Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

tài trợ xuất khẩu, cơ hội và thách thức của viêt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.81 KB, 32 trang )


Trường Đại học Kinh tế TPHCM
Lớp Ngoại thương 3 – K36

Danh sách nhóm:
Trần Thị Anh Đào
Trịnh Trung Cang
Lê Hữu Đức
Mai Thị Bích Trâm
Phan Trần Bích Trâm
Tài trợ xuất khẩu – Cơ hội và thách
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của thương mại quốc tế gắn liền với sự hình thành và phát triển của hoạt
động xuất khẩu. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường và chủ
động hội nhập kinh tế với thế giới và khu vực, Đảng và Nhà nước đã chủ trương đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu để làm động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để
đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước phải có những biện pháp chính sách khuyến khích ở mức cao
nhất các ngành sản xuất cho xuất khẩu, các doanh nghiệp tham gia vào quá trình xuất khẩu và
quốc tế hoá nhằm phát huy mọi tiềm năng và nội lực của đất nước, đồng thời khai thác tối đa sự
hỗ trợ và hợp tác của cộng đồng quốc tế. Trợ cấp xuất khẩu trở thành một công cụ vô cùng quan
trọng trong việc thực hiện các mục tiêu này.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc trở thành thành viên chính thức của WTO vừa
mang đến nhiều thời cơ nhưng đồng thời cũng chứa đựng những thách thức và đặt ra không ít
khó khăn cho Việt Nam. Gia nhập WTO, Việt Nam phải tuân thủ theo các quy định pháp luật của
thương mại quốc tế, trong đó có việc cam kết xóa bỏ các biện pháp trợ cấp nông nghiệp bị cấm
và áp dụng các biện pháp hỗ trợ nông nghiệp theo quy định của WTO. Là một quốc gia nông
nghiệp với gần 70% dân số sống ở nông thôn, trình độ phát triển kinh tế thấp, việc điều chỉnh
chính sách phát triển xuất khẩu, đặc biệt là các chính sách về trợ cấp nông nghiệp, sao cho phù
hợp với các quy định của WTO đồng thời góp phần phát triển nền kinh tế đất nước là một việc
làm cần thiết đối với Việt Nam.


Trợ cấp xuất khẩu càng trở nên cần thiết khi nhịp độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 1998
lần đầu tiên từ năm 1990 trở lại đây có dấu hiệu chững lại chỉ đạt mức chưa đầy 6% còn tăng
trưởng xuất khẩu chỉ đạt mức 1,9% là mức thấp nhất kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới và
mở cửa nền kinh tế và thậm chí vào quý I năm 1999, xuất khẩu còn giảm. Tuy xuất khẩu đã phục
hồi tương đối mạnh mẽ thời gian từ quý II/1999 đến nay, nhưng chúng ta chưa tạo ra được một
nền tảng chắc chắn để đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu bền vững. Sự chững lại nhịp độ tăng
trưởng xuất khẩu một số sản phẩm chính của Việt Nam như dệt may, giày dép, hàng thủ công mỹ
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 2
nghệ năm 2001 chứng tỏ điều này. Như vậy, yêu cầu thực tế đặt ra là chính sách trợ cấp xuất
khẩu của Việt Nam trong thời gian tới phải đảm bảo sự tăng trưởng xuất khẩu cao và bền vững.
Xuất phát từ nhu cầu nghiên cứu “Tài trợ xuất khẩu. Cơ hội và thách thức đối với các doanh
nghiệp Việt Nam khi Việt Nam thực hiện các cam kết về giảm tài trợ theo yêu cầu của WTO?” đề
tài mong muốn cung cấp thêm một số thông tin, giúp chúng ta hiểu được các khái niệm mới về
trợ cấp trong WTO, nắm bắt khái lược thực trạng trợ cấp, từ đó nêu ra một số biện pháp bổ sung
cho hoạt động nông nghiệp hiện nay.
o Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích sự điều chỉnh chính sách trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam sau khi gia nhập
WTO; sau khi nêu bật những cam kết của việc điều chỉnh chính sách trợ cấp xuất khẩu đến nền
kinh tế của nước ta, thực trạng tài trợ của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua với hàng nông
nghiệp và phi nông nghiệp, đề tài đề xuất giải pháp để Việt Nam nắm bắt cơ hội và loại bỏ khó
khăn của các doanh ngiệp Việt Nam khi chính phủ giảm hoặc không tài trợ theo tinh thần WTO.
o Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu một số chính sách trợ cấp xuất khẩu trên phương diện lý luận và
thực tiễn trong thời kỳ nước ta thực hiện đường lối đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao hiệu ủa trợ cấp xuất
khẩu trong điều kiện hội nhập.
o Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở việc phân tích tổng quát về trợ cấp xuất khẩu của Việt
Nam trong giai đoạn sau khi gia nhập WTO. Khi phân tích chính sách trợ cấp, đề tài giới hạn ở
tài trợ hàng nông nghiệp và phi nông nghiệp.

o Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng lý luận vào thực tiễn, sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, khái quát hoá và tổng
hợp để nghiên cứu.
- Tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới có điều kiện tương đồng với
Việt nam để giải quyết các vấn đề nêu ra trong đề tài.
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 3
I. Khái niệm tài trợ xuất khẩu (theo nhiều cách)
1. Trợ cấp
Trong WTO, trợ cấp được hiểu là bất kỳ hỗ trợ tài chính nào của Nhà nước hoặc một tổ
chức công (trung ương hoặc địa phương) dưới một trong các hình thức sau mang lại lợi ích cho
doanh nghiệp/ngành sản xuất:
(i) Hỗ trợ trực tiếp bằng tiền chuyển ngay (ví dụ cấp vốn, cho vay, góp cổ phần) hoặc hứa
chuyển (ví dụ bảo lãnh cho các khoản vay);
(ii) Miễn hoặc cho qua những khoản thu lẽ ra phải đóng (ví dụ ưu đãi thuế, tín dụng);
(iii) Mua hàng, cung cấp các dịch vụ hoặc hàng hoá (trừ cơ sở hạ tầng chung);
(iv) Thanh toán tiền cho một nhà tài trợ hoặc giao cho một đơn vị tư nhân tiến hành các hoạt
động (i), (ii), (iii) nêu trên theo cách thức mà Chính phủ vẫn làm.
Các khoản hỗ trợ này được hiểu là mang lại lợi ích cho đối tượng được hưởng hỗ trợ nếu nó
được thực hiện theo cách mà một nhà đầu tư tư nhân, một ngân hàng thương mại…bình thường
sẽ không khi nào làm như vậy (vì đi ngược lại những tính toán thương mại thông thường).
2. Trợ cấp xuất khẩu
Trợ cấp được hiểu là “những lợi ích mà chính phủ đem lại cho một đối tượng nhất định
và có thể lượng hóa về mặt tài chính”. Trong nông nghiệp, WTO phân chia trợ cấp thành hai
nhóm chính là hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu. Hỗ trợ trong nước là những lợi ích được
chính phủ dành cho một hoặc một số đối tượng mà không trực tiếp gắn với hoạt động hay kết
quả xuất khẩu của đối tượng đó. Trợ cấp xuất khẩu có thể hiểu một cách đơn giản là những lợi
ích gắn với hoạt động hoặc kết quả xuất khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu được quy định trong các điều XVI và VI của Hiệp định GATT 1994 (gọi tắt là
GATT 1994), và Hiệp định của WTO về trợ cấp và các biện pháp đối kháng 1995 (gọi tắt là HĐ
SCM). Trợ cấp xuất khẩu là dạng trợ cấp phụ thuộc vào hoạt động xuất khẩu, tức là doanh

nghiệp muốn nhận trợ cấp này thì phải sử dụng nó cho mục đích xuất khẩu (Điều 3.1 HĐ SCM).
Phụ lục I của HĐ SCM cũng cung cấp danh sách tham khảo những trợ cấp nào thì bị liệt vào trợ
cấp xuất khẩu.
Một số khái niệm về trợ cấp xuất khẩu:
• Trợ cấp xuất khẩu hiểu theo nghĩa thông thường là trợ cấp chỉ dành riêng cho hoặc liên quan
tới hoạt động xuất khẩu, hay mục đích của trợ cấp là đẩy mạnh xuất khẩu. Do đó, căn cứ để
trợ cấp thông thường là lượng hàng hóa xuất khẩu thực sự hoặc dự kiến xuất khẩu. Ví dụ:
chương trình thưởng xuất khẩu của Chính phủ theo đó doanh nghiệp được thưởng 100 đồng
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 4
cho mỗi sản phẩm xuất khẩu được. Tuy nhiên, việc chính phủ đơn thuần trợ cấp cho doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu không thể nghiễm nhiên dẫn đến kết luận là trợ
cấp xuất khẩu mà còn cần xem xét đến một số yếu tố khác. Trợ cấp xuất khẩu thường có hệ
quả là hàng xuất khẩu được bán trên thị trường nước ngoài với giá thấp hơn trên thị trường
nội địa của nước xuất khẩu.
• Trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp với đối tượng nhận trợ cấp là các doanh nghiệp sản xuất hàng
hóa trước tiên hoặc chủ yếu là để xuất khẩu, hay nói cách khác, hàng hoá được trợ cấp phải là
hàng hóa được tiêu thụ tại thị trường nước ngoài. Doanh nghiệp được trợ cấp phải là doanh
nghiệp Việt nam, đặc biệt ưu tiên các đơn vị sản xuất hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ và
những hàng hoá Việt Nam có ưu thế so sánh . Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là nhằm đẩy
mạnh xuất khẩu.
Trong WTO, trợ cấp là hình thức được phép, nhưng là trong các giới hạn và điều kiện nhất định.
WTO có 02 hệ thống quy định riêng về trợ cấp, áp dụng cho 02 nhóm sản phẩm:
• Đối với hàng công nghiệp: Các loại trợ cấp, các quy tắc và điều kiện cho từng loại cùng với
các biện pháp xử lý nếu có vi phạm hoặc trợ cấp gây thiệt hại được quy định trong Hiệp định
về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Agreement on Subsidies and Countervailing
Measures - Hiệp định SCM);
• Đối với hàng nông sản: Tuân thủ Hiệp định Nông nghiệp của WTO(AoA – agreement on
agriculturer )
Có hai phương thức trợ cấp: một loại là trực tiếp bổ trợ, tức là trực tiếp chi tiền bổ trợ cho doanh
nghiệp xuất khẩu, một loại khác là gián tiếp bổ trợ, tức là ưu đãi về tài chính cho người doanh

