thực sự thương mại tư nhân, sự ñộc quyền hoạt ñộng của hệ thống ngân
hàng thương mại nhà nước. Các chỉ tiêu kế hoạch ñược xây dựng và quản
lý một cách chi tiết, cụ thể, toàn diện.
Với hệ thống kế hoạch hoá như vậy trong vài thập kỷ, Liên Xô ñã
nhanh chóng trở thành một cường quốc công nghiệp. Từ năm 1928 ñến
1940, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch khá nhanh:tỷ lệ nông nghiệp ñã giảm
từ 49% xuống còn 29% GDP và từ 71% xuống còn 51% về lao ñộng. Cơ
cấu xã hội có sự thay ñổi nhanh chóng: từ chỗ tỷ lệ mù chữ chiếm 60% và
tuổi thọ trung bình là 40 năm ñã nhường chỗ cho sự biết chữ phổ cập, tuổi
thọ trung bình 70 năm và bảo ñảm sự an toàn về kinh tế. Bằng kế hoạch hoá
tập trung, người Xô Viết ñã tạo ra những thay ñổi kỳ diệu mà phương Tây
16
hay Nhật Bản cần ñến 50 - 70 năm. Tuy vậy, sự kỳ diệu của 50 năm ñầu tiên
của CNXH Xô Viết ñã bắt ñầu có những dấu hiệu hoài nghi về sự khủng
hoảng. Mô hình kế hoạch hoá tập trung ở Liên Xô ñã bắt ñầu ñưa ñến những
biểu hiện kém hiệu quả về kinh tế với mức tiêu dùng và năng suất lao ñộng
ngày càng thấp so với các nước phương Tây và Nhật Bản. Cơ chế này ñã
huỷ diệt dần các ñộng lực cạnh tranh, ñộng lực phát triển tự giác và ñộc lập.
70 năm chủ nghĩa xã hội với cơ chế kế hoạch hoá tập trung ñã tạo ra cho
nền kinh tế 1 chiếc kim tự tháp khổng lồ bị sơ cứng lại bởi tệ nạn quan liêu
và sức ỳ ñáng sợ của cơ chế.
1.3 Kế hoạch hoá ở Trung Quốc
Trung Quốc là một nước có ñường lối phát triển kinh tế - xã hội theo
mô hình chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung Quốc. Từ ngày thành lập
nước cộng hào nhân dân Trung Hoa, kể cả trong thời kỳ cải cách kinh tế từ
1980 ñến nay, Trung Quốc luôn luôn ñề cao vai trò cảu công tác kế hoạch
hoá.
Uỷ ban Kế hoạch nhà nước Trung Quốc thành lập năm 1950 và từ
năm 1953 - 1980, Trung Quốc áp dụng cơ chế kế hoạch hoá trực tiếp, bao
trùm mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân theo mô hình của Liên Xô. Cơ
chế kế hoạch hoá tập trung ở Trung Quốc kéo dài tới 9 kế hoạch 5 năm. Kế
hoạch 5 năm 1976 - 1980 với nội dung bao trùm "kế hoạch bốn hiện ñại
hoá" ñã kết thúc giai ñoạn kế hoạch hoá tập trung.
Từ năm 1980 ñến nay, Trung Quốc tiến hành cải cách kinh tế theo
hướng mở rộng nhân tố thị trường, Khi các thành phần kinh tế phát triển, cơ
cấu hoạt ñộng kinh tế thay ñổi. Những thay ñổi trong nền kinh tế gồm:
• Thứ nhất, ñã xuất hiện ngày càng nhiều các hình thức sở hữu khác
ngoài nhà nước.
• Thứ hai, các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước ñược trao nhiều
quyền tự chủ hơn,
• Thứ ba, cơ chế thị trường có tác ñộng rất mạnh mẽ ñến các hoạt
ñộng kinh tế.
Cùng với qúa trình chuyển ñổi kinh tế, công tác kế hoạch hoá của
Trung Quốc có những hoàn thiện ñáng kể. Nó ñược chuyển từ cơ chế kế
hoạch hoá tập trung sang cơ chế kế hoạch hóa phát triển, kế hoạch hoá gián
tiếp với những ñổi mới cơ bản:
17
• Thứ nhất, phạm vi của kế hoạch pháp lệnh ñược thu hẹp, kế hoạch
hoá mang tính ñịnh hướng và hướng dẫn nhiều hơn.
