TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
«
Đề tài nghiên cứu 4
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
CÁC THÀNH VIÊN:
1. Mai Hữu Duẫn TC3 K35
2. Phạm Võ Quang Đại TC3 K35
3. Dương Bá Hiếu TC3 K35
4. Nguyễn Trọng Đức TC3 K35
5. Trần Thị Thanh Nga TC1 K35
6. Phạm Thị Phương Thảo TC1 K35
7. Nguyễn Thị Thu Phương TC1 K35
8. Vương Gia Hân TC1 K35
1
MỤC LỤC
2
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lan rộng từ Hoa Kỳ tới phần còn lại của
thế giới một cách nhanh chóng. Mặc dù EMEs không phải là tâm điểm của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây, kinh nghiệm của ba năm trước có thể là
một bài học quan trọng cho họ. Một bài học như vậy cân nhắc đến sự lựa chọn
chính sách tỷ giá hối đoái - một câu hỏi hiển nhiên là liệu chính sách tỷ giá hối
đoái có thể giúp giải thích làm thế nào nền kinh tế thị trường mới nổi đối phó
trong cuộc khủng hoảng này, đặc biệt về khả năng phục hồi tăng trưởng. Đầu tiên,
trong suốt giai đoạn khủng hoảng, chúng tôi thấy rằng các nước với chế độ neo tỷ
giá thì không bị khủng hoảng tồi tệ hơn những nước thả nổi tỷ giá, và thứ hai, trái
ngược với thời kỳ khủng hoảng, trong giai đoạn phục hồi 2010-2011, các nước với
chế độ neo tỷ giá thì tệ hơn những nước thả nổi. Tuy nhiên, có một vài trường hợp
đặc biệt trong EMEs cho thấy rằng trong thời kỳ khủng hoảng, chế độ thả nổi tỷ
giá lại mang lại tác động tốt hơn, điển hình là Hàn Quốc, Malaysia và Thổ Nhĩ Kỳ,
trong đó trọng tâm nghiên cứu của nhóm chúng tôi là Hàn Quốc. Đây cũng là phần
trọng tâm của bài viết.
Bài viết trình bày mô phỏng phản sự thật dựa trên mô hình Cân bằng Động
Học Ngẩu Nhiên Tổng Quát DSGE (Dynamic Stochastic General Equilibrium
Model) để xem xét rằng nếu một chế độ tỷ giá hối đoái cố định được thay bằng
một tỷ giá hối đoái linh hoạt, không có việc thông qua các chế độ tỷ giá hối đoái
linh hoạt và chính sách tiền tệ phản chu kỳ được hướng dẫn bởi một khuôn khổ
lạm phát mục tiêu, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây đã
có nguy cơ nghiêm trọng hơn.
3
I. CÁC CƠ CHẾ TỶ GIÁ THEO PHÂN LOẠI IMF (2008)
4
Nguồn: IMF (2008)
Hình 1. Biểu đồ về tỷ lệ các quốc gia sử dụng các cơ chế tỷ giá theo phân loại
IMF (2008)
II. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA NHỮNG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI (EMEs) VÀ CUỘC
KHỦNG HOẢNG TOÀN CẦU 2008:
Phần này xem xét vai trò của chế độ tỷ giá hối đoái trong việc giải thích nền
kinh tế thị trường mới nổi ở tình trạng như thế nào trong cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu, đặc biệt về các khoản lỗ đầu ra và khả năng phục hồi tăng trưởng.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lan rộng từ Hoa Kỳ tới phần còn lại của
thế giới một cách nhanh chóng. Vì khủng hoảng sâu sắc, đã có những lời phát biểu
liệu các nền kinh tế thị trường mới nổi (EMEs) có theo chân những nước phát triển
đi vào sự suy thoái- vì chu kỳ kinh doanh đã trở nên đồng bộ hơn nhờ thương mại
và tài chính- hay liệu sự tách biệt sẽ có thể làm giảm đi tác động của sự suy thoái.
Những người bi quan tranh luận rằng sự tách biệt là không thể trong bối cảnh toàn
cầu hóa. Những người lạc quan lại chỉ ra rằng sự tăng trưởng trong thương mại,
giữa các nên kinh tế mới nổi với nền kinh tế đang phát triển, và tăng tốc độ tăng
5
năng suất và thu nhập nội địa như những dấu hiệu rằng thị trường đang phát triển
và mới nổi đã đang “học để sải cánh”.
Mặc dù EMEs không phải là tâm điểm của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu gần đây, kinh nghiệm của ba năm trước có thể là một bài học quan trọng cho
họ. Một bài học như vậy cân nhắc đến sự lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái - một câu
hỏi hiển nhiên là liệu chế độ tỷ giá hối đoái có thể giúp giải thích làm thế nào nền
kinh tế thị trường mới nổi đối phó trong cuộc khủng hoảng này, đặc biệt về các
khoản lỗ đầu ra và khả năng phục hồi tăng trưởng
Vấn đề này được nghiên cứu dựa trên một mẫu gồm 50 nước mới nổi. Đặc biệt
xem xét giai đoạn tăng trưởng vượt qua khủng hoảng và giai đoạn phục hồi để
đánh giá sự lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái của các nước EMEs giải thích việc họ
đã đối mặt như thế nào, và đang phục hồi như thế nào, từ cuộc khủng hoảng gần
đây. Ngoài việc kiểm tra một cách chi tiết vai trò của chế độ tỷ giá hối đoái, chúng
tôi bổ sung nghiên cứu trước bằng việc xác định các yếu tố khác ảnh hưởng đến
biểu hiện trong suốt cuộc khủng hoảng và sự phục hồi hiện tại.
Phát hiện chính như sau. Đầu tiên, trong suốt cuộc khủng hoảng, sau khi kiểm
soát sự chuyển đối chế độ tỷ giá, sử dụng các định nghĩa thay thế để phân loại các
loại chế độ neo, và tính cả những yếu tố quyết định khác, thì biểu hiện tăng trưởng
của các nước neo không tệ hơn với các nước thả nổi. Thứ hai, đối với việc hồi
phục vào 2010-2011, chúng tôi tìm thấy những bằng chứng rằng các nước neo trải
qua sự tăng trưởng chậm hơn so với các nước thả nổi. Ngoài hiệu ứng phục hồi từ
cuộc khủng hoảng, tăng trưởng của các đối tác thương mại là đóng góp duy nhất
cho sự hồi phục, vì các công cụ điều chỉnh như chính sách tài khóa có thể sẽ
không đủ thời gian để có hiệu lực. Nói chung những kết quả này gợi ra một hiệu
ứng bất tương xứng từ cuộc khủng hoảng, và một hiệu ứng tương xứng ở kênh
thương mại. Cuối cùng, để mở rộng cho “những thiên lệch” nhận thức về sự phục
hồi tăng trưởng dưới chính sách neo, những điều này có thể đóng góp vào nhận sự
phục hồi tăng trưởng kì vọng chậm hơn vào 2010-2011 dưới chính sách neo.
