TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế
TIỂU LUẬN
PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG THANH TOÁN THẺ Ở
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
Hà nội, tháng 9 năm 2012
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẺ NGÂN HÀNG 3
1.1 Sự ra đời và phát triển của thẻ trên thế giới 3
1.2 Khái niệm, đặc điểm cấu tạo và phân loại thẻ ngân hàng 5
1.2.3.2 Theo tính chất thanh toán của thẻ 7
1.2.3.4 Theo đối tượng sử dụng 7
1.3 Nghiệp vụ phát hành thẻ và hoạt động thanh toán 8
Chủ thẻ 8
Ngân hàng thanh toán thẻ 8
Đơn vị chấp nhận thẻ 8
Tổ chức thẻ quốc tế 9
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG THANH TOÁN THẺ TẠI CÁC NGÂN HÀNG TẠI VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 11
2.1Thực trạng thẻ ngân hàng ở Việt Nam giai đoạn 2006-2011 11
1.Hoạt động phát hành thẻ 12
2.2 Thực trạng hoạt động thanh toán thẻ 18
2.2 Đánh giá hoạt động phát hành và thanh toán thẻ ngân hàng ở Việt Nam 24
2.2.1 Ưu điểm 24
Tiện lợi 24
Là một công cụ tín dụng nhỏ và gọn nhẹ thay cho tiền mặt chấp hành chức năng phương
tiện lưu thông, thẻ ngân hàng tạo cho khách hàng tiện lợi mà ít có công cụ thanh toán nào có
thể sánh được. Đặc biệt, trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, thẻ ngân hàng có thể dùng để
thanh toán ở bất cứ nơi nào mà không cần đem theo tiền mặt hay séc du lịch, không phụ
thuộc vào quy mô số tiền họ cần thanh toán. Thẻ được coi như là công cụ thanh toán ưu việt
nhất trong số các công cụ thanh toán phi thương mại 25
An toàn 26
Linh hoạt 27
Tạo lợi ích cho các chủ thể tham gia thị trường thẻ 27
2.2.2 Hạn chế 29
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG THANH TOÁN
THẺ Ở CÁC NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM 33
3.1 Giải pháp phát triển thẻ thanh toán ở VN 33
3.2 Định hướng phát triển hệ thống thanh toán thẻ ngân hàng tại Việt Nam trong thời gian tới
37
Kết luận 42
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẺ
NGÂN HÀNG
1.1 Sự ra đời và phát triển của thẻ trên thế giới
Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, nhu cầu tiêu
dùng cũng vì thế phát triển mạnh, qua đó nhu cầu thanh toán nhanh chóng và thuận tiện trở thành
một yêu cầu của khách hàng đối với ngân hàng. Điều này gây áp lực lên các ngân hàng đòi hỏi
các ngân hàng phải nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán của mình nhằm cung cấp cho khách
hàng dịch vụ thanh toán tốt nhất. Cũng trong thời gian đó, khoa học kỹ thuật thế giới đã có
những bước tiến đáng kể trong lĩnh vực thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng, các
tổ chức tín dụng phát triển và hoàn thiện phương thức thanh toán của mình, trong đó phải kể đến
sự ra đời và phát triển của hình thức thanh toán bằng thẻ.
Những hình thức sơ khai của thẻ xuất hiên lần đầu ở Mỹ vào những năm 1920 dưới cái
tên tạm gọi là “đĩa mua hàng” (shooper’s plate). Người chủ sở hữu của loại “đĩa” này có thể mua
hàng tại cửa hiệu phát hành ra chúng và hàng tháng họ phải hoàn trả tiền cho chủ cửa hàng vào
một ngày cố định, thường là cuối tháng. Thực chất ở đây chính là việc người chủ cửa hàng đã
cấp tín dụng cho khách hàng bằng cách bán chịu, mua hàng trước và trả tiền sau.
Tuy nhiên, thẻ ngân hàng lại ra đời một cách ngẫu nhiên vào năm 1940 với tên gọi đầu
tiên là thẻ DINNERS CLUB do ý tưởng của một doanh nhân người Mỹ là Frank Mc Namara.
Năm 1950 chiếc thẻ nhựa đầu tiên được phát hành, những người có thẻ DINNERS CLUB này có
thể ghi nợ khi ăn tại 27 nhà hàng tại thành phố New York và phải chịu một khoản lệ phí hàng
năm là 5USD. Những tiện ích của chiếc thẻ ngay lập tức gây được sự chú ý và đã chinh phục
một lượng đông đảo khách hàng do họ có thể mua hàng trước mà không cần phải trả tiền ngay.
