Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

chương trình phát thanh tiếng thái vov4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.98 KB, 69 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
1. L ý do chọn đề tài
Trong đời sống xã hội hiện nay, báo chí chiếm mội vị trí quan trọng
và to lớn. Nó thực sự đã trở thành một món an tinh thần tình cảm và tri
thức hàng ngày không thể thiếu được của toàn xã hôị.
Chương trình phát thanh tiếng dân tộc có mộ ý nghĩa lớn trong sự
nghiệp cách mạng của đảng ở miền núi, nhằm phát huy tiềm năng nội lực
to lớn của đồng bào các dân tộc trong sự nghiệp cách mạng, củng cố niềm
tin yêu của đồng bào dân tộc với Đảng, góp phần chiến thắng đập tan âm
mưu luận điệu phản động, lừa bịp của bọn đế quốc và các thế lực thù địch.
Ngày 21-1-2000, Chính phủ có quyết định số 11/2000/QĐ-TTg về kế
hoạch triển khai Thông báo số 255/TB-TW của bộ Chính trị, thực hiện
trong 3 năm(2000-2002) giao nhiệm vị cho các bộ ngành địa phương xấy
dựng kế hoạch cụ thể. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh: cần tăng cường phủ
sóng PT-TH bằng tiếng dân tộc ở địa phương, nhất là: Thành phố Hồ Chí
Minh, Cần Thơ, các tỉnh phía Bắc và Tây Nguyên.
Tuy nhiên, để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ
cách mạng trong thời kỳ mới ở nước ta hiện nay, một yêu cầu bức thiết với
báo chí nói chung và phát thanh nói riêng đó là: Cần khẩn trương cải tiến
nâng cao chất lượng nội dung chương trình sao cho phong phú.
Chương trình phát thanh tiếng Thái ra đời từ ngày 07/05/02, đã có
quá trình phát triển nhất định. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một công
trình nào tập trung nghiên cứu chuyên sâu về chương trình này. Do đó, tôi
đã chọn đề tài : “ VÒ chương trình phát thanh tiếng Thái VOV4”.
Nhiệm vụ chính của đề tài là khảo sát nghiên cứu tình hình hoạt động của
chương trình phát thanh tiếng Thái của Đài tiếng nói Việt nam về tất cả các
phương diện: nội dung, hình thức, thời gian phát sóng, thời lượng phát
1
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


sóng, kết cấu cũng như các chuyên mục được xây dựng trong chương
trình và những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nội dung,
chất lượng chương trình trên cơ sở phân tích khái quát đặc điểm tính cách
cũng như sở thích thị hiếu của dân tộc Thái ở Sơn la và một số tỉnh lân cận,
từ đó có thể đúc rút đựơc những biện pháp cách thức cụ thể để chương
trình phát thanh tiếng Thái có chất lượng cao hơn, thiết thực với đồng bào
dân tộc Thái nhất.
Khi các chương trình phát sóng bằng tiếng Thái được cải tiến nâng
cao mọi mặt sẽ mang một ý nghĩa chính trị to lớn: khơi dậy và phát huy cao
độ niềm tin tự hào chính đáng của dân tộc Thái, củng cố niềm tin sắt đá của
đồng bào dân tộc với Bác Hồ, với Đảng. Bên cạnh đó, việc nâng cao chất
lượng hiệu quả các chương trình phát són tiếng Thái chính là góp phần thúc
đẩy đưa đồng bào có điều kiện tiếp cận ứng dụng các tiến bộ của khoa học
kỹ thuật vào sản xuất, biết cách phát huy nội lực, làm giàu bằng chính bàn
tay khối óc trên mảnh đất quê hương của mình. Đây thực sự là một công
việc hữu ích nhiều mặt và hoàn toàn phù hợp với nhiệm vụ chính trị của
Đảng đặc biệt quan tâm: Phát triển kinh tế xã hội các tỉnh miền núi, giúp
đồng bào các dân tộc - nhất là anh em dân tộc thiểu số xoá đói giảm nghèo,
vươn lên giàu có.
2. Nhiệm vụ, mục đích và ph¹m vi nghiªn cứu của đề tài.
- Nhiệm vục chính của đề tài: Khảo sát thực trạng chương trình phát
thanh tiếng Thái trên tất cả các phương diện: nội dung, hình thức, thời
lượng phát sóng, hình thức kết cấu cũng như các chuyên mục thực hiện
trong chương trình… và những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp
đến nội dung và hình thức chương trình trên cơ sở phân tích, khái quát hoá
đặc điểm sở thích thị hiếu đồng bào dân tộc Thái ở khu vực Tây Bắc. Từ đó
nêu lên những ưu điểm, nhược điểm của chương trình. Qua đó, đưa ra một
số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng chương trình phát thanh.
2
2

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Chương trình phát thanh tiếng Thái
Đài TNVN VOV4, bao gồm chương trình thời sự tổng hợp và chương trình
ca nhạc.
3. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Tính đến thời điểm này, chưa có một nghiên cứu cụ thể và riêng
biệt về chương trình phát thanh tiếng Thái của VOV4.
Tuy nhiên, hiện đã có những đề tài liên quan như:
Cao Minh Châu: “Đổi mới và nâng cao chất lượng, nội dung chương
trình phát thanh tiếng Mông ở tỉnh Sơn La”. Báo cáo nghiệm thu đề tài
khoa học: “ KX- 03-2001” . 2002
Đặng Thị Huệ: “Nâng cao chất lượng và hiệu quả truyên truyền về
dân tộc trên song phát thanh quốc gia”. Đề tài nghiên cứu khoa học. Ban
phát thanh dân tộc Đài tiếng nói Việt nam. 2006
Tô Ngọc Trân:“Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh tiếng
Khơme Nam Bộ”. Đề tài nghiên cứu khoa học- Đài Tiếng nói Việt Nam.
2004.
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm có 3 chương:
Chương I: Đặc điểm dân tộc Thái và nhu cầu tiếp nhận thông tin của
dân tộc Thái.
Chương II: Hiện trạng chương trình phát thanh tiếng Thái.
Chương III: Các giải pháp nâng cao chất lượng chương trình phát
thanh tiếng Thái.
3
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Chương 1: : ĐẶC ĐIỂM DÂN TỘC THÁI VÀ NHU CẦU TIẾP
NHẬN THÔNG TIN CỦA DÂN TỘC THÁI