• Thứ hai, trong công tác kế hoạch, các chỉ tiêu giá trị ngày càng
ñược sử dụng rộng rãi thay thế cho các chỉ tiêu hiện vật trước ñây.
• Thứ ba, phương pháp xây dựng kế hoạch thay ñổi: việc giao chỉ
tiêu cho các ñơn vị giảm dần, các cơ sở sản xuất kinh doanh của
nhà nước và tư nhân ñược tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh,
công tác kế hoạch hoá chuyển dần sang cân ñối các chỉ tiêu kinh tế
vĩ mô bằng việc áp dụng ngày càng phổ biến các mô hình kinh tế
ñể dự báo và hoạch ñịnh chính sách.
1.4 Các nước có nền kinh tế thị trường phát triển
a. Kế hoạch hoá ở Pháp
Cộng hoà Pháp là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển, ñồng
thời nước Pháp từ lâu ñã có một nhà nước vững mạnh giữ vai trò quan trọng
trong hoạt ñộng và ñời sống kinh tế - xã hội. Từ sau ñại chiến thế giới lần
thứ II, chính phủ Pháp ñã có kế hoạch kinh tế quốc dân. Cơ quan kế hoạch
của Pháp ra ñời vào năm 1946 với 3 chức năng cơ bản là: Dự thảo kế hoạch,
tư vấn các chính sách kinh tế và nghiên cứu dự toán dài hạn. Cho ñến nay,
nước Pháp ñã trải qua 12 kế hoạch 5 năm. Các nhà nghiên cứu của Pháp ñã
chia ra 2 thời kỳ lớn của kế hoạch hoá ở Pháp là:
• Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ vàng son của kế hoạch hoá Pháp, kéo
dài trong 30 năm từ 1945 - 1975.
• Thời kỳ thứ hai thời kỳ khủng hoảng của kế hoạch hoá, ñặc biệt là
cuộc cải cách kế hoạch hoá năm 1982 và cuộc ñổi mới kế hoạch
hoá năm 1994.
Thời kỳ khủng hoảng kế hoạch hoá ở Pháp xuất phát từ những nhân tố
khách quan ñó là sự lan tràn và ảnh hưởng của thuyết tân tự do về kinh tế
(sùng bái hoá thị trường), xu thế hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế thế
giới, cũng như những nhân tố chủ quan ñó là tính chất ngày càng ña dạng,
phức tạp trong ñời sống kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật v.v của ñất
nước. Ngày nay các nhà cải cách kế hoạch hoá ñã ñưa ra những vấn ñề ñổi
mới về nhiệm vụ, nội dung, phương pháp kế hoạch hoá của Pháp với ñiểm
nổi bật là:
- Kế hoạch hoá phát triển ngày càng mềm mại, cơ ñộng, ngày càng mở
18
rộng phạm vi cho sự vận hành của thị trường.
- Kế hoạch 5 năm (hình thức duy nhất ở Pháp) giảm phần ñịnh lượng,
tăng phần ñịnh tính, giảm ñến mức gần như xoá bỏ các tính toán và chỉ tiêu
hướng dẫn về sản lượng, nâng chất lượng các tính toán và hướng dẫn vĩ mô
về kinh tế xã hội, giảm các tính toán về chiều dọc theo ngành, tăng các tính
toán chiều ngang có tính liên quan và tổng hợp.
- Tiếp tục mở rộng hình thức kế hoạch hoá phi tập trung, mở rộng
thêm quyền cho vùng lãnh thổ và cho các doanh nghiệp.
b. Kế hoạch hoá ở Nhật Bản
Mặc dù Nhật Bản có chính sách xây dựng một nền kinh tế thị trường
tư bản từ những cải cách thời kỳ Minh Trị duy tân (năm 1868) và cho tới
nay Nhật ñã có những tiến bộ nổi bật về phát triển kinh tế, nhưng ñiều ñói
không có nghĩa là chính phủ Nhật Bản ñã không sử dụng kế hoạch hóa trong
quản lý phát triển kinh tế. Thực tế chính phủ Nhật Bản ñóng vai trò quan
trọng trong nhiều lĩnh vực.