Còn đối với những nhà bán lẻ, tuy phải chịu mức chiết khấu là 5% nhưng doanh thu của họ tăng
đáng kể do lượng khách hàng tiêu dùng tăng lên rất nhanh. Đến năm 1951, hơn 1 triệu đôla được
ghi nợ, doanh số phát hành thẻ ngày càng tăng và công ty phát hành thẻ DINNERS CLUB bắt
đầu có lãi. Một cuộc cách mạng về thẻ diễn ra ngay sau đó đã nhanh chóng đưa thẻ trở thành một
phương tiện thanh toán mang tính toàn cầu. Tiếp nối thành công của thẻ DINNERS CLUB, hàng
loạt các công ty thẻ như Trip Change, Golden Key, Esquire Club ra đời. Phần lớn các thẻ này
trước hết được phát hành nhằm phục vụ giới doanh nhân, nhưng sau đó các ngân hàng nhận thấy
rằng giới bình dân mới là đối tượng sử dụng thẻ trong tương lai.
Năm 1960, Bank of America cho ra đời sản phẩm thẻ đầu tiên của mình là
BANKAMERICARD. Đến năm 1966, 14 ngân hàng hàng đầu của Mỹ thành lập Interbank, một
tổ chức mới với chức năng là đầu mối trao đổi các thông tin về giao dịch thẻ. Ngay sau đó, vào
năm 1967, 4 ngân hàng bang California đổi tên từ Bank Card Association thành Western State
Bank Card Association và tổ chức này đã liên kết với Interbank cho ra đời thẻ MASTER
CHARGE, loại thẻ này đã nhanh chóng trở thành một đối thủ cạnh tranh lớn của
BANKAMERICARD. Đến năm 1977, tổ chức BANKAMERICARD đổi tên thành VISA USD
và sau đó là tổ chức thẻ quốc tế VISA. Năm 1979, tổ chức thẻ MASTER CHARGE đổi tên thành
MASTER CARD. Hiện nay, 2 tổ chức này vẫn đang là 2 tổ chức thẻ lớn mạnh và phát triển nhất
trên thế giới.
Hình thức thanh toán thẻ nhanh chóng được ứng dụng rộng rãi ở các châu lục khác ngoài
Mỹ, năm 1960 chiếc thẻ nhựa đầu tiên có mặt tại Nhật báo hiệu sự phát triển của thẻ ở Châu Á.
Chiếc thẻ nhựa đầu tiên do ngân hàng Barcaly Bank phát hành ở Anh năm 1966 cũng mở ra một
thời kì sôi động cho hoạt động thanh toán thẻ tại Châu Âu.
Tại Việt Nam, chiếc thẻ đầu tiên được chấp nhận là vào năm 1990 khi VCB kí hợp đồng
làm đại lí chi trả thẻ VISA với ngân hàng Pháp BFCE và đây đã là bước khởi đầu cho dịch vụ
này phát triển ở Việt Nam.
Ngày nay, thẻ ngân hàng đã có mặt ở khắp nơi trên thế giới với những hình thức và chủng
loại đa dạng, đáp ứng đầy đủ những nhu cầu riêng lẻ của người tiêu dùng. Cùng với sự phát triển
của 2 tổ chức thẻ quốc tế là VISA và MASTER, một loạt các tổ chức thẻ mang tính quốc tế khác
nối tiếp xuất hiện như: JCB, American Epress, Airplus, Maestro, Eurocard, Sự phát triển mạnh
mẽ này đã khẳng định xu thế phát triển tất yếu của thẻ. Các ngân hàng và công ty tài chính luôn
tìm cách cải thiện sao cho càng ngày thẻ càng dễ xử dụng và cung cấp những dịch vụ thanh toán
tiện lợi nhất cho người tiêu dùng. Hiện nay, người sử dụng thẻ có thể sử dụng thẻ trên hầu hết
các nước trên thế giới, họ không còn lo việc chuyển đổi sang đồng tiền nội địa khi đi ra nước
ngoài.
1.2 Khái niệm, đặc điểm cấu tạo và phân loại thẻ ngân hàng
1.2.1 Khái niệm thẻ
Thẻ ngân hàng là một công cụ tín dụng do tổ chức tài chính phát hành và cấp cho
khách hàng (gọi là chủ thẻ), trong đó dành quyền cho khách hàng có thể dùng nó nhiều lần
để rút tiền mặt cho chính mình hoặc ra lệnh rút một số hoặc tất cả số tiền hiện có trên tài
khoản mở ở tổ chức phát hành thẻ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ cho các đơn vị chấp
nhận thẻ (người cung ứng dịch vụ, hàng hóa).
Quy chế Phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng
được ban hành kèm theo quyết định 20/2007/QĐ-NHNN định nghĩa thẻ ngân hàng như sau: Thẻ
ngân hàng là phương tiện do tổ chức phát hành thẻ phát hành để thực hiện giao dịch thẻ theo
các điều kiện và điều khoản được các bên thoả thuận.
Theo đó, tổ chức phát hành thẻ có thể là ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ
chức tín dụng hợp tác, tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng được phép phát hành thẻ theo
quy định của Quy chế. Giao dịch thẻ là việc sử dụng thẻ để gửi, nạp, rút tiền mặt, thanh toán tiền
hàng hoá, dịch vụ, sử dụng các dịch vụ khác do tổ chức phát hành thẻ, tổ chức thanh toán thẻ
cung ứng.
Thẻ ngân hàng có những điểm khác biệt so với séc và nó có những ưu điểm như sau:.
