Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

PREBIOTIC ĐỐI VỚI ĐỘNG VẬT THỦY SẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.15 KB, 7 trang )

MỤC LỤC
B. PREBIOTIC.
1. Khái niệm prebiotic.sda
2. Yêu cầu để xếp vào nhóm prebiotic.sda
3. Tính chất prebiotic.sadsa
4. Cơ chế tác dụng Prebiotic.
5. Tác động của prebiotic.
6. ĐẶT VẤN ĐỀ
Probiotic là một thành phần thức ăn bổ sung gồm các vi khuẩn sống để cải thiện sự
cân bằng hệ vi sinh vật của vật chủ. Prebiotic là một thành phần thực phẩm không
tiêu hóa được nhằm kích thích hoạt động của vi khuẩn trong đường ruột một cách
có chọn lọc và nhờ đó cải thiện sức khỏe vật chủ. Nghiên cứu đã cho thấy các
thành phần probiotics và prebiotics có thể hỗ trợ điều hòa các đáp ứng stress, tăng
cường đề kháng bệnh, hiệu suất tăng trưởng, quá trình sử dụng thức ăn, thành
phần thân thịt và các đặc điểm khác bằng cách kích thích hệ thống miễn dịch bẩm
sinh của động vật.
Do lệnh cấm của Liên minh Châu Âu về việc sử dụng các chất kháng sinh kích
thích tăng trưởng nên phải tìm kiếm các lựa chọn khác thân thiện môi trường để
ngăn ngừa bệnh tật và thúc đẩy tăng trưởng cho cá nuôi. Các phương pháp để
kiểm soát quần thể vi khuẩn có liên quan đến động vật thủy sản và môi trường
nuôi của chúng để giảm thiểu các cấp độ mầm bệnh cơ hội đang trở thành một lĩnh
vực nghiên cứu nổi bật.
1. Khái niệm prebiotic
- Khái niệm prebiotic lần đầu tiên được Gibson GR, Roberfroid MB định nghĩa
vào năm 1995 Prebiotic là nguồn thức ăn cho probiotic (vi sinh vật sống hữu ích
trong đường ruột vật chủ). Nhờ có prebiotic mà vi sinh hữu ích có điều kiện phát
triển mạnh mẽ hơn, do đó cải thiện hệ tiêu hóa cho vật chủ. Prebiotic chủ yếu là
oligosaccharides. Các prebiotic được nghiên cứu nhiều nhất là Inulin/Fructo-
oligosaccharides (FOS) và Galacto-oligosaccharides (GOS). Prebiotic có nhiều
trong sữa mẹ (Sữa mẹ có 15-23g/l prebiotic trong sữa non và 8-12g/l prebiotic
trong sữa thường). Những nguồn thức ăn có chứa prebiotic thường gặp là đậu


nành, yến mạch thô, lúa mì nguyên cám và lúa mạch nguyên cám, hành, chuối, tỏi,
a-ti-sô, nho…
- GOS: là một prebiotic có nguồn gốc từ động vật. GOS được chiết xuất từ lactose
có trong sữa bò, dê… Cấu trúchóa học của GOS bao gồm galactose và lactose liên
kết với nhau.
- FOS: là một prebiotic có nguồn gốc từ thực vật. FOS hiện diện trong nhiều loại
thực phẩm như măng tây, chuối, yến mạch, tỏi, atisô và rau diếp xoăn nhưng hàm
lượng lại khá thấp. Cấu trúc hóa học của FOS bao gồm glucose và fructose liên kết
với nhau. Tùy vào độ dài của mạch liên kết này mà FOS được chia thành 2 loại:
• FOS có cấu trúc mạch ngắn được gọi là oligofructose
• FOS có cấu trúc mạch dài được gọi là inulin.
2.Yêu cầu để xếp vào nhóm prebiotic.
- Theo Gibson và Roberfroid(2007) khẳng định không phải bất cứ loại nào cũng
có thể xếp vào nhóm prebiotic mà chúng cần thoả mãn các yêu cầu sau:
+ Chống chịu được môi trường acid của dạ dày, không bị phân giải bởi enzyme
động vật và không bị hấp thu ở ruột.
+ Có khả năng lên men bởi các vi khuẩn đường ruột, kích thích có chọn lọc sự
phát triển hoặc hoạt tính của các vi khuẩn có lợi cho sức khoẻ.
+ Prebiotic không nhất thết phải là các chất không bị tiêu hoá mà chỉ cần khi đến
ruột già chúng vẫn còn một lượng đủ lớn để làm cơ chất cho quá trình lên men ở
đây. Cũng theo Gibson và Roberfroid hiện nay chỉ có hai chất đáp ứng được các
yêu cầu đối với prebiotic: đó là inulin và trans-galactooligosaccharides (TOS).
3. Tính chất prebiotic
- Là những chất khó tiêu vì cấu trúc hoá học của nó.
- Prebiotic vẫn giữ nguyên một lượng lớn (86 – 89%) khi đến ruột già (Bach
Knudsen và cộng sự (1995) và Ellegard (1997) )
- Prebiotic là nguồn dinh dưỡng của vi sinh vật có lợi trong đường ruột. Khi đến
ruột già prebiotic trở thành nguồn dinh dưỡng cho hệ vi sinh vật ở đây. Lúc này
prebiotic được lên men. Các kết quả nghiên cứu đã chứng tỏ prebiotic được lên
men bởi hệ vi sinh vật tại ruột già.