Hoạt ñộng của công tác kế hoạch hoá ở Nhật Bản từ năm 1945 tới nay
có thể chia làm hai giai ñoạn:
- Giai ñoạn kế hoạch hoá kinh tế thứ nhất là thời kỳ ổn ñịnh kinh tế
sau chiến tranh từ năm 1945 ñến 1955. Trong thời kỳ này chính phủ Nhật
Bản ñã xây dựng Uỷ ban ổn ñịnh kinh tế, kế hoạch hoá lúc này có tính tập
trung cao ñộ gần giống như hệ thống kế hoạch của các nước XHCN, trong
ñó bao gồm cả việc tính toán các cân ñối cung cầu cho từng quý và giao kế
hoạch phân bổ nguyên vật liệu, hàng hoá tới từng khu vực.
- Giai ñoạn thứ hai là từ năm 1955 ñến nay, sau khi ổn ñịnh và phục
hồi kinh tế, chính phủ Nhật Bản ñã bãi bỏ dần kiểm soát trực tiếp ñối với
kinh tế và thay bằng yếu tố thị trường. Kế hoạch vẫn ñược duy trì nhưng ñó
là kế hoạch hướng dẫn cung cấp các thông tin ñịnh hướng cho nền kinh tế.
Từ năm 1955 Nhật Bản thành lập cục kế hoạch hoá chịu trách nhiệm xây
dựng và thực hiện các kế hoạch dài hạn. Công tác kế hoạch hoá vẫn luôn
ñược coi trọng và chính phủ Nhật Bản nhẫn mạnh tới vai trò của kế hoạch
hoá trong nền kinh tế thị trường ở các khía cạnh:
+ Thứ nhất, vai trò giáo dục, thông tin và dự ñoán kinh tế. Dựa trên ñó
các công ty tư nhân có thể lập kế hoạch dài hạn của riêng mình.
+ Thứ hai, kế hoạch hoá là tuyên bố cam kết chính sách dài hạn. ðó
19
là các tuyê n bố về mục tiêu dài hạn của chính phủ và các chương trình chi
tiêu do chính phủ thực hiện.
+ Thứ ba, hoạch ñịnh các chính sách phát triển, tạo ra ñiều kiện, mô
trường lành mạnh trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng hàng hóa.
c. Kế hoạch hoá ở Mỹ
Những năm 1930 nền kinh tế Mỹ có những dấu hiệu tiêu cực do hậu
quả của cơ chế thị trường tự do và tư nhân hoá: Sự ñổ vỡ của thị trường
chứng khoán năm 1939, tỷ lệ thất nghiệp tới mức kỷ lục là 25%, hàng hoá
và dịch vụ tụt xuống bằng 1/2 trước ñây. ðó là môi trường kinh tế, tâm lý và
tinh thần thúc ñẩy hình thành yêu cầu phải kế hoạch hoá sự phát triển kinh
tế ñất nước.
- Các cơ quan kế hoạch các cấp ra ñời vào năm 1936: Mỗi Bang hình
thành hội ñồng kế hoạch nhà nước Bang và toàn liên bang có hội ñồng kế
hoạch nguyên liệu quốc gia (National resources planning Board) tức là cơ
quan kế hoạch trung ương ñể hỗ trợ chỉ ñạo cơ quan kế hoạch nhà nước cấp
Bang. Sau này (từ năm 1943) cơ quan này ñược giải thể. Nhưng chức năng
này vẫn tồn tại và thuộc quốc hội giải quyết và quyết ñịnh dưới dạng luật.
Như vậy hiện nay quốc hội Mỹ trực tiếp nắm việc xây dựng các hạng mục
lớn của kế hoạch nhà nước. ðảng chính trị nào chi phối Quốc hội sẽ chi
phối toàn bộ kế hoạch nhà nước cấp toàn Liên bang. Ở cấp Bang, thành phố,
thị trấn v.v ñều có bộ phận kế hoạch chuyên trách.
