Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

đầu tư trực tiếp nước ngoài – con đường của starbucks.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.77 KB, 27 trang )

Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI – CON ĐƯỜNG CỦA STARBUCKS.
MỤC LỤC
I. Lời mở đầu.
II. Case study: Starbucks’ FDI.
III. Nội dung:
1. Cơ sở lý thuyết
1.1 Định nghĩa.
1.2 Lý do chọn FDI.
1.3 Tác động của FDI.
1.4 Các lý thuyết FDI.
1.4.1 Học thuyết vĩ mô.
1.4.2 Học thuyết vi mô
2. Tóm tắt Case study.
3. Giới thiệu Starbucks.
4. Câu hỏi 1
5. Câu hỏi 2
6. Câu hỏi 3
7. Câu hỏi 4
8. Nhận xét của nhóm.
IV. Kết luận.
V. Tài liệu tham khảo.
VI. Phụ lục.
I. Lời mở đầu.
Nhóm 4 Page 1
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
Xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai
đoạn của sự phát triển là một hình thái kinh tế - xã hội, đó là quy luật vận động khách
quan của lịch sử xã hội. Và hiện tại, chúng ta đang sống trong một thế giới đang “ngày
càng phẳng”, ở đó, người với người mua bán với nhau không còn bó hẹp trong phạm vi
một tỉnh, thành phố hay một quốc gia nữa, mà cơ hội mở rộng ra cho tất cả cá nhân ở


khắp mọi nơi trên trái đất này. Đi cùng với đó, khái niệm kinh doanh quốc tế đang ngày
càng trở nên phổ biến và việc tìm hiểu nó cũng trở nên bức thiết hơn. Trong kinh doanh
quốc tế thì thương mại và đầu tư là hai khía cạnh then chốt nhất, trong đó, đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) đang ngày càng phát triển. Có thể nói, một quốc gia muốn trở nên giàu
có hơn phải theo đuổi FDI ở những khu vực có tiềm năng kinh tế phát triển. Vậy FDI rốt
cuộc là gì, vì sao lại là FDI mà không là những hình thức đầu tư khác như xuất khẩu…?
Lợi ích có được từ hoạt động gia tăng đầu tư FDI? Và liệu nó có tiềm ẩn những rủi ro nào
hay không? Thông qua hình ảnh cụ thể của một trong những thương hiệu đã thành công
và nổi tiếng nhất của thế giới là Starbucks, cách thức mà họ đã đem thương hiệu của
mình đến 31 quốc gia khác nhau trên toàn thế giới, với hơn 8400 cửa hàng chỉ từ một cửa
hàng nhỏ duy nhất ở thị trường Pike Place của Seatle - Mỹ sẽ phần nào giúp chúng ta giải
quyết được những thắc mắc về FDI trên.
Trên cơ sở môn học và sự hướng dẫn của giảng viên, nhóm đã tìm hiểu về điển
cứu đầu tư ra nước ngoài của Starbucks, cùng phân tích và suy xét những chiến lược
Starbucks đã chọn, nhóm đã đưa ra được những ý kiến riêng của mình. Mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của thầy và các bạn.
Chân thành cảm ơn.
Nhóm 4 Page 2
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
II. Bài dịch case study: Starbucks’ FDI.
STARBUCKS’ FDI
Ba mươi năm trước, Star-bucks là một cửa hàng duy nhất ở Seatle’s Pike Place
Market bán cà phê rang xay cao cấp. Ngày nay, nó là một nhà cung cấpvà nhà bán lẻ cà
phê toàn cầu với hơn 8.400 cửa hàng, hơn 2000 trong số đó nằm tại 31 quốc gia khác.
Tổng công ty Starbucks đã đưa ra hướng phát triển hiện tại của nó vào những năm
1980 khi giám đốc tiếp thị của công ty, Howard Schultz, trở về từ một chuyến đi đến Ý
và ông đã cảm thấy rất thích thú với cách thưởng thức cà phê của người Ý.
Schultz, người sau này trở thành Giám đốc điều hành, đã thuyết phục những người chủ
công ty thử nghiệm với mô hình quán cà phê – và “Starbucks experience” ra đời. Chiến
lược cơ bản là bán cà phê rang xay cao cấp của công ty, cùng với đồ uống tươi được pha

chế theo phong cách espresso, nhiều loại bánh ngọt, phụ kiện cà phê, trà và các sản
phẩm khác, quán cà phê được thiết kế trang nhã. Công ty cũng nhấn mạnh cung cấp dịch
vụ khách hàng tốt hơn. Lý luận rằng các nhân viên có động cơ cung cấp
các dịch vụ khách hàng tốt nhất, ban giám đốc điều hành Starbucks đã dành rất nhiều sự
chú trọng đến tuyển dụng nhân viên và các chương trình đào tạo và hoàn thiện chính
sách trợ cấp cho ngay cả nhân viên làm việc bán thời gian được tùy chọn trợ cấp chứng
khoán và lợi ích y tế. Phương thức kinh doanh này đã mang lại những thành công ngoạn
mục ở Mỹ, Starbucks từ một nhãn hiệu không tên tuổi trở thành một trong những nhãn
hiệu nổi tiếng khắp cả nước trong vòng một thập kỷ.
Trong năm 1995, với gần 700 cửa hàng trên khắp nước Mỹ, Starbucks đã
bắt đầu tìm kiếm cơ hội ở nước ngoài. Thị trường mục tiêu đầu tiên của nó là Nhật Bản.
Mặc dù Starbucks đã áp dụng một chiến lược nhượng quyền thương mại ở Bắc
Mỹ, nơi các cửa hàng của nó trực thuộc quyền sở hữu của công ty, Starbucks ban đầu
đã quyết định nhượng quyền ở Nhật. Tuy nhiên, công ty nhận ra rằng một thỏa thuận
nhượng quyền thuần túy sẽ không đem đến cho Starbucks có sự kiểm soát cần thiết để
đảm bảo rằng những người Nhật được nhượng quyền sẽ tuân thủ chặt chẽ theo công
thức thành công của Starbucks. Vì vậy, công ty đã thiết lập một dự án liên doanh với một
Nhóm 4 Page 3
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
nhà bán lẻ địa phương, Sazaby Inc. Mỗi công ty đã góp vốn 50% cổ phần liên
doanh, Starbucks Coffee tại Nhật Bản. Starbucks ban đầu đã đầu tư 10 triệu đô
la trong vụ liên doanh này, sự đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tiên của công ty.
Sau đó, định hướng của Starbucks là được nhượng quyền liên doanh, chịu trách
nhiệm với việc giao trách nhiệm cho việc phát triển sự hiện diện của Starbucks tại Nhật
Bản.
Để đảm bảo các công ty phía Nhật tái hiện đúng với “phong cách Starbucks” ở Bắc
Mỹ, Starbucks đã cử một số nhân viên của mình đến các tổ chức này. Việc chấp thuận
cho nhượng quyền đòi hòi toàn thể quản lý và nhân viên người Nhật phải tham gia các
lớp huấn luyện tương tự như nhân viên người Mỹ. Đồng thời việc chấp thuận này cũng
đòi hỏi các của hàng ở Nhật phải tuân theo cách thiết kế bày trí giống với các của hàng ở