Tính tiện ích: Thẻ ngân hàng có thể sử dụng để thanh toán ở bất cứ ở nơi nào, đặc
biệt trong thanh toán quốc tể, người ta không cần mang theo tiền mặt hay séc du lịch, không phụ
thuộc vào quy mô số tiền họ cần thanh toán.
Tinh an toàn và nhanh chóng: Chủ thẻ có thể trực tiếp tiếp cận với tài khoản của
mình mở tại ngân hàng từ hệ thống chuyển tiền điện tử mà điển hình là hệ thống máy ATM.
Nhờ vào hệ thống thanh toán liên ngân hàng mà người ta kết nối nhiều máy ATM với nhau cả
trong nước và ngoài nước khiến việc thanh toán trở nên hết sức nhanh chóng.
Bên cạnh đó lệnh rút tiền chỉ được máy tiếp nhận khi máy được nhập mã số cá nhân PIN
chính xác. Nhờ vào kỹ thuật này mà sử dụng thẻ trở nên an toàn hơn.
Tính linh hoạt: Thẻ ngân hàng phát triển rất đa dạng, nhiều chủng loại thích hợp
với mọi đối tượng trong xã hội như thẻ bình thường dành cho người thu nhập thấp, thẻ vàng
dành cho người thu nhập cao; hoặc thẻ tín dụng hạn ngạch, không hạn ngạch, vay một lần, vay
tuần hòan,vv…
1.2.2 Đặc điểm cấu tạo của thẻ
Đối với bất kì loại thẻ tín dụng nào bao giờ cũng có các đặc điểm chung nhất: được làm
bằng Plastic, có tiêu chuẩn quốc tế là 5,5cm x 8,5cm, trên thẻ ghi đầy đủ các yếu tố nhãn hiệu
thương mại của thẻ, số hiệu của thẻ, số thẻ, tên chủ thẻ và ngày hiệu lực.
- Mặt trước của thẻ:
• Thương hiệu của tổ chức thẻ quốc tế (đối
với thẻ quốc tế), thể hiện loại thẻ: VISA, MASTER
CARD, JCB….
• Tên tổ chức ngân hàng phát hành thẻ
• Biểu tượng của thẻ
• Số thẻ
• Họ tên chủ thẻ: in bằng chữ nổi
• Kí tự an ninh trên thẻ, số mật mã của đợt phát hành
• Ngày hiệu lực của thẻ
- Mặt sau của thẻ
• Giải từ tính: là băng màu đen chạy dọc theo cạnh
dài ở phía trên mặt sau của thẻ, chứa các thông tin:số thẻ,
ngày hiệu lực của thẻ, tên chủ thẻ…
• Băng chữ kí: được làm từ một nguyên liệu đặc biệt
có khả năng ngăn chặn mọi cố gắng tẩy xóa sửa đổi trên bề
mặt thẻ, dùng để đối chiếu chữ kí khi lập hóa đơn và chữ kí
mẫu để so sánh.
1.2.3 Phân loại thẻ.
1.2.3.1 Theo công nghệ sản xuất
Thẻ khắc chữ nổi: là loại thẻ được làm dự trên kỹ thuật khắc chữ nổi, khắc những thông tin
cần thiết trên bề mặt thẻ.
Thẻ từ tính: là loại thẻ được sản xuất dựa trên kỹ thuật gắn kết băng từ tính ở phía sau thẻ,
băng từ tính chứa các thông tin được mã hóa.
Thẻ thông minh: là loại thẻ thế hệ mới được gắn chip điện tử, có tính an toàn bảo mật cao.
1.2.3.2 Theo tính chất thanh toán của thẻ.
Thẻ tín dụng: là loại thẻ cho phép chủ thẻ sử dụng với hạn mức tín dụng nhất định để thanh
toán các khoản giao dịch và giao dịch mà không cần phải làm đơn xin vay ngân hàng. Hay nói
cách khác Thẻ tín dụng là một hình thức thay thế cho việc thanh toán trực tiếp. Hình thức thanh
toán này được thực hiện dựa trên uy tín. Chủ thẻ không cần phải trả tiền mặt ngay khi mua hàng.
Thay vào đó, ngân hàng sẽ ứng trước tiền cho người bán và Chủ thẻ sẽ thanh toán lại sau cho
ngân hàng khoản giao dịch. Thẻ tín dụng cho phép khách hàng “trả dần” số tiền thanh toán trong
tài khoản.
Theo QĐ 20/2007/QĐ-NHNN, thẻ tín dụng là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ
trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được cấp theo thoả thuận với tổ chức phát hành thẻ.
Thẻ ghi nợ: là loại thẻ do ngân hàng phát hành cho người có tài khoản tiền gửi tại ngân
hàng, cho phép chủ thẻ dùng để thanh toán cho chủ hàng toàn bộ hay một phần số dư của tài
khoản. Chủ thẻ được chi tiêu trong phạm vi mình có, thuy nhiên các ngân hàng thường cấp cho
chủ thẻ một mức thấu chi để tăng thêm tính cạnh tranh.