- Về nội dung: Các kế hoạch ñược xây dựng tập trung giải quyết
những mảng công việc trọng ñiểm của từng thời kỳ và ở mỗi Bang khác
nhau như nông nghiệp, công nghiệp, phát triển ñô thị, giao thông, tài chính,
v.v. Hiện nay nội dung kế hoạch tập trung chủ yếu vào các mục tiêu xã hội
như kế hoạch chống ô nhiễm môi trường, kế hoạch nhà ở và công trình công
cộng, kế hoạch phát triển cộng ñồng, kế hoạch dân số, giáo dục, v.v
- Cơ chế thực hiện kế hoạch ở Mỹ ñược áp dụng theo phương thức
"dùng củ cà rốt nhiều hơn cái gậy". Củ cà rốt là quỹ của Liên bang, nguồn
ñất của Liên bang. Trung ương nêu ñường lối chung bằng các chính sách và
hệ thống ñòn bảy còn kế hoạch chi tiết thì do cấp Bang hoặc dưới Bang ñảm
nhận.
- Tổ chức công tác lập kế hoạch: ở Mỹ, thường phát triển nhiều hình
thức các công ty tư nhân làm chức năng tư vấn xây dựng kế hoạch. Các
công ty tư vấn kế hoạch thực hiện việc xây dựng kế hoạch cho các ñơn vị
20
kinh tế cũng như các tổ chức kinh tế.Với tư cách là một “chuyên nghiệp”,
yêu cầu nhà kế hoạch ñặt ra rất cao ở Mỹ. Theo họ, nhà kế hoạch phải hội tụ
ñược tư chất của các “nhà”: chính trị, kinh tế, kinh doanh, và phải là những
người ñi ñầu trong ñổi mới.
d. Kế hoạch hoá ở các nước ñang phát triển (trường hợp các nước
NICS và ASEAN)
Sau ñại chiến thế giới lần thứ II, hệ thống các nước thế giới thứ ba
(nay gọi là các nước ñang phát triển) ra ñời. Trong những thập niên ñầu tiên
của quá trình phát triển, hầu hết các nước này ñã coi kế hoạch hoá quốc gia
trực tiếp là cơ chế tổ chức duy nhất giúp họ vượt qua những trở ngại to lớn
ñối với sự phát triển và duy trì tăng trưởng kinh tế cao. Sự thừa nhận này
dựa trên nhiều lập luận cơ bản về kinh tế và thể chế, ñặc biệt là về sự thất
bại của thị trường, vấn ñề huy ñộng và phân bổ nguồn lực khan hiếm, phân
phối thu nhập và ñiều chỉnh cơ cấu. Mặt khác sự thành công của mô hình kế
hoạch hoá tập trung của Liên Xô ñã hướng và củng cố sự lựa chọn của tất cả
các nước này. Kế hoạch hoá ở ñây ñược xây dựng một cách khá chi tiết, với
sự ñóng góp tích cực của khu vực nhà nước. Các cơ quan lập kế hoạch ở các
nước này ñều ñóng vị trí rất quan trọng trong bộ máy chính phủ. Ví dụ như
ở Hàn Quốc, Uỷ ban kế hoạch kinh tế (EPB) thuộc chính phủ và người ñứng
ñầu có vị trí cao hơn các bộ trưởng khác và ñồng thời là Phó thủ tướng. Ở
Malaysia, Hội ñồng kế hoạch quốc gia (NPC) là cơ quan thuộc chính phủ
mà Chủ tịch là Thủ tướng, ñây là cơ quan cấp cao nhất quyết ñịnh các vấn
ñề kinh tế - xã hội của ñất nước. Còn ở Thái Lan, cơ quan kế hoạch có tên
gọi là Uỷ ban phát triển kinh tế xã hội quốc gia (NESDB) thuộc văn phòng
Thủ tướng,
Vào những năm 1960, bắt ñầu là thời kỳ khủng hoảng của kế hoạch
hoá các nước NICs và ASEAN, phần lớn các kế hoạch trên thực tế là không
thực hiện ñược. Nguyên nhân chủ yếu dẫn ñến sự thất bại của kế hoạch
chính là ở bản thân quy trình lập kế hoạch, cụ thể là sự yếu kém cảu kế
hoạch và thực hiện kế hoạch, số liệu không ñầy ñủ và không chính xác, sự
yếu kém về tổ chức lập kế hoạch, tác ñộng của các nhân tố bất thường trong
và ngoài nước.