Mỹ đến từng chi tiết. Vào năm 2001, công ty đã giới thiệu một kế hoạch quyền chọn cổ
phiếu dành cho tất cả nhân viên là người Nhật, điều đó khiến Starbucks trở thành công ty
đầu tiên ở Nhật làm việc này. Một số người hoài nghi về việc Starbucks sẽ lặp lại thành
công như ở thị trường Bắc Mỹ, nhưng đến đầu năm 2005, Starbucks đã có 500 cửa hàng
tại Nhật và lên kế hoạch để tiếp tục mở rộng hơn nữa.
Ngay sau khi vừa chân ướt chân ráo đến Nhật Bản, công ty đã tiến hành một kế
hoạch mới trong một chương trình đầu tư bành trướng ra thị trường nước ngoài. Năm
1998, nó mua lại hãng Seattle Coffee, chuỗi 60 cửa hàng bán lẻ với giá 84 triệu đô la Mỹ.
An American couple, originally from Seatle Coffee with intention of establishing a
Starbucks like chain in Bristain. Cuối những năm 1990, Starbucks đã mở thêm nhiều cửa
hàng tại Đài Loan, Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Newzealand, Nam Triều Tiên và
Malaysia.
Ở châu Á, chiến lược phổ biến nhất của Starbucks là nhượng quyền thương hiệu để
nhận phí nhượng quyền và lợi nhuận được chia từ các cửa hàng nhượng quyền. Nó cũng
bán cà phê và các sản phẩm có liên quan cho các đối tác nhượng quyền, để sau đó, các
đối tác này sẽ bán lại cho khách hàng. Ví dụ như ở Nhật Bản, Starbucks nhất mực yêu
Nhóm 4 Page 4
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
cầu việc bày trí của hàng và huấn luyện nhân viên phải thống nhất như ở Mỹ. Starbucks
trở nên kém thích thú với một số vụ ký kết nhượng quyền và chuyển đổi nó thành các
khoản đầu tử chung hoặc mua lại toàn bộ các công ty yếu thế. Như ở Thái Lan, Starbucks
ban đầu tiến hành nhượng quyền thương hiệu cho Coffee Partners, một công ty của Thái.
Trong điều khoản nhượng quyền, Coffee Partners yêu cầu được mở ít nhất 20 cửa hàng
Starbucks tại Thái Lan trong 5 năm. Tuy nhiên, Coffee Partners sớm nhận ra rằng nó
không thể vay vốn từ ngân hàng Thái để tài trợ cho việc mở rộng này. Tháng 7/2000,
Starbucks có được Coffee Partners với giá 12 triệu đô la Mỹ. Mục đích của nó là có được
sự kiểm soát chặt chẽ hơn trong chiếc lược mở rộng tại Thái Lan. Một việc tương tự cũng
xảy ra tại Nam Triều Tiên. Starbucks chính thức nhượng quyền cho ESCO. Vào năm
1999, mặc dù ESCo đã mở được 10 của hàng rất thành công nhưng Starbucks cảm thấy
ESCO không thể đạt được mức mục tiêu tăng trưởng của mình. Tháng 12/2000,

Starbucks đã chuyển đổi hợp đồng nhượng quyền thành khoản đầu tư chung với
Shinsegae, công ty mẹ của ESCO. Việc đầu tư chung giúp cho Starbucks có thể thực tập
kiểm soát tốt hơn các chiến lược tăng trưởng tại Nam Triều Tiên và thu lợi cho tổ chức từ
việc nhận được nhiều lợi ích từ đối tác nội địa mang lại. Tính đến tháng 10 năm 2000,
Starbucks đã đầu tư khoản 52 triệu USD vào các khoản đầu tư chung nước ngoài.
Cuối năm 2002, Starbucks đã có hơn 1200 cửa hàng mở tại 27 quốc gia từ Bắc Mỹ
và nhanh chóng mở rộng đến trung tâm châu Âu. Starbucks có kế hoạch hướng tới 6
nước châu Âu, bao gồm cả văn hóa cà phê Pháp và Ý. Cũng giống như lần đầu đến châu
Âu ( Starbucks đã có 150 của hàng tại Vương Quốc Anh), Starbucks chọn Thụy Sĩ là mục
tiêu tiếp theo. Dựa vào kinh nghiệm tại châu Á, công ty thực hiện đầu tư chung với một
công ty Thụy Sĩ, tập đoàn Bon Appetit, công ty dịch vụ thực phẩm lớn nhất Thụy Sĩ.
Trong đó, Bon Appetit góp phần lớn vốn còn Starbucks sẽ chịu trách nhiệm nhượng
quyền thương hiệu cho Bon Appetit như cách mà họ đã thành công ở châu Á. Tiếp sau
đó, Starbucks đầu tư chung với KarstadtQuelle, một trong những nhà bán lẻ lớn nhất của
Đức. Trong thương vụ này, Starbucks góp 18% vốn còn Karstadt góp phần còn lại. Đầu
năm 2005, với hơn 2000 cửa hàng trên khắp thế giới, Starbucks thông báo rằng công ty
Nhóm 4 Page 5
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
này tin tưởng có một tiềm năng lớn để nâng số của hàng hiện tại lên con số 15000 nằm
bên ngoài nước Mỹ.
Câu hỏi:
1.Ban đầu Starbucks thực hiện việc mở rộng hoạt động ra phạm vi quốc tế bằng
cách nhượng quyền thương hiệu cho các tổ chức nước ngoài. Starbucks sớm cảm thấy
không hứng thú với chiến lược này. Tại sao?
2. Tại sao bạn nghĩ rằng Starbucks chọn việc mở rộng ra phạm vi quốc tế chủ yếu
bằng cách đầu tư chung với những tổ chức nhận nhượng quyền của nó, như đi ngược lại
chiến lược nhượng quyền đơn thuần?
3.Việc đầu tư chung có những thuận lợi nào hơn so với việc gia nhập thị trường
bằng cách mua lại toàn bộ công ty yếu vốn? Có lần Starbucks chọn mua lại toàn bộ công
ty để kiểm soát việc mở rộng ra nước ngoài (Ví dụ như trường hợp Coffee Partners của

Thái Lan). Tại sao?
4.Lý thuyết đầu tư quốc tế (FDI) nào giải thích tốt nhất cho chiến lược bành trướng
ra quốc tế được thực hiện bởi Starbucks?
III. Nội dung:
1. Cơ sở lý thuyết.
1.1 Định nghĩa
Nhóm 4 Page 6
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là việc một công ty đầu tư trực tiếp tại các cơ sở mới
để sản xuất, và /hoặc có thị trường ở nước ngoài. Công ty trở thành một doanh nghiệp đa
quốc gia (MNE).
FDI là một khoản đầu tư đòi hỏi một mối quan tâm lâu dài và phản lợi ích dài hạn và
quyền kiểm soát của một chủ thể cư trú ở một nền kinh tế (được gọi là chủ đầu tư rực tiếp
nước ngoài hoặc doanh nghiệp mẹ) trong một doanh nghiệp cư trú ở một nền kinh tế khác
nền kinh tế của chủ đầu tư nước ngoài (được gọi là doanh nghiệp FDI hay doanh nghiệp
chi nhánh hay chi nhánh nước ngoài)
Hai hình thức chủ yếu là Greenfield Investment (GI) và Cross-border Merger and
Acquisition (M&A), ngoài ra còn có hình thức Brownfield Investment.
• Đầu tư mới (Greenfield Investment): là hoạt động đầu tư trực tiếp vào các cơ sở
sản xuất kinh doanh hoàn toàn mới ở nước ngoài, hoặc mở rộng một cơ sở sản
xuất kinh doanh đã tồn tại. Với loại hình này, chúng ta phải bỏ nhiều tiền để đầu
tư, nghiên cứu thị trường, chi phí liên hệ cơ quan nhà nước và có nhiều rủi ro.
• Mua lại và sáp nhập qua biên giới (M&A: Cross-border Merger and Acquisition):
Mua lại và sáp nhập qua biên giới là một hình thức FDI liên quan đến việc mua lại
hoặc hợp nhất với một doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động. Với hình thức
này, có thể tận dụng lợi thế của đối tác ở nơi nhận đầu tư tiết kiệm thời gian, giảm
thiểu rủi ro.
• Luồng vốn FDI (FDI outflows) chảy ra là dòng vốn đi ra khỏi một quốc gia trong
khi vốn FDI chảy vào (FDI inflows) là dòng vốn đi vào một quốc gia.
• Chứng khoáng FDI đề cập đến giá trị tổng tài sản tích lũy vốn thuộc sở hữu nước