nghiệp xuất khẩu một số hàng hoá xuất khẩu nào đó như hoàn lại hay miễn giảm thuế trong
nước, miễn giảm thuế xuất khẩu cho một số hàng hoá xuất khẩu
3. Thực chất trợ cấp xuất khẩu là gì?
Là một hình thức khyến khích xuất khẩu bằng cách chính phủ trợ cấp trực tiếp hoặc cho vay với
lãi suất thấp đối với các nhà xuất khẩu quốc gia hay những nhà xuất khẩu có năng lực. Bên
cạnh đó, chính phủ còn cho vay một khoản ưu đãi đối với những bạn hàng nước ngoài để họ có
điều kiện nhập khẩu các sản phẩm xuất khẩu từ quốc gia. Như thế, trợ cấp cũng có thể xem là
một hình thức bán phá giá. Mặc dù trợ cấp xuất khẩu bị ngăn cấm trong các hợp đồng thương
mại quốc tế, nhưng nhiều quốc gia vẫn sử dụng, đặc biệt là các nước đang phát triển để đẩy
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 5
mạnh xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ.
Trợ cấp xuất khẩu là những biện pháp hỗ trợ của Chính phủ nhằm mục đích thúc đẩy xuất khẩu,
gắn với tiêu chí xuất khẩu. So với các hình thức trợ cấp khác, trợ cấp xuất khẩu gây ra hệ quả
bóp méo thương mại quốc tế nhiều nhất, vì vậy quy định đối với hình thức trợ cấp này là nghiêm
ngặt nhất. Về nguyên tắc, trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp là biện pháp bị cấm.
II. Phân loại và vai trò
1. Phân loại trợ cấp
a. Phân loại theo Hiệp định về Trợ cấp và Biệp pháp đối kháng (SCM – Subsidies
Counterveiling Measures)
Hiệp định SCM ra đời dựa trên Hiệp định về Giải thích và Áp dụng Điều khoản VI, XVI và
XXIII đã được thảo luận trước đó tại Vòng đàm phán Tokyo. Hiệp định đưa ra các quy định về
việc sử dụng các biện pháp trợ cấp cũng như các quy định về những hành động một thành viên
WTO có thể sử dụng để đối phó lại ảnh hưởng của các biện pháp trợ cấp.
Hiệp định phân trợ cấp thành hai nhóm: trợ cấp bị cấm và trợ cấp có thể áp dụng. Trước
đây, trợ cấp còn có thể thuộc một nhóm thứ ba: trợ cấp có thể không được áp dụng. Nhóm này
tồn tại trong vòng 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, tức là đến ngày 31 tháng 12 năm 1999,
và không được gia hạn thêm. Hiệp định áp dụng đối với cả hàng nông sản cũng như hàng chế
tạo, ngoại trừ các khoản trợ cấp được miễn trừ theo "điều khoản hòa bình" của Hiệp định về
Nông nghiệp. Điều khoản này cũng đã hết hạn vào cuối năm 2003.
o Thứ nhất là Trợ cấp bị cấm (trợ cấp đèn đỏ - Red Subsidies) gồm: khối lượng trợ cấp, theo

luật hoặc trong thực tế (dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều kiện khác)
căn cứ vào kết quả xuất khẩu; khối lượng trợ cấp (dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm
theo những điều kiện khác) ưu tiên sử dụng hàng nội địa hơn hàng ngoại.
Chúng bị cấm vì chúng được xây dựng nhằm làm biến dạng thương mại quốc tế, và do đó có khả
năng tác động tiêu cực đến trao đổi thương mại của các thành viên khác. Các loại trợ cấp này đều
bị cấm bất kể chúng được quy định trong luật hay không (theo luật định - de jure hoặc trên thực
tế - de facto) và trợ cấp thay thế nhập khẩu (trợ cấp để khuyến khích sử dụng đầu vào trong
nước, khuyến khích nội địa hóa). Trong trường hợp ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại bởi
hàng nhập khẩu được trợ cấp, thuế chống trợ cấp có thể được áp dụng đối với hàng nhập khẩu.
o Thứ hai là Trợ cấp có thể đối kháng (trợ cấp đèn vàng - Yellow Subsidies). Hiệp định quy
định ba hình thức thiết hại có thể gây ra bởi các khoản trợ cấp thuộc nhóm này.
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 6
 Trợ cấp của một nước có thể gây thiệt hại đến ngành sản xuất nội địa của nước nhập
khẩu.
 Trợ cấp của một nước có thể gây thiệt hại đến xuất khẩu của một nước khác khi hàng của
2 nước cạnh tranh với nhau trên thị trường của một nước thứ ba.
 Trợ cấp nội địa của một nước có thể gây thiệt hại đối với hàng xuất khẩu của các nước
khác được bán trên thị trường của nước áp dụng biện pháp trợ cấp, làm vô hiệu hay gây
phương hại đến những quyền lợi mà Thành viên khác trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng
từ Hiệp định GATT 1994 (đặc biệt là những quyền lợi có được từ những ưu đãi thuế quan
có ràng buộc), và gây tổn hại nghiêm trọng đối với lợi ích của Thành viên khác.
“Thiệt hại nghiêm trọng” sẽ được xem là tồn tại trong trường hợp tổng trị giá trợ cấp theo trị giá
cho một sản phẩm vượt quá 5%. Trong trường hợp này, bên trợ cấp có nghĩa vụ chứng minh
rằng những khoản trợ cấp đó không gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với bên khiếu nại.
Những thành viên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi trợ cấp có thể đối kháng có thể đưa tranh chấp này
lên cơ quan giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp cơ quan giải quyết tranh chấp đưa ra phán
quyết có tồn tại tác động tiêu cực, bên trợ cấp phải thu hồi lại khoản trợ cấp hoặc xóa bỏ những
tác động tiêu cực này.
o Thứ ba là Trợ cấp không thể đối kháng (trợ cấp đèn xanh - Green Subsidies) có thể là trợ
cấp không mang tính chất riêng biệt hoặc mang tính chất riêng biệt bao gồm hỗ trợ cho các

hoạt động nghiên cứu công nghiệp và hoạt động phát triển tiền cạnh tranh, hỗ trợ cho các
vùng miền khó khăn, hỗ trợ nhằm xúc tiến nâng cấp những phương tiện hạ tầng hiện có cho
phù hợp với yêu cầu mới về môi trường do luật pháp, hay các quy định đặt ra.
Nếu một thành viên cho rằng trợ cấp không thể đối kháng khác sẽ dẫn đến những tác động tiêu
cực nghiêm trọng đến ngành công nghiệp nội địa, thành viên đó có thể yêu cầu đưa ra phán quyết
và khuyến cáo về vấn đề này.
Những nước kém phát triển và những nước đang phát triển có Tổng sản phẩm quốc dân
(GNP) bình quân đầu người ít hơn 1000 USD sẽ được miễn khỏi những quy tắc về trợ cấp xuất
khẩu bị cấm và hưởng miễn trừ đối với trợ cấp bị cấp trong một khoảng thời gian nhất định. Các
nước đang phát triển khác có thời hạn đến năm 2003 để dỡ bỏ các khoản trợ cấp xuất khẩu của
mình. Tuy nhiên, các nước kém phát triển phải dỡ bỏ các khoản trợ cấp thay thế nhập khẩu (các
khoản trợ cấp được xây dựng để trợ giúp sản xuất hàng trong nước thay thế hàng nhập khẩu)
không chậm hơn năm 2003. Thời hạn này đối với các nước đang phát triển là năm 2000. Các
nước đang phát triển sẽ nhận được đối xử ưu đãi hơn trong trường hợp hàng xuất khẩu của họ
chịu sự điều tra để áp dụng thuế chống trợ cấp. Đối với các nền kinh tế chuyển đổi, các khoản trợ
cấp bị cấm phải được dỡ bỏ chậm nhất là năm 2002.
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 7
Việc điều tra đối kháng đối với một sản phẩm xuất xứ từ một nước thành viên đang phát triển sẽ
chấm dứt nếu tổng lượng trợ cấp không vượt quá 2% (và xuất xứ từ một số nước đang phát triển
là 3%) tính trên trị giá sản phẩm, hoặc nếu khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp chiếm ít hơn
4% tổng lượng sản phẩm tương tự nhập khẩu của quốc gia nhập khẩu. Đối với những nước đang
trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, trợ
cấp bị cấm sẽ không bị tính trong vòng 7 năm kể từ ngày hiệp định này có hiệu lực.
Tuy nhiên, bất kể quy định của Hiệp định SCM, các thành viên gia nhập WTO từ năm 1995 đều
không được hưởng bất kỳ ngoại lệ gì, trừ một vài trường hợp hãn hữu, quy mô trợ cấp nhỏ, thời
gian xin chuyển đổi ngắn (thí dụ, Jordan được duy trì chỉ hai chương trình trợ cấp xuất khẩu
trong vòng hai năm). Thực tế này và việc ép các nước mới gia nhập phải bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu
nông sản là những ví dụ điển hình của cái gọi là "tiêu chuẩn kép" trong đàm phán gia nhập WTO
mà các tổ chức như Oxfam và Action Aid đã đề cập.
b. Phân loại trợ cấp nông nghiệp:

Các loại trợ cấp nội địa trong nông nghiệp:
Loại trợ cấp Tính chất - Nội dung Cơ chế áp dụng
Trợ cấp
“hộp xanh lá cây”
Phải là các trợ cấp:
- Hầu như là không có tác
động bóp méo thương mại; và
- Không phải là hình thức trợ
giá
Được phép áp dụng
không bị hạn chế
Trợ cấp
“hộp xanh lơ”
Hỗ trợ trực tiếp trong khuôn
khổ các chương trình hạn chế
sản xuất
Đây là các hình thức trợ cấp
mà hầu như chỉ các nước đã
phát triển áp dụng
Trợ cấp
“hộp hổ phách”
Các loại trợ cấp nội địa không
thuộc hộp xanh lá cây và xanh
lơ(trợ cấp bóp méo thương
mại)
Được phép áp dụng trong mức
nhất định (gọi là "Mức tối
thiểu").
Phải cam kết cắt giảm cho
phần vượt trên mức tối thiểu.

Nhóm trợ cấp
trong chương
Ví dụ
- Trợ cấp đầu tư;
Đây là sự ưu đãi đặc biệt và
khác biệt dành cho các nước
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 8
trình “hỗ trợ
phát triển sản
xuất”
- Hỗ trợ “đầu vào” cho sản
xuất nông nghiệp cho nông
dân nghèo hoặc các vùng khó
khăn; hoặc
- Hỗ trợ các vùng chuyển đổi
cây thuốc phiện.
đang phát triển.
o Trợ cấp “hộp xanh lá cây” là gì?
Trợ cấp “Hộp xanh lá cây” bao gồm các biện pháp trợ cấp thuộc một trong 05 nhóm xác định và
phải đáp ứng đủ 03 điều kiện cụ thể (xem các Hộp dưới đây).
 Điều kiện: Là các biện pháp không hoặc rất ít tác động bóp méo thương mại;
Thông qua chương trình do Chính phủ tài trợ (kể cả các khoản đáng ra phải thu
nhưng được để lại);
Không có tác dụng trợ giá cho người sản xuất.
 Nhóm xác định:
Nhóm 1 - Trợ cấp cho các Dịch vụ chung
Ví dụ: Trợ cấp cho nghiên cứu khoa học; kiểm soát dịch bệnh; đào tạo; khuyến nông, tư vấn;
kiểm tra sản phẩm vì mục đích sức khoẻ con người; tiếp thị, thông tin thị trường, tư vấn; kết cấu
hạ tầng nông nghiệp (điện, đường, thuỷ lợi…)
Nhóm 2 - Trợ cấp nhằm mục tiêu dự trữ an ninh lương thực quốc gia

Khối lượng lương thực dự trữ phải phù hợp với các tiêu chí định trước, việc thu mua để dự trữ và
thanh lý khi hết hạn dự trữ phải thực hiện theo giá thị trường.
Nhóm 3 - Trợ cấp lương thực trong nước
Tiêu chí để cho hưởng trợ cấp lương thực phải rõ ràng, có liên quan đến mục tiêu dinh dưỡng.
Nhóm 4 - Hỗ trợ giảm nhẹ thiên tai
Các khoản chi phí hỗ trợ nhằm phục hồi sản xuất nông nghiệp cho những vùng bị thiên tai như
giống, thuốc BVTV, thuốc thú y, san ủi lại đồng ruộng…
Nhóm 5 - Hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất
Hỗ trợ thu nhập (không được gắn với yêu cầu về sản xuất)
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 9
Hỗ trợ tài chính của Nhà nước vào chương trình an toàn và bảo hiểm thu nhập cho nông dân (khi
mất mùa hoặc mất giá);
Hỗ trợ bù đắp thiệt hại do thiên tai gây ra;
Hỗ trợ hưu trí cho người sản xuất nông nghiệp;
Hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu thông qua chương trình chuyển các nguồn lực (đất đai, vật nuôi…) khỏi
mục đích sản xuất thương mại;
Hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu thông qua chương trình trợ cấp đầu tư (đầu tư nhằm khắc phục các bất
lợi về cơ cấu);
Hỗ trợ theo các chương trình môi trường (bù đắp chi phí sản xuất phải tăng thêm hoặc sản lượng
giảm đi do thực hiện các yêu cầu về môi trường);
Hỗ trợ theo các chương trình trợ giúp vùng (vùng có vị trí hoặc điều kiện bất lợi).
o Trợ cấp “hộp xanh lơ” là gì?
Những hình thức trợ cấp trực tiếp cho người sản xuất trong chương trình hạn chế sản xuất nông
nghiệp cũng được miễn trừ cam kết cắt giảm với các điều kiện:
 Những trợ cấp dựa trên diện tích hoặc năng suất cố định.
 Trợ cấp tối đa bằng 85% hoặc ít hơn mức sản xuất cơ sở
 Trợ cấp trong chăn nuôi dựa trên số đầu con cố định.
o Trợ cấp “hộp hổ phách” là gì?
Trợ cấp thuộc “hộp hổ phách” là tất cả các trợ cấp trong nước không nằm trong nhóm “hộp xanh
lá cây”,“hộp xanh lơ” hoặc “chương trình hỗ trợ phát triển sản xuất”.

Đây là hầu hết là các loại trợ cấp có tác động làm biến dạng thương mại. Trên thực tế, hình thức
trợ cấp “hộp hổ phách” thông dụng nhất ở các nước là các chương trình thu mua nông sản của
Chính phủ để can thiệp vào thị trường.
Trong WTO, đối với trợ cấp trong nước, những hình thức sau không bị cấm:
 Trợ cấp đầu tư thông thường cho nông nghiệp;
 Trợ cấp “đầu vào” của sản xuất cho người trực tiếp sản xuất ở các vùng nghèo tài nguyên,
thiếu nguồn lực hoặc thu nhập thấp;
 Trợ cấp đa dạng hoá cây trồng trong chương trình tiêu huỷ một số loại cây có chất ma tuý
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 10
c. Phân loại theo cách thức trợ cấp
o Trợ cấp trực tiếp: Là hình thức chính phủ bằng những ưu đãi về tài chính hỗ trợ các nhà
xuất khẩu trực tiếp giảm được chi phí kinh doanh, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về
giá trên thị trường thế giới.
Các biện pháp trợ cấp trực tiếp: trợ lãi suất vay vốn kinh doanh, trợ giá, bù lỗ xuất khẩu, cho sử
dụng cơ sở hạ tầng điện nước, công trình thuỷ lợi với giá bù lỗ; hỗ trợ xúc tiến thương mại;…
Trợ cấp trực tiếp đa số thuộc nhóm trợ cấp đèn đỏ, một số ít ở nhóm trợ cấp đèn vàng. Nhóm trợ
cấp trực tiếp không được khuyến khích áp dụng trong hoạt động thương mại quốc tế.
o Trợ cấp gián tiếp: Là hình thức nhà nước sử dụng các biện pháp kinh tế vĩ mô kết hợp
bảo hộ bằng các biện pháp quản lý hành chính để hỗ trợ xuất khẩu (Malaysia, Indonesia,
Thái Lan, ) như điều hoà cung cầu bằng các hỗ trợ về tài chính và thông qua hệ thống
kho đệm của chính phủ; giảm hoặc miễn thuế xuất khẩu, giúp nhà sản xuất tìm kiếm thị
trường, đầu tư vào khoa học kỹ thuật,…
2. Vai trò
Trong nền kinh tế hội nhập hiện nay. Hoạt động xuất khẩu chính là mũi nhọn để các nước nâng
cao con số tăng trưởng GDP của mình. Các nước áp dụng trợ cấp xuất khẩu vì nhiều lý do. Có
nước lập luận trợ cấp xuất khẩu để đảm bảo công ăn việc làm, hay để hỗ trợ vùng khó khăn,
v.v Tuy nhiên, mọi lý do biện minh cho trợ cấp xuất khẩu xét cho cùng cũng đều hướng tới
mục tiêu thực sự là để đẩy mạnh xuất khẩu thông qua tác động trung gian là cải thiện lợi thế cạnh
tranh xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu, v.v Đây chính là mục đích của chính sách trợ
giá.