Sự khủng hoảng của kế hoạch ñã dẫn ñến những thay ñổi lớn, căn bản
trong công tác này kể từ thập niên 70. Cụ thể những cải tiến ñó tập trung
vào:
- Nội dung của kế hoạch ngày càng ñầy ñủ hơn: nó bao hàm không chỉ
21
về kinh tế mà còn cả xã hội, môi trường, chuyển từ hệ thống kế hoạch phát
triển kinh tế sang hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế - xã hôị. ðặc biệt là
nhấn mạnh vấn ñề phân phối và công bằng xã hội.
- Bảo ñảm tính chất thực tế hơn của hệ thống kế hoạch. ðiều ñó thể
hiện ở kế hoạch ngày càng mang tính chất ñịnh hướng hơn. Tất cả các yếu
tố kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường ñều ñược tính ñến trong xây dựng
kế hoạch.
-Quy trình lập kế hoạch cũng ñược thay ñổi theo hướng tăng cường
chất lượng của hệ thống số liệu, thông tin, tăng cường mối quan hệ giữa các
nhà kế hoạch với các nhà quản lý và các nhà chính trị.
Với những thay ñổi trên, hệ thống kế hoạch hoá ở các nước NICs và
ASEAN ngày càng có vị trí quan trọng trong qúa trình phát triển kinh tế ñất
nước.
III. KẾ HOẠCH HOÁ Ở VIỆT NAM. ðỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
CỦA MÔN HỌC KẾ HOẠCH HOÁ PHÁT TRIỂN
1. Kế hoạch hoá ở Việt Nam
1.1 Tổ chức cơ quan kế hoạch
Công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam ñược Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
tâm coi trọng ngày từ những ngày ñầu giành ñược ñộc lập. Ngày 31/12/1945
Người ñã ký Sắc lệnh 78/SL thành lập Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch Kiến
thiết ñất nước. Ngày 14 tháng 5 năm 1950, Ban Kinh tế Chính phủ ra ñời
theo Sắc lệnh số 68/SL của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có
nhiệm vụ nghiên cứu khởi thảo ñể ñệ trình Chính phủ những ñề án về chính
sách, chương trình, kế hoạch kinh tế hoặc những vấn ñề quan trọng về kinh
tế. Bước vào thời kỳ quá ñộ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, ñể ñáp
ứng ñòi hỏi của thời kỳ mới, Hội ñồng Chính phủ ra Nghị quyết thành lập
Uỷ ban kế hoạch quốc gia vào 8/10/1955, với nhiệm vụ ñể kế hoạch hóa các
hoạt ñộng kiến thiết kinh tế và văn hóa, tổ chức và chỉ ñạo công tác thống kế
toán trong cả nước. Kể từ tháng 10/1955, hệ thống cơ quan kế hoạch từ
trung ương ñến ñịa phương ñược hình thành. Ngày 26 tháng 7/1960, Chủ
tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ký sắc lệnh số 18-LTC ñổi tên thành
Uỷ ban kế hoạch nhà nước (UBKHNN), là 1 trong 24 cơ quan Bộ và ngang
bộ trực thuộc Chính phủ. Ngày 9/10 năm 1960 Hội ñồng Chính phủ ñã ký
Nghị ñịnh số 158-CP quy ñịnh nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ mày của
UBKHNN, theo ñó UBKHNN có trách nhiệm xây dựng kế hoạch hàng năm
22
và kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế quocó dân và văn hóa theo ñường lối
chính sách của ðảng và nhà nước. Ngày 21 tháng 10 năm 1995, Quốc hội
nước Cộng hào XHCN Việt Nam khóa IX ñã quyết ñịnh thành lập Bộ Kế
hoạch và ðầu tư trên cơ sở hợp nhất UBKHNN và Ủy ban Nhà nước về
Hợp tác và ðầu tư.
1.2 Những chặng ñường kế hoạch ở Việt Nam
Ngành Kế hoạch và ñầu tư với chức năng là cơ quan tham mưu tổng
hợp về kinh tế của ðảng và Nhà nước ñã tổ chức xây dựng, tổng hợp và
triển khai thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân trong mọi thời
kỳ. Những chặng ñường kế hoạch của Việt Nam gắn liền với những giai
ñoạn lịch sử cũng như quá trình ñổi mới cơ chế kinh tế của cả nước.