Theo QĐ 20/2007/QĐ-NHNN, thẻ ghi nợ là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ
trong phạm vi số tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ thẻ mở tại một tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán được phép nhận tiền gửi không kỳ hạn.
Thẻ rút tiền mặt (ATM): là loại thẻ với chức năng chuyên biệt để rút tiền mặt tại các máy
ATM hoặc tại các ngân hàng. Chủ thẻ phải chuyển tiền vào tài khoản gửi tại ngân hàng hoặc
phải được cấp tín dụng thấu chi mới sử sụng được thẻ.
Thẻ thanh toán: là loại thẻ có một mệnh giá chuẩn ghi trên đó ( ví dụ $100,$200…), khách
hàng bỏ tiền ra mua loại thẻ này và thương sử dụng trong mua bán hàng hóa có giá trị tương đối
nhỏ.
1.2.3.3 Theo mục đích sử dụng.
Thẻ công ty: là loại thẻ được phát hành cho nhân viên của công ty sử dụng, nhằm quản lý
chặt chẻ việc chi tiêu vào công việc chung của các nhân viên.
Thẻ du lịch và giải trí: là loại thẻ do các tập đoàn hay công ty tư nhân lớn phát hành nhằm
phục vụ ngành du lịch và giải trí.
1.2.3.4 Theo đối tượng sử dụng.
Thẻ chuẩn: là loại thẻ căn bản nhất, mang tính chất phổ thông đại chúng được trên 142 triệu
người trên thế giới dùng mỗi ngày.
Thẻ vàng và thẻ platium : là loại thẻ phục vụ cho thị trường cao cấp với khách hàng có thu
nhập cao, có uy tín, nhu cầu chi tiêu lớn.
1.3 Nghiệp vụ phát hành thẻ và hoạt động thanh toán
1.3.1 Nghiệp vụ phát hành thẻ
1.3.1.1 Chủ thể tham gia
- Chủ thẻ.
Chủ thẻ có thể là cá nhân hoặc người được các công ty ủy quyền được ngân hàng phát hành
cấp thẻ để sử dụng. Gồm có:
Chủ thẻ chính: là người đứng tên xin cấp thẻ và được ngân hàng cấp thẻ để sử dụng.
Chủ thẻ phụ: là người được cấp thẻ theo đề nghị của chủ thẻ chính.
- Ngân hàng phát hành thẻ.
Ngân hàng phát hành thẻ (NHPHT) là ngân hàng được ngân hàng nhà nước cho phép thực
hiện nghiệp vụ phát hành thẻ.
Đối với thẻ nội đia, NHPHT phải có năng lực tài chính, năng lực quản lý, không vi phạm
pháp luật, đảm bảo hệ thống trang thiết bị phù hợp tiêu chuẩn cho hoạt động phát hành và thanh
toán thẻ.
Đối với thẻ quốc tế: NHPHT phải được NHNN cấp giấy phép kinh doanh ngoại hối, thực
hiện dịch vụ thanh toán quốc tế, và là thành viên của tổ chức thẻ thế giới.
- Ngân hàng thanh toán thẻ.
Ngân hàng thanh toán thẻ (NHTTT) chỉ làm chức năng trung gian thanh toán giữa chủ thẻ
và NHPHT. NHTTT nhận thanh toán thẻ qua mạng lưới các đơn vị chấp nhận thẻ mà nó ký hợp
đồng thanh toán thẻ.
- Đơn vị chấp nhận thẻ.
Đơn vị chấp nhận thẻ ( ĐVCNT) là đơn vị bán hàng hóa, dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp
nhận thanh toán thẻ với NHTTT hoặc NHPHT. ĐVCNT có thể là nhà hàng, sân bay, khách sạn,
siêu thị, các ngân hàng đại lý….
- Tổ chức thẻ quốc tế.
Là tổ chức quốc tế cấp phép thành viên cho các ngân hàng phát hành thẻ và ngân hàng thanh
toán thẻ.
Ngoài các chủ thể trên còn có các chủ thể khác như ngân hàng nhà nước và hiêp hội các
ngân hàng thanh toán thẻ.
1.3.1.2 Quy trình phát hành thẻ
- Khách
hàng đến
ngân hàng
phát hành
đề nghị mua thẻ và hoàn thành một số thủ tục cần thiết như điền vào giấy tờ xin cấp thẻ, trình
một số giấy tờ khác như: giấy thông hành, biên lai trả lương, nộp thuế thu nhập …
- Khi nhận đủ hồ sơ, ngân hàng tiến hành thẩm định lại. Thông thường ngân hàng xem xét lại
xem hồ sơ lập đúng chưa, tình hình tài chính (nếu khách hàng là công ty) hay các khoản thu
nhập thường xuyên của khách hàng (nếu là cá nhân) hoặc số dư trên tài khoản tiền gửi của
khách hàng mối quan hệ tín dụng trước đây (nếu có).