ngoài tại một thời gian nhất định.
Nhóm 4 Page 7
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
1.2 Lý do chọn FDI
Xuất khẩu – Hàng hóa sản xuất tại nước sở tại và sau đó vận chuyển đến các nước tiếp
nhận để bán. Tuy nhiên xuất khẩu có hạn chế:
• Thứ nhất, tính khả thi của chiến lược xuất khẩu có thể bị giới hạn bởi chi phí vận
chuyển và các rào cản thương mại.
• Hai là, bằng cách hạn chế nhập khẩu thông qua hạn ngạch, chính phủ tăng sự hấp
dẫn của FDI và giấy cấp phép.
• Ba là, FDI có thể là một phản ứng đối với rào cản thương mại thực tế hoặc đe dọa
như thuế nhập khẩu hay hạn ngạch.
Nhượng quyền – cho phép một tổ chức nước ngoài sản xuất và bán sản phẩm của công
ty để đổi lấy một khoản phí bán quyền.
Lý thuyết quốc tế hóa ( lý thuyết thị trường không hoàn hảo) tìm cách giải thích tại sao
các doanh nghiệp FDI không nhượng quyền bằng cách gợi ý ba hạn chế lớn của nhượng
quyền.
• Thứ nhất là công ty có thể mất sự nhận biết công nghệ giá trị - cách trở thành một
đối thủ cạnh tranh nước ngoài tiềm năng.
• Thứ hai là không cho một công ty quyền kiểm soát sản xuất, tiếp thị, và chiến
lược ở nước ngoài.
• Thứ ba là lợi thế cạnh tranh của công ty có thể dựa trên quản lý, tiếp thị, và khả
năng sản xuất.
Mô hình FDI
Tại sao các công ty trong cùng ngành thực hiện FDI cùng thời điểm và cùng địa điểm?
• Lý thuyết hành vi chiến lược của Knickerbocker- dòng vốn FDI là sự phản ánh
của sự cạnh tranh chiến lược giữa các công ty trong thị trường toàn cầu.
• Đa cạnh tranh – khi hai hoặc nhiều doanh nghiệp gặp nhau trong các thị trường
khu vực, các thị trường quốc gia, hoặc các ngành công nghiệp khác nhau.
Nhóm 4 Page 8

Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
• Raymond Vernon- công ty cam kết FDI ở các giai đoạn cụ thể trong vòng đời của
một sản phẩm
Tại sao thực hiện FDI mang lại lợi ích cho các công ty?
• Bởi vì, theo mô hình chiết trung của Duning (OLI), FDI được thực hiện khi các
công ty tận dụng quyền sở hữu, quốc tế hóa, và lợi thế định vị; mô hình Oli biệt
xem xét.
• Lợi thế vị trí cụ thể - xuất phát từ việc sử dụng nguồn lực tài nguyên, tài sản được
gắn với một địa điểm cụ thể và một công ty tìm thấy có giá trị để kết hợp với tài
sản riêng đặc thù của mình.
• Đồng thời, các ảnh hưởng bên ngoài – nhân thức lan truyền xảy ra khi các công ty
trong cùng ngành xác định vị trí trong cùng khu vực.
1.3 Tác động của FDI
Bốn lợi ích chính của FDI đối với nước thu hút đầu tư:
• Ảnh hưởng đến chuyển giao tài nguyên: FDI mang đến vốn, công nghệ, và các
nguồn lực quản lý cho nước thu hút FDI, đặc biệt là đối với các nước đang phát
triển cần nhiều nguồn vốn từ bên ngoài, cộng với công nghệ lạc hậu trong nước và
chưa phát triển các nguồn lực quản lý.
• Ảnh hưởng đến việc làm: rõ ràng FDI có thể mang lại cơ hội việc làm nhiều hơn
cho nước tiếp nhận FDI khi nhà xưởng được xây dựng và nhu cầu về nhân công
tăng lên.
• Ảnh hưởng đến cán cân thanh toán: FDI có thể giúp một quốc gia có thể đạt được
thặng dư tài khoản vãng lai, bởi lợi thế về xuất khẩu của khu vực FDI có thể đem
lại nguồn thu về ngoại tệ gia tăng cho quốc gia sở tại.
• Ảnh hưởng về cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế: đầu tư mới giúp tăng mức độ
cạnh tranh, giảm giá và nâng cao phúc lợi của người tiêu dùng, có thể dẫn đến
tăng năng suất, tăng trưởng và đối mới quy trình, và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
hơn.
FDI có ba chi phí chính đối với nước thu hút FDI
Nhóm 4 Page 9

Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
• Ảnh hưởng đối nghịch của FDI về cạnh tranh: công ty con của MNEs nước ngoài
có thể có quyền lực kinh tế lớn hơn các đối thủ bản địa. Điều này làm cho các
công ty nội địa có thể gặp khó khăn trong việc cạnh tranh ngay tại thị trường nội
địa của mình.
• Ảnh hưởng đối nghịch trên cán cân thanh toán: khi một công ty con nước ngoài
nhập khẩu đầu vào của nó từ nước khác, sẽ ghi nợ vào tài khoản vãng lai của nước
chủ nhà. Điều này có thể dẫn đến nhập siêu cao hơn và làm cho cán cân thương
mại của nước chủ nhà xấu đi.
• Nhận thức mất chủ quyền quốc gia/ sự tự chủ: quyết định có ảnh hưởng đến nước
chủ nhà sẽ được thực hiện bởi một công ty mẹ ở nước ngoài, mà chính phủ chủ
nhà không có quyền kiểm soát thực sự.
Lợi ích đối với nước đi đầu tư như sau:
• Một là ảnh hưởng đến tài khoản vốn của cán cân thanh toán của nước sở tại từ các
dòng thu nhập của nước ngoài chảy vào.
• Hai là, ảnh hưởng cơ hội việc làm tăng lên từ dòng FDI chảy ra người dân có thể
tận dụng cơ hội đầu tư ra nước ngoài và tìm kiếm cơ hội phát triển công việc từ
bên ngoài.
• Ba là, những lợi ích từ việc học hỏi các kỹ năng có giá trị từ các thị trường nước
ngoài mà sau đó có thể được chuyển về nước chủ nhà.
Chi phí FDI đối với các nước chủ đầu tư:
• Một là, cán cân thanh toán của nước chủ đầu tư có thể có thể bị thâm hụt bởi: từ
các dòng vốn chảy ra ban đầu; hoặc nếu mục đích của FDI là phục vụ thị trường
nội địa từ một vị trí lao động chi phí thấp; nếu FDI thay thế cho xuất khẩu trực
tiếp.
• Hai là, việc làm cũng có thể bị ảnh hưởng nếu FDI là một thay thế cho sản xuất
trong nước, làm giảm cơ hội việc làm cho người dân trong nước.
Nhóm 4 Page 10
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
Tuy nhiên, nước sở tại lo ngại về những tác động kinh tế tiêu cực của việc sản xuất ra