Giai ñoạn 1955 -1960
Giai ñoạn này, các cơ quan kế hoạch ở miền Bắc ñược thành lập ñã
tập trung xây dựng các kế hoạch khôi phục kinh tế sau chiến tranh (1955-
1957) và kế hoạch cải tạo phát triển kinh tế (1958 – 1960) nhằm khôi phục
và phát triển các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội; thực hiện cải cách ruộng
ñất, thực hiện “người cày có ruộng”, hợp tác hóa nông nghiệp, thiết lập quan
hệ sản xuất mới ở nông thôn, cải tạo công thương, phục hồi và xây dựng
mới các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận
tải, phát triển sự nghiepẹ văn hóa , giáo dục, y tế.
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)
ðại hội ðảng toàn quốc lần thứ III (tháng 10/1960) ñã thảo luận Vf
ñưa vào văn kiện ðại hội về kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. ðây là KH 5
năm ñầu tiên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nội dung cơ bản lf
thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa trên một nửa ñất nước, hình thành cơ
sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế mới; hoàn thành công cuộc cải tạo
XHCN, xác lập quan hệ sản xuất mới với hai hình thưc sở hữu toàn dân và
tập thể. Cơ chế quản lý lấy KHH tập trung với các chỉ tiêu pháp lệnh ñể
ñiều hành nền kinh tế.
Các KH năm 1961, 1962, 1963 ñã ñi ñúng mục tiêu của KH 5 năm,
góp phần xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương vững mạnh, chi viện ñắc
lực cho sự nghiệp ñấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất ñất nước. Tuy
nhiên sau sự kiện vịnh Bắc bộ, ngày 5/8/1964, ñế quốc Mỹ gây chiến tranh
phá hoại ra miền Bắc, KH 5 năm lần thứ nhất ñã không triển khai ñược theo
ñúng mục tiêu ñề ra, phải chuyển hướng KH thời chiến.
23
Kế hoạch thời chiến (1965 – 1975)
Trong ñiều kiện chiến tranh lan rộng ra phạm vi cả nước, KH kinh tế
thời chiến với các chủ trương ñề ra là: tạm thời ñình hoãn các công trình
phục vụ chiến ñấu như cầu, ñường, hầm, kho tàng, sơ tán cơ sở kinh tế,
trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu v.v về nơi an toàn. Miền Bắc chhi
viện cho miền nam, thực hiện các KH tuyển quân, hậu cần theo khẩu hiệu
“thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.
Kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976 – 1980)
ðây là kế hoạch 5 năm ñầu tiên của nước Việt Nam thống nhất, trên
phạm vi cả nước, ñược tổ chức với quy mô lớn nhất thời ấy. Trong ñiều kiện
vừa có thời bình, vừa có chiến tranh trong thời gian cuối kỳ KH, nhìn chung
thời kỳ KH 1976-1980 cũng ñạt ñược một số thành quả nhất ñịnh như khắc
phục một bước hậu quả vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh
tế. Tuy vậy, có thể ñánh giá KH 5 năm 1976-1980 là không thành công,
những ngày cuối cùng của năm 1980 qua ñi, nền kinh tế Việt Nam bước qua
một KH 5 năm nhưng sự lạc quan ban ñầu ñã bị thay thế bởi những day dứt
về thực trạng kinh tế tồi tệ, các mục tiêu ñặt ra quá cao, vượt khỏi tầm tay,
nên tất cả các chỉ tiêu KH (15 chỉ tiêu) ñều không hoàn thành, hơn thế nữa
tỷ lệ thực hiện rất thấp. ðánh giá về công tác KHH nền kinh tế quốc dân
thời gian này, chúng ta ñã nêu rõ: việc xây dựng KH kinh tế vẫn tập trung,
quan liêu, thiếu căn cứ thực tiến và cơ sở khoa học, chưa sử dụng thị trường,
chưa chú trọng ñầy ñủ và sử dụng ñúng ñắn các thành phần kinh tế.