a. Đối với quốc gia
• Trợ cấp có thể đóng vai trò quan trọng trong các chương trình phát triển kinh tế của các nước
đang phát triển, và trong sự chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh
tế thị trường.
• Tài trợ XNK giúp cho hoạt động ngoại thương được tiến hành trôi chảy, thuận lợi: thông qua
các hình thức tài trợ vốn tài trợ XNK giúp tạo dựng cơ sở tài chính và niềm tin giữa các đối
tác để các bên hoàn thành nghĩa vụ của mình. Khi hoạt động XNK được thực hiện thường
xuyên, liên tục, đáp ứng nhu cầu trong nước và quốc tế thì nó sẽ là động lực để tăng tính ổn
định của thị trường và tính năng động của nền kinh tế.
• Hoạt động tài trợ giúp cho doanh nghiệp phát triển, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở
rộng sản xuất góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 11
nghiệp, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, góp phần phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế
của đất nước.
• Tài trợ XNK cũng được coi là một trong những công cụ để triển khai có hiệu quả các chiến
lược phát triển kinh tế – chính trị – xă hội của quốc gia. Tài trợ XNK góp phần đáng kể hỗ
trợ cho các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế, cân bằng cán cân thanh toán, góp phần
mở rộng mối quan hệ đối ngoại với các quốc gia trên thế giới.
b. Đối với Doanh nghiệp
• Tài trợ XNK giúp cho doanh nghiệp thực hiện được các thương vụ quan trọng, phức tạp, cần
nguồn vốn lớn để thanh toán tiền hàng. Do doanh nghiệp muốn tiết kiệm chi phí vận chuyển
và thuận tiện trong giao nhận hàng hoá nên thường mua bán với số lượng, giá trị lô hàng rất
lớn. Trong trường hợp này, thông thường vốn lưu động của doanh nghiệp không đủ để đáp
ứng nhu cầu và phải cần đến nguồn vốn tín dụng của ngân hàng để thực hiện các hợp đồng
này một cách thuận lợi.
• Tài trợ XNK tạo tính an toàn cho hoạt động thương mại quốc tế vốn tiềm tàng rất nhiều rủi ro
cho cả doanh nghiệp XK cũng như doanh nghiệp nhập khẩu.
• Doanh nghiệp có cơ hội được thay đổi dây chuyền máy móc thiết bị nhằm tăng năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra sản phẩm phong phú đa dạng về mẫu mă, chủng loại để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân, mở rộng sản xuất kinh doanh, có

thể đứng vững trong cơ chế thị trường và tạo khả năng cạnh tranh trên cả thị trường trong
nước và quốc tế.
• Tài trợ XNK giúp doanh nghiệp tạo lập, nâng cao uy tín trên thị trường quốc tế: thông qua tài
trợ của ngân hàng, doanh nghiệp thực hiện thương vụ một cách trôi chảy, thiết lập được mối
quan hệ với những khách hàng tầm cỡ trên thế giới, từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp
trên thị trường thế giới.
3. Hậu quả
• Việc trợ giá hàng xuất khẩu còn vi phạm nguyên tắc hội nhập và sẽ bị coi là biểu hiện của
một cơ chế kinh tế phi thị trường. Vi phạm nguyên tắc này sẽ phải trả một cái giá rất đắt, thuế
xuất có thể bị đánh trả gấp đôi hoặc bị loại khỏi sân chơi quốc tế
• Tài trợ ngăn cản sự cạnh tranh bình đẳng giữa trong hoạt động thương mại quốc tế, những
nước có nguồn tài chính dồi dào giành cho tài trợ doanh nghiệp sẽ có lợi thế hơn trong cạnh
tranh.
• Việc trợ giá sẽ làm tụt giảm ngân sách nhà nước, làm giảm sự năng động cải tiến của lực
lượng sản xuất. Tài trợ làm giảm tính hiệu quả kinh tế. Ví dụ như Nhật Bản nền nông nghiệp
phát triển không hiệu quả nhưng nông dân Nhật Bản vẫn duy trì được khả năng cạnh tranh
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 12
với hàng nhập khẩu nhờ được hưởng nguồn tài trợ từ chính phủ lên đến 90% giá thành sản
xuất.
• Tạo ra môi trường phát sinh sự ỷ lại của doanh nghiệp, thủ tiêu cạnh tranh, bảo thủ và sự độc
quyền có điều kiện phát triển.
• Tài trợ lớn dẫn tới cản trở tự do hoá thương mại trên toàn cầu làm bóp méo hoạt động thương
mại quốc tế.
III. Thực trạng tài trợ của Việt Nam trong giai đoạn vừa
qua với hàng nông nghiệp và phi nông nghiệp
1. Tổng quan tình hình xuất nhập khẩu:
Tổng quan tình hình xuất, nhập khẩu nông lâm thủy sản tháng 5 năm 2011theo số liệu của Tổng
cục hải quan (TCHQ), tổng kim ngạch xuất nhập khẩu các mặt hàng nông lâm, thủy sản tháng
5/2011 đạt 3,4 tỷ USD, tăng 33% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, tổng kim ngạch xuất
khẩu đạt 1,9 tỷ USD, tăng 30% so với tháng 5/2010 và giảm 7% so với tháng 4 (Bảng 1.1).

Tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 1,4 tỷ USD, tăng 38% so với năm trước và tăng 18% so với tháng
trước.Thặng dư thương mại hàng hóa nông lâm sản của Việt Nam tháng 5 là 555,709 triệu USD
và bằng 28% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Tính chung cho 5 tháng thặng dư
thương mại toàn ngành đạt 3,87 tỷ USD, góp phần giảm nhập siêu cho cả nước.
Ngành trồng trọt vẫn đóng góp một vai trò quan trọng trong việc duy trì đà tăng trưởng chung
của xuất khẩu toàn ngành, chiếm đến 39%, đứng thứ hai là ngành thủy sản với 20%, kế tiếp là
các ngành chế biến các sản phẩm chăn nuôi.
Bảng I.1. Giá trị xuất khẩu tháng 5 năm 2011 phân theo ngành (1000 USD)
Các ngành chính GTXK
T5/2010
GTXK
5T/2010
GTXK
T4/2011
GTXK
T5/2011
GTXK
5T/2011
% so với
cùng kỳ
tháng trước
% so với cùng
kỳ năm trước
TỔNG GTXK 1.523.815 7.224.133 2.126.966 1.984.203 10.047.228 93 130
Trồng trọt 661.000 3.238.000 944.000 796.900 4.566.500 84 121
Chăn nuôi 70.200 267.500 88.800 97.476 418.762 110 139
Lâm nghiệp 347 1.821 666 608 2.613 91 175
Thủy sản 309.000 1.386.000 383.000 400.200 1.732.200 104 130
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 13
Chế biến nông sản 139.000 837.100 285.000 294.500 1.428.400 103 212

Chế biến chăn nuôi 243.000 266.244 321.000 288.200 327.326 90 119
Chế biến lâm sản 7.268 870.268 15.700 11.723 1.147.423 75 161
Đầu vào sản xuất 29.200 152.200 35.100 42.435 166.046 121 145
Các ngành khác 64.800 205.000 53.700 52.161 257.958 97 80
Nguồn: số liệu do Trung tâm Tin học và Thống kê (CIS) tổng hợp từ số liệu theo mã HS gửi
từ TCHQ
2. Các chính sách hỗ trợ Hộp xanh lá cây
Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ cho biết, mức đầu tư của Chính phủ cho ngành
nông nghiệp luôn rất rất lớn, hàng năm tăng trung bình 30% so với năm trước. Dự toán năm
2012, NSNN dành cho nông nghiệp là 308 nghìn tỉ đồng, chiếm tới 40,9% NSNN. Nền nông
nghiệp vững mạnh, niềm tin của nông dân và nông thôn ổn định chính là cơ sở để nền kinh tế vĩ
mô có thể sớm lấy lại được đà phục hồi.
Các chính sách Hộp xanh lá cây của Việt Nam thường tập trung vào những mục tiêu chính
sau đây:
• Thứ nhất, nhằm phát triển ngành nông nghiệp nói chung thông qua hỗ trợ nhóm dịch
vụ chung: dịch vụ cơ sở hạ tầng nông thôn, dịch vụ nghiên cứu khoa học, khuyến nông,
kiểm soạt dịch bệnh và các dịch vụ nông nghiệp khác.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, giai đoạn 2009 – 2011, nguồn vốn đầu tư cho
nông nghiệp, nông thôn đạt gần 290.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 52% tổng vốn đầu tư phát triển
từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ của cả nước.
Từ nguồn vốn trên, nhiều công trình cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân
nông thôn được đầu tư nâng cấp hiệu quả. Cụ thể, tổng năng lực tưới thiết kế của các hệ thống
thủy lợi cho gieo trồng lúa trong hơn 2 năm qua đã tăng thêm 289.000 ha, cho rau màu và cây
công nghiệp ngắn ngày tăng thêm 100.000 ha; năng lực tiêu thoát nước cho đất nông nghiệp tăng
thêm 100.000 ha…Các công trình giao thông nông thôn cũng được chú trọng đầu tư, đã mở mới
được gần 7.500 km; nâng cấp 29.500 km đường giao thông. Ngoài ra, các địa phương cũng xây
dựng được gần 3.000 cầu bê tông, 205 cầu liên hợp, gần 50.000 cống các loại…
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 14
Ngoài ra, mạng lưới bưu chính với khoảng 16.000 điểm giao dịch vẫn được duy trì; trong
đó có khoảng 7.640 điểm bưu điện văn hóa xã nhằm đảm bảo cung cấp dịch vụ thư cơ bản cho