1.Đặc điểm dân tộc Thái
Tộc danh đồng bào tự gọi là Táy hoặc Thay cùng các tên gọi khác là:
Tay Thanh, Man Thanh, Tay mười, Tay Mường Các nhóm địa phương
gồm có:
- Ngành đen ( Tay Đăm): Trước đây phụ nữ thường mặc áo đen
4
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Ngành trắng( Tay Đón, hay Tay Khao) : Trước đây phụ nũ thường
mặc áo trắng
Tuy phân chia hai ngành đen trắng nhưng họ không có gì khác biệt
về văn hoá.
Tiếng nói dân tộc Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày Thái.
Theo số liệu điều tra dân số công bố năm 2001 của Tổng cục thống
kê thì dân tộc Thái có 1.328.725 người, cư trú tập trung tại các tỉnh Sơn la,
Điện Biên, Hoà Bình, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hoá, Nghệ An, Lâm Đồng.
• Văn hoá sản xuất
Người Thái còn gọi là Táy, có nghĩa là người cày ruộng, điều đó nói
lên từ lâu đời người Thái đã thành thạo canh tác nông nghiệp ruộng lúa
nước, dùng sức kéo đôi trâu để cày bừa làm đất, gieo mạ cấy lúa theo cách
lấy giống ngâm nước ấm, cứ 20kg thóc giống cho một lạng muối; thóc nảy
mầm thì gieo vào ruộng xâm xấp nước; khi mạ cao 2 đốt tay thì tháo nước
đi; mạ cao 20-2cm thì nhỏ cấy dầy vào ruộng khác; khi mạ cao cứng cáp
mới nhổ cấy thành ruộng lúa. Đồng bào giải thích cấy chuyển mạ 2 lần thì
cây lúa mới khoẻ, trổ bông trắc hạt. Người Thái có tập quán cấy lúa nếp
đại trà, nay đã cấy nhiều giống lúa tẻ có năng suất cao.
Người Thái đã thành thạo làm thuỷ lợi, thể hiện qua câu thành ngữ:"
Mương phai lài lín "( Khơi nước đắp đập, dẫn nứơc qua chướng ngại, đặt
máng trên cánh đồng ). Đặc biệt là lợi dụng sức nứơc dựng hệ thống cây
cọn quay đưa nước từ sông suối lên cánh đồng.

Người Thái vẫn canh tác nương rẫy bằng cách dùng cày cuốc làm đất
nương, thâm canh trồng ngô, khoai, sắn, vừng, lạc, trồng bông, trồng chàm.
5
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Người Thái cũng canh tác vườn để trồng cây ăn quả, rau xanh, và họ
sử dụng cả vườn treo (đổ đất vào máng đặt lên sân sàn trồng rau,gia vị,
húng, hành
Người Thái trước đây có tập quán nuôi trâu thả rông trong những
Púng rào giậu kín, tụ chúng sống sinh đẻ, đến mùa mới bắt trâu về kéo cày.
Nay thì họ đã nuôi trâu theo gia đình, có chuồng trại riêng. Còn chăn nuôi
lợn gà ngan ngỗng thì rất phát triển. Vật nuôi vừa trở thành hàng hoá vừa
trở thành vật sử dụng trong lễ tết.
Nghề thủ công của người Thái rất phong phú, phát triển đạt đến trình
độ cao. Phổ biến trong mỗi gia đình là nghề đan lát mây tre, mạy loi thành
những tấm cót trải sàn, những vật dụng hàng ngày ( như: nong, nia, dần,
sàng, dậu, mặt ghế ). Đặc biệt nghề kéo sợi, dệt vải là công việc gắn với
mỗi gia đình, gắn với mỗi người phụ nữ Thái. Ngoài ra còn có những nghề
thủ công mang tính chuyên nghiệp như nghể rèn nông cụ xẻng, cuốc, lưỡi
cày, dao, kéo Người Thái đã biết dùng bàn xoay, độ nung cao trong nghề
làm gốm tạo thành những chum, vại, nồi, chõ đất, bát đĩa đạt trình độ kỹ
thuật và mỹ thuật.
Kinh tế hái lượm vẫn chiếm địa vị đáng kể trong đời sống của người
Thái. Rừng cung cấp các loại rau, quả, hạt, nấm, mộc nhĩ, măng, rêu đá,
các loại côn trùng, các loại thú nhỏ và thú lớn. Rừng còn cho các lậi cây
thuốc quý, tre, gỗ, song, mây. Các khe suối cho tôm, cua, ốc, cá nhỏ; các
suối cho cá lớn. Người Thái có thói quen nuôi cá trong ruộng lúa, hay nuôi
cá trong lồng dọc theo hai bên các dòng sông. Người Thái có câu: " Pây hỉn
pá, má kin lẩu" (đi ăn cá, về uống rượu) nói lên việc ăn cá là một thú vui
của họ.

• Văn hoá tổ chức đời sống
6
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Người Thái phổ biến sống theo kiểu gia đình nhỏ phụ quyền. Biểu
hiện bằng việc mỗi nóc nhà được tượng trưng bằng chiếc cột chính( sâu hẹ
hay sâu cốc), ở đầu cột treo các vật thiêng liêng như lông gà, xương thú
hay xương cá to. Ông chủ nhà nằm bên cột chính, cạnh bàn thờ là ma nhà,
như để khẳng định tính chất phụ quyền của gia đình. Con gái như người
ngoài, không được quyền quyết định gì trong việc gia đình ngoài việc sinh
con và công việc nội trợ. Con dâu phaỉ đổi họ theo chồng. Quan hệ dòng họ
của người Thái được biểu hiện ở hai khía cạnh:
- Khía cạnh tô tem giáo như: Họ Lò kiêng ăn thịt chim láng lò,
không ăn măng lò; hị Vi kiêng dùng quạt( vi) để quạt sôi; họ Lộc không
giết và không ăn thịt hổ; họ Lường kiêng ăn nấm mọc trên cây đã ngả sẵn
trên rừng.
- Quan hệ dòng họ liên minh, biểu hiện ra:
Quan hệ Ải noọng: Quan hệ giữa những người con trai cùng thế hệ
có hôn nhân với những người con gái của dòng họ khác.
Quan hệ Lúng ta: Quan hệ giữa những người con trai trong dòng họ
có quan hệ hôn nhân với thành viên trai của Ải noọng, nói cách khác là con
gái làm râu bên Ải noọng.
Quan hệ Nhính sao: là quan hệ giữa nhữn người con trai dòng họ có
quan hệ hôn nhân với thành viên gái của Ải noọng, nói cách khác là có con
trai về làm rể Ải noọng.
Ba quan hệ trên đây xuất phát từ hình thái hôn nhân thuận chiều, tàn
tích của liên minh thị tộc. Trong ba quan hệ đó, quan hệ giữa những người
Ải noọng là cơ bản, quan hệ của những người có trách nhiệm duy trì sự
trường tồn của dòng họ. Còn quan hệ Lúng ta biểu thị chủ yếu vị trí của
ông cậu với cháu ngoại.