nước ngoài ( nghĩa là FDI thực hiện để phục vụ thị trường trong nước) có thể không
có giá trị.
1.4 Các lý thuyết về FDI:
1.4.1 Học thuyết vĩ mô_ Lý thuyết về lợi ích của FDI của Mac Dougall:
Mac Dougall giả thuyết rằng:
- Có hai quốc gia, một nước phát triển và một nước đang phát triển.
- Chỉ có hoạt động đầu tư của hai quốc gia trên, không có sự tham gia của nước thứ ba.
- Sản lượng cận biên của hoạt động đầu tư giảm dần khi vốn tăng dần.
Nước phát triển có sản lượng cận biên thấp (thừa vốn) sẽ đầu tư sang nước đang phát
triển có sản lượng cận biên cao (thiếu vốn). Việc đầu tư trực tiếp này đã mang lại lợi
nhuận cho cả hai nước do sử dụng vốn có hiệu quả.
Ưu điểm: mô hình đơn giản, tăng năng suất cận biên của vốn.
Nhược điểm: mô hình không đề cập đến các nhân tố khác ngoài vốn (sự bành trướng,
sự can thiệp của chính phủ,…), chưa đề cập đến hết nguồn gốc của FDI, FDI mới chỉ có 1
chiều => Chưa giải thích được tính lưỡng cực của FDI.
Lý thuyết vĩ mô đứng trên góc độ quốc gia để xem xét lý thuyết FDI.
1.4.2.1 Các học thuyết vi mô: đứng trên góc độ doanh nghiệp.
Học thuyết về lợi thế độc quyền (Stephen Hymer – Mỹ).
Khi tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài các doanh nghiệp có thể gặp những bất
lợi so với các doanh nghiệp bản địa: mức chi phí tăng cao do khoảng cách địa lí đã làm
tăng chi phí vận chuyển các nguồn lực, chi phí thông tin, thiết lập mối quan hệ khách
hàng mới, xây dựng hệ thống cung cấp mới…; doanh nghiệp thiếu hiểu biết về môi
trường của nước nhận đầu tư như: pháp luật, văn hóa và xã hội, tình hình chính trị, hệ
thống pháp lí…
Tuy nhiên khi doanh nghiệp có những lợi thế độc quyền như công nghệ (Tech
Innovation), nhãn hiệu…thì vẫn nên tiến hành FDI vì sẽ giảm được chi phí kinh doanh và
tăng doanh thu so với các công ty bản địa.
Học thuyết nội bộ hóa (Internalization)
Nhóm 4 Page 11
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo

FDI tăng khi giao dịch bên trong công ty tốt hơn giao dịch bên ngoài công ty áp dụng
trên thị trường không hoàn hảo: không hoàn hảo tự nhiên (khoảng cách giữa các quốc
gia), không hoàn hảo mang tính cơ cấu (rào cản thương mại như tiêu chuẩn về sản phẩm,
môi trường, công nghệ …).
Việc nội bộ hóa chỉ được tiến hành khi lợi ích của nội bộ hóa lớn hơn chi phí thành
lập công ty mẹ - con.
Lợi ích của việc nội bộ hóa là tránh được độ trễ về thời gian, việc mặc cả khi mua bán
và tình trạng thiếu thốn người mua.
Tuy nhiên lí thuyết nội bộ hóa vẫn chưa giải thích rõ ràng lợi ích của nội bộ hóa là gì,
còn chung chung, không có bằng chứng cụ thể và khó kiểm chứng.
Lý thuyết về vòng đời quốc tế của sản phẩm (của Raymond Vernon).
Lý thuyết này phát triển 1 cách có hệ thống từ năm 1966, xem đầu tư quốc tế là một
giai đoạn tự nhiên trong vòng đời sản phẩm. Hai căn cứ phát triển lí thuyết này: Mỗi sản
phẩm có một vòng đời, từ khi xuất hiện cho tới khi bị đào thải; Vòng đời này dài hay
ngắn tùy thuộc vào từng sảm phẩm. Theo thuyết này, ban đầu các sản phẩm mới được sản
xuất, tiêu thụ tại thị trường của nước phát minh ra nó và xuất khẩu đi các nước khác. Khi
sản phẩm mới được chấp nhận rộng rãi trên thị trường thế giới thì sản xuất bắt đầu được
tiến hành ở các nước khác. Cuối cùng, sản phẩm đó rất có thể được xuất khẩu ngược trở
lại nước phát minh ra nó.
Ưu điểm: đưa vào được nhiều yếu tố cho phép lý giải sự thay đổi theo ngành hoặc
việc dịch chuyển dần các hoạt động công nghiệp của nước tiên phong về công nghệ đến
các nước bắt chước nó.
Nhược điểm: tác giả chỉ xem xét duy nhất trường hợp thay đổi về công nghệ diễn ra
đồng thời với đặc điểm sản phẩm và qui trình sản xuất. Giả thuyết của lí thuyết căn cứ
trên tình hình thực tế đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Mỹ thời điểm 1950 – 1960. Chưa
lý giải được tính lưỡng cực của FDI.
Lý thuyết chiết trung - Electic (John Dunning – ĐH Needs Anh ).
Học thuyết này kế thừa tất cả các ưu điểm của các học thuyết khác về FDI. Một công
ty có lợi thế tiến hành FDI khi có OLI (Ownership Advantages, Location Advantage,
Internalization Incentives).