- Nếu hồ sơ cấp thẻ hoàn toàn phù hợp, ngân hàng có thể tiến hành phân loại khách hàng. Đối
với thẻ ghi nợ, việc phát hành thẻ đơn giản vì khách hàng đã có tài khoản tại ngân hàng. Đối
với thẻ tín dụng, ngân hàng phải tiến hành phân loại khách hàng để có một chính sách tín
dụng riêng. Thông thường có hai loại hạn mức tín dụng:
+ Hạn mức theo thẻ vàng: thường cấp cho các nhân vật quan trọng, có thu nhập cao và ổn
định. Hạn mức tín dụng theo thẻ vàng thường cao hơn nhiều so với thẻ thường.
+ Hạn mức thẻ thường: Hạn mức tín dụng theo thẻ thường thấp hơn nhiều so với thẻ vàng,
chủ yếu cung cấp cho người bình dân. Nhưng khách hàng cũng phải thuộc loại đủ tiêu chuẩn
để nhận thẻ tín dụng.
- Sau khi thẩm định và phân loại khách hàng, nếu khách hàng đáp ứng đủ điều kiện, ngân
hàng tiến hành phát thẻ cho khách hàng. Trước khi giao thẻ ngân hàng yêu cầu chủ thẻ ký tên
Ngân hàng
thanh toán
Trung tâm
xử lý số liệu
Ngân hàng
phát hành
Cơ sở
chấp nhận thẻ
và đăng ký chữ ký mẫu ở ngân hàng. Sau đó bằng kỹ thuật riêng, từng ngân hàng tiến hành
ghi những thông tin cần thiết về chủ thẻ lên thẻ, đồng thời ấn định và mã hóa mã số cá nhân
(số PIN) cho chủ thẻ, nhập dữ liệu về chủ thẻ vào tập tin quản lý.
- Khi ngân hàng giao thẻ cho khách hàng thì giao luôn số PIN và yêu cầu chủ thẻ giữ bí mật.
Nếu mất tiền do để lộ số PIN, chủ thẻ hoàn toàn chịu trách nhiệm.
- Sau khi giao thẻ cho khách hàng coi như nhiệm vụ phát hành thẻ kết thúc. Thời gian kể từ
khi khách hàng đề nghị mua thẻ đến khi nhận được thẻ thường không quá 6 ngày.
1.3.2. Hoạt động thanh toán thẻ
Các chủ thẻ sử sụng thẻ để thanh toán hàng hóa dịch vụ hay rút tiền mặt tại các cơ sở chấp
nhận thẻ.
Trình tự thanh toán có thể được thể hiện qua sơ đồ sau:
1. Chấp nhận thẻ: Chủ thẻ đưa thẻ cho ĐVCNT kiểm tra khả năng thanh toán của thẻ.
2. Cung cấp hàng hóa dịch vụ: Nếu nhận được mã chuẩn thi, ĐVCNT yêu cầu chủ thẻ ký tên lên
hóa đơn, và so sánh chữ ký đó với chữ ký mẫu trên thẻ, sau đó sẽ cung ứng dịch vụ, hàng hóa
cho chủ thẻ cùng một liên hóa đơn.
3. Nộp hóa đơn: ĐVCNT nộp hóa đơn cho NHTTT (có thể sử dụng máy cà tay, hoặc thông qua
thiết đọc thẻ điện tử).
4. Thanh toán cho ĐVCNT: sau khi kiểm tra tính hợp lệ của hóa đơn, NHTTT sẽ ghi Nợ tạm ứng
thanh toán thẻ, ghi Có cho ĐVCNT.
CHỦ THẺ
ĐƠN VỊ CHẤP
NHẬN THẺ
NGÂN HÀNG PHÁT
HÀNH
NGÂN HÀNG
THANH TOÁN THẺ
TỔ CHỨC
THẺ QUỐC
TẾ
1
2
3
4
6
5
7
8
9
10
5. Gửi thông tin dữ liệu: NNTTT gửi toàn bộ hóa đơn, chứng từ về giao dịch và gửi đến
trung tâm (tổ chức thẻ quốc tế).
6+7. Trung tâm ghi Nợ và báo Nợ cho NHPHT và ghi Có và báo Có cho NHTTT.
8. NHPHT chấp nhận thanh toán: sau khi nhận được thông tin từ trung tâm, nếu không có vấn đề
gì thì NHPHT chấp nhận thanh toán cho trung tâm.
9.Thông báo cho chủ thẻ: theo định kỳ NHPHT lập bảng thông báo giao dịch gủi đến cho chủ thẻ
và yêu cầu thanh toán.
10. Thanh toán cho NHPHT: sau khi nhận được bảng thông báo giao dịch, nếu không có sai sót
gì chủ thẻ thanh toán cho NHPHT.