6
1. Trong giai đoạn khủng hoảng:
Do khủng hoảng trở nên sâu sắc, suy giảm tăng trưởng trung bình cho các quốc
gia neo nhỏ hơn các quốc gia thả nổi, với suy giảm đầu ra đối với các nước neo
khoảng nửa điểm phần trăm, ít hơn so với các quốc gia thả nổi (cột 4 hình 2).
Hình 2. Tăng trưởng
trung bình, khủng
hoảng và phục hồi
Chúng tôi lựa
chọn những yếu tố
tiềm năng theo cách
tiếp cận của
Blanchard, Faruqee,
và Das (2010), nhóm các biến như các đại diện của các kênh “thương mại” và “tài
chính” trong việc truyền dẫn những cú sốc trong nền kinh tế toàn cầu. Chúng tôi
lấy đại diện cho kênh thương mại (hoặc tiếp xúc thương mại) bằng hai biến, gọi là
tỷ số tăng trưởng tỷ trọng thương mại của nước đối tác và sự tăng trưởng trong các
điều khoản thương mại.
Đối với các kênh tài chính, chúng ta xem xét nợ ngắn hạn nước ngoài với
GDP, thâm hụt tài khoản vãng lại với GDP, và danh mục đầu tư ròng. Ngoài ra,
bởi sự tích lũy dự trữ ở rất nhiều quốc gia trước khủng hoảng có thể đã được dùng
để hạn chế sự mất mát đầu ra hoặc bù đắp sự suy giảm dòng vốn, chúng tôi cũng
đã tính gồm cả dự trữ hoặc dưới dạng tỷ lệ so với GDP hoặc so với nợ ngắn hạn
như một yếu tố quyết định tiềm ẩn.
Trong giới hạn của các kênh tài chính, nợ ngắn hạn như là một tỷ lệ so với
GDP thì có ý nghĩa thống kê: khi giảm 1% trong nợ ngắn hạn đối với GDP có
nghĩa tăng khoảng 0,3% tăng trưởng trong cuộc khủng hoảng. Ngoài ra, dự trữ và
nợ ngắn hạn là có ý nghĩa thống kê cả khi chúng trở nên riêng biệt như tỷ lệ trên
7
GDP, cũng như khi chúng hợp lại với nhau, như là một tỷ lệ dự trữ nợ ngắn hạn.
Điều này cho thấy rằng một tỷ lệ nợ ngắn hạn trên GDP thấp hơn, một tỷ lệ dự trữ
trên GDP cao hơn, và một tỷ lệ dự trữ trên nợ ngắn hạn cao hơn - sau này được
trình bày bằng tử số và mẫu số - đã giúp giảm thiểu sự sụp đổ đầu ra trong cuộc
khủng hoảng. Cuối cùng, hai biến tài chính khác - số dư tài khoản hiện tại trên
GDP và danh mục đầu tư thuần – thì hầu như không đáng kể, nhưng đã được ký
hiệu một cách chính xác.
Tóm lại, trong suốt giai đoạn khủng hoảng, chúng tôi thấy rằng các nước với
chế độ neo tỷ giá thì không tốt hơn so những nước thả nổi tỷ giá. Tuy nhiên, neo
tỷ giá thì không tệ hơn thả nổi. Không có sự khác biệt nào trong tăng trưởng giữa
các nước neo và thả nổi. Ngoài ra, các biến mô tả thương mại - đối tác tăng trưởng
và các cú sốc thương mại - và những biến đại diện kênh tài chính – dự trữ và nợ
ngắn hạn - là những yếu tố quan trọng góp phần làm tăng hiệu suất tăng trưởng
trong cuộc khủng hoảng.
2. Sự phục hồi sau khủng hoảng:
Sự phục hồi từ cuộc khủng hoảng gần đây đang được tiến hành với sự tăng
trưởng trong EMEs được dự báo ở mức 2.1% và 3,9% lần lượt trong từng giai
đoạn 2009-2011 và 2010-2011. Chính sách neo tỷ giá hay thả nổi thì như thế nào
trong quá trình phục hồi? Để trả lời câu hỏi này, bài viết điều tra kinh nghiệm phát
triển của EMEs cho giai đoạn 2010-2011 cùng với việc phân tích hồi quy tăng
trưởng trong giai đoạn khủng hoảng.
Trong điều kiện trung bình vô điều kiện, tăng trưởng trong quá trình phục hồi
chậm hơn khi neo so với thả nổi: tăng trưởng bình quân khi cố định là giữa khoảng
1% và 2% thấp hơn so với thả nổi trong năm 2010-2011 (xem hình 2)
Sau khi thực hiện những công đoạn ước lượng, có sự khác biệt trong sự phục
hồi tăng trưởng giữa các nước neo tỷ giá và các nước thả nổi: các nước neo phục
hồi chậm hơn so với các nước thả nổi trung bình khoảng 1,2%.
Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy một tác động "phục hồi" quan trọng (hoặc cường
điệu hóa), trong chiều hướng là các quốc gia có ký hợp đồng nhiều nhất trong suốt
8
cuộc khủng hoảng đang trải qua những phục hồi nhanh hơn. Theo dự kiến, sự tăng
trưởng trong các đối tác kinh doanh có lợi cho sự phục hồi. Tương tự như kinh
nghiệm trong cuộc khủng hoảng, tác động của tăng trưởng của các đối tác thương
mại là một yếu quan trọng quyết định đến sự phục hồi, mặc dù yếu hơn nhiều so
với tác động của nó trong cuộc khủng hoảng. Hơn nữa, trong khi một số thông số
kỹ thuật cho thấy một tác động tích cực nhỏ khi nắm giữ dự trữ nhiều hơn, và nợ
ngắn hạn thấp hơn, cũng như tỷ lệ dự trữ bao gồm nợ ngắn hạn, nói chung, chúng
tôi không tìm thấy bằng chứng cho thấy những yếu tố này góp phần mạnh mẽ vào
sự phục hồi. Cuối cùng, về thương mại, các dòng vốn và chính sách tài khóa cũng
không thấy là có ích cho việc phục hồi.