người dân…
Dịch vụ nghiên cứu khoa học : Trong những năm gần đây, Bộ Nông nghiệp đã thay đổi
mạnh công tác quản lý khoa học công nghệ: về tổ chức, đã và đang gom bớt đầu mối từ vài chục
viện xuống còn 11 viện chính. Số cán bộ nghiên cứu khoa học tăng lên gần 8.000 người, cán bộ
khuyến nông tăng 33.000 người. Đầu tư xây dựng cơ bản và kinh phí cho nghiên cứu cũng tăng
mạnh, gấp 10 lần hơn mười năm trước
 Hỗ trợ lãi suất mua máy móc giảm tổn thất sau thu hoạch nông thủy sản
Ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ 100% lãi suất trong 2 năm đầu, từ năm thứ 3 là 50% lãi suất để
người dân vay mua các loại máy móc, thiết bị sản xuất trong nước nhằm giảm tổn thất sau thu
hoạch nông sản, thủy sản.
Việc cho vay do Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam thực hiện với mức
tiền vay tối đa bằng 100% giá trị hàng hóa.
 Đối tượng được vay vốn và hỗ trợ lãi suất
Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được vay vốn và hỗ trợ lãi suất bao gồm: Hợp tác xã, tổ hợp tác,
hộ gia đình, cá nhân có địa chỉ cư trú hợp pháp được UBND cấp xã xác nhận là cá nhân trực tiếp
sản xuất và phục vụ sản xuất; các doanh nghiệp có ký và thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản và
dịch vụ cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp với nông dân.
Quyết định cũng quy định cụ thể danh mục các loại máy móc, thiết bị được hỗ trợ gồm: 1- Các
loại máy làm đất, gieo cấy, trồng, chăm sóc, thu hoạch lúa, ngô, cà phê, chè, mía; máy sấy, vật
liệu cơ bản để làm sân phơi (lúa, ngô, cà phê, hạt điều, hồ tiêu) có diện tích đến 1000 m
2
; 2- Máy
móc, thiết bị dùng cho sản xuất giống thủy sản; vật tư, thiết bị xây dựng, cải tạo các ao (hồ) nuôi
thủy sản; thiết bị, phương tiện phục vụ nuôi trồng, thu hoạch và vận chuyển thủy sản; 3- Thiết bị
làm lạnh cấp đông, thiết bị sản xuất nước đá trên tàu cá, hầm bảo quản phục vụ khai thác dài
ngày trên biển.
Các máy móc, thiết bị nêu trên phải có giá trị sản xuất trong nước trên 60% và có nhãn hàng hóa
theo quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa.
Các dự án ứng dụng khoa học công nghệ về giảm tổn thất sau thu hoạch còn được đưa vào hạng
mục được hưởng cơ chế hỗ trợ chi phí chuyển giao công nghệ từ Quỹ Đổi mới công nghệ cao.

• Thứ hai, nhằm đảm bảo dự trữ quốc gia vì mục đích an ninh
lương
thực, dự trữ quốc
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 15
gia một số giống cây trồng quan trọng.
 Hỗ trợ xây dựng kho dự trữ 4 triệu tấn lúa, ngô
Quyết định 63/2010/QĐ-TTg nêu rõ, áp dụng lãi suất tín dụng đầu tư phát triển đối với 2 trường
hợp: 1- Đối với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân vay vốn để mua máy móc, thiết bị giảm tổn thất
sau thu hoạch gồm: thiết bị xay xát gạo có tỷ lệ thu hồi gạo nguyên cao (đến 70%); máy móc,
thiết bị chế biến ướt cà phê, các thiết bị xử lý nâng cao phẩm chất cà phê các các công trình xử lý
nước thải kèm theo 2- Đối với các dự án đầu tư xây dựng kho dự trữ 4 triệu tấn lúa, ngô, kho
lạnh bảo quản thủy sản (bao gồm cả kho lạnh trên tàu đánh bắt thủy sản), rau quả và kho tạm trữ
cà phê.
Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu tư các dự án xây dựng kho dự
trữ 4 triệu tấn lúa, kho lạnh bảo quản thủy sản, rau quả và kho tạm trữ cà phê theo quy hoạch còn
được miễn tiền thuê đất; được Nhà nước hỗ trợ 20% kinh phí giải phóng mặt bằng, 30% kinh phí
hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào và được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp
trong 3 năm đầu đi vào hoạt động và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo.
 Hỗ trợ 100% kinh phí mua giống lúa thử nghiệm lần đầu
Ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí cho 3 trường hợp: 1- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
mua giống để áp dụng thử nghiệm lần đầu đối với các giống lúa, ngô tiến bộ kỹ thuật có năng
suất, chất lượng cao; 2- Tổ chức, cá nhân mua bằng sáng chế để tự sản xuất hoặc phối hợp với
các tổ chức, cá nhân khác sản xuất các loại máy móc, thiết bị có khả năng ứng dụng rộng rãi
trong nước nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch; 3- Đăng ký sở hữu trí tuệ đối với những sản phẩm
sáng tạo của nông dân có khả năng ứng dụng rộng rãi trong nước được Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn hoặc Bộ Khoa học và Công nghệ quyết định công nhận.
Các dự án ứng dụng khoa học công nghệ về giảm tổn thất sau thu hoạch còn được đưa vào hạng
mục được hưởng cơ chế hỗ trợ chi phí chuyển giao công nghệ từ Quỹ Đổi mới công nghệ cao.
Ngày 17/2/2012, Thủ tướng Chính phủ quyết định bổ sung 92,2 tỷ đồng từ nguồn dự
phòng ngân sách Trung ương năm 2012 cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để mua bù

đủ 3.050 tấn hạt giống lúa; 310 tấn hạt giống ngô; 110 tấn hạt giống rau đưa vào dự trữ quốc gia.
Bộ NN&PTNT gửi văn bản đến các Bộ, ngành liên quan đề nghị tăng thêm cơ số dự trữ quốc
gia về nông nghiệp giai đoạn 2013-2015 để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét. Bộ NN&PTNT
đề xuất mua tăng thêm khoảng 400 tỷ đồng cho các mặt hàng như hóa chất sát trùng thủy sản, gia
súc, hạt giống rau, hạt giống lúa, ngô. Bên cạnh đó, cũng cần thêm khoảng 113 tỷ đồng để xây
dựng mới 2 kho dự trữ hạt giống cây trồng và một kho bảo quản thuốc thú y. Hiện, hệ thống kho
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 16
chứa dự trữ quốc gia về nông nghiệp đang thiếu nghiêm trọng, trong khi nhu cầu vật tư cho sản
xuất nông nghiệp ngày càng lớn.
5/1/2011 Nhằm tăng dự trữ quốc gia lúa, ngô giống năm 2011, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn giao cho Công ty cổ phần Giống cây trồng Trung ương tham gia đấu thầu mua 150 tấn
hạt giống lúa; 100 tấn hạt giống ngô.
Cùng với đó, Công ty cổ phần Giống cây trồng Trung ương thực hiện xuất đổi 1.500 tấn
hạt giống lúa và 300 tấn hạt giống ngô để đảm bảo chất lượng hàng dữ trữ. Bộ Nông nghiệp cũng
giao Công ty cổ phần Giống cây trồng vật nuôi Thừa Thiên Huế thực hiện và bảo quản số thuốc
bảo vệ thực vật đang dự trữ với kinh phí dự toán là 1 tỷ đồng.
• Thứ ba, nhằm chi hỗ trợ bù đắp hoặc giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai thông qua hỗ trợ
trực tiếp cho
người
nông dân.
Để hình thành và phát triển loại hình bảo hiểm nông nghiệp, ngày 1/3/2011, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 315/QĐ-TTg về việc thực hiện thí điểm bảo hiểm nông
nghiệp giai đoạn 2011-2013. Thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, từ ngày
01/10/2011, chương trình thí điểm bảo hiểm nông nghiệp giai đoạn 2011 – 2013 đã chính thức
được triển khai. Đã có 3 doanh nghiệp được phép triển khai hình thức bảo hiểm nông nghiệp, đó
là; Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt; Tổng công ty cổ phần Bảo Minh; Tổng công ty cổ phần Tái
bảo hiểm Quốc gia Việt Nam. Cũng đã có những hợp đồng với tổng trị giá hàng trăm tỷ đồng
được ký kết giữa các công ty bảo hiểm với các hộ nông dân.
Thực hiện chương trình thí điểm này, Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt đã và đang tiến
hành ký hợp đồng bảo hiểm cho các hộ nông dân, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh các sản