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG THANH TOÁN
THẺ TẠI CÁC NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2006-2010
2.1Thực trạng thẻ ngân hàng ở Việt Nam giai đoạn 2006-2011
Chúng ta có thể thấy, trong thời gian vừa qua ở Việt Nam, tỷ lệ sử dụng tiền mặt
trong thanh toán đã giảm đi đáng kể, từ mức hơn 32% năm 1997 xuống 23,7% năm 2001, chỉ
còn 14,2% năm 2010 và 13,5% đến cuối năm 2011 (mục tiêu đến năm 2015 thì tỷ lệ sử dụng tiền
mặt trong giao dịch sẽ xuống dưới 11%). Đây là thực tế đáng mừng cho thấy nền kinh tế đang
dần dần bắt nhịp với sự phát triển chung của thế giới, tuy nhiên tỉ lệ này vẫn còn ở mức cao hơn
so với thế giới; đặc biệt ở các nước tiên tiến như Thụy Điển là 0,7%, Na Uy là 1%, còn so với
Trung Quốc là một nước đang phát triển rất mạnh nhưng cũng chỉ ở mức là 10%.
Nguồn: BCTN của NHNN qua các năm.
Tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong thanh toán giảm, đồng nghĩa với việc sử dụng phương tiện
thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng trở nên phổ biến, điển hình nhất là việc sử dụng thẻ
ngân hàng. Có thể nói rằng sử dụng thanh toán bằng thẻ ngân hàng đang trở thành “điểm nhấn”
chủ yếu trong công tác triển khai hoạt động TTKDTM trong nền kinh tế nước ta. Từ năm 2006
trở lại đây, thị trường thẻ Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc cả về hoạt động thanh toán và
phát hành thẻ, số lượng các ngân hàng tham gia cung ứng dịch vụ thẻ ngày càng gia tăng với việc
cho ra đời hàng loạt các sản phẩm thẻ hiện đại, nhiều tính năng, tiện ích đáp ứng yêu cầu của
khách hàng.
1. Hoạt động phát hành thẻ
a)Về số lượng thẻ: nếu như năm 2006, toàn thị trường mới có khoảng gần 5,1 triệu thẻ và
khoảng 70 thương hiệu thẻ các loại thì đến 30/6/2011, con số đó đã lên tới hơn 36,63 triệu thẻ,
cao gấp 7 lần so với năm 2006, một mức tăng trưởng rất lớn, trong đó, hơn 89% là thẻ ghi nợ nội
địa (32,4 triệu thẻ).
Dưới đây là bảng thống kê số lượng ngân hàng phát hành và số lượng thẻ phát hành.
Năm Số thương hiệu thẻ Số lượng thẻ lưu hành (triệu thẻ)
2006 70 5.1
2007 95 9.34
2008 160 15.03
2009 210 22
2010 234 31.7
30/6/2011 240 36.53
Nguồn: BCTN của NHNN 2006-2010
Từ năm 2007, số lượng thẻ lưu hành đã tăng nhanh. Điều này là kết quả của nỗ lực của
Chính phủ trong việc phát triển thanh toán KDTM ở Việt Nam. Trong năm 2007, Chính phủ đã
ban hành một loạt các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động thanh toán qua thẻ ngân hàng. Đặc
biệt là Chỉ thị 20/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc trả lương qua tài khoản cho
các đối tượng hưởng lương từ NSNN. Chỉ thị này cộng với việc nền kinh tế phát triển, thu nhập
bình quân đầu người tăng, và đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử ở Việt
Nam đã thúc đẩy dịch vụ thẻ ở các ngân hàng phát triển.
Năm 2008 chứng kiến một sự tăng trưởng mạnh mẽ ở tiêu chí số thương hiệu thẻ và tổng số thẻ
phát hành. So với năm 2007, số thương hiệu thẻ đã tăng 68,4% còn tổng số thẻ phát hành thì đã
tăng 60,9%. Đây là mức tăng cao nhất trong toàn giai đoạn mà chúng ta đang nghiên cứu (2006-
2011). Có nhiều nguyên nhân cho việc này nhưng chúng ta có thể đến sự kiện sau. Thứ nhất đó
là ngày 31/12/2007, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký ban hành Quyết định số
3113/QĐ-NHNN phê duyệt Đề án xây dựng trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất thuộc Đề án
thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020. Theo Đề án,
Banknetvn được lựa chọn làm hạt nhân để tái cơ cấu và phát triển thành trung tâm chuyển mạch
thẻ thống nhất và kết nối với hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của Ngân hàng Nhà
nước. Các liên minh và tổ chức phát hành thẻ hiện hành sẽ kết nối trực tiếp với Banknetvn để
chuyển mạch và thanh toán bù trừ thống nhất các giao dịch thẻ trên toàn quốc. Thứ hai đó là
ngày 23/5/2008 Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức khai trương kết nối giữa hệ thống chuyển mạch
Banknetvn với hệ thống thanh toán thẻ Smartlink. Như vậy, khách hàng của 05 ngân hàng
Techcombank, BIDV, Vietinbank, Vietcombank và Agribank đã có thể sử dụng thẻ ngân hàng
để rút tiền từ các máy ATM tại các hệ thống này. Có thể coi đây là bước đi ban đầu để kết nối
thống nhất các hệ thống thẻ trên toàn quốc, do thành viên của hai tổ chức này có lượng thẻ phát
hành chiếm đa số trên toàn thị trường, đồng thời sở hữu hầu hết thiết bị ngoại vi và ATM nội địa.
b) Về cơ cấu thẻ phát hành: chủ yếu gồm hai loại là thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng, trong đó
thẻ ghi nợ nội địa chiếm tỉ trọng lớn (cuối tháng 6/2011 là 89% tổng số thẻ đã phát hành). Dưới
đây là thống kê tỉ trọng thẻ ghi nợ tại Vietcombank, Vietinbank và BIDV.