Tóm lại, trong giai đoạn phục hồi 2011-2010, các quốc gia theo chế độ neo tỷ
giá được ước tính là tồi tệ hơn những quốc gia thả nổi. Ngoài một tác động phục
hồi quan trọng, chúng tôi cũng thấy rằng sự tăng trưởng của các đối tác thương
mại là một nhân tố quan trọng góp phần phục hồi tăng trưởng. Cuối cùng, những
công cụ điều chỉnh (ví dụ như chính sách tài khóa) vẫn chưa có đủ thời gian để có
hiệu quả, để lại chế độ tỷ giá hối đoái một mình cố gắng phục hồi.
III. MỘT VÀI TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT TRONG EMES:
Nhìn chung lại, những gì nhóm chúng tôi sơ lược lại trong nghiên cứu của
Charalabos (2010) – đã trình bày ở phần trên – về chính sách tỷ giá hối đoái ở các
nền kinh tế thị trường mới nổi hàm ý hai nội dung chính như sau: (1) Đầu tiên,
trong suốt giai đoạn khủng hoảng, kiểm soát chế độ tỷ giá, và các yếu tố tiềm
năng khác ảnh hưởng đến hiệu suất tăng trưởng, chúng tôi thấy rằng các nước với
chế độ neo tỷ giá thì không bị khủng hoảng tồi tệ như những nước thả nổi tỷ giá,
và (2) thứ hai, trái ngược với thời kỳ khủng hoảng, trong giai đoạn phục hồi 2010-
2011, các nước với chế độ neo tỷ giá thì tệ hơn những nước thả nổi. Tuy nhiên, có
một vài trường hợp đặc biệt trong EMEs cho thấy rằng trong thời kỳ khủng hoảng,
chế độ thả nổi tỷ giá lại mang lại tác động tốt hơn, điển hình là Hàn Quốc,
Malaysia và Thổ Nhĩ Kỳ, trong đó trọng tâm nghiên cứu của nhóm chúng tôi là
Hàn Quốc. Đây cũng là phần trọng tâm của bài viết.
9
1. Bối cảnh cuộc khủng hoảng 2008-2009
Cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ thị trường cho vay dưới chuẩn của
Mỹ cùng với sự sụp đổ của Lehman Brothers vào tháng 9 năm 2008 đã lan ra toàn
cầu, sự hạn chế thanh khoản toàn cầu cũng đã giáng một đòn nặng nề lên nền kinh
tế Châu Á, trong đó các nước Hàn Quốc, Malaysia và Thổ Nhĩ Kỳ là những nước
gánh chịu nhiều bất lợi nhất.
2. Tác động của chính sách tỷ giá hối đoái:
2.1. Đối với Hàn Quốc
Với cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ thị trường cho vay dưới chuẩn
của Mỹ lan ra toàn cầu và theo sau sự sụp đổ của Lehman Brothers vào tháng 9
năm 2008, sự hạn chế thanh khoản toàn cầu kèm theo đó đã giáng một đòn nặng
nề lên Hàn Quốc. Tài khoản vốn xấu đi hơn 6 điểm phần trăm GDP, so với 5,5 tỷ
lệ phần trăm của GDP trong cuộc khủng hoảng châu Á 1997-1998. Cả tiền tệ và
thị trường vốn cổ phần đều giảm khoảng 30%, cùng với tình trạng thiếu đô la trầm
trọng lan tràn qua các thị trường tiền tệ trong nước, và những nguy cơ vỡ nợ có thể
nhận thấy của các ngân hàng Hàn Quốc, mà phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn bán
buôn, lại tăng hơn bất cứ nơi nào khác ở châu Á.
Đáp lại sự đảo ngược đột ngột này của các dòng vốn, và kèm theo sự sụp đổ
thương mại toàn cầu, các nhà chức trách Hàn Quốc đã thực thi những chính sách
hành động nhanh chóng và quyết đoán trên một số mặt trận. Các nhà chức trách
dành 55 tỷ USD trong dự trữ ngoại hối để cung cấp như giao dịch hoán đổi
hoặc các khoản vay cho các ngân hàng và doanh nghiệp hoạt động thương mại. Họ
áp dụng những kích thích tiền tệ và tài chính đáng kễ để kéo giữ sự trượt dốc và hỗ
trợ nền kinh tế thực. Họ cũng thiết lập một cách ưu tiên quỹ tái cơ cấu vốn ngân
hàng và quỹ tài sản độc hại để bảo vệ hệ thống ngân hàng khỏi suy thoái và ngăn
ngừa sự suy giảm đột ngột. Ngoài ra, các cơ quan có thẩm quyền đã khởi xướng
một cuộc trao đổi cơ sở với Cục Dự trữ Liên bang Mỹ vào khoảng 35 tỷ USD,
cũng như trao đổi cơ sở vật chất song phương với Ngân hàng nhân dân Trung
Quốc (tương đương khoảng 26 tỷ USD) và Ngân hàng Nhật Bản (tương đương
10
khoảng 20 tỷ USD). Để đảm bảo đủ tính thanh khoản trên thị trường trong nước,
Ngân hàng Hàn Quốc cũng mở rộng danh sách các đối tác đủ điều kiện và tài sản
thế chấp trong hoạt động mua lại của nó và nới lỏng yêu cầu về thanh khoản của
các ngân hàng.
Những biện pháp chính sách đã giúp ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tín
dụng hoặc giảm nợ đột ngột, và đảm bảo hệ thống tài chính vẫn còn an toàn. Tuy
nhiên, suy thoái kinh tế là không thể tránh khỏi. Hàn Quốc phải đối mặt với sự sụt
giảm xuất khẩu lớn nhất trong lịch sử. Đến tháng 1 năm 2008, xuất khẩu giảm
35% so với năm trước. Điều này lan qua nhu cầu trong nước, với sự thu hẹp 6,5%
trong đầu tư thực quý theo quý, và tiêu dùng cá nhân giảm 4,5%. Nhìn chung, vào
cuối năm 2008, kinh tế Hàn Quốc bị thu hẹp đi 5,1% so với cùng kỳ năm trước,
nằm trong số những sự co lại rõ nét nhất trên toàn thế giới (Hình 3).
Hình 3. Một số chỉ số kinh tế vĩ mô chọn lọc của Hàn Quốc
2.1.1. Chính sách tỷ giá hối đoái của Hàn Quốc
11
Vào năm 1998, Hàn Quốc chính thức thông qua một khuôn khổ lạm phát mục
tiêu. Để phù hợp với mục tiêu này, tỷ giá hối đoái đã được phép thả nổi tự do. Sau
khi thông qua khuôn mẫu chính sách tiền tệ mới, nền kinh tế Hàn Quốc có mức
lạm phát trung bình hàng năm là 2,7% trong giai đoạn 1999-2007, và tăng trưởng
GDP trung bình hàng năm là 5,8%.