Kế hoạch 5 năm lần thức ba (1981 -1985)
KH năm năm 1981-1985 ñược trình ra ðại hội ðảng lần thứ V (tháng
3/1982). Nhiệm vụ ñặt ra trong giai ñoạn này vẫn tiếp tục củng cố và hoàn
thiện quan hệ sản xuất XHCN nhưng thận trọng hơn và việc triển khai xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật có trọng ñiểm hơn, số lượng chỉ tiêu xây dưngj
có ít hơn và mức ñộ thận trọng hơn, thấp hơn. ðáng chú ý là trong thời kỳ
này, ñã có những dấu hiệu của sự ñổi mới KHH: (1) tính chất phi tập trung
hhóa trong KH bắt ñầu ñược thử nghiệm trong một số ngành: nông nghiệp
(chính sách khoán sản phẩm ñến nhóm và người lao ñộng – chỉ thị 100 Ban
Bí thư), chính sách phát huy quyền chủ ñộng sản xuất kinh doanh và tự chủ
tài chính của các xí nghiệp quốc doanh (Quyết ñịnh 25 CP); (2) chính thức
công nhận vai trò của khu vực kinh tế tư nhân; (3) xóa bỏ quan liêu bao cấp
trong gia – lương – tiền, thực hiện chính sách hai giá và chính sách bù giá
vào lương (Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương ðảng về giá – lương
– tiền).
24
Kết quả của KH 5 năm lần thứ ba có thể nói ñược ñánh giá như một
bước “tiền cải tổ” chuẩn bị cho sự ñổi mới toàn diện nền kinh tế ñất nước,
nhiều chỉ tiêu ñã ñạt ñược mức KH ñặt ra. Tuy vậy thực chất nền kinh tế
của nước ta vẫn vận hành theo một cơ chế cũ, cơ chế kinh tế vẫn mang
nặng tính chất tập trung quan liệu, bao cấp. Do vậy về cơ bản vẫn chưa
tạo ñược ñộng lực mới thúc ñẩy sản xuất phát triển, kết thúc KH nhiều chỉ
tiêu không ñạt ñược mức ñặt ra ban ñầu và vẫn bị ñanh giá là thất bại. Nền
kinh tế Việt Nam trải qua hai thời kỳ KH thất bại liên tiếp ñã rơi vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng. Một số giải pháp mới trong cơ chế quản lý
vĩ mô thời kỳ này mới chỉ là những liều thuốc giảm sốt chứ chưa phải là
phác ñồ chữa trị cản bệnh khủng hoảng kinh tế và siêu lạm phát của nước
ta giai ñoạn này.
Kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1986 – 1990)
KH 5 năm 1986-1990 ñã ñược ðại hội ðảng lần thứ VI (tháng
12/1986) thông qua KH này ñược tổ chứuc nghiên cứu và xây dựng trong
ñiều kiện nền kinh tế có nhiều khó khăn. Kế hoạch ñã ñược xây dựng sát
thực hơn, các cân ñối vĩ mô ñược dự báo và tính toán có căn cứ hơn. Một
ñiểm mới trong KH 5 năm lần này là các nội dung của KH ñược cụ thể bằng
3 chương trình kinh tế lớn là: chương trình sản xuất lương thực, thực phẩm;
chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và chương trình sản xuất hàng xuất
khẩu. Với các chương trình ấy, nhiều giải pháp mang tính ñòn bảy, khuyến
khích và thúc ñẩy cao hơn ñược ban hành trong thời kỳ KH, tạo ra khả năng
và ñiều kiện huy ñộng nguồn lực của tất cả các thành phần kinh tế cùng
hướng vào thực hiện mục tiêu kế hoạch, ví dụ như: Nghị quyết 10 của Bộ
chính trị (5/4/1988) về ñổi mới quản lý trong nông nghiệp; Nghị quyết
217/HðBT trao quyền chủ ñộng sản xuất – kinh doanh cho các doanh
nghiệp, chủ ñộng lấy thu bù chi, thực hiện kinh doanh có lãi; Tháng 12/1987
Luật ñầu tư nước ngoài ban hành; chính sách thả nổi gải cả hàng hóa, vật tư
và xóa bỏ hình thức phân phối hàng hóa ñịnh lượng theo tem phiếu; thực
hiện cơ cơ cấp phát tín dụng thay cho chính sách cấp phát vốn ñối với các
doanh nghiệp nhà nước v.v Những ca phẫu thuật chữa trị căn bệnh khủng
hoảng kinh tế trên diễn ra liên tục ñã góp phần phục hồi sức sản xuất, thúc
ñẩy tăng trưởng kinh tế, kiềm chế và ñẩy lùi siêu lạm phát. Cao hơn nữa, nó
là sự thể hiện quyết tâm của chúng ta về sự ñoạn tuyệt với cơ chế quản lý
cũ, ñổi mới ñược tư duy kinh tế và xác lập ñược cơ chế quản lý mới theo
chiều rộng.