Nguồn: BCTN của các ngân hàng.
Qua biểu đồ có thể thấy rằng tỉ trọng của thẻ ghi nợ trong tổng số thẻ phát hành luôn ở mức
rất cao (trên 95%) ở cả 3 ngân hàng. Tuy tỉ lệ này có giảm qua 5 năm nhưng không đáng kể.
Nguyên nhân là bởi ở Việt Nam, việc cho vay tiêu dùng còn chưa phát triển. Ngoài việc vay tiền
để mua sắm các tài sản có giá trị lớn như nhà hay xe hơi, người dân ít khi vay tiền để mua sắm
hằng ngày. Ngoài ra, việc phát hành thẻ tín dụng đòi hỏi nhiều điều kiện khắt khe hơn thẻ ghi nợ,
do đó số lượng thẻ tín dụng còn chưa nhiều. Tuy nhiên đây là một mảng thị trường mà các ngân
hàng đang quan tâm phát triển.
Thẻ trả trước cũng đã xuất hiện trong một vài năm gần đây với kết quả tính đến tháng
6/2011 là gần 1.03 triệu thẻ, chiếm 2,8% tổng số thẻ toàn thị trường.
Song song với quá trình phát hành các loại thẻ nội địa chủ yếu giao dịch tại hệ thống ATM,
dịch vụ phát hành thanh toán thẻ quốc tế đã được các ngân hàng quan tâm thực hiện, trong đó
tiên phong trong lĩnh vực triển khai phát hành và thanh toán thẻ quốc tế phải kể đến
Vietcombank, Vietinbank, Techcombank, ACB, Sacombank Đến 30/6/2011, tổng số thẻ quốc
tế đạt trên 2,2 triệu thẻ, trong đó có hơn 1,35 triệu thẻ ghi nợ quốc tế và hơn 800 nghìn thẻ tín
dụng quốc tế.
c) Về các tổ chức tham gia phát hành thẻ ngân hàng
Trong năm 2007, cơ sở pháp lý cho việc phát triển thẻ ngân hàng đã hoàn thiện thêm một
bước với Quyết định 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/5/2007 của Thống đốc NHNN ban hành Quy
chế phát hành, sử dụng, thanh toán và cung cấp dịch vụ hỗ trợ thẻ ngân hàng. Môi trường kinh
doanh thẻ được thông thoáng hơn với việc loại bỏ giấy phép con đối với các NH phát hành thẻ,
nhưng để phát hành hoặc thanh toán thẻ, các tổ chức phát hành hoặc thanh toán thẻ phải đáp ứng
những điều kiện cụ thể được Quy chế quy định, và NHNN đánh giá sự tuân thủ của các tổ chức
đó. Đối tượng phát hành thẻ không chỉ là các ngân hàng, mà còn là tổ chức tài chính phi ngân
hàng cũng có thể tham gia phát hành thẻ nếu được NHNN chấp thuận, các quy định đi theo
hướng chỉ tạo ra một hành lang pháp lý chung, tránh can thiệp cụ thể vào hoạt động của các tổ
chức phát hành, thanh toán thẻ.
Tính đến tháng 6/2011, tại Việt Nam có gần 200 tổ chức tín dụng, cụ thể như sau:
STT Loại hình tổ chức tín dụng Số lượng
1 Ngân hàng thương mại nhà nước 5
2 Ngân hàng chính sách 1
3 Ngân hàng thương mại cổ phần 37
4 Ngân hàng liên doanh 5
5 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 48
6 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 5
7 Văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài 48
8 Công ty tài chính 17
9 Công ty cho thuê tài chính 13
“Thị trường thẻ ngân hàng và thanh toán điện tử Việt Nam 2012”, Bùi Gia Hân.
Số liệu trên cho thấy số lượng ngân hàng ở Việt Nam đã có sự gia tăng về số lượng và loại
hình ngân hàng. Trong bối cạnh cạnh tranh ngày càng gay gắt do có lượng ngân hàng đông đảo,
các ngân hàng đòi hỏi phải có sự nỗ lực trong việc thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của
mình. Xuất phát từ điều đó, bên cạnh các dịch vụ cốt lõi, ngân hàng Việt Nam đã phát triển
nhiều thêm nhiều dịch vụ giá trị gia tăng mới nhằm đa dạng hoá dịch vụ và đáp ứng nhu cầu của
đông đảo khách hàng, đặc biệt là khối khách hàng cá nhân do lượng khách hàng cá nhân đang
chiếm tỉ trọng về số lượng giao dịch tương đối lớn so với khối khách hàng doanh nghiệp.