Dự báo về suy thoái theo sau những căng thẳng tài chính, Hàn Quốc đã thông
qua một khuôn khổ lạm phát mục tiêu được củng cố bằng cơ chế tỷ giá linh hoạt.
Ngân hàng trung ương Hàn Quốc (BOK) đã cho phép tỷ giá hối đoái sụt giảm như
một dòng vốn chảy ra, và ưu tiên cắt giảm chính sách tỷ giá 325 điểm cơ bản.
Ngoài ra, để đáp lại sự đảo ngược đột ngột của các dòng vốn, và kèm theo sự
sụp đổ thương mại toàn cầu, các nhà chức trách Hàn Quốc đã thực thi những chính
sách hành động nhanh chóng và quyết đoán trên một số mặt trận. Các nhà chức
trách dành 55 tỷ USD trong dự trữ ngoại hối để phục vụ cho các giao dịch hoán
đổi hoặc cho các ngân hàng và doanh nghiệp hoạt động thương mại vay. Họ áp
dụng những kích thích tiền tệ và tài chính đáng kể để kéo giữ sự trượt dốc và hỗ
trợ nền kinh tế thực. Họ cũng thiết lập một cách ưu tiên quỹ tái cơ cấu vốn ngân
hàng và quỹ tài sản độc hại để bảo vệ hệ thống ngân hàng khỏi suy thoái và ngăn
ngừa sự suy giảm đột ngột. Thêm vào đó, các cơ quan có thẩm quyền đã khởi
xướng một cuộc trao đổi thỏa thuận với Cục Dự trữ Liên bang Mỹ vào khoảng 35
tỷ USD, cũng như trao đổi thỏa thuận song phương với Ngân hàng nhân dân
Trung Quốc (tương đương khoảng 26 tỷ USD) và Ngân hàng Nhật Bản (tương
đương khoảng 20 tỷ USD). Để đảm bảo đủ tính thanh khoản trên thị trường trong
nước, Ngân hàng Hàn Quốc cũng mở rộng danh sách các đối tác đủ điều kiện và
tài sản thế chấp trong hoạt động mua lại và nới lỏng yêu cầu về thanh khoản cho
các ngân hàng.
2.1.2. Tác động của các chính sách tỷ giá hối đoái
Nhờ vào chính sách tỷ giá đã áp dụng , sự phục hồi sau đó của Hàn Quốc là
một trong những sự phục hổi nhanh nhất và mạnh nhất ở châu Á, với tốc độ tăng
12
trưởng tổng thể GDP 6,2% năm 2009, và đến giữa năm 2010, khoảng cách sản
lượng đã không còn.
Những biện pháp chính sách này đã giúp ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tín
dụng hoặc giảm nợ đột ngột, và đảm bảo hệ thống tài chính vẫn còn an toàn.
Trong phần này của bài nghiên cứu, chúng tôi tiến hành một số thí nghiệm
“phản sự thật” với mục tiêu trả lời các câu hỏi sau: Nếu việc áp dụng chế độ tỷ giá
hối đoái linh hoạt và thực hiện các chính sách tiền tệ phản chu kỳ trong một khuôn
khổ lạm phát mục tiêu không được tiến hành thì cuộc suy thoái gần đây sẽ trở nên
nặng nề đến mức nào?
Như được thảo luận dưới đây, câu trả lời đó là suy thoái kinh tế sẽ trở nên
nghiêm trọng đáng kể hơn. Trên thực tế, mô phỏng “phản sự thật” chỉ ra rằng nếu
không có sự cắt giảm lãi suất phản chu kỳ và tùy ý do BOK đưa ra thì mức tăng
trưởng trong giai đoạn từ quý IV năm 2008 đến quý III năm 2009 sẽ giảm từ con
số thực tế là -2.1% xuống -2,9%. Hơn nữa, nếu thay vào đó là chế độ tỷ giá hối
đoái cố định chứ không phải là chế độ lạm phát mục tiêu (được củng cố bởi tỷ giá
hối đoái linh hoạt), thì kết quả cho thấy sự tăng trưởng trong 4 quý đó sẽ là -7,5%,
một sự khác biệt 5,4% so với kết quả thực tế.
a. Thiết lập các mô phỏng “Phản sự thật”
Với mục đích của bài nghiên cứu là cố gắng đánh giá vai trò của cơ chế lạm
phát mục tiêu mà BOK đề ra trong nỗ lực giảm nhẹ các tác động của khủng hoảng
đến kinh tế Hàn Quốc. Thông qua những mối liên quan mật thiết, mô hình cho
phép chúng tôi điều tra riêng rẽ đóng góp của chính sách lãi suất phản chu kỳ và
chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt nhằm làm dịu đi các tác động của cuộc khủng
hoảng. Vì vậy mà trong phân sau đây, chúng tôi xem xét ba mô phỏng phản sự
thật và so sánh chúng với việc thực hành thực tế và cũng là cơ sở của chúng tôi.
Theo mức cơ bản, khuôn khổ chính sách tiền tệ (được củng cố bằng tỷ giá hối đoái
linh hoạt) hoạt động phù hợp với quy định lãi suất cơ bản ước lượng được thảo
luận ở trên. Trong bối cảnh này, ba thử nghiệm phản sự thật được sử dụng như
sau:
13
• Không có những cú sốc về chính sách tiền tệ: phản sự thật này thừa nhận việc
tuân thủ nghiêm ngặt quy định về lãi suất thực nghiệm cơ bản. Đây là một mô
phỏng không bao gồm cú sốc chính sách tiền tệ. Điều này phục vụ nhằm giải
quyết các câu hỏi sau đây: động lực của đầu ra sẽ như thế nào nếu BOK đã không
thực hiện bất kỳ hành động nới lỏng tùy ý (độ lệch từ quy định lãi suất) trong cuộc
khủng hoảng?
• Neo: trong phản sự thật này, BOK được giả định để thực hiện một cơ chế tỷ
giá hối đoái cố định nghiêm ngặt. Theo trực giác, không có độ lệch tùy ý từ quy
định (mà chỉ tập trung vào việc ổn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa). Ở đây chúng
ta tìm kiếm giải pháp cho câu hỏi: Động lực của tăng trưởng đầu ra sẽ thế nào nếu
BOK áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định?