Rất tiếc những giải pháp ñổi mới cơ chế quản lý kinh tế nêu trên phần
25
lớn ñược thực hiện vào những năm cuối thời kỳ KH nên tác dụng của nó ñối
với thực hiện mục tiêu KH ñặt ra từ năm 1986 bị hạn chế, vì vậy phần lớn
các chỉ tiêu (trừ chỉ tiêu giá ttrị xuất khẩu) ñều không thực hiện ñược
Chiến lược 10 năm 1991-2000 và KH 5 năm lần thứ 5 (1991-1995)
Dưới sự chỉ ñạo của Bộ chính trị, UBKHNN kết hợp vói các bộ,
ngành, và ñịa phương ñã tổ chức và triển khai nghiên cứu, soạn thảo Chiến
lược ổn ñịnh và phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (1991-2000). ðây là văn
kiện chiến lược ñầu tiên của Việt Nam ñược nghiên cứu kỹ lưỡng, huy ñộng
ñông ñảo cán bộ trong ngành KH và ñầu tư, các viện nghiên cứu, các trường
ñại học trong cả nước tham gia. Chiến lược lấy ổn ñịnh làm trọng tâm tong
5 năm ñầu ; ñồng thời tạo ñiều kiện cho sự phát triển nhanh hơn trong giai
ñoạn sau. Chiến lược ñã ñược ðại hội ðảng lần thứ VII (tháng 6/1991)
thông qua với mục tiêu tổng quát là: ra khỏi khủng hoảng, ổn ñịnh tình hình
kinh tế - xã hội, phấn ñấu vượt qua khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát
triển, cải thiện ñời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo
ñiều kiện cho ñất nước phát triển nhanh hơn vào ñầu thế kỷ 21.
ðại hội ðảng lần thứ VII cũng ñồng thời thông qua KH 5 năm (1991-
1995), xác ñịnh mục tiêu chặng ñường ñầu của chiến lược phát triển là: vượt
qua khó khăn, thử thách, ổn ñịnh và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường
ổn ñịnh chính trị, ñẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, ñưa ñất nước về cơ
bản thoát khỏi tình trạng khủng hoảng.
Kết thúc giai ñoạn KH, những thành tựu kinh tế, xã hội ñạt ñược trong
5 năm 1991-1995 là tương ñối toàn diện và rõ nét hơn bất kỳ thời kỳ nào
trước ñây, nhiều chỉ tiêu chủ yếu trong các ngành, các lĩnh vực của ñời sống
kinh tế - xã hội ñạt ñược những mức tăng trưởng cao, ổn ñịnh và liên tục. Sự
phát triển chung của nền kinh tế ñã ñưa ñất nước từ chỗ sản xuất không ñủ
tiêu dùng sang bảo ñảm ñược tiêu dùng, tiêu dùng ñược cải thiện và bắt ñầu
có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Vấn ñề lương thực ñược giải quyết vững
chắc. Những thành tựu ñạt ñược ñã chứng tỏ nền kinh tế về cơ bản thoát
khỏi tình trạng khủng hoảng. Cánh cửa thời gian của KH 1991-1995 khép
lại, ñộng thái kinh tế Việt Nam với nhiều khởi sắc, những tiến bộ vượt trội
của thời kỳ này ñã có tác dụng như “nhịp ñiệu vỗ cánh và chim én báo hiệu
mùa xuân” ñể chúng ta bước sang thời kỳ kế hoạch mới.
Kế hoạch 5 năm lần thứ 6 (1996-2000)
Trên cơ sở những thành tựu ñã ñạt ñược trong thời kỳ KH 5 năm
1991-1995, Hội nghị ðảng giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) ñã ñiều