7
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Người Thái gắn kết xã hội trong phạm vi cơ bản, bởi một số dòng
họ cùng chung nhau hệ thống thuỷ nông và lịch canh tác ruộng nước cũng
như nương rẫy, cùng chung nhau những cánh rừng, những con sông con
suối. Nói chung là kiên kết với nhau về kinh tế trên một địa bàn dân cư
nhất định. Đồng thời liên kết về đời sống chính trị dưới sự điều hành của
Tạo bản ( làm nghĩa vụ cuông, nhóc, pụa đối với hệ thống chúa mường
làng xã, hàng tổng hàng châu).
Trong xã hội người Thái trước đây, danh nghĩa tất cả đất đai, ruộng
nương, nguồn nước, rừng đều là sở hữu công cộng; nhưng thực chất các
chúa đất lớn a nha giành chiếm những khu rừng nhiều sản vất quý hiếm,
nhiều thú, những khúc sông nhiều cá,lắm tôm, những hang động, những tổ
ong lớn làm của riêng. Nhân dân săn được thú lớn từ hươu nai trở lên
trong khu rừng chúa cai quản phải nộp đìu, nộp da, xương ( nều là hổ) mật
( nều là gấu) cho chúa.
Ngày nay, tổ chức đời sống đã khác hẳn. Người Thái cũng như các
dân tộc anh em khác, theo già làng truởng bản, thực hiện đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng một cuộc sống dân giàu nước
mạng, xã hội công bằng văn minh.
• Văn hoá vật chất
* Nếp ăn
Cơ cấu bưa ăn của người Thái đầu bảng vẫn là chất bột cộng thêm
rau, thịt, cá. Trước đây người Thái có thói quen cấy nhiều lúa nếp nên gạo
nếp được coi là lương ăn truyền thống. Gạo nếp được ngâm đồ trên chõ, dỡ
ra mủng nắm tay ăn bốc là thói quen trong mỗi bữa ăn hàng ngày. Ngày
nay việc dùng gạo tẻ thổi cơm đang trở nên phổ biến. Trên mâm cơm hàng
ngày không thể thiếu món muối ớt dầm thêm tỏi, rau thơm, hàng mùi, có
thể thêm gan gà luộc, ruột cá nướng gọi chung là món chéo. Người Thái

8
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
không có thói quen ăn luộc, rau hàng ngày xào mỡ hoặc rang bỏ muối. Khi
có giết trâu, bò, nai thì thể nào cũng tuốt lấy sữa đắng ở ruột non các con
vật hoà với tỏi ớt, nước chua làm thành món nước chấm hoặc sốt để ăn gọi
là Nậm pịa.
Người Thái cũng có lệ cúng cơm sau vụ gặt. Món ăn truyền thống
trong lễ cơm mới là xôi nhiều màu như dân tộc Mường, với món cá muối
từng khúc tẩm bột gói lá đồ lên. Tuy ở miền rừng núi nhưng thói quen ăn
cá của người Thái vẫn rất phổ biến. Có gia đình hàng năm thả nuôi cá và
đánh bắt hàng tạ cá để muối ăn dần. Câu tục ngữ " đi ăn cá, về uống rượu"
đã nói lên điều đó. Người Thái từ lâu đã biết cất rượu trắng ( lẩu xiêu)
bằng gạo, sắn, ngô và men lá. Rượu cần ( lẩu xá) là loại rượu đặc trưng của
người Thái, được dùng hàng ngày, nhất là dịp lên nhà mới, cưới xin hội
hè Người Thái có thói quen hút thuốc lào bằng điếu ống tre nứa to, khi
hút có lệ mời người bên cạnh uống trước.
* Trang phục
Tục ngữ Thái có câu : " Đàn bà dệt vải đàn ông đan chài". Người
Thái Thanh Hoá lại có câu :
Trời sinh con gái phải biết trồng bông dệ vải
Trời sinh con trai đi cày bừa chớ có đánh trâu
Truyện nàng Hoan của người Thái lại có đoạn " cha nàng làm nương
săn thú, mẹ nàng quay sợi dệt vải ". Những câu trên đây nói lên việc lo cái
mặc của người Thái đã được phân công cho phụ nữ.
Người Thái còn có câu " Nhác trồng bông nghĩ đến mùa đông", " đất
đen trồng bông, chọn được ngày lành tháng tốt, chồng đi trước trọc lỗ, vợ
đi sau trỉa hạt bông" và " Nương bông hửng nắng trưa phải cố thu hoạch"
9
9

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đàn ông có thể tham gia vào công việc trồng bông, chăm sóc bông,
thu hoạch bông, thu hái bông, nhưng khi bông đã về nhà thì việc chọn
bông, cán bông, cuộn bông kéo sợi, nhuộm sợi, dệt thành vải thì hoàn toàn
do bàn tay người phụ nữ đảm nhiệm. Trong nhà người Thái quanh năm lúc
nào cũng thấy có vải dệt dở trên khung cửi. Tranh thủ ngày mùa, trước lúc
lên nương, trước lúc đi ngủ là người phụ nữ Thái ngồi vào khung cửi.
Những câu ngạn ngữ:
"Thóc lúa lo trồng, sợi bông lo dệt
Yêu chồng chăm dệt vải, thương con chăm vá may"
đã nói về đức tính chịu thương chịu khó của người phụ nữ Thái
Người Thái cũng giỏi nghề trồng dâu nuôi tằm, kéo tơ dệt lụa.
Những váy lụa, áo lụa có hàng khuy bạc ónh ánh, quấn quýt mềm mại
trong điệu múa xoè, nhảy sạp là nhờ vào đôi bàn tay phụ nữ Thái.
Vải của người Thái chủ yếu nhuộm chàm. Cây chàm trồng trên
nương đến độ thu hoạch được thì cắt về ngâm vào chum dăm bảy ngày,
nước thôi màu đỏ là tốt. Nước chàm lọc sạch, nhúng vải nhuộm phơi khô,
dăm bảy lần thành màu xanh đậm. Lại nhuộm thêm nước vỏ cây hoa lan và
vỏ cây năm lau, màu chàm trở nên xanh đen đậm, chỉ có thể thấy ở Tây bắc
Còn khi nhuộm sợi các màu dệt thổ cẩm, chăn đệm, khăn piêu thì
màu đỏ nhuộm từ nước vỏ cây phong hoặc cây xơm pú. màu vàng ( hương)
nhuộm từ nước vỏ cây hom, màu đen thì dùng vải tràm nhuộm thêm nước
củ nâu ( mắc ban) là được. Vải người Thái mặc rách vẫn bền màu.
Người Thái có câu tục ngữ: " ở bản cái nhà, đi xa bộ váy áo" nói lên
việc mặc đối với người Thái rất quan trọng, nhất là đối với người phụ nữ.
Trang phục người Thái đen gồm:
10
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Váy ( xỉu hoặc nổng): váy Thái được tạo từ 4 tấm vải khổ 0,4m dài