• Neo với lỗ hổng tài chính cao: theo phản sự thật trước, BOK được giả định
hoạt động theo chế độ tỷ giá hối đoái cố định như trên, nhưng các tỷ lệ đòn bẩy
được hiệu chỉnh tương ứng với trường hợp khi nó bằng ba (chứ không phải mức
cơ bản là 2 cơ sở, xem Alp và Elekdag, 2011 để biết thêm chi tiết). Đây không
phải là trọng tâm chính của nghiên cứu, khuôn khổ mô hình của chúng tôi cho
phép chúng ta xây dựng một phản sự thật minh họa phục vụ để giải quyết câu hỏi:
Chủ động của tăng trưởng đầu ra sẽ thế nào nếu BOK áp dụng chế độ tỷ giá hối
đoái cố định và nền kinh tế dễ bị tổn thương về mặt tài chính?
b. Kết quả dựa trên mô phỏng “Phản sự thật”
Hình 4 mô tả mức độ GDP thực với quý đầu tiên năm 2008 (cao điểm trước
khủng hoảng) nằm ở mức bình thường đến 100 để cho phép người đọc phân biệt
rõ hơn những ảnh hưởng (tích lũy) của mỗi phản sự thật. Tiếp tục làm nổi bật
những kết quả chính, số liệu này bắt đầu trong quý I năm 2005, và chỉ cho thấy
phản sự thậts trong giai đoạn từ quý IV năm 2008 đến quý III năm 2009. Số liệu
mô tả (1) GDP thực hiện thực tế (theo kịch bản cơ bản), (2) các kịch bản phản sự
thật mà không có những cú sốc chính sách tiền tệ, (3) các kịch bản phản sự thật
với chế độ tỷ giá hối đoái cố định (peg), và (4) một kịch bản phản sự thật minh
họa với neo với lỗ hổng tài chính cao.
14
Như thấy rõ trên Hình 4, khuôn khổ lạm phát mục tiêu được củng cố bởi chế
độ tỷ giá hối đoái linh hoạt rõ ràng đã làm dịu đi tác động của cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu. Cụ thể hơn, rất hữu ích để thảo luận về hai kết quả chính:
Hình 4. Vai trò của chính sách tiền tệ và GDP thực
• Đầu tiên, như ước tính, tăng trưởng giảm nhiều nhất dưới chế độ tỷ giá hối
đoái cố định. Việc thiếu tỷ giá hối đoái để phục vụ như chất hấp thụ các cú sốc
làm giảm khả năng phục hồi của nền kinh tế trước những cú sốc xảy ra trong
khủng hoảng. Những thí nghiệm phản sự thật này làm nổi bật vai trò của tỷ giá hối
đoái linh hoạt cũng như cải cách tài chính nhằm nâng cao tính an toàn của hệ
thống tài chính.
• Thứ hai, như được thảo luận trong chương trước, có một vai trò quan trọng
của sự cân nhắc theo ý muốn xuất phát từ các quy định lãi suất, mà giúp làm dịu
15
các tác động của cuộc khủng hoảng. Thoạt nhìn, trong khi chúng trông có vẻ nhỏ,
như chúng tôi sẽ thảo luận chi tiết hơn trong tiểu mục tiếp theo, thì vai trò của
chúng (các cú sốc chính sách tiền tệ) là rất phù hợp với tài liệu.
c. Làm thế nào kết quả này so sánh được với những kết quả trong các
tài liệu khác?
Chúng tôi hiện đang tập trung vào các tác động tăng trưởng liên quan tới
những phản sự thật đã thảo luận ở trên. Ở chương này sẽ lập bảng đóng góp chính
xác cho sự tăng trưởng theo các phản sự thật khác nhau, xem Bảng 1. Như trước
đây, ý định là tập trung vào giai đoạn căng thẳng nhất của khủng hoảng tài chính
toàn cầu, ảnh hưởng đến Hàn Quốc, bao gồm 4 quý kéo dài từ quý 4 năm 2008
đến quý 3 năm 2009.
Bảng 1. Tóm tắt vai trò của chính sách tiền tệ
Trước khi điều tra chi tiết, thì rất hữu ích khi làm rõ các thông tin chứa trong
Bảng 1. Các giá trị theo cột biểu thị đóng góp trung bình hoặc tích lũy đến tăng
trưởng trong giai đoạn quý IV năm 2008 đến quý III năm 2009. Nó thể hiện kết
quả của chúng tôi, cũng như các kết quả của Christiano và những người khác
(2007)- nghiên cứu tiến hành các thí nghiệm phản sự thật gần nhất với chúng tôi.
Sau khi lập bảng số quý, cột [1] đến cột [4] cho biết sự đóng góp gia tăng cho tăng
trưởng đến việc thực hiện liên tiếp mỗi chính sách. Ví dụ, theo cột [3] chỉ ra rằng
16
việc giảm thiểu các lỗ hổng tài chính làm tăng thêm, trung bình là 1,05 điểm phần
trăm vào tăng trưởng. Ngoài hiệu ứng này, đóng góp của tăng trưởng gia tăng vào
việc áp dụng một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt, biểu diễn theo cột [2], là 4,27
điểm phần trăm.
Việc so sánh kết quả ở Bảng 1 với các tài liệu khác cũng rất hữu ích. Chuyển
đến cột [1], chúng ta thấy rằng đóng góp trung bình của các cú sốc tiền tệ (độ lệch
tùy ý từ các quy định tỷ lệ lãi suất thực nghiệm) đến tăng trưởng đầu ra là khoảng
77 điểm cơ bản, nằm ở giữa các giá trị được tìm thấy bởi Chrisitiano và những
người khác (2007) cho Mỹ (0.75%) và khu vực đồng Euro (1.27%). Những đóng
góp tăng trưởng tích lũy cũng có vẻ hợp lý, và cung cấp một số bối cảnh xa hơn về
vai trò của chính sách tiền tệ trong việc làm dịu tác động của cuộc khủng hoảng.
Bảng 1 tóm tắt những kết quả tìm được chủ yếu của chúng tôi. Trong năm từ
quý IV năm 2008 đến quý III năm 2009, tỷ lệ tăng trưởng thực là -2,1%. Mô
phỏng dựa trên mô hình của chúng tôi cho rằng nếu BOK đã không thoát khỏi các
quy tắc tỷ lệ lãi suất thực nghiệm, thì tốc độ tăng trưởng thay vào đó đã là -2,9%,
một sự khác biệt gần như là một điểm phần trăm. Hơn nữa, nếu thay vì chế độ
lạm phát mục tiêu là một sự kìm giữ thì kết quả cho ra một tốc độ tăng trưởng là
-7,5%, khác biệt so với thực tế đến 5,4 điểm phần trăm. Tóm lại, nếu không có sự
thông qua cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, và chính sách tiền tệ hoạt động phản chu kỳ
tuân theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu gần đây đã trở nên tàn khốc hơn.