phẩm nông nghiệp cây lúa, vật nuôi và thuỷ sản và nhiều địa phương đã tích cực triển khai thực
hiện chương trình này. Thái Bình là một tỉnh thuộc diện thực hiện thí điểm bảo hiểm nông
nghiệp. Qua chuyến khảo sát thực tiễn của chúng tôi tại Thái Bình vào tháng 11/2011 cho thấy,
loại hình bảo hiểm này chưa được triển khai thực hiện. Tuy vậy, trong tháng 2/2012 vừa qua,
Thái Bình rất tích cực triển khai thực hiện loại hình bảo hiểm này. Thái Bình đã lựa 3 huyện đã
được chọn để thí điểm triển khai bảo hiểm cây lúa là Tiền Hải, Thái Thụy và Vũ Thư. Để hình
thức bảo hiểm này triển khai có hiệu quả cao, Thái Bình đã mở nhiều lớp tập huấn về thí điểm
bảo hiểm nông nghiệp do UBND huyện và Công ty Bảo Việt Thái Bình tổ chức. Tham gia buổi
tập huấn là các chủ tịch xã, kế toán ngân sách xã, chủ nhiệm và kế toán trưởng các hợp tác xã
dịch vụ nông nghiệp, các trưởng thôn, trưởng khu của các xã, thị trấn và một số ban, ngành khác
trong các xã, thị trấn. Mới đây nhất, đầu tháng 3/2012, Công ty Bảo Việt Nghệ An đã tổ chức ký
hợp đồng bảo hiểm cây lúa vụ đông xuân 2012 cho hơn 22.000 hộ nông dân trồng lúa tại huyện
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 17
Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu của Nghệ An với tổng giá trị sản xuất bảo hiểm lên tới gần
160 tỷ đồng. Hiện nay, toàn huyện Yên Thành có 7.328 hộ nông dân tham gia với tổng diện tích
tham gia bảo hiểm là 15.537 ha…. Theo phản ánh của nhiều phương tiện thông tin đại chúng,
nông dân ở huyện Diễn Châu rất khấn khởi sau khi nhận được giấy chứng nhận bảo hiểm. Người
nông dân an tâm hơn trong quá trình chăm lo sản xuất và mong muốn có được chỗ dựa trong sản
xuất nông nghiệp.
Theo thông tin từ Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh, doanh nghiệp này cũng đã tiến hành
triển khai sản phẩm bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nông nghiệp theo chỉ số (thí điểm đối với rủi
ro hạn hán) cho người trồng cà phê tại tỉnh Đắc Lắk. Để triển khai hoạt động này, Tổng Công ty
Cổ phần Bảo Minh đã phối hợp với nhóm tư vấn thuộc Quỹ Ford Foundation do Công ty
GlobalAgRisk (Hoa Kỳ) chủ trì để phát triển sản phẩm bảo hiểm cho cây cà phê. Loại hình bảo
hiểm này được thực hiện theo hình thức ký hợp đồng bảo hiểm với mỗi nông hộ được dựa vào
việc đo lường tổng lượng mưa tại trạm đo mưa được chỉ định cho từng vùng được bảo hiểm. Nếu
tổng lượng mưa trong suốt thời hạn bảo hiểm đo được tại trạm đo mưa xuống thấp hơn một
ngưỡng nhất định được thống nhất từ trước, Bảo Minh sẽ trả tiền bồi thường cho người nông
dân. Thời hạn bảo hiểm được tính từ ngày 31/3 hàng năm đến ngày 10/5 của cùng năm đó.
Nhìn chung, loại hình bảo hiểm nông nghiệp bước đầu đã hình thành và phát triển ở một

số địa phương, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đạt được hiệu quả như mong đợi. Nguyên
nhân chủ yếu của các hạn chế trên là do: mức phí bảo hiểm cao, không hấp dẫn người dân. Đối
với doanh nghiệp bảo hiểm, chi phí bồi thường, chi phí quản lý, chi giám định tổn thất, chi bán
bảo hiểm cao,… dẫn đến các doanh nghiệp bảo hiểm ít có động lực triển khai. Do quy mô sản
xuất nhỏ, manh mún, kỹ thuật canh tác lạc hậu, thu nhập thấp, người nông dân sẵn sàng chấp
nhận rủi ro và chưa có ý thức tham gia bảo hiểm hoặc chỉ mua bảo hiểm khi rủi ro chắc chắn xảy
ra. Đây là rào cản lớn cho việc triển khai. Thiếu sự phối hợp giữa chính quyền, doanh nghiệp và
nông dân trong tuyên truyền, khai thác bảo hiểm, giám định và bồi thường thiệt hại…
Có thể thấy, bảo hiểm nông nghiệp là công cụ tài chính quan trọng và hiệu quả trong việc
bù đắp cho nông dân bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh trong sản xuất. Những thành công bước
đầu trong việc hình thành và phát triển loại hình bảo hiểm nông nghiệp ở một số địa phương hiện
nay là điều kiện tiền đề quan trọng để nhân rộng loại hình bảo hiểm này và cũng là những kinh
nghiệm để các cấp, các ngành, các doanh nghiệp,… đẩy mạnh việc triển khai bảo hiểm nông
nghiệp ở nước ta, góp phần duy trì sự phát triển ổn định sản xuất nông nghiệp, bảo đảm an sinh
xã hội nông thôn.
• Thứ tư, hỗ trợ nhằm phát triển các địa bàn vùng sâu, vùng xa có điều kiện kinh tế xã
hội còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo cao.
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 18
Trạm Khuyến nông phối hợp với Phòng Dân tộc huyện tổ chức 25 lớp tập huấn bồi
dưỡng cộng đồng về kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt cho 1.200 nông dân vùng cao, vùng sâu, vùng
xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn.
Tháng 8/2012, theo đó, Trạm Khuyến nông đã giao 250 con lợn nái Móng cái cho 250
hộ, 156 con lợn nái F1 cho 156 hộ và 310 chiếc máy bơm nước cho 310 hộ. Tổng kinh phí thực
hiện 1,7tỷ đồng. Sau khi được kiểm dịch chặt chẽ, tiêm phòng các loại bệnh cần thiết, số lợn
giống trên đã được Trạm Khuyến nông huyện trao tận tay cho những hộ gia đình có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn để phát triển kinh tế, ổn định đời sống, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo của địa
phương, cùng với số máy bơm được cấp phát đã động viên bà con tích cực tham gia sản xuất,
vươn lên thoát nghèo và chung tay xây dựng nông thônngày một đổi mới.
3. Tín dụng trợ cấp xuất khẩu
TGĐ Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) cho biết, sau 5 năm hoạt động, tổng dư nợ

tín dụng đầu tư của VDB đến 31/12/2010 khoảng 90 nghìn tỷ đồng, đạt tốc độ tăng bình quân
20%/năm, chiếm 3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Theo đó, VDB đang quản lý 2.445 dự án (DA) với tổng số vốn vay theo hợp đồng tín
dụng là 168.846 tỷ đồng, trong đó có 106 dự án nhóm A với số vốn vay 73.583 tỷ đồng. Ngoài
ra, trong 5 năm qua, VDB còn cho vay khoảng 5 tỷ USD tín dụng xuất khẩu.
Trong 5 năm qua, VDB huy động thêm được 180 nghìn tỷ đồng, tương đương 9,6% tổng vốn đầu
tư toàn xã hội, chủ yếu thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ hoặc trái phiếu VDB do Chính
phủ bảo lãnh. Một nguồn vốn khác chiếm tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu nguồn của VDB là quản
lý vốn ODA và các quỹ quay vòng của Chính phủ với con số khoảng 9,5 tỷ USD.
Theo thống kê từ Bộ Tài chính, việc thực hiện gia hạn, miễn, giảm thuế đến hết tháng
7/2012 đối với thuế giá trị gia tăng đã thực hiện gia hạn số thuế phải nộp của các tháng 4, 5 và
6/2012 cho khoảng 200.000 lượt doanh nghiệp, với tổng số tiền thuế gia hạn xấp xỉ 10.000 tỉ
đồng. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, giải quyết gia hạn nợ thuế cho khoảng 8.260 doanh
nghiệp, với tổng số thuế gần 350 tỷ đồng.
Về chính sách giảm một nửa tiền thuê đất năm 2012 đã thực hiện cho khoảng 3.000
doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại, dịch vụ, với tổng số tiền gần 340 tỉ đồng. Về
miễn thuế môn bài năm 2012 đối với hộ đánh bắt hải sản và hộ làm muối có khoảng 40.000 hộ,
với tổng số tiền thuế được miễn và hoàn khoảng 10,6 tỷ đồng.
Cũng tính đến tháng 7, Bộ đã sớm hoàn thành việc phân bổ 2.000 tỷ đồng bổ sung nguồn vốn
cho vay đầu tư kiên cố hoá kênh mương, phát triển đường giao thông nông thôn, trạm bơm điện
phục vụ sản xuất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản và làng nghề ở nông thôn.
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 19
Về tổng chi cân đối ngân sách Nhà nước, luỹ kế 7 tháng đầu năm đạt 498.160 tỷ đồng,
bằng 55,2% dự toán, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2011. Con số này theo đánh giá của Bộ Tài
chính là đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành
chính, chi trả nợ, chi cải cách tiền lương và có tính chất tiền lương, an sinh xã hội, khắc phục hậu
quả thiên tai.
Tính đến hết tháng 7, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước giải ngân ước đạt khoảng 50,7% dự
toán, vốn trái phiếu Chính phủ giải ngân ước đạt 36,7% kế hoạch.
Hiện tại, tình hình kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhìn chung đã có