Nhóm 4 Page 12
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
Mô hình đề xuất rằng có 3 điều kiện cần thiết để một doanh ngiệp có động cơ tiến
hành FDI. Cách tiếp cận này được biết đến với tên mô hình “OLI”: lợi thế về sở hữu, lợi
thế về địa điểm, lợi thế về nội bộ hóa.
- Lợi thế về sở hữu của doanh nghiệp có thể là sản phẩm hoặc qui trình sản xuất mà có ưu
thế hơn hẳn các doanh nghiệp khác hoặc các doanh nghiệp khác không thể tiếp cận. Ví dụ
như bằng sáng chế hoặc kế hoặc kế hoạch hành động.
Đó cũng có thể là một tài sản vô hình hoặc các khả năng đặc biệt như công nghệ và
thông tin, kỹ năng quản lý, marketing, hệ thống tổ chức và khả năng tiếp cận thị trường
hàng tiêu dùng cuối cùng hoặc các hàng hóa trung gian hoặc nguiồn nguyên liệu thô hoặc
khả năng tiếp cận nguồn vốn với chi phí thấp. Lợi thế về quyền sở hữu đem lại quyền lực
nhất định trên thị trường hoặc lợi thế về chi phí đủ để doanh nghiệp bù lại những bất lợi
về kinh doanh ở nước ngoài. Mặc dù các lợi thế về quyền sở hữu mang đặc trưng riêng
của mỗi doanh nghiệp, chúng có liên hệ mật thiết đến các năng lực về công nghiệp và
sáng tạo và đến trình độ phát triển kinh tế của nước chủ đầu tư.
- Lợi thế địa điểm: thị trường nước ngoài phải có lợi thế địa điểm giúp các doanh nghiệp
có lợi thế khi tiến hành sản xuất ở nước ngoài thay vì sản xuất ở nước mình rồi xuất khẩu
sang thị trường nước ngoài. Các lợi thế về địa điểm bao gồm: nguồn lực, kinh tế, xã hội
như dung lượng và cơ cấu thị trường, khả năng tăng trưởng của các thị trường và trình độ
phát triển, môi trường văn hóa, pháp luật, chính trị và thể chế, và các quy định về chính
sách của chính phủ.
- Lợi thế nội bộ hóa: cuối cùng các công ty đa quốc gia (MNE ) phải có lợi thế nội bộ hóa.
Nếu một doanh nghiệp sở hữu một sản phẩm hoặc một quy trình sản xuất và nếu sản xuất
sản phẩm ở nước ngoài có lợi hơn xuất khẩu hay cho thuê thì cũng chưa chắc doanh
nghiệp đã xây dựng một chi nhánh ở nước ngoài. Một trong những cách lựa chọn khác là
license cho một doanh nghiệp nước ngoài để họ sản xuất sản phẩm hoặc sử dụng quy
trình sản xuất. Tuy nhiên do khó có thể tiến hành trao đổi các tài sản vô hình này trên thị
trường, sản phẩm hoặc quy trình sản xuất sẽ được khai thác nội bộ hơn là đem trao đổi
trên thị trường. Đây chính là một lợi thế của nội bộ hóa.

Cách lí giải của mô hình OLI rất dễ hiểu, tại bất cứ thời điểm nào các doanh nghiệp của
một nước so với các doanh nghiệp của nước ngoài, càng nắm giữa nhiều các lợi thế về
Nhóm 4 Page 13
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
quyền sở hữu thì họ càng có động cơ mạnh để sử dụng chúng trong nội bộ hơn là phổ
biến ra bên ngoài. Những thay đổi về vị trí của dòng FDI vào hoặc ra của một nước có
thể được giải thích bởi những thay đổi về lợi thế địa điểm so với các nước khác và những
thay đổi trong chuẩn mực mà doanh nghiệp thấy các tài sản này nếu được sử dụng trong
nội bộ sẽ tốt hơn so với khi đem bán trên thị trường (Dunning 1993 ).
 Đến ngày nay mô hình OLI của Dunning có thể coi là cách lí giải đầy đủ và
nhiều tham tham vọng nhất về FDI.

2. Tóm tắt Case study.
3. Giới thiệu công ty.
Starbucks.
Starbucks là công ty cà phê quốc tế nổi tiếng, với chuỗi cửa hàng cà phê lớn nhất thế
giới – 17.003 cửa hàng trên 55 quốc gia (số liệu thống kê ngày 2/10/2011).
Trụ sở chính được đặt ở Seatle,Washington, Mỹ.
Sứ mệnh của công ty: “Nhiệm vụ của chúng tôi là truyền cảm hứng và nuôi dưỡng
tinh thần cho con người - một người, một tách cà phê và một người kề cận tại ở bất cứ
thời điểm nào.”
Ý nghĩa logo của Starbucks: được lấy cảm hứng từ biển, là hình ảnh của Melusine –
nàng tiên cá 2 đuôi, một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp có sức quyến rũ đặc biệt, và
mang những nét tương đồng với hương vị hấp dẫn mà cà phê, nước uống…của Starbucks
sẽ mang lại.
Nhóm 4 Page 14
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo

Lịch sử hình thành:
Cửa hàng Starbucks đầu tiên được mở ở chợ Pike Place, Seatle,Washington vào ngày

30/3/1971 bởi 3 đối tác là Jerry Balwin (một giáo viên dạy tiếng Anh), Zev Siegl (một
giáo viên dạy lịch sử) và Gordon Bowker (một nhà văn). Lúc này, Starbucks chủ yếu bán
hạt cà phê chất lượng cao và các loại thiết bị xay cà phê. Trong những năm đầu hoạt
động, Starbucks mua hạt và phê xanh từ Peet’s, sau đó bắt đầu mua trực tiếp từ người
trồng.
Năm 1982, Howard Schultz gia nhập Starbucks, và trở thành Giám đốc hoạt động bán
lẻ và tiếp thị. Sau một chuyến đi đến Milan, Ý, ông đã định hướng đã đưa ra ý tưởng rằng
công ty nên bán cà phê và thức uống cà phê với mô hình các quán và phê, và “Starbucks
experience” ra đời. Về sau Howard Schultz đã trở thành Giám đốc điều hành của
Starbucks.
Chiến lược cơ bản của Starbucks là bán cà phê rang xay cao cấp, cùng với đồ uống
tươi được pha chế theo phong cách espresso, nhiều loại bánh ngọt, trà và các sản phẩm
khác, quán cà phê được thiết kế trang nhã. Starbucks cũng nhấn mạnh đến việc cung cấp
dịch vụ khách hàng tốt nhất. Starbucks cũng chú trọng rất nhiều đến việc tuyển dụng
nhân viên cũng như các chương trình đào tạo và hoàn thiện chính sách trợ cấp cho nhân
viên – ngay cả đối với nhân viên làm việc bán thời gian, họ đều được tùy chọn trợ cấp
chứng khoán và lợi ích y tế. Starbucks cũng đã công khai hóa những chuẩn ứng xử kinh
doanh đối với tất cả nhân viên.
Nhóm 4 Page 15
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
Starbucks chính thức được đưa lên sàn chứng khoán và 26/6/1992, được niêm yết trên
NASDAQ, từ mức giá $17 mỗi cổ phiếu, hiện tại đã tăng lên xấp xỉ 226,8% bằng $55,56.
Khi bắt đầu mở rộng đầu tư ra thị trường quốc tế, chiến lược chủ yếu của Starbucks là
nhượng quyền thương hiệu (để nhận phí nhượng quyền và lợi nhuận được chia từ các cửa
hàng nhượng quyền), ngoài ra, Starbucks còn thực hiện đầu tư chung với các công ty đối
tác (như với Shinsegae vào 12/2000 ở Nam Triều Tiên, với tập đoàn Bon Appetit – công
ty thực phẩm dịch vụ lớn nhất Thụy Sĩ, với KarstedtQuelle - một trong những nhà bán lẻ
lớn nhất của Đức…), hoặc mua lại toàn bộ các công ty yếu vốn tại nước đầu tư (như
thương vụ mua lại Coffee Partner với giá 12 triệu đô la Mỹ của Thái Lan vào 7/2000).
Hiện tại, Starbucks Company đang sở hữu các nhãn hiệu: Starbucks Coffee, Seatle’s