từ nganh thắt lưng tới chấm gót. Phía trên có cạp váy hay đầu váy ( hua
nịu) cao khoảng 10cm bằng vải xanh hoặc đỏ, đôi khi cũng dệt cạp váy
riêng, thêu hoa văn giống cạp váy người Mường. Gấu váy cũng khâu nẹp
thường là màu đỏ cao khoảng 3cm. Khi khâu váy, đườn dọc can các tấm
váy khâu vắt cho mềm, còn đường khâu cạp và gấu váy khâu đột cho cứng.
Váy Thái có lót bên trong, thường là màu trắng, may ngắn hơn váy ngoài
15cm. Váy Thái phổ biến là màu đen, đôi khi màu tràm. Khi mặc váy có
thể gấp vào trước bụng hay bên sườn. Ở nhà mặc váy dài, đi làm lao động
trên ruộng nương thì xắn váy ngắn lên . Khi ngồi trên sàn thì duỗi hai chân
ra phía trước gấp váy vào lòng chân hoặc gấp chéo hai chân sang một bên,
váy gấp thu vào lòng, khi ngồi ghế cũng phải thu váy vào lòng. Người Thái
có câu nhắc nhở phụ nữ ngồi: " Ngồi xổm phải xem gấu váy". Ngày nay
phụ nữ Thái có thói quen mặc váy ngang bọng chân để tiện khi lao động,
sinh hoạt, nghỉ ngơi. Váy mặc lao động hàng ngày may bằng vải thường,
váy mặc vào dịp lễ tết, ngày cưới may bằng vải lụa lanh, sa tanh. Mặc váy
tiện lợi khi mang thai, là "buồng tắm di động" tắm suối khi đi làm nương
về. Trong nhà có chỗ quy định riêng để thay váy goi là hỏng téng vẻng
( cửa sổ trang điểm) sát trong vách chỗ cầu thang xia bước lên sàn.
- Thắt lưng ( xai ẻo): thường làm bằng lụa tơ tằm nhuộm màu xanh
lá cây, hai đầu can thêm 2 mảnh vải đỏ thêu thùa có rua 3 phía. Khi xải ẻo
quấn vào giữ cạp váy, hai miếng vải để hai đầu được giắt vào bụng hoặc
lệch sang bên hông. Thắt lưng không có trang trí trừ hai đầu tua rua.
- Áo ( sửa): gồm có
Sửa hổm nôm: là áo lót bên trong, may bằng một tấm vải khoét lỗ
chui đầu, phủ trùm hai vai xuống ngực, đính khuy hai bên sườn. Ngày nay,
phụ nữ Thái đã bỏ kiểu áo này, dùng kiểu áo lót như phự nữ người Kinh.
11
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sửa cỏm: là cái áo ngắn từ xưa đến nay vẫn phổ biến ở cả hai ngành

Thái đen và Thái trắng. Áo may dài tay hẹp, thân cũng hẹp, bó sát người.
Áo chỉ ngắn đến thắt lưng.Khi mặc gấu áo giấu trong thắt lưng. Áo phụ nữ
Thái nổi bật là hàng khuy dọc trước bụng, khuy có thể tết bằng vải hoặc
bằng bạc, hình con bướm ve sầu hoặc cánh hoa gọi là măk pém. Ngày
nay hiếm bạc thì làm bằng nhôm. Măk pém bao giờ cũng là số lẻ ( 9 hoặc
11), số dương cầu mong sự sinh sôi.Giải thích về măk pém có nhiều cách:
măk là quả, nghĩa bóng là nhành cây, bông hoa mà phụ nữ đại diện cho sinh
nở nên măk là khai hoa kết quả. Còn pém là bám vào, mà theo quan niệm
của người Thái chiếc áo là nơi trú ngụ của hồn người. Măk pém còn được
giải thích như sau: bên khuyết là giống cái nữ, bên khuy là giống đực, măk
pém là một đôi nam nữ phối hợp là nguồn gốc của sự sinh sôi nảy nở. Áo
ngắn dùng khi lao động may bằng vải thường; áo lễ hội, cưới xin may bằng
vải lụa, sa tanh. Áo thường màu trắng và màu đen, màu xanh lam hoặc lá
cây. Bộ váy áo thắt lưng của phụ nữ Thái vừa kín đáo vừa phô bày thêm nét
quyến rũ.
- Khăn piêu: phụ nữ chưa chồng thì búi tóc thả xuống sau gáy, khi có
chồng búi tóc chổng ngược lên đỉnh đầu sau đó đầu đội chiếc khăn piêu.
Piêu là một tấm vải bông nhuộm màu chàm, hai đầu thêu nhiều hoa văn,
chỉ màu phối hợp sặc sỡ. Dân ca Thái có câu:
Em se sợi thành vóc hoa dâu
Em dệt cửi thành gấm vân chéo
Em dệt tơ thành đoá hoa vàng
Người các bản mường muốn khóc
Đều ước ao được như em
Khăn piêu có tác dụng che đầu khi nắng gió, làm ấm đầu khi mùa
đông lạnh. Khăn piêu là trang sức quan trọng trong lúc đi chơi hay lễ hội.
12
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Vải được chọn làm piêu phải mịn, nhuộm chàm được nước. Piêu Thái

không trang trí ở toàn bộ diện tích mà chủ yếu ở hai viền vải màu đỏ rộng
khoảng 1cm, sau đó làm cút dính vào piêu. Việc thêu piêu đòi hỏi nhiều
công sức, tài nghệ của người phụ nữ Thái, thể hiện trang trí hình rồng, hình
cành lá, hình hoa ban.
- Nón ( cúp): Phụ nữ Thái đội nón rộng vành, bên trong có đính khua
nón đi đôi cho cân nón. Đội bên trên chiếc khăn piêu, chiếc nón rộng vành
không che kín mặt mà vành nón như bông hoa nỏ xoè trên đầu.
- Xà cạp ( pe păn kha): là miếng vải như cờ đuôi nheo nhuộm chàm.
Phụ nữ Thái cuốn xà cạp quanh bắp chân khi đi làm đồng, vừa để chống giá
lạnh vừa bảo vệ da ở bắp chân.
Trang sức của phụ nữ Thái có: Trâm cài tóc (may khắt cẩu) đôi hoa
tai ( cóng ku), vòng cổ ( pok co), đôi vòng đeo hai cổ tay ( pok khẻn), bộ sà
tích (pua sỏi) đều được làm bằng bạc, chạm trổ đẹp, công phu. Đó là những
đồ trang sức quý giá nhất.
Trang phục Nam giới người Thái bao gồm: khăn, áo, quần
- Khăn: khăn của nam giới không như piêu của người phụ nữ mà chỉ
là một miếng vải chàm màu đen. Khăn có 2 loại: Khăn pau dài hơn 1m,
quấn nhiều vòng quanh đầu khi đi xa hoặc hội hè lễ tết. Loại thứ 2 là khăn
trọc ngắn hơn khăn pau, quấn khi lao động trên ruộng nương hoặc ở nhà.
Khăn trọc cuốn hình chữ nhân ở trán. Thiếu niên Thái ( 14,15 tuổi) được
nhận biết dấu hiệu trưởng thành bắt đầu từ việc cuốn khăn. Khăn che nắng
chống rét, giữ gọn tóc khi lao động. Trời rét khăn có thể vừa bịt đầu vừa
quấn cổ. Thanh niên ưa dùng khăn màu chàm biếc. Các cụ già ưu dùng
khăn chàm đen.
- Áo: may cổ đứng, xẻ tả, mổ bụng, cài khuy, ống tay rộng. Quanh 2
bên cổ áo được lót một miếng vải tròn phủ kín hai vai gọi là tấm giữ mồ
13
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hụi, va l cho ỏo ng, bn. Hai vt trc may hai tỳi to, np ỏo trc