khởi sắc hơn.
IV. CAM KẾT WTO VỀ GIẢM TÀI TRỢ KHI GIA NHẬP
WTO
1. Trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp
Quy định của WTO: Do các chính sách trợ cấp xuất khẩu có tính bóp méo thương mại
nhiều nhất nên WTO quy định chặt chẽ đối với nhóm này. Về nguyên tắc, WTO nghiêm cấm trợ
cấp xuất khẩu. Nếu nước thành viên WTO có trợ cấp xuất khẩu thì phải cam kết cắt giảm.
Có 6 hình thức trợ cấp xuất khẩu:
1) Trợ cấp trực tiếp cho người sản xuất hàng xuất khẩu.
2) Bán thanh lý hàng nông sản dự trữ cho xuất khẩu với giá rẻ hơn.
3) Tài trợ các khoản chi trả cho xuất khẩu, kể cả phần được tài trợ từ nguồn thu thuế, các
khoản được để lại.
4) Trợ cấp cho nông sản dựa theo tỷ lệ xuất khẩu
5) Trợ cấp để giảm chi phí tiếp thị, kể cả chi phí xử lý, nâng cấp, tái chế sản phẩm, chi phí
vận tải quốc tế, cước phí vận chuyển.
6) Ưu đãi về cước phí vận tải trong nước và quốc tế đối với hàng xuất khẩu hơn hàng nội
địa.
Trong giai đoạn thực hiện, các nước đang phát triển được phép áp dụng 2 loại trợ cấp 5 và
6.
Cam kết của ta: Nước ta đã cam kết bỏ trợ cấp xuất khẩu ngay khi gia nhập WTO; Bảo
lưu được quyền áp dụng điều khoản đối xử đặc biệt và khác biệt (S & D) dành cho các nước
đang phát triển trong lĩnh vực này, nghĩa là là được phép áp dụng 2 loại trợ cấp nêu trên.
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 20
4. Trợ cấp xuất khẩu trong công nghiệp
Tương tự các sản phẩm nông sản, đối với sản phẩm phi nông sản, có 3 nhóm trợ cấp:
Nhóm hộp đỏ là trợ cấp cấm được áp dụng (gồm trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp thay thế nhập
khẩu). Nhóm hộp vàng là trợ cấp riêng biệt cho một ngành, gây bóp méo thương mại, không bị
cấm áp dụng nhưng có thể bị “trả đũa”. Nhóm hộp xanh là trợ cấp được coi là ít gây bóp méo
thương mại. Tuy nhiên, WTO cũng có những ngoại lệ dành cho các nước đang và kém phát triển.
Việt Nam cam kết bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo qui định của WTO (trợ cấp gắn

với thành tích xuất khẩu và trợ cấp gắn với tỷ lệ nội địa hoá). Tuy nhiên, với các ưu đãi đầu tư
dành cho sản xuất hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, Việt Nam bảo lưu được thời
gian quá độ là 5 năm (trừ ngành dệt may).
V. Tình trạng doanh nghiệp Việt Nam khi chính phủ giảm
hoặc không tài trợ theo tinh thần WTO
1. Cơ hội
Thực hiện đúng cam kết cắt giảm tài trợ xuất khẩu sẽ giúp thúc đẩy quá trình hội nhập
của Việt Nam, Việt Nam sẽ được các Thành viên WTO dành đối xử MFN đầy đủ và lâu dài ,và
điều này là một cải thiện đáng kể. Giúp giảm sự phân biệt đối xử, tạo thuận lợi cho một số ngành
cụ thể trong nền kinh tế Việt Nam. Các chính sách ngày càng thống nhất đối với tất cả các ngành
từ lâu đã là mục tiêu của quá trình tự do hóa thuế quan trong các vòng đàm phán liên tiếp của
GATT. Trên thực tế, các mức thuế thống nhất sẽ góp phần làm giảm sự khác biệt giữa mức thuế
bảo hộ thực tế (tức là bảo hộ giá trị gia tăng) trong các ngành khác nhau và do đó cải thiện việc
phân bổ các nguồn lực. Điều này đặc biệt đúng đối với một nền kinh tế đang trong giai đoạn
chuyển đổi như Việt Nam, nơi mà hệ thống chính trị đang tiếp tục phát triển. Như kinh nghiệm
của nhiều nền kinh tế chuyển đổi đã chỉ ra, với việc các cơ quan quản lý đang thay đổi bản chất
của mình, các nhóm ngành thường thành lập các nhóm vận động hành lang nhiều quyền lực và
nếu như không được kiểm tra, giám sát, có thể các ngành này sẽ được Chính phủ dành được lợi
ích đặc biệt (Olson, 2000, McMenamin, 2002, Kostecki, 2007). Rủi ro của các hành vi tìm kiếm
lợi ích đó tại Việt Nam được giảm thiểu nhờ các quy tắc cụ thể của WTO.
Gia nhập WTO chúng ta có thể thâm nhập vào thị trường nông sản thế giới ( có kim
ngạch tới 548 tỷ USD/ năm ). Nông sản, thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ chịu mức hàng rào
thuế quan thấp nhất, nhiều hàng rào phi thuế quan sẽ được bãi bỏ. Đem lại cơ hội để đảm bảo
việc thực hiện các bước tự do hóa cơ chế thương mại thông qua chấp nhận các nghĩa vụ ràng
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 21
buộc về mặt pháp lý đối với các mức thuế, loại bỏ các hạn chế định lượng hoặc loại bỏ trợ cấp
(Michalopoulos,2002).
Tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Nhà nước tiếp cận thị trường rộng lớn hơn với cùng
một chế độ đối xử như đối với mọi thành viên khác của tổ chức, những cam kết giảm trợ cấp, mở
rộng hạn ngạch xuất khẩu của các nước, nhất là nhóm nước phát triển có thể giúp Việt Nam

giành được nhiều thị trường hơn, tăng xuất khẩu nhiều hơn các mặt hàng nông sản và dệt may.
Các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam sẽ có tiếng nói mạnh hơn, có quyền thương lượng và
khiếu nại công bằng hơn với các cường quốc thương mại trong tranh chấp dựa trên những luật lệ
chung.
Thúc đẩy quá trình tự do hóa nhập khẩu, từ đó cho phép tiếp cận với các đầu vào nhập
khẩu (công nghệ, trang thiết bị và phương pháp quản lý hiện đại) cũng như hàng hóa tiêu dùng
đa dạng và rẻ hơn; các đầu vào nhập khẩu rất quan trọng đối với một nền kinh tế đang hiện đại
hóa nhanh chóng như Việt Nam. Các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói
riêng tham gia vào quá trình sản xuất sẽ có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn nguyên vật liệu đầu vào
đa dạng hơn, ở mức chi phí và chất lượng hợp lý. (do hạ thấp hàng rào thuế quan)
Nông dân sẽ biết được từng lộ trình cắt giảm thuế xuất khẩu, khi nào mặt hàng nào có
thuế bằng 0% để định hướng phát triển theo tinh thần cạnh tranh về chất lượng và giá cả.Việc
đẩy mạnh xuất khẩu sẽ đem lại cơ hội đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến nông sản, từ đó mà
nâng cao được năng lực cạnh tranh của các sản phẩm. Dưới sức ép của luồng hàng nhập khẩu
mạnh mẽ, các doanh nghiệp chế biến hàng nông lâm thủy sản buộc phải phấn đấu vươn lên để
nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất. Cũng như mọi thành phần xã hội khác người nông dân
cũng sẽ được tự do lựa chọn rất nhiều mặt hàng phong phú và có chất lượng cao của toàn thế
giới. Việc gia nhập WTO thúc ép việc biến nông thôn thành sân sau của sản xuất công nghiệp và
thương mại. Không thể tồn tại mãi 11 triệu hộ tiểu nông sản xuất nhỏ mà phải có những liên
minh Ba nhà, Bốn nhà với các doanh nghiêp, các nhà đầu tư, các nhà khoa học để đẩy mạnh việc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta.
Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO mặc dù là để hạn chế các hình
thức trợ cấp nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các thành viên, nhưng cũng không phải mọi
hoạt động trợ cấp đều bị cấm. Điều đó có nghĩa: mọi quốc gia là thành viên của WTO vẫn đang
duy trì trợ cấp. Và thực tế cho thấy không thành viên nào của WTO dù là nước có nền kinh tế
đang phát triển hay phát triển tại thời điểm này lại không duy trì việc trợ cấp doanh nghiệp, song
đó là những trợ cấp riêng mà SCM không hạn chế vì nó là “trợ cấp đèn xanh”; hay có thể là “trợ
cấp đèn vàng”, nhưng được đối tác thương mại chấp nhận không sử dụng các biện pháp đối
kháng. Ta chỉ bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa, các loại trợ cấp "hộp vàng", "hộp
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 22