2.1.3. Cơ chế dẫn truyền và sự dẫn truyền của những cú sốc:
a. Sự dẫn truyền của những cú sốc
Bài nghiên cứu này tìm kiếm nhằm điều tra vai trò của chính sách tiền tệ, trọng
tâm là chính sách tỷ giá hối đoái trong việc làm dịu đi tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu đối với nền kinh tế Hàn Quốc. Để giúp bồi dưỡng mô
hình trực giác thì cần thiết tập trung vào ba cú sốc liên quan tới cuộc khủng hoảng
và tìm hiểu làm thế nào nó dẫn truyền đến kinh tế Hàn Quốc. Những cú sốc này
17
gồm: sự sụp đổ trong nhu cầu nước ngoài, căng thẳng trên thị trường vốn quốc tế,
và tính bất ổn được nâng cao.
Cú sốc về nhu cầu xuất khẩu
Cú sốc về nhu cầu xuất khẩu, hoặc có lẽ tương đương là cú sốc nhu cầu nước
ngoài, được thể hiện trong mô hình thông qua điều kiện cân bằng thị trường dưới
đây:
Bỏ qua sự khác biệt trong ký hiệu, phương trình này về cơ bản là tiêu chuẩn đo
lường tổng cầu (sản xuất trong nước) cho hàng hoá nội địa, trong đó thừa nhận
rằng sản lượng nội địa bằng với tổng mức tiêu thụ hàng hóa sản xuất trong nước
(tổng hợp tiêu dùng của cả hộ gia đình và doanh nghiệp + ), đầu tư nội địa
, chi tiêu chính phủ , và xuất khẩu . Vì vậy, sự sụp đổ trong nhu cầu xuất
khẩu (nước ngoài) đơn giản chính là sự sụt giảm của
Cú sốc dừng đột ngột
Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
cũng được liên kết với một sự đảo ngược của dòng vốn (sự "dừng lại đột ngột"
theo cách nói của Calvo và những người khác, 2004), cũng như sự giảm rõ nét của
tỷ giá hối đoái. Để nắm bắt những gián đoạn có liên quan đến nhau này, chúng tôi
(cũng như nhiều bài nghiên cứu khác) đã đưa thêm điều kiện lãi suất cân bằng mở
(UIP) vào cùng với cú sốc ngoại sinh:
Trong đó, và lần lượt là lãi suất trong nước và quốc tế,
biểu thị tỷ giá hối đoái danh nghĩa (bao nhiêu đồng won Hàn Quốc trên một
đô la Mỹ - tỷ giá tăng nghĩa là đồng tiền mất giá),
18
là kỳ vọng của nhà điều hành (theo thông tin cho đến thời điểm t),
là cú sốc dừng đột ngột (cũng được xem như cú sốc tỷ giá hay cú sốc UIP).
Như vậy, giống với nghiên cứu của Gerlter và cộng sự (2007), một cú sốc
khiến cho những dòng vốn ra lớn bị chặn lại bởi tác động ngoại sinh này được dựa
vào các tiêu chuẩn điều kiện UIP khác. Cú sốc dừng lại đột ngột sẽ được dùng để
đo lường kích thước quan trọng của lĩnh vực tài chính trong cuộc khủng hoảng gần
đây.
Cú sốc bất ổn (về tài chính)
Mô tả về cú sốc này chứng thực một số nền tảng. Trong mô hình, chi phí thực
của vốn xuất phát từ các biểu diễn tiêu chuẩn trong những nghiên cứu khác về sự
tồn tại của một khoản phần bù tài trợ bên ngoài. Xem xét phương trình dưới đây:
Trong đó ta có chi phí thực của vốn , thì bằng với lãi suất thực được
khuếch tăng thêm phần bù tài trợ bên ngoài được ký hiệu là . Phần bù tài trợ
bên ngoài này phụ thuộc vào tỷ lệ đòn bẩy (tài sản được đo bằng giá trị thực) của
các doanh nghiệp:
Lưu ý rằng tổng tài sản phụ thuộc vào giá trị vốn cổ phần, thì không
chậm thay đổi (bằng ngược lại với giá hàng hóa hay tiền lương). Điều này cho
thấy rằng tỷ lệ đòn bẩy là khá nhạy cảm với sự dao động của giá trị tài sản.
Chi tiết chính xác cách đo lường giá trị thực, , thì khá phức tạp (được trình bày
trong Phụ lục), nên ở đây chúng tôi chỉ sử dụng công thức rút gọn:
19
Trong đó, và lần lượt là giá trị hóa đơn tiền lương của nhà quản lý và giá
trị của doanh nghiệp. Cú sốc bất ổn (về tài chính) là một quá trình ngoại sinh, kí
hiệu là , xảy ra do xây dựng có một tác động trực tiếp lên mức độ giá trị ròng
tổng thể và vì thế dẫn đến phần bù tài trợ bên ngoài. Nói cách khác, cú sốc giá trị
ròng có thể được hiểu như một cú sốc tới tỷ lệ tàn phá sự giàu mạnh về tài chính
trong kinh doanh. Cú sốc này ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị kinh doanh ròng và
được sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau bởi Elekdag và những người khác
(2006), Curdia (2007), Christiano và những người khác (2010), gần đây hơn bởi
Alp và Elekdag (2011). Một cách nghĩ khác về cú sốc này là nó có thể được xem
như rủi ro đối tác – một vấn đề mấu chốt trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu. Điều này làm gia tăng tính bất ổn trong lưu chuyển tiền tệ, ví dụ, sẽ làm
giảm tài sản và từ đó phá vỡ hệ thống tài chính.
b. Cơ chế dẫn truyền tiền tệ:
Phần này nhằm mục đích khám phá chức năng của mô hình ước lượng bằng
cách điều tra cơ chế dẫn truyền tiền tệ. Điều này là rất quan trọng bởi vì trọng tâm
của bài nghiên cứu là đánh giá vai trò của chính sách tiền tệ trong cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu.
Mức độ cú sốc thì ảnh hưởng qua ba kênh chính:
• Kênh đầu tiên là do lãi suất ảnh hưởng đến nhu cầu trong nước, mà chủ yếu
tác động đến tiêu dùng và đầu tư. Tiến hành thông qua phương trình Euler, lãi suất
thực cao hơn thúc đẩy sự gia tăng tiết kiệm như một khoản tiêu dùng để lại sau
này. Đồng thời, lãi suất thực cao hơn cũng làm tăng chi phí cơ hội dành cho đầu
tư, giảm tỷ lệ tích lũy vốn. Kết quả là nhu cầu nội địa giảm, gây áp làm lực giảm
lạm phát.