bng tỏp thờm ming vi cho dy, cng. Bờn phi ớnh khuy, bờn trỏi ớnh
khuyt. o ca nam gii Thỏi may " thng thu h thỏch" bờn trờn bú sỏt
ngc v ụi vai, bờn di cỏc vt sau xốo ra trựm kớn qun. o khụng thờu
thựa nhng vi quan nim ch x t nh ch x cỏnh cõy, ch chia ụi ny
n nờn nu ý ta thy ch x t ớnh lp lỏnh ụi mk my ( qu ch)
cun bng ch mu xanh vng. Hin nay thanh niờn Thỏi thng mc ỏo
vi dt k sc ụ vuụng vi nhiu mu: c phờ, , trng, xanh.
- Qun ( xung): nay rng ng bng cỏch xp chng cỏc ming vi
ct ng ln xoố rng ch ng. Trc õy, qun may cp gp thu bng,
tht dõy lng ra ngoi, nay may cp gp lng chun. Nu nh ỏo dựng nhiu
mu vi khỏc nhau nhng qun ch cú mt mu chm.
Vic ct may qun ỏo ca c gia ỡnh u do n b m nhim.
Ngi Thỏi en kiờng ct may vo thỏng giờng, thỏng 2 lch Thỏi ( tc
thỏng 7 õm lch) vỡ nhng thỏng ú cụng vic bn rn trờn nng, " hn
ngi" cng theo ỏo qun lờn ú nờn nhng ngy ny ct may thỡ hn
ngi quanh qun nh, hn lỡa khi xỏc, cú th xy ra nhng iu khụng
may khi i lm nng.
* Np
Từ lâu ngời Thái đã quần c thành bản, mỗi bản bao gồm đất ở, đất
canh tác ( ruộng, nơng), bãi cỏ chăn nuôi, khu rừng, khu nghĩa địa và nguồn
nớc suối riêng. Bản lớn có tới hàng trăm nóc nhà, nơI ít ruộng bản chỉ có m-
ơi nóc nhà. Các bản ngời Thái thờng ở chân sờn núi trông xuống cánh đồng.
Khi làm nhà, ngời Thái tránh đòn nóc nhà này đâm vào cửa nhà kia.
Đặcbiệt là số đo vật liệu làm nhà ngời Thái theo độ dài ngắn các
khoảng tay của ngôi nhà, nh:
Ba: chiều dài sải tay
14
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Xó hay Xoóc: chiều dài từ khuỷu tay đến mép bàn tay

- Khén: chiều dài từ bả vai bên này qua ngời đến mép bàn tay bên
kia
- Căn hay căm pẳn: chiều ngang bàn tay nắm vào cây gậy đo
- Bai hay ca bai: chiều dài từ cổ tay đến mút ngón giữa
- Căm dn: chiều ngang bàn tay nắm với ngón cái xoè ra
- Khứp hay cứp: chiều dài gang tay
Từ các số đo trên đây, áp dụng vào các số đo kiến trúc vật làm nhà
sàn tính nh sau:
- Chiều cao cột từ mép dới lỗ đục bắc dầm lát sàn đến đầu cột là 4 xó 3 căm;
xó ( cánh tay) dài khoảng 45cm, 4 xó là khoảng 180-190 cm, còn 4 căm
( độ 40cm) cộng bằng khoảng 220cm. Chiều cao này còn lại trên sàn từ
180-190cm, hợp với ngòi đứng trên sàn với lấy các thứ trên sàn.
- Chiều dài dầm hoạc quá giang, tiếng TháI gọi là khứ khang xà vợt
dài 4 sải 1 khuỷu; 1 sải khoảng 1,6m còn 4 sải khoảng 8,4m cộng 1 khuỷu
độ 45cm nh vậy chiều ngang lòng nhà lên sàn là 9m rất hợp lý.
- Chiều dài gian nhà: gian chính ( buông cuông) là 2 sải bằng 3,2m, gian đầu
hồi( buông típ) là 1 sải 2 khuỷu tính ra là 2,5m. Nhà thờng từ 3 đến 5 gian
chính với gian đầu hồi thích hợp với một tiểu gia đình hai ba thế hệ chung
sống.
Các nhà kiến trúc gọi tỷ số đo trên đây là tỷ số vàng vì nó thích hợp
với khổ ngời trong kiến trúc.
Từ số đo trên đây mỗi gia đình ngời Thái hình thành nên ngôI nhà
sàn của mình lợp mái nhà hình mai rùa, với hai kèo đầu nhà nhô lên cao
một đoạn gọi là đôi khau cút. Nhà giàu khau cút đựoc chạm khắc nh hai
cánh hoa xoè ra hai bên. Giải thích về khau cút, có ngời giải thích là đôi
sừng trâu. Riêng hai bên cửa sổ gắn hai sừng trâu quắp trở lại cũng có ngòi
15
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
giai thích đó là hai đầu của mảnh trăng non để ghi dấu ngời Thái đến vùng

Tây Bắc vào lúc hạ tuần.
Nhà sàn ngời Thái bố trí: mở hai cửa sổ vào 2 đầu hồi, hai bên suờn
nhà mở nhiều cửa sổ. Lên xuống nhà bằng hai cầu thanh 9 hoặc 11 bậc( ý
niệm các số lẻ thiêng liêng). Cầu thang đầu bên phải gọi là cầu thang quẩy-
cầu thang khách. Cầu thang bên trái nhà gọi là cầu thang xia, dành cho phụ
nữ lên xuống.
Bố trí sinh hoạt trong nhà: từ cầu thang khách lên sàn đàu hồi qua
cửa vào gian đầu hồi gọi là gian quản, để trống, phía trong vách gian thứ
hai có một gian nhỏ để cho rể, hoặc cho con trai nếu cha có rể. Vào gian
tiếp gọi là gian hỏng hóng, phía trong vách ngăn là bàn thờ tổ tiên., dới bàn
thờ là giờng ngủ vợ chồng chủ nhà; phía ngoài gian hỏng hóng đặt bếp
khách, bàn ghế tiếp khách. Liền giờng chủ nhà là cột xạn hè; trên cột thờng
treo hạt giống, một mai rùa một dơng vật bằng gỗ. Đây là cột nghi lễ cầu
mong us sinh sôi nảy nở. Quan gian hỏng hónh vào gian cang hớn gian này
phía sau dành cho con gái nằm, phía trớc để trống. Kế đến là gian hỏng
chan; phía trong là nơi đặt khung cửi và là nơi phụ nữ thay váy áo, trang
điểm và để lơng thực hàng ngày; phía ngoài là chỗ đặt nứoc sinh hoạt. Từ
gian hỏng chan qua cửa ra sàn đầu là nơi phơi phóng, phụ nũ ngồi khâu vá
gọi là gian cuông.
Nhà sàn của Ngời Thái không có phòng riêng cho từng thàng viên mà
chỉ có ngăn chia ô. Hiện tợng này mang tính cổ xa, giống nh các dân tộc
Tây Nguyên. Ngày nay nhiều vùng ngòi Thái đã tách bếp ra khỏi nhà ở.
Nhà sàn bếp thờng mở cửa đối diện với cửa gian hỏng chan, gọi là sàn kép.
Ngời Thái có hẳn một trờng ca gọi là khá khén bớn gắn với ngôi nhà.
Từ việc sửa soạn dụng cụ làm nhà, lên rừng lấy gỗ, tìm gianh để lợp, pha
chế gỗ, dỡ dựng nhà, dựng nhà mới. Đoạn nói về dụng cụ nh sau :
"Ông thợ rèn rèn thanh dao sắc lỡi bén
16
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Rèn rìu nên rìu khoẻ họng chắc
Rèn đục thành lỡi đục phẳng bằng
Rèn liềm thành lỡi liềm cát gianh
Đoạn về chọn gỗ:
Cây vàng tâm đen vỏ lõi vàng
Nhìn xem gốc cây đầy vòng trâu buộc
Rễ nó cuốn gà vịt về đông
Cánh nó nảy nở trai gái con đàn
Thân nó thêm dâu mới ngời ngoan"
Phơng tiện vận chuyển:
Ngời Thái vận chuyển bằng gánh đôi đậu đựng các thứ, đi
rừng đi núi thì đeo gù, dùng ngựa cỡi thồ hàng. Ngời Thái dọc các dòng
sông ni tiếng xuôi ngợc bằng thuyền đuôi én.
Văn hoá tinh thần
* Hôn nhân
Ngời Thái cho phép thanh niên nam n tự do tìm hiểu bạn đời, nhng
trớc đây trong chế độ phong kiến và phìa tạo và thị tộc mẫu hệ chi phối thì
việc hôn nhân phảI đợc hai gia đình cho phép và diễn ra theo hai khía cạnh:
Một là: Hôn nhân phải môn đăng hộ đối. Thanh niên nhà dân không
đợc lấy con gái nhà quan. Con gái nhà dân lấy con trai nhà quan thì dù cho
cới cũng không đợc làm vợ cả mà phải làm vợ lẽ hoặc nàng hầu.
Hai là: Hôn nhân c trú bên nhà vợ là hình thức cho việc ngời con trai
bỏ tiền mua ngòi con gái gọi là tiền ca hua. Khi cha trả hết tiền cho nhà gái
thì ngời chồng cha có toàn quyền với ngời vợ, cho đến khi chồng chết vẫn
cha đợc xum họp với vợ. Giá mua ngời con gái tính vào công lao động của
17
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ngời con trai cho nhà vợ. Tình hình trên đây dẫn đến việc nam nữ thanh
niên phản đối hôn nhân bằng cách:

- Nếu hai nam nữ thanh niên yêu nhau mà cả hai gia đình không nhất
trí thì họ rủ nhau trốn sang mờng khác hoặc trốn vào nhà chúa đất chịu thân
phận côn hơn ( ngòi ở).
- Nếu chỉ có bên nhà trai đồng ý thì ngời con trai tổ chức cớp vợ bằng
cách: ngời con trai dắt ngời yêu về nhà mình làm lễ nhập ma nhà mình sau
đó đI bắt buộc nhà gái phải chấp nhận hoặc ngời con trai cứ đem chăn màn
đền nhà ngời yêu ở rể, chịu sự lạnh nhạt của gia dình nhà gái cho đến khi
bố mẹ vợ ng thuận.
Qua ngời mai mối ( gồm cả hai vợ chồng) hôn lễ diễn ra theo bốn b-
ớc :
- Đi dạm tiếng ( pay tham do): hay là lễ đi thăm. Ông bà mối mang
lẽ rợu, chè đến nhà gái đánh tiếng đặt vấn đề hôn nhân.
- Lễ ăn hỏi: hay cũng gọi là xin ngày cới. Ông bà mai mối dẫn
đoàn nhà trai mang lễ vật ( lợn, gạo, rợu, bánh trái, tiền cới, vòng tay hoặc
bạc tặng mẹ vợ), tổ chức ăn uống ở nhà gái. Sau lễ này chú rể tơng lai hàng
tháng phải sang làm cho đến ngày cới. Thời gian có thể vài ba năm, nếu đủ
tiền nộp cho nhà gái thì xin rút ngắn thời gian lao động.
- Lễ cới: nhà trai dẫn lễ gồm: lợn, gao, rợu, bạc trắng ( bạc có thể đa
sau). Số lợn phải đủ 4 con đủ để làm lễ cho ông bà nội ngoại bên vợ. Tổ
chức ăn uống linh đình ở nhà gái.
Trong lễ cới phải trình của hồi môn, tối thiểu là bộ váy mới tặng mẹ
chồng, một bộ quần áo mới tặng bố chồng, 4 cái đệm, 4 tấm chăn bông, 4
đôi gối bông, đôi chiếu, đồ dùng gia đình, hạt giống
Lễ đón dâu về nhà chồng: Trớc khi bớc lên cầu thang khách đôi vợ
chồng trẻ đợc ông bà làm mối làm lễ rửa chân tay trong thau nớc lạnh bỏ
18
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vài đồng bạc trắng ( bạc trắn này thuộc về ông bà mối). Cô dâu đợc mẹ
chồng ra đón, dẫn vào buồng riêng. Đại diện nhà trai bng khay trầu rợu ra

xin cất nón cho nhà gái gọi là lễ bốt cúp.
- Lễ lại mặt: sau 3 ngày đôi vợ chồng trẻ đem gạo nếp, gà, rợu, trầu
cau sang nhà vợ làm lễ xin nhập ma nhà vợ, xin cho con gái theo chồng. Từ
đó chú rể phải ở lại nhà vợ làm rể, có thể kéo dài vài ba năm ( có sách viết
kéo dài 10-12 năm). Sau đó vợ chồng con cái mới về ở hẳn nhà chồng.
Nh vậy ta thấy hôn lễ của ngời Thái có hai khía cạnh:
- Chế độ mẫu hệ không còn nặng nề nhng vai trò lao động của phụ nữ
khiến họ rất có giá trị. Họ góp vào quyết định cái ăn mặc cho gia đình. Bởi
thế khi diễn ra hôn lễ không có vai trò quyết định của ngời cậu cô dâu. Nhà
trai phải dẫn lễ vật tốn kém sang nhà gái, phải ở rể cho nhà gái trong một
thời gian dài.
- Hôn lễ của ngời sống nhng ý nghĩa tâm linh gắn kết với ma, lấy đợc
ma tức là lấy đợc ngời. Vì thế ngi con trai cớp vợ làm lễ nhập ma cho cô
gái trớc bàn thờ tổ tiên nhà mình và ngời con trai đặt đợc lễ lên bàn thờ tổ
tiên nhà gái thì nhà gái phải chấp nhận con gai mình đã là vợ nhà ngời rồi.
Ngày nay, luật hôn nhân gia đình đã thực sự tạo điều kiện cho thanh
niên nam nữ dân tộc Thái tự do hôn nhân nhng lễ vật và tổ chức ăn uống
vẫn rất nặng nề.
* Tang ma
Ngời Thái quan niệm ngời có 3 hồn, gọi là khuân, khi chết 3 hồn ấy
phân ra nh sau:
- Khuân đầu thành một Phi ( ma ) bay lên trời
19
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Khuân thân thể thành một Phi ở mờng pú pẩu ( đông phi) nơi bìa
rừng, đó là nơi chôn cất ngời chết. Muờng pú pẩu ở ngời Thái giống nh m-
ờng ma của ngời Mờng.
- Khuân tứ chi thành một Phi gọi là ma nhà sống quanh quẩn bên bàn
thờ tổ tiên.