- Sản phẩm của quá trình lên men prebiotic là acid béo mạch ngắn, sinh khối vi
sinh vật, CO
2
, H
2
.Tuy nhiên chỉ một chủng vi sinh vật thì chưa đủ để lên men tuyệt
đối prebiotic mà cần sự phối hợp của nhiều chủng khác nhau. Ví dụ như các chủng
Bacteroides có khả năng sử dụng carbohydrate có chỉ số polymer hoá (DP) cao,
trong khi các chủng Bifidobacteria chỉ sử dụng được các loại carbohydrate với chỉ
số DP thấp.
+ Khả năng lên men của prebiotic còn phụ thuộc vào cấu trúc của nó. Prebiotic
mạch thẳng thì dễ lên men hơn prebiotic mạch nhánh. Prebiotic có cấu trúc càng
giống tự nhiên thì càng dễ tiêu thụ bởi các vi sinh vật đường ruột.
+ Cấu trúc hoá học của inulin là chất có vị ngọt có thể dùng thay cho đường, bột
và chất béo.
+ Inulin đã được chứng minh có vai trò như prebiotic. Cấu trúc hoá học của inulin:
Inulin là một polymer mạch thẳng được cấu tạo từ các đơn phân là fructose, các
monomer này liên kết với nhau bằng liên kết b-(2-1) glycosidic, và mạch polymer
thường tận cùng bằng gốc glucose. Inulin tận cùng bằng gốc glucose được gọi là
alpha-D-glucopyranosyl-[beta-D-fructofuranosyl](n-1)-D-fructofuranosides
(GpyFn). Inulin tận cùng không có gốc glucose được gọi là beta-D-
fructopyranosyl-[D-fructofuranosyl](n-1)-D-fructofuranosides.
- Do được tạo thành bởi các liên kết b-glucosidic nên inulin không bị thuỷ phân
bởi các enzyme có trong đường tiêu hoá mà chỉ bị thuỷ phân một phần bởi enzyme
endoinulinase thành oligofructose.
3.Cơ chế tác dụng
- Cho đến nay cơ chế tác dụng của inulin lên sự phát triển của các vi khuẩn có lợi
vẫn chưa được làm rõ.Tuy nhiên người ta đã đưa ra phỏng đoán, các vi sinh vật
này có khả năng tiết ra enzyme ngoại bào inulinase có khả năng phân giải inulin,
sử dụng inulin như là một nguồn dinh dưỡng của chúng.

4. Tác động của prebiotic.
(*) Tích cực.
- Tái tạo sự cân bằng của hệ vi khuẩn đường ruột (Chống tại các vi khuẩn gây
bệnh): các vi khuẩn hữu ích sống trong đường ruột như bifidobacteria và
lactobacilli có thể ức chế sự phát triển của các vi khuẩn gây bệnh như Escherichia
coli, Campylobacter, và Salmonella spp.
- Các sản phẩm thuộc nhóm Oligosaccharides không tiêu hóa chẳng hạn như
Fructooligisaccharides khi cho tôm thẻ ăn sẽ thay đổi được thành phần và hàm
lượng vi khuẩn, làm gia tăng hệ thống miễn dịch cho tôm (Li và ctv, 2007).
- GroBiotics-A gia tăng hiệu quả tỉ lệ sống đến 80%
- Các khí gas sinh ra trong quá trình lên men prebiotic có tác dụng tăng nhu động
ruột, làm nhuận tràng giảm táo bón.
- Không làm tăng cholesterol trong máu, tăng khả năng hấp thụ khoáng đặc biệt là
Ca và Mg và chống lại một số bệnh ung thư do vi khuẩn đường ruột gây ra
- Prebiotic đóng vai trò như một cái bẫy đối với vi khuẩn gây hại. Nhiều vi khuẩn
gây hại có cơ chế sử dụng thụ thể (receptor) oligosaccharide trong ruột để liên kết
với bề mặt niêm mạc ruột và gây nên các bệnh về dạ dày. Các prebiotic có thể mô
phỏng các thụ thể ở ruột và do đó, các vi khuẩn gây hại sẽ liên kết với prebiotic
thay vì niêm mạc ruột.
(*)Tiêu cực
- Prebiotic chỉ tác động tích cực khi cơ thể đã có sẵn các vi sinh vật hữu ích, bản
thân prebiotic không sản sinh ra các vi sinh vật này. Các mặt hạn chế của
prebiotic như sau:
+ Tiêu thụ một lượng lớn (> 20g) inulin mỗi ngày có thể gây tình trạng nhuận
tràng. Những người tham gia thử nghiệm sử dụng prebiotic đi vệ sinh thường
xuyên hơn và phân nhiều hơn.
+ Các loại đường có nguồn gốc từ FOS có thể kích thích sự tăng trưởng của vi
khuẩn Klebsiella là một vi khuẩn gây bệnh ở đường ruột.
+ Tiêu thụ prebiotic làm tăng vi khuẩn tạo khí gas trong hệ tiêu hóa, tăng lượng
nhiều quá gây ra hiện tượng trướng hơi.

- Prebiotic có ích cho sức khỏe nhưng không phải là chất thiết yếu nên không có
khái niệm “thiếu prebiotic” trong cơ thể.
5. Ứng dụng của prebiotic trong nuôi trồng Thủy Sản.
- Chất phụ gia cho thức ăn để tăng tác dụng và hiệu quả của thức ăn.
- Tăng khả năng miễn dịch.

×