• Kênh thứ hai là các chức năng của nền kinh tế mở theo mô hình, hoạt động
thông qua tỷ giá hối đoái. Do độ cứng danh nghĩa, sự gia tăng lãi suất danh nghĩa
dẫn đến một lãi suất thực cao hơn và được liên kết với sự gia tăng trong tỷ giá hối
đoái thực. Đổi lại, sự đánh giá cao tỷ giá hối đoái thực sự sẽ ngăn chặn xuất khẩu
ròng (hiệu ứng chuyển đổi chi tiêu), và tiếp tục làm giảm tổng cầu.
20
• Kênh thứ ba là đặc trưng của cơ chế gia tốc tài chính. Lãi suất cao hơn làm
giảm giá tài sản (giá thực tế của vốn) mang lại một sự suy giảm trong giá trị ròng.
Những quy tắc về bảng cân đối kế toán yếu kém hơn gây ra sự gia tăng trong phần
bù tài trợ bên ngoài, do đó làm tăng chi phí cơ hội đầu tư trên và dưới tác dụng
ban đầu được tạo ra bằng cách thắt chặt tiền tệ. Điều này đem đến một sự co lại
sắc nét hơn trong đầu tư, chính là yếu tố chính quyết định chính sự thu hẹp sâu
hơn. Như đã đi sâu hơn trong các nghiên cứu khác, cơ chế gia tốc tài chính có thể
khuếch đại ảnh hưởng của những cú sốc nhất định (Bernanke, Gertler, và
Gilchrist,1999).
2.2. Đối với Malaysia:
Trong giai đoạn căng thẳng nhất của cuộc khủng hoảng, cụ thể là 4 quý kéo dài
từ: Quý 4-2008 đến khoảng quý 3-2009, GDP thực tế của Malaysia nhỏ đi ba phần
trăm (hình 5).
Sự suy thoái trong thương mại toàn cầu ảnh hưởng bất lợi đến xuất khẩu của
Malaysia, với mức độ hội nhập cao của Malaysia với nền kinh tế toàn cầu. Sự sụt
giảm 15% (mỗi năm) trong xuất khẩu trong quý đầu tiên của năm 2009 cũng làm
nản lòng nhu cầu trong nước, đặc biệt là đầu tư cố định.
2.2.1. Chính sách tỷ giá hối đoái của Malaysia
Để khắc phục tình hình trên, các cơ quan có thẩm quyền đã hành động nhanh
chóng và dứt khoát để duy trì sự ổn định tài chính cũng như làm dịu đi những căng
thẳng tài chính và suy giảm mạnh triển vọng tăng trưởng toàn cầu.
Malaysia đã thực hiện một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và cắt giảm lãi suất .
Ngân hàng Trung ương Malaysia (BNM) giữ gìn nguồn tài trợ ngắn hạn trong hệ
thống ngân hàng bằng cách thông báo trong tháng 10 năm 2008 sẵn sàng mở cửa
cho vay liên ngân hàng. Nó đã sử dụng một sự kết hợp của can thiệp ngoại hối và
sụt giảm của tỷ giá hối đoái, như một phản ứng với áp lực dòng chảy vốn. BNM
cắt giảm chính sách lãi suất bằng 150 điểm cơ bản là 2%, và giảm yêu cầu dự trữ
để giảm bớt chi phí trung gian tài chính. Ngoài các biện pháp chính sách tài chính
khác, hai gói kích thích tài chính được thực hiện để làm dịu nền kinh tế.
21
2.2.2. Tác động của chính sách tỷ giá hối đoái
Các chính sách phản ứng nhanh chóng và toàn diện, chống lại sự sắp đặt khu
vực doanh nghiệp mạnh mẽ, đã giúp làm dịu suy thoái. Mặc dù những cú sốc
nghiêm trọng cho nền kinh tế, sản lượng giảm một mức tương đối khiêm tốn trước
khi hồi phục nhanh chóng trong năm 2010.
Hình 5. Một số chỉ số kinh tế chọn lọc ở Malaysia
Nếu không có một chế độ tỷ giá linh hoạt và chính sách tiền tệ phản chu kỳ
tích cực, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây đã có nguy cơ
nghiêm trọng hơn. Khuôn khổ chính sách tiền tệ hiện hành của Ngân hàng Trung
Ương Malaysia (BNM), củng cố bằng một tỷ giá hối đoái linh hoạt dường như
giúp nền kinh tế Malaysia chống lại những cú sốc.
Trong bối cảnh này, mô phỏng phản sự thật của chúng tôi chỉ ra rằng nếu
không có sự cắt giảm lãi suất phản chu kỳ và tùy ý trong khuôn khổ hiện hành của
BNM, tăng trưởng 4 quý được xem xét sẽ là -3,4% thay vì các kết quả thực tế là
-2,9%. Như thế, chế độ chính sách tiền tệ của Malaysia, củng cố bởi tỷ giá hối
đoái linh hoạt là rất phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế quốc gia, như đã được
22
minh chứng thông qua các thử nghiệm phản sự thật đề cập ở trên trong bối cảnh
khủng hoảng toàn cầu 2008-2009.
2.3. Đối với Thổ Nhĩ Kỳ:
Thổ Nhĩ Kỳ là một trong những nước bị tác động mạnh nhất bởi cuộc
khủng hoảng. Tỷ lệ tăng trưởng hằng năm là -4.8% trong năm 2009. Cùng thời
gian đó, Ngân Hàng Trương Ương Thổ Nhĩ Kỳ cắt giảm lãi suất 1025 điểm cơ
bản trong thời kỳ Tháng 11 năm 2008 đến Tháng 11 năm 2009.
Trong bối cảnh này, Mô phỏng phản sự thật dựa trên mô hình cho thấy rằng
không có lãi suất phản phản chu kỳ và tùy ý cắt giảm được thực hiện bởi Ngân
hàng Trung Ương Thổ Nhĩ Kỳ CBRT, tốc độ tăng trưởng trong năm 2009 sẽ giảm
từ việc thực hiện thực tế là -4,8% đến -5,9%, một sự khác biệt 1.1 phần trăm.
Hơn nữa, nếu một chế độ tỷ giá hối đoái cố định được thay bằng một tỷ giá hối
đoái linh hoạt, kết quả chỉ ra rằng sự tăng trưởng trong năm 2009 sẽ là -8,0%, một
sự khác biệt từ thực tế kết quả 3,2 điểm phần trăm. .