best coffee, Torrefazione Italia Coffee, Tazo Tea, và Evolution Fresh.
Danh mục các sản phẩm của Starbucks cũng trở nên ngày càng đa dạng như:
- Cà phê: với hơn 30 loại cà phê.
- Các loại thức uống: như cà phê pha, cà phê nóng và đá, cà phê Frappuccino, đồ
uống pha trộn cà phê, sinh tố và các loại trà Tazo.
- Hàng hóa: các thiết bị sản xuất cà phê, trà; hàng hóa đóng gói, sách, quà tặng…
- Bánh ngọt, sandwiches, salads, yến mạch, yogurt…
- ….
Starbucks là một doanh nghiệp chú trọng nhiều đến hình ảnh thương hiệu, cũng như
các giá trị đạo đức trong kinh doanh, trong nội bộ doanh nghiệp, Starbucks rất quan tâm
đến đời sống của các nhân viên, luôn luôn đảm bảo các giá trị phúc lợi tối đa cho nhân
viên (như chế độ y tế, những nhân viên làm ít nhất 20h/tuần đều nhận được phúc lợi về y
tế…). Starbucks còn là một doanh nghiêp được biết đến với trách nhiệm xã hội rất cao,
trong năm 2011, khi hàng loạt các doanh nghiệp cắt giảm lao động thì Starbucks đã tuyển
dụng thêm 3.700 nhân viên, và dự định trong năm 2012 sẽ tạo ra việc làm cho 12.500
người khác trên khắp thế giới.
Starbucks đã trở thành một trong những thương hiệu cà phê nổi tiếng nhất trên thế
giới hiện tại, tất nhiên, Starbucks không chỉ được khách hàng công nhận, mà nó còn nhận
được sự công nhận trong giới kinh doanh, nhà nước thong qua một số giải thưởng như:
- “Cà phê tốt nhất” theo Khảo sát của chuỗi nhà hàng quốc gia của Zagat năm 2009-
2010.
- “Thức uống nhanh phổ biến nhất” theo khảo sát của chuỗi nhà hàng quốc gia của
Zagat năm 2009-2010.
Nhóm 4 Page 16
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
- Một trong những “Công ty đạo đức nhất thế giới” – Ethisphere năm 2007-2010.
- Một trong “Một trong những công ty quốc tế bền vững nhất thế giới” – Công ty
Knights năm 2010.
- Một trong những “Công ty đáng ngưỡng mộ nhất nước Mỹ”- Fortune năm 2003-
2010.

- ….
Doanh thu trong năm tài chính 2011 của Starbucks là 11,7 tỉ USD, tăng 1 tỷ USD so
với năm 2010 (10,7 tỷ USD trong năm 2010). Cũng trong năm 2011, số cửa hàng của
Starbucks trên khắp thế giới là trên 17.000 cửa hàng tại 55 quốc gia khác nhau, không
chịu dừng ở đó, Starbucks đang có kế hoạch mở rộng ra thêm 800 cửa hàng mới năm
2012.
4. Câu hỏi 1
Ban đầu Starbucks thực hiện việc mở rộng hoạt động ra phạm vi quốc tế bằng cách
nhượng quyền thương hiệu cho các tổ chức nước ngoài. Starbucks sớm cảm thấy không
hứng thú với chiến lược này. Tại sao?
Trả lời:
Trước hết, đó là do những khó khăn mà nhượng quyền thương mại tạo ra cho
Starbucks như là: những rào cản gia nhập ngành khi tấn công thị trường nước ngoài; sự
quản lý, kiểm soát trở nên khó khăn khi mở rộng mạng lưới; rủi ro về việc mất cấp bí
quyết trong kinh doanh hay rủi ro về sự cạnh tranh của các của hàng nhượng quyền…
Thứ hai là do khi tấn công sang thị trường Nhật vào năm 1995, khoảng thời gian mà
Starbucks bắt đầu chuyển hướng sang thị trường nước ngoài, đặc biệt là Châu Á như Thái
Lan, Trung Quốc, Singapore… thì họ nhận thấy rằng chiến lược góp vốn liên doanh hay
mua lại toàn bộ cty mang đến cho Starbuck nhiều cái lợi hơn là nhượng quyền. Việc góp
một số vốn nhất định vào một cty ở nước sở tại giúp Starbucks thâm nhập vào thị trường
nước đó dễ dàng hơn, không tốn nhiều chi phí và quan trọng là họ có quyền kiểm soát
được việc kinh doanh của cty, cũng như xây dựng được văn hóa mới theo ý mình cho cty
đó. Ngoài ra, việc nhượng quyền cũng chỉ là một bước trong việc mua lại những cửa
hàng nhượng quyền của Starbuck. Họ sẽ mua lại khi nhan thấy những của hàng này đang
Nhóm 4 Page 17
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
gặp khó khăn về tài chính, cũng như họ đã nhận thấy thời cơ tấn công thị trường đó đã tới
thì họ bỏ tiền ra đầu tư, mua lại như ở Thái Lan.
Vậy tại sao Starbucks lại chọn Nhật Bản là nơi bắt đầu để đưa thương hiệu của mình
ra nước ngoài? Có các lý do sau:

 Thị trường café Châu Âu lúc này đã có sự thống trị của các thương hiệu café nổi tiếng
của Ý, Pháp như Capuchino hay Espresso… Và người châu Âu mới là người phát hiện ra
vị đắng ngọt ngào của cà phê và phát triển thành cả một văn hóa cà phê lâu đời. Vì thế,
Starbucks sẽ khó mà cạnh tranh được ở thị trường này khi chỉ mới là thương hiệu mới
nổi, chưa tạo được sự chú ý đặc biệt nào từ người dân Châu Âu.
 Nhật Bản là nước có nền kinh tế phát triển nhất ở Châu Á bấy giờ nên người dân có thu
nhập cao và có nhu cầu giải trí,thư giản. Nhật lại có văn hóa uống trà đạo từ lâu đời. Nên
Starbucks có thể mang đến sự mới lạ trong văn hóa cho người Nhật đó là : “café thay cho
trà”. Và nếu Starbucks phát triển được ở thị trường này thì nó sẽ làm bàn đạp tốt để phát
triển ra các nước lân cận như Hàn Quốc, Trung Quốc… nhờ sự lan truyền, ảnh hưởng.
Bởi vjf Nhật Bản là nước phát triển nhất Châu Á lúc này nên khi thương hiệu Starbucks
đã thành công được ở Nhật thì nó sẽ dễ dàng gây được sự chú ý với các nước Châu Á
khác.
Như vậy, với những khó mà nhường quyền thương hiệu gây ra và những thành công
bước đầu ở Nhật đã làm cho những người đứng đầu Starbucks sớm cảm thấy không còn
hứng thú với chiến lược nhượng quyền thương hiệu mà chuyển sang chiến lược đầu tư
góp vốn và mua lại. Cũng nhờ thành công vang dội ở thị trường Châu Á làm bàn đạp để
Starbucks tiếp tục tán công thị trường Châu Âu như là Thụy Sỹ, Pháp, Ý…
5. Câu hỏi 2
Nhóm 4 Page 18
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
6. Câu hỏi 3
Việc đầu tư chung có những thuận lợi nào hơn so với việc gia nhập thị trường bằng cách
mua lại toàn bộ công ty yếu vốn? Có lần Starbucks chọn mua lại toàn bộ công ty để kiểm
soát việc mở rộng ra nước ngoài (Ví dụ như trường hợp Coffee Partners của Thái Lan).
Tại sao?
Trả lời:
Việc góp vốn đầu tư chung với công ty nước ngoài so với việc mua lại toàn bộ công
ty yếu vốn có những ưu thế là:
- Tận dụng được kinh nghiệm và sự am hiểu thị trường của công ty đó tại nước sở tại:

kinh doanh ở nước ngoài thì Starbucks dĩ nhiên là không có kinh nghiệm bằng “người
bản địa”, việc hợp tác với các công ty ở nước đó để đầu tư chung giúp Starbucks tranh
thủ được sự hiểu biết và kinh nghiệm tại thị trường nước đó của các công ty đối tác đầu
tư chung. Các công ty bản địa am hiểu về văn hóa, nhu cầu, thái độ tiêu dùng của khách
hàng và nhận biết khách hàng tiềm năng tốt hơn là công ty nước ngoài. Vì vậy, đầu tư
chung với các công ty bản địa sẻ giúp Starbucks dễ dàng thâm nhập và mở rộng thị
trường.
- Chia sẻ rủi ro kinh doanh với đối tác đầu tư chung: nếu mua lại hoàn toàn các công ty
yếu vốn thì Starbucks sẻ chịu hoàn toàn rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. Mà trong
kinh doanh nhất là việc đầu tư thị trường nước ngoài thì rủi ro sẻ càng cao. Còn việc đầu
tư chung thì các rủi ro này được chia sẻ với các đối tác đầu tư chung, việc kinh doanh nếu
gặp thua lỗ thì phần thiệt hại đó được chia sẻ với đối tác. Đặc biệt, Starbucks góp vốn chủ
yếu bằng quyền thương hiệu nên nếu có rủi ro xảy ra thì thiệt hại về tài chính là không
quá nặng nề.
- Việc góp vốn đầu tư chung giúp Starbucks trở thành đồng sở hữu của các cửa hàng cà
phê Starbucks mở tại quốc gia sở tại, gia tăng kiểm soát các chiến lược tăng trưởng tại
Nhóm 4 Page 19
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
quốc gia đó khi các đối tác không thể đạt được mức mục tiêu tăng trưởng của Starbucks.
Ví dụ như ở nam Triều Tiên mặc dù ESCO đã mở được 10 của hàng rất thành công
nhưng Starbucks cảm thấy ESCO không thể đạt được mức mục tiêu tăng trưởng của
mình. Tháng 12/2000, Starbucks đã chuyển đổi hợp đồng nhượng quyền thành khoản đầu
tư chung với Shinsegae, công ty mẹ của ESCO.Việc đầu tư chung giúp cho Starbucks có
thể thúc tập kiểm soát tố hơn các chiến lược tăng trưởng tại Nam Triều Tiên và thu lợi
cho tổ chức từ việc nhận được nhiều lợi ích từ đối tác nội địa mang lại
- Vốn đầu tư ít hơn: so với việc mua lại các công ty yếu vốn thì rõ ràng việc đầu tư chung
sẻ giúp Starbucks bỏ ra ít vốn hơn. Ví dụ như khi đầu tư chung với một công ty Thụy Sĩ,
tập đoàn Bon Appetit, công ty dịch vụ thực phẩm lớn nhất Thụy Sĩ thì Bon Appetit góp
phần lớn vốn còn Starbucks chỉ chịu trách nhiệm nhượng quyền thương hiệu cho Bon
Appetit. Hay khi Starbucks đầu tư chung với KarstadtQuelle, một trong những nhà bán lẻ

lớn nhất của Đức thì Starbucks góp 18% vốn còn Karstadt góp phần còn lại.
Có lần Starbucks chọn mua lại toàn bộ công ty để kiểm soát việc mở rộng ra nước
ngoài là vì: Starbucks hoặc muốn mua một đối thủ cạnh tranh, hoặc là không thể tìm
thấy một sự phù hợp với đối tác đầu tư chung nước sở tại, hoặc bởi vì Starbucks cần kiểm
soát thật chặt chiến lược tăng trưởng tại quốc gia này.
Trường hợp ở Anh, Starbucks không đầu tư chung mà thực hiện mua lại toàn bộ
Hãng cà phê Seattle là vì:
Seattle cà phê đã xây dựng thành công một chuỗi 60 cửa hàng ở Anh, biến nó trở
thành một ông lớn trong thị trường cà phê ở Anh và điều đó khiến Starbucks cảm thấy rất
thích thú nếu sở hữu một chuỗi cửa hàng thành công như vậy.
Hãng cà phê Seattle hành động như một người dẫn đầu thị trường, nó muốn ở Anh,
nó phải là người dẫn đầu thành công. Cho nên việc liên doanh với Cà phê Seattle tiềm ẩn
nhiều nguy cơ không bền vững, khi hết hạn liên doanh, có thể Cà phê Seattle đã đủ lớn để
trở thành một đối thủ cạnh tranh rất mạnh với Starbucks tại thị trường Anh.
Nhóm 4 Page 20
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
Starbucks muốn gia nhập thị trường Anh nhanh chóng và loại bỏ một đối thủ cạnh
tranh tiềm năng trong tương lai, cách tốt nhất là mua lại toàn bộ Cà phê Seattle và tận
dụng chuỗi cửa hàng của Cà phê Seatte để dể dàng “nhập cảnh”.
Trường hợp ở Thái Lan, Starbucks không đầu tư chung mà thực hiện mua lại toàn
bộ Coffee Partners là vì:
Thương vụ nhượng quyền tại Thái Lan của Starbucks cho Coffee Partners đã đạt
được những thỏa thuận mà cả hai bên đều đồng tình, song khi đó, Coffee Partners lại
không huy động đủ nguồn lực tài chính để đầu tư cho việc liên kết này. Điều này khiến
nó rơi vào thế bị động và các điều khoản về nhượng quyền của Starbucks sẽ phải thay đổi
nếu Coffee Partners nhận nguồn vốn hỗ trợ từ Starbucks.
Coffee Partners đã không muốn hình thành một công ty liên doanh: họ đầu tư
nhiều tiền, và bây giờ các hợp đồng đã được thương lượng lại hoàn toàn, vì vậy họ sợ sẽ
mất đi nhiều lợi nhuận của họ bằng cách bắt đầu điều hành hoạt động của mình theo một
chiến lược mới mà họ có thể hoàn toàn tán thành