Riêng ma đầu lên trời lại chia thành ba cấp ở ba tầng:
- Tầng trên cùng gọi là Liêu ban luông ( niết bàn lớn), là nơi ngự trị
ma đầu tầng lớp Anha do Then Luông ( trời) phái xuống cai quản dân, thực
chất là tầng lớp chúa đất.
- Tầng giữa gọi là Lieu ban noi ( niết bàn nhỏ) là nơi ngự tri ma đầu
tầng lớp Phìa tạo, tay chân của Anha.
- Ma đầu tầng lớp bình dân ở tầng thấp nhất gọi là bờ trời
Nh vậy, vũ trụ luân của ngời Thái đối với ngời chết gồm có thế giới
hai bên và thế giới hai tầng. thế giới hai tầng còn pha thêm yếu tố Phật
giáo trong việc phân chia đẳng cấp xã hội, biểu hiện ở niết bàn lớn và niết
bàn nhỏ. Đây là vấn đề khá phức tạp trong tang lễ của ngời Thái. Thực chất
tang lễ của ngời Thái vẫn là tang lễ thổ táng nên các nghi thức mai táng tử
thi đợc diễn ra nh sau:
- Thi hài đợc lau bằng nớc thơm, thay váy áo ( quần) mới, đặt thi hài
lên trên đệm bông gần cột chỗ ngời chết nằm ngủ. Đồng bào dùng chỉ buộc
ngón chân, ngón tay cái, đắp lên thi hài tất cả những tấm vải liệm của mỗi
con cháu và làm mâm cỗ thịt gà cúng ngời chết. Lúc đó mới đánh chiêng,
bắn súng báo tang, con cháu mới đợc khóc, dân bản kéo đến.
Lễ nhập quan: Quan tài bằng khúc gỗ to khoét hình lòng thuyền nh
thuyền đuôi én,ý là ngời chết theo thuyền về chín suối. Quan tài có lót lớp
tro bông lau, trải chiếu tre đen sau đó mới đặt thi hài vào, đậy khít lắp. Ngời
TháI kiêng chôn theo đồ đồng, sắt, sợ sau này con cháu ốm đau, chột mắt.
20
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nhà giàu có thể đeo cho ngời chết vòng cổ, vòng tay bằng bạc. Trong trờng
hợp ăn ở với nhau hết đời nhng vẫn cha đợc sự đồng ý của hai gia đình thì
ngời chết đợc chôn theo một nửa ống trúc, còn nửa kia ngời sống giữ lại khi
chết chôn theo để làm dấu hiệu n hận ra nhau.
Con cháu giết trâu, lợn to làm cỗ cúng ngời chết. Thầy mo khắp (đọc)

lời ẳm óc chẩu na nói ngời chết nhận lấy trâu, lợn, đồ dùng của con cháu
chia cho để về mờng pú pẩu (mờng ma) làm vốn sinh sống.
- Lễ đa tang: Quan tài khiêng tay qua cầu thang xia xuống đất trên
đòn khiêng (bằng cây bơng cạo sạch vỏ, cuốn thêm vải cho đẹp; thắp 4 nến
4 đầu đòn khiêng). Con rể cả cầm đuốc dẫn đờng. Ngời chết chôn trong bãi
tha ma dòng họ. Ngời Thái rất sợ phải đụng tới mồ mả sau khi chôn cất nên
huyệt đào sâu tới 1,5- 1,8 m. Mộ đợc làm nhà mồ có sàn che giữ.Quanh mộ
chôn nhiều hòn đá gọi là hòn mồ, hòn mồ to nhất chôn ở đầu và chân mộ.
Ngời Thái cũng có tục chia của cho ngời chết bằng cách: trên sàn nhà
mồ để các vật dụng của ngời chết (chăn, đệm )
Sau khi chôn cất, ngay ngày hôm đó hoặc sáng hôm sau, con cháu
làm lễ đa cơm cuối cùng bằng mâm cơm thịt gà ra mộ cúng. Con cháu dựng
tợng trng chuồng lợn, chuồng gà, vờn rau, máng nớc rửa chân quanh mộ.
Khi về họ bỏ lại trên mộ cả mâm cơm cúng, bộ ấm chén, giỏ đựng áo quần
áo cũ của ngời chết. Sau đó, họ bỏ mặc nhà mồ vì họ quan niệm:nhà mộ
càng bị tiêu huỷ sớm càng tốt.
- Lễ rửa nhà ( mái hơn): sau hai ba ngày chôn cất thi hài, gia chủ
giết gà làm cỗ mời thầy mo đến khắp ( đọc) lời xua đuổi tà ma. Thầy mo
lấy chổi lá gai nhúng vào chậu nớc ngâm bồ kết quét qua các xó xỉnh trong
nhà. Sau đó, chậu nớc và chổi đợc vội vàng mang ra đổ vứt xuống suối. Từ
đó con cháu mới đợc nhẹ nhõm, nỗi buồn nhớ thơng ngòi chết nhanh chóng
vơi đi. Ngời Thái cũng có tục mang khăn áo tang màu trắng xổ gấu.
21
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thực chất tang lễ của ngời Thái chỉ là thổ táng. Biểu hiện ở việc tạo
nhà mồ, tạo vờn rau, máng nớc và các vật dụng cùng quần áo để ngời chết
tiếp tục sống ở mờng pú pẩu và thờ cúng ma nhà ( tổ tiên) trong nhà.
Nhng do tầng lớp Anha tự coi là ngời Trời phái xuống trị dân, rồi tiếp
thu thêm yếu tố phật giáo cho rằng ngời chết còn có ma đầu lên sống ở