Tóm lại, không có việc thông qua các chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt, và chính
sách tiền tệ phản chu kỳ được hướng dẫn bởi một khuôn khổ lạm phát mục tiêu,
tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây đã có nguy cơ nghiêm
trọng hơn. Khuôn khổ lạm phát mục tiêu củng cố bằng một tỷ giá hối đoái linh
hoạt tăng khả năng phục hồi của nền kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ với những cú sốc. Khuôn
khổ lạm phát mục tiêu cho phép CBRT thực hiện cắt giảm lãi suất phản chu kỳ và
tùy ý, trong khi tỷ giá hối đoái linh hoạt đóng vai trò như một chất hấp thụ cú sốc,
cả hai đều làm tăng khả năng phục hồi của nền kinh tế
3. Mô hình Cân bằng Động Học Ngẫu nhiên Tổng quát (DSGE) :
Mục này trình bày bản mô tả mô hình DSGE mà nó là cốt lõi phân tích của Alp
và Eleksag về những kết quả được trình bày ở trên. Mô hình này là một mô hình
DSGE Keynesian mới trong nền kinh tế mở được trang bị thêm những đặc điểm
bổ sung nhằm làm phù hợp hơn với dữ liệu, bao gồm một lượng độ cứng nhắc
thực và danh nghĩa, một xu hướng ngẫu nhiên và một cơ chế gia tốc tài chính. Mô
hình của chúng tôi mang đến nhân tố chung từ những nghiên cứu của Adolfson và
23
những người khác (2007), Bemanke và những người khác (1999),… Một ví dụ
gần đây, hãy xem nghiên cứu của Alp và Elekdag (2011), cung cấp chi tiết hơn
những mô tả mô hình được trình bày bên dưới.
Bài viết này được xây dựng dựa trên mô hình DSGE theo truyền thống về nền
kinh tế mở nhỏ được phổ biến bởi Mendoza (1991). Theo thời gian, các mô hình
thực sự đã được tăng cường với độ cứng danh nghĩa để thúc đẩy và sau đó tìm ra
hệ quả của chính sách tiền tệ (ví dụ, tham khảo Gali và Monacelli, năm 2002). Để
nắm bắt được những rào cản tài chính một cách thích hợp hơn, xây dựng dựa trên
nghiên cứu của Bernanke và những người khác (1999), một cơ chế gia tốc tài
chính cũng đã được thêm vào các mô hình (tham khảo Cespedes và những người
khác, 2004; Devereux, và những người khác, 2006; Gertler, và những người khác,
2007; hay Elekdag và Tchakarov, 2007).
Với tính khả thi và phổ biến ngày càng tăng của phương pháp Bayes, xây dựng
dựa trên các nghiên cứu về nền kinh tế đóng của Smets và Wouters (2003, 2007),
mô hình nền kinh tế mở nhỏ được ước tính (Lubik và Schorfheide, 2007; Teo, năm
2006, cũng như Christensen và Dib, năm 2006). Sau đó, Elekdag, Justiniano, và
Tchakarov (2006) ước tính một mô hình nền kinh tế nhỏ và mở với cơ chế gia tốc
tài chính cho một thị trường mới nổi, mà sau này thúc đẩy những người khác sử
dụng các mô hình có cấu trúc phong phú hơn (xem, Garcia-Cicco, 2010). Trong
bối cảnh đó, như trong Alp và Elekdag (2011), bài viết này lấy nghiên cứu của
Elekdag, Justiniano, và Tchakarov (2006) làm điểm khởi đầu và thêm vào mô hình
của họ với một vài thông số trong nghiên cứu của Gertler và những người khác
(2007), Smets và Wouters (2007) để cải thiện độ phù hợp của mô hình và tạo điều
kiện thuận lợi cho việc mô phỏng phản sự thật được đề cập.
Mô hình DSGE cung cấp hai khả năng phân tích bổ sung chủ yếu để phân tích
kinh tế vĩ mô: (1) nó có khả năng giả định con người đưa ra quyết định bằng cách
sử dụng kỳ vọng hợp lý khi thông tin hạn chế về chính sách trong tương lai, và (2)
cho phép phân tích các quyết định tiêu dùng khác biệt giữa người có thu nhập thấp
24
và thu nhập cao, mà nó có thể cung cấp thông tin bổ sung quan trọng về các tác
động phân phối của chính sách thuế.
Mô hình này là một mô hình cân bằng động học ngẫu nhiên tổng quát với cơ
sở kinh tế vĩ mô, dựa trên khuôn khổ tăng trưởng tân cổ điển, bao gồm cả giả định
rằng tất cả các nguồn lực sẵn có được sử dụng đầy đủ trong từng thời kỳ. Không
có thất nghiệp, và số lượng đầu ra trong nền kinh tế được xác định theo quyết định
của người dân đối với việc họ sẵn sàng để làm việc, tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư
đáp ứng các chi phí sau thuế và lợi ích của các hoạt động này là nhiều như thế nào.
Thuật ngữ "động lực" có nghĩa là mô hình mô phỏng đường đi của nền kinh tế
trong một khoảng thời gian dài. Thuật ngữ "ngẫu nhiên" dùng để chỉ sự hiện diện
của sự không chắc chắn về các sáng kiến chính sách tài khóa trong tương lai, thực
hiện bằng cách cho phép các loại thuế liên bang khác nhau trong các thời kỳ trong
tương lai bởi một số lượng ngẫu nhiên. Các mô hình động lực bao gồm một giả
định về bao nhiêu người biết về con đường tương lai của nền kinh tế khi họ đang
làm cho công việc của họ và quyết định tiết kiệm trong hiện tại. Nhiều mô hình giả
sử con người thiển cận, hoặc không có thông tin về nền kinh tế sẽ như thế nào
trong thời gian tương lai. Một giả định mô hình điển hình là con người có tầm
nhìn xa hoàn hảo, hoặc thông tin đầy đủ về những gì các nền kinh tế sẽ như thế
nào trong tương lai. Mô hình DSGE giả định rằng trong mỗi năm mọi người biết
chính xác chính sách thuế cho các năm tiếp theo; trong thời gian tương lai, họ tin
rằng chính sách thuế có thể được liên tục, nhưng bị một số rối loạn ngẫu nhiên.
Mô hình bao gồm những biến đại diện cho hộ gia đình, nhà sản xuất và chính
phủ.
Có 3 dạng nhà sản xuất: nhà doanh nghiệp, nhà cung cấp vốn, và nhà bán lẻ.
Chính phủ chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
Phần trình bày cho dòng sản phẩm và dịch vụ thông qua những biến đại diện được
trình bày ở hình 6. Chúng tôi xem xét vai trò của từng biến đại diện và những
tương tác đó với phần còn lại của thế giới bên dưới
25