hổ phách”, “hộp xanh" vẫn được duy trì và ta hoàn toàn có thể chuyển số tiền trợ cấp xuất khẩu
và trợ cấp nội địa hóa trước đây sang phát triển thủy lợi, kiện toàn giao thông nông thôn, nâng
cao chất lượng giống, phát triển công nghệ sau thu hoạch, xây dựng các kho lạnh cho hàng thủy
sản và kho đệm để dự trữ lúa, cà phê cho bà con nông dân v v. Tóm lại, các hình thức trợ cấp là
rất đa dạng và đại đa số là được phép theo quy định của WTO. Vấn đề là chọn loại nào, hỗ trợ
cho "gốc" (mang tính bền vững) hay cho "ngọn" (mang tính tình thế), áp dụng cho đối tượng
nào, mức độ là bao nhiêu và trong thời gian bao lâu để vừa thúc đẩy được sản xuất nhưng cũng
nâng cao được hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Các cam kết về trợ cấp của ta
trong đàm phán gia nhập WTO đã được xây dựng trên quan điểm đó và hoàn toàn không bỏ qua
quyền lợi của nông dân.
Việt Nam là nước đi sau, chúng ta sẽ học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước mà điển
hình là Trung Quốc hay các nước láng giềng trong khu vực ASEAN kết hợp với lợi thế kinh tế
(cả tuyệt đối và so sánh) để duy trì những loại hình trợ cấp thích hợp không bị hạn chế khi gia
nhập WTO;đồng thời thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững. Hiện các doanh
nghiệp Việt Nam đang được hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ bằng nguồn vốn ưu đãi xuất khẩu từ
Quỹ Hỗ trợ phát triển để giảm chi phí, dẫn tới giảm giá thành và tăng khả năng cạnh tranh của
hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Trong tương lai sẽ không còn hỗ trợ trực tiếp này nữa,
nhưng có thể các doanh nghiệp sẽ vẫn được chính phủ hỗ trợ thông qua tài trợ cho hoạt động
nghiên cứu và phát triển (R&D) hay cho hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển khu vực
(thuộc loại trợ cấp đèn xanh). Khi đó các doanh nghiệp Việt Nam sẽ lại có khả năng cạnh tranh
thông qua khía cạnh khác như chất lượng sản phẩm, mẫu mã sản phẩm hay thị trường tiêu thụ
2. Thách thức
Khi hàng rào bảo hộ bị thu hẹp, sản xuất trong nước sẽ phải đối diện với mức độ cạnh
tranh lớn hơn từ bên ngoài. Không loại trừ khả năng sẽ có biến động ở một số ngành, nhất là
những ngành mà tính linh hoạt trong chuyển đổi không cao. Một số ngành bị ảnh hưởng bất lợi
có thể sẽ phải thu hẹp hoặc chuyển hướng sản xuất có thể dẫn đến một số biến động cục bộ về
sản xuất, lao động- việc làm. Sức ép về chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực có thể sẽ lớn
hơn và gấp gáp hơn. Quá trình này tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã
hội. Thách thức ở đây là đề ra được những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường tính năng động
và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an

sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn hạn, tạo dựng được môi trường để quá trình
chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực diễn ra hợp lý hơn, với chi phí thấp hơn và do đó, hiệu
quả hơn.
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 23
Phải liên tục hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để bảo đảm một môi trường cạnh
tranh lành mạnh và công bằng. Sau đó, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để phát
huy mọi nguồn lực trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tính năng động và khả năng
thích ứng nhanh, những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế thế giới, nhất là sau khi gia nhập WTO còn đặt ra vấn đề sản phẩm nông
nghiệp nước ta cạnh tranh như thế nào với cả thế giới về giá cả, chất lượng, điều kiện lao động,
vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường , nhất là các nước phát triển thường hỗ trợ cho sản phẩm
nông nghiệp của họ tới 30 - 40% giá thành và nhiều dịch vụ kỹ thuật khác. Nông dân nước ta sẽ
phải cạnh tranh quyết liệt trên thị trường cả ngoài nước lẫn trong nước. Các giống lúa của nước
ta được mặt này thì hỏng mặt kia ( cao sản thì dễ đổ, chất lượng gạo ngon thì lép nhiều và kháng
bệnh kém. Nông dân không mặn mà với giống mới vì phải mua với giá cao trong khi vẫn bán ra
theo giá bình thường. Công nghệ sau thu hoạch của ta còn rất bất cập, trong khi cam Mỹ. quýt
Thái Lan sau cả tháng vẫn tươi nguyên. Theo Bộ NN&PTNT thì thất thoát sau thu hoạch về lúa
thường là 10-17%, có nơi tới 30% (!). Vì thiếu sân phơi nên gạo phải sấy sau khi xát và dẫn đến
gãy nát, xỉn màu.
WTO quy định Việt Nam sẽ không được tiếp cận với "cơ chế tự vệ đặc biệt" nhằm giảm
thiểu tác động gây đột biến nhập khẩu đối với giá cả các mặt hàng chăn nuôi như thịt bò, thịt
heo. Khi giá nhập khẩu giảm, thịt bò, thịt heo, thịt gà của các nước Mỹ, Nhật, Úc .v.v sẽ vào thị
trường nước ta với giá rẻ hơn, chất lượng thịt lại ngon hơn, mẫu mã hàng hóa hấp dẫn hơn.
Trong lúc đó nông sản Việt Nam giá trị gia tăng thấp. Đó là khó khăn lớn cho ngành nông nghiệp
và bà con nông dân nước ta. Các mặt hàng nông sản chế biến trong nước sẽ bị cạnh tranh gay gắt
hơn, có thể bị "thua trên sân nhà"!
Bên cạnh đó, công nghiệp điện tử lại đang phải đối mặt với nhiều khó khăn do việc suy giảm thị
trường tại các nước nhập khẩu, thị trường trong nước đang đứng trước nhiều khó khăn do sự
cạnh tranh khốc liệt đến từ hàng hóa điện tử của Trung Quốc với giá thành rẻ và chất lượng ngày
càng được nâng cao…

Năm 2012 có nhiều cơ hội, nhưng cũng đặt ra nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt đối
với các thị trường Xuất khẩu của Việt Nam. Hiện nợ công ở khu vực đồng tiền chung châu Âu
hoặc những dấu hiệu của kinh tế Hoa Kỳ, những tác động của thị trường EU cũng đã “lây” sang
thị trường châu Á và tác động lớn đến thị trường tiêu thụ hàng hóa XK của Việt Nam, kể cả đối
với những mặt hàng nông lâm thủy sản, công nghiệp chế biến, hàng tiêu dùng hay những mặt
hàng Việt Nam có lợi thế.
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 24
Chỉ tiêu Chính phủ đặt ra cho ngành Công Thương là phấn đấu đạt mức tăng trưởng XK 13%
trong năm 2012. Chỉ tiêu này so với mức tăng trưởng năm 2011 không quá cao, nhưng những
thách thức đang đặt ra đối với ngành Công Thương nói chung, cũng như đối với các thương vụ
Việt Nam ở nước ngoài nói riêng là hết sức nặng nề.
VI. PHÂN TÍCH VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP
Trong bối cảnh hội nhập, xu hướng thặng dư thương mại giảm được dự báo sẽ diễn ra gay gắt.
Giai đoạn từ 2004 thâm hụt thương mại là 5,4 tỷ USD và có xu hướng tăng lên qua các năm; đến
10/2010, thâm hụt thương mại là 9,4 tỷ USD.
Một mô hình đơn giản về xuất khẩu của Việt Nam trong tương quan với nhu cầu nhập khẩu của
thế giới hoặc một bạn hàng lớn theo các trục tung và hoành. Đối với một hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam có thể ở một trong bốn góc phần tư. Những hàng hóa nằm ở góc phần tư thứ II được
coi là triển vọng lúc đó cả xuất khẩu của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu đều tăng. Và ngược lại
đối với trường hợp góc phần tư thứ IV. Ở góc phần tư thứ I, lúc đó hàng Việt Nam đang bị cạnh
tranh, suy giảm mặc dù nhu cầu thị trường vẫn tăng. Ở góc phần tư thứ III, hàng Việt Nam cạnh
tranh và thâm nhập mạnh vào thị trường bất chấp suy giảm chung của thị trường.
Lớp Ngoại thương 3 – K36 | 12/09/2012 25

×