Coffe Partners ngoài việc cảm thấy yếu thế khi đàm phán lại, còn cảm thấy e ngại
vì khi liên doanh cùng Starbucks, chiến lược kinh doanh sẽ thay đổi mà Coffee Partners
có thể sẽ không tán thành. Vốn dĩ, Coffee Partners muốn dùng hiểu biết của mình về thị
trường nội địa để phục vụ khách hàng theo cách mà họ tin là hiệu quả nhất thì nay phải
chia sẻ quyền lực với đối tác là Starbucks.
Coffee Partners cho rằng hình thành một liên doanh với một công ty khác không
phải là một lựa chọn tốt đối với họ vì nó tiêu tốn rất nhiều thời gian và nỗ lực. Do đó,
Starbucks đã mua Coffee Partners như là một cách nhanh nhất để thiết lập một vị trí thị
trường mạnh mẽ. Hơn nữa, việc mua lại này một lần nữa lại giúp loại bỏ một đối thủ cạnh
tranh khỏi thị trường vì trong quá trình thỏa thuận nhượng quyền, Coffee Partners đã có
được một số hiểu biết từ mô hình cấp giấy phép nhượng quyềncủa Starbuck, điều này
khiến cho Coffee Partners có khả năng trở thành một đối thủ tiềm năng của Starbucks
Nhóm 4 Page 21
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
trong tương lai khi nó đã mạnh hơn về tài chính, nó sẽ là mối đe dọa nếu chấm dứt việc
liên doanh mà vốn dĩ ban đầu nó không tán thành.
Về phía Starbucks, công ty cũng nhận thấy việc liên doanh với Coffee Partners
tiềm ẩn nhiều rủi ro không bền vững. Vì thực tế, nếu không vì thiếu vốn, Coffee Partners
sẽ không chịu lệ thuộc vào ai mà giống như Cà phê Seattle, họ muốn dẫn đầu thị trường.
Khi liên doanh với Coffee Partners, chắn chắn Starbucks sẽ phải chia sẻ nhiều hơn về
cách thức quản lý và điều hành công ty sao cho hiệu quả, vì nếu so với Cà phê Seattle thì
việc quản lý ở Coffee Partners vẫn còn rất yếu kém. Cách thức quản lý và điều hành cũng
như kiến thức về nhượng quyền thương hiệu của Starbucks sẽ có phần nào đó bị Coffee
Partners nắm bắt được, điều này khiến cho Coffee Partners càng có nguy cơ trở thành
mội đối thủ cạnh tranh đáng gờm với Starbucks tại Thái Lan trong tương lai khi thời hạn
liên doanh kết thúc.
7. Câu hỏi 4:
Lí thuyết đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giải thích tốt nhất cho chiến lược bành
trướng ra quốc tế được thực hiện bởi Starbucks:
Bối cảnh doanh nghiệp:

- Starbucks – một doanh nghiệp được thành lập cách đây 30 năm, bán cà
phê rang xay cao cấp.
- Starbucks thực hiện chiến lược cấp giấy phép ở Nhật, tuy nhiên không
cung cấp cho Starbucks sự kiểm soát cần thiết.
- Thành lập liên doanh với nhà bán lẻ Sazaby Inc định hướng cấp giấy
phép liên doanh.
- Nhượng quyền kinh doanh cho Nhật với các điều kiện:
+ huấn luyện nhân viên và quản lí cửa hàng người Nhật.
+ cửa hàng Nhật phải có cách bày trí giống y như cửa hàng ở Mỹ.
Nhóm 4 Page 22
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
- Starbucks tiến hành mua lại những cửa hàng bán lẻ khác và mở thêm
nhiều cửa hàng mới ở những quốc gia khác nữa.
- Ở Châu Á thì Starbucks thực hiện nhượng quyền thương hiệu, sau đó
chuyển thành khoản đầu tư chung hoặc mua lại toàn bộ các công ty yếu
vốn.
Lý do Starbucks đã làm như thế:
- Định vị thương hiệu Starbucks trên thị trường thế giới.
- Sự kiểm soát chặt chẽ công thức thành công của Starbucks.
- Nhằm duy trì phong cách Starbucks ở tất cả các tổ chức nhận đầu tư.
- Nhận phí nhượng quyền và lợi nhuận được chia từ các cửa hàng nhượng
quyền.
- Thúc đẩy việc kiểm soát tốt hơn các chiến lược tăng trưởng.
- Quyền kiểm soát và quản lí các cửa hàng nhượng quyền.
- Giảm thiểu tối đa thiệt hại khi gặp rủi ro.
Quá trình bành trướng ra nước ngoài:
- Nhật Bản là thị trường mục tiêu đầu tiên.
- Châu Á: Đài Loan, Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Newzealand, Nam
Triều Tiên, Malaysia.
- Trung tâm Châu Âu: Pháp, Ý, Vương Quốc Anh, Thụy Sĩ, Đức…

 Phong cách Espresso.
Tóm lại, Starbucks đã định vị thương hiệu thành công ngoạn mục trên thị trường
nước Mỹ với hơn 700 cửa hàng (1995). Sản phẩm đã có mặt trên thị trường Mỹ
hơn 15 năm, bắt đầu tìm kiếm cơ hội ở thị trường nước ngoài bằng cách cấp giấy
phép, liên doanh, mua lại, đầu tư chung (góp vốn ), mở cửa hàng mới, nhượng
quyền.
Trả lời câu hỏi: Thông qua các lý thuyết FDI được giới thiệu ở trên, chúng ta thấy
rằng lý thuyết chiết trung của Dunning – mô hình OLI - giải thích một cách tốt
nhất cho chiến lược bành trướng ra quốc tế của Starbucks.
Nhóm 4 Page 23
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
Thứ nhất : Lợi thế về quyền sở hữu:
- Starbucks sở hữu một thương hiệu nổi tiếng về cà phê rang xay cao cấp, đồ
uống pha chế theo phong cách espresso, phụ kiện cà phê, trà…cách thiết kế
quán cà phê trang nhã, cung cấp dịch vụ khách hàng tốt… trên khắp nước Mỹ
trong vòng một thập kỷ.
- Strarbucks tổ chức quản lý cửa hàng một cách chặt chẽ làm tăng khả năng tiếp
cận và cung cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng.
 Tạo nên lợi thế so với các đối thủ ở nước sở tại.
Thứ hai: Lợi thế về địa điểm:
- Starbucks đã thật sự khôn ngoan khi lựa chọn thị trường Nhật Bản làm bước
tiến đầu tiên trên con đường bành trướng ra quốc tế của mình.
- Sau đó là thị trường Châu Âu, Châu Á – các thị trường rất tiềm năng cho
thương hiệu Starbucks – các quốc gia có văn hóa thưởng thức cà phê rang xay
mang phong cách espresso.
+ Châu Á là thị trường có nền kinh tế đa phần là đang phát triển, chính phủ các
nước này có các chính sách thu hút nguồn vốn FDI từ các nước phát triển.
+ Châu Âu: văn hóa cà phê Pháp, Ý
Thứ ba: Lợi thế nội bộ hóa:
- Starbucks sở hữu một quy trình quản lý và công thức cung cấp cà phê thành

công trong nhiều năm nên không chấp nhận bất kì sự sai khác nào ở các cửa
hàng nhượng quyền của mình, để đảm bảo sự thành công của thương hiệu
Starbucks trên thị trường quốc tế, Starbucks đưa ra điều kiện nhường quyền và
đảm bảo rằng các cửa hàng thực hiện đúng điều kiện đề ra thông qua nhân viên
giám sát và các chương trình đào tạo cho nhân viên quản lý và nhân viên bán
hàng.
- Khi các cửa hàng nhượng quyền của Starbucks không còn đủ khả năng làm tăng
doanh thu mục tiêu hoặc yếu thế về vốn thì Starbucks đã chuyển từ hình thức
Nhóm 4 Page 24
Kinh doanh quốc tế_T01_Starbucks’ FDI ThS.Nguyễn Xuân Đạo
cấp license, nhượng quyền sang mua lại hay góp vốn cổ phần, thực hiện đầu tư
chung… đây là bước Starbucks thực hiện nội bộ hóa cả về quền sở hữu, quyền
quản lí, kiểm soát và cung cấp sản phẩm trên thị trường nước sở tại.
- Tất cả những điều mà Starbucks thực hiện đều nhằm mục đích nắm giữ quyền
quản lý kiểm soát và gia tăng lợi nhuận cho Starbucks, khẳng định thương hiệu
trên thị trường quốc tế.
IV. Kết luận.
V. Tài liệu tham khảo.
-
doanh-nhan-cua-nam-2011.chn
- www.starbucks.com
VI. Mục lục.
Nhóm 4 Page 25

×