trên trời theo đẳng cấp niết bàn lớn, niết bàn nhỏ nên hình thành thế giới hai
tầng, nên sinh ta tục làm hiếu với quan niệm nếu con cháu cha làm hiếu thì
hồn ngời chết cha đợc lên mờng trời, vẫn chịu cực nhọc quanh quẩn ở mờng
pú pẩu. Vì thế, phải làm hiếu sau khi thờ cúng ma nhà ( tổ tiên) mới chọn
vẹn một tang.
2. Nhu cu tip nhn thụng tin ca dõn tc Thỏi
Cỏc loi hỡnh thụng tin ch yu:
ng bo Thỏi c trỳ ti vựng nỳi cao, giao thụng i li khú khn,
ng xỏ kộm phỏt trin. Nhu cu thụng tin giao tip vn hoỏ gia cỏc
vựng min l ht sc quan trng, l nhu cu cn thit nhng cng gp rt
nhiu khú khn tr ngi.
Loi hỡnh thụng tin trc tip: thụng qua cỏc i thụng tin lu ng,
hp dõn, phiờn ch, l hi m thụng tin v mi mt i sng xó hi, vn
hoỏ c chuyn ti n tng ngi, tng thụn bn, tng gia ỡnh. õy l
hỡnh thc thụng tin n gin, khụng tn kộm, d thc hin. Th nhng õy
l hot ng c t chc hng thỏng, hng quý nờn hiu qu truyn thụng
s khụng cao, khụng liờn tc, khụng ỏp ng nhu cu thụng tin ton din
v mi mt trờn mi lnh vc
Loi hỡnh thụng tin giỏn tip: Thụng qua hỡnh thc cp bỏo n tn
i phng, tn tr s, nh vn húa ca bn xó. Cỏc t bỏo c cp thụng
thng l: Bỏo Nhõn dõn, Bỏo Sn la,Bỏo in Biờn, Bỏo Lai Chõu, Bỏo
Lao ng, Bỏo Nụng thụn ngy nay Cỏc t bỏo ó cung cp y
22
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thụng tin thi s n b con dõn tc mt cỏch khỏ y . Th nhng, do
giao thụng cha cú s phỏt trin phc v tt cụng tỏc vn chuyn nờn
khụng phi lỳc no nhng t bỏo ú cng n tn tay ng bo cựng lỳc
vi s kin ang din ra. Mt khỏc trỡnh dõn trớ ca phn ụng ng bo
cũn hn ch, t l mự ch v tỏi mự vn cao. Vỡ th s ngi trc tip n

c bỏo khụng nhiu. Cụng vic rung nng hng ngy cng khụng cho
phộp ng bo cú thi gian tip nhn nhng thụng tin cn thit.
Phỏt thanh vn l loi hỡnh thụng tin chim u th nht trong vic
truyn ti thụng tin n ng bo. Vi loi hỡnh ny ng bo vn cú th
va lm vic va nghe i. Ch cn mt chic radio n gin mi thụng tin
ó n tn nh, tn bn lng.
iu tra d lun thớnh gi ca i Ting núi Vit Nam phi hp vi
Trung tõm nghiờn cu d lun xó hi- Ban t tng Vn hoỏ Trung ng
nm 2001 cho thy: T l ngi nghe i nụng thụn l 88% , thnh th
l 37%. T l ngi nghe i l ng bo dõn tc l 61% , ngi Kinh l
46,8%.
Có một thực trạng là hiện nay, nhiều bà con ở các bản gần vùng thị
xã, thị trấn không hay nghe đài phát thanh mà chủ yếu xem các chơng trình
truyền hình, nhất là lớp trẻ. Theo kết quả điều tra thính giả do Ban th kí Đài
tiếng nói Việt Nam thực hiện( tháng 4 năm 2007) tại bản Púng xã Chiềng
Ve huyện Mai Sơn tỉnh Sơn la, một số huyện khác nh Thuận Châu tỉnh Sơn
La ( là những xã cách trung tâm khoảng 20 km, đã phủ sóng phát thanh
truyền hình) thì chơng trình phát thanh tiếng Thái của Đài TNVN cha đợc
nhiều ngời biết đến, cha chú ý nghe.
Thi gian, khụng gian tip nhn thụng tin hp lý nht i vi ng
bo l vo sỏng sm v chiu ti, nghe ti nh. Trc khi i lm v sau khi
i lm v l thi im h rnh ri nht.
23
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
iu c bit i vi nhu cu v tõm lý tip nhn thụng tin ca ng
bo Thỏi l: Tõm lý yờu thớch ca nhc, vn ngh. Nht l cỏc bi hỏt dõn ca,
cỏc iu mỳa xoố, mỳa nún nhng cõu chuyn c tớch
Tỡm hiu ỳng v y nhu cu tip nhn thụng tin, tõm lý tip
nhn thụng tin s l c s phũng phỏt thanh ting Thỏi tip tc nõng cao

i mi ni dung v phng phỏp truyn tin. Nhm phc v tt nht cuc
sng tinh thn ca ng bo.
Chng 2: HIN TRNG CHNG TRèNH PHT THANH
TING THI
1. Chng trỡnh phỏt thanh v H phỏt thanh dõn tc i ting núi
Vit Nam VOV4
1.1.Chng trỡnh phỏt thanh
Chơng trình phát thanh là sự tập hợp, sắp xếp hợp lý các thành phần
tin,bài, băng tiếng động âm nhạc thành một chỉnh thể với khoảng thời gian
nhất định nhằm đáp ứng nhiệm vụ tuyên truyền cơ quan phát thanh và đáp
ứng nhu cầu thông tin của công chúng.
Bằng việc sắp xếp hợp lý các tin, bài trong một chỉnh thể chơng trình
sẽ giúp ngời nghe tiếp nhận một cách đầy đủ và hệ thống.
24
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong thực tế tuỳ theo từng tiêu chí phân loại, mỗi chơng trình phát
thanh có đối tợng tác động riêng, có nội dung phản ánh và cách tác động
riêng. Nếu lấy lĩnh vực phản ánh, sẽ có các dạng chơng trình kinh tế, văn
hoá, an ninh quốc phòng ; theo tiêu chí lứa tuổi có ch ơng trình cho ngời
cao tuổi, thanh niên, chơng trình thiếu nhi. Dù đợc phân chia theo tiêu chí
nào thì các chơng trình phát thanh vẫn có mục tiêu chung là phục vụ thính
giả theo mục tiêu tuyên truyền của chơng trình, đồng thời phảI tôn trọng và
khai thác triệt để các phơng pháp viết cho phát thanh.
Đặc điểm của chơng trình phát thanh:
Nhìn chung các chơng trình phát thanh có các đặc điểm sau:
- Khung thời lợng ổn định: Đây là yêu tố đảm bảo mặt thời lợng , kết
cấu cho toàn bộ các chơng trình khác của đài phát thanh. Không thể có một
chơng trình ngày hôm nay phát 15 phút, hôm sau lại phát 20 phút. Khung
thời lợng đựơc xây dựng phù hợp với vấn đề thờng xuyên đề cập trong ch-

ơng trình. Mỗi chơng trình có một thời điểm phát sóng nhất định. Yêu tố
này phù hợp tơng đối với nhóm đối tợng mà chơng trình phục vụ, trên cơ sở
cân đối hợp lý trong toàn hệ chơng trình. Ngời sản xuất chơng trình xây
dựng bản tin 5 phút hay chơng trình 30 phút, chơng trình thời sự tổng hợp
hay chơng trình chuyên đề chính là lúc họ giải quyết mối liên hệ định lợng
và định tính trong thông tin phát thanh.
Trong một vài trờng hợp đặc biệt khung thời lợng có thể thay đổi so
với thờng nhật.
- Thời điểm phát sóng: có ý nghĩa tạo tính địng kỳ cho thông tin phát
thanh. Thời điểm phát ổn định tạo ở thính giả thói quen chờ đón chơng trình
phát thanh mà họ yêu thích. Thói quen tâm lý của thính giả là thích nghe
thời sự vào buổi sáng, các chơng trình văn nghệ vào buổi đêm khuya. Bởi
vậy những chơng trình thông tin quan trọng cần đợc phát vào thời điểm có
đông ngời nghe nhất mới tạo đợc hiệu qủa thông tin sâu rộng.
25
25

×