Dưới đây là thống kê tốc độ tăng trưởng thẻ nói chung ở 5 ngân hàng “đại gia” trong lĩnh
vực phát hành thẻ với gần 80% thị phần: Agribank, Vietinbank, Vietcombank, DongA Bank,
BIDV.
Số lượng thẻ (tích lũy) của 5 ngân hàng
Nguồn: BCTN của các ngân hàng qua các năm.
Trước năm 2009, Vietcombank luôn là ngân hàng dẫn đầu về số lượng thẻ phát hành, nhưng
đến cuối năm 2009, Agribank đã vượt mặt Vietcombank để trở thành ngân hàng đứng đầu về số
lượng thẻ. Năm 2010, Agribank có khoảng 2.15 triệu thẻ phát hành thêm, nâng tổng số thẻ phát
hành của Agribank lên hơn 6.38 triệu thẻ, chiếm hơn 20% thị phần thẻ ngân hàng tại Việt Nam
Sự bứt phá này của Agribank là kết quả của hàng loạt đợt khuyến mại mở thẻ ATM miễn phí.
Tuy nhiên, số lượng thẻ chưa phản ánh đúng chất lượng của hoạt động thẻ của ngân hàng.
Nguồn: Hội thẻ ngân hàng Việt Nam
Nguồn: Hội thẻ ngân hàng Việt Nam
2.2 Thực trạng hoạt động thanh toán thẻ
a) Về chủ thể thanh toán thẻ:
Mặc dù số lượng thẻ phát hành của Agribank dẫn đầu trên thị trường, nhưng xét
về doanh số sử dụng thẻ thì Vietcombank luôn đứng đầu và bỏ xa Agribank. Cụ thể,
doanh số Vietcombank năm 2009 là 100826 tỷ đồng gấp 1,28 lần so với Agribank với
doanh thu 78497 tỷ đồng. Điều này cho thấy trong tổng số hơn 4 triệu thẻ của Agribank
trong năm 2009, có nhiều “thẻ ảo”, tức là chỉ mở ra mà không sử dụng. Doanh thu của
DongAbank đứng thứ ba với 64036 tỷ đồng và Vietinbank đứng thứ tư với 42580 tỷ
đồng.
18
Nguồn: Vnexpress.net
Về doanh số thanh toán thẻ nội địa, Agribank dẫn đầu với 44.9% thị phần năm 2010.
Còn về doanh số thanh toán thẻ quốc tế, Vietcombank lại là ngân hàng áp đảo với 54.5%
thị phần năm 2010.
Thị phần DSTT thẻ nội địa 2010
19
Thị phần DSTT thẻ quốc tế 2010
b) Mạng lưới chấp nhận thanh toán thẻ
Trong hoạt động thẻ, việc phát hành (Issuing) thường phải gắn liền với quá trình mở
rộng mạng lưới chấp nhận thanh toán thẻ (Accquring). Trong những năm gần đây, hoạt
động mở rộng hệ thống ATM và đơn vị chấp nhận thanh toán thẻ - POS (ĐVCNT) đã có
sự tăng trưởng đáng kể, nhất là giai đoạn 2006 – 2010.
Có thể nói hoạt động phát triển hệ thống ATM và POS phục vụ các hoạt động thanh
toán thẻ đã được các ngân hàng quan tâm phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, tuy
đây là lĩnh vực đầu tư lớn, tốn kém cả chi phí đầu tư và vận hành hệ thống nhưng số
lượng đầu tư đã liên tục có sự tăng trưởng vì thế đã tạo điều kiện rất tốt cho các hoạt
động thanh toán thẻ được phát triển góp phần cải thiện tỷ lệ đáng kể hoạt động TTKDTM
trong nền kinh tế. Các ngân hàng NHTMCP lớn như Techcombank, Đông Á,
Sacombank là những ngân hàng đã rất nỗ lực và tích cực trong việc triển khai hệ thống
ATM và POS.
20
Nguồn: BCTN của NHNN qua các năm
Số lượng ATM và POS ở một số ngân hàng năm 2010
Nguồn: Thống kê của Western Bank và BCTN 2010 của các ngân hàng.
Về phát triển mạng lưới ATM: 30/6/2011, cả nước có gần 13.000 máy ATM, tăng
hơn 6 lần so với năm 2006. Trong đó số lượng máy ATM của Agribank dẫn đầu với 1702
máy, của Vietcombank là 1530, của DongA Bank là 1400. Ngoài việc cung cấp các dịch
21
vụ cơ bản như rút tiền mặt, chuyển khoản, các ngân hàng còn chủ động nghiên cứu và
triển khai nhiều tính năng gia tăng trên hệ thống ATM như thanh toán hoá đơn dịch vụ
(điện, nước, viễn thông, bảo hiểm ), góp phần mang lại tiện ích cho khách hàng và qua
đó giúp giảm thiểu việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán.
Về phát triển mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ - POS: nếu năm 2006, cả thị trường
mới có hơn 11.000 POS thì đến 30/6/2011, con số đó đã lên tới hơn 63.000 POS, tăng
gần 6 lần. Bên cạnh việc gia tăng về số lượng POS, các ngân hàng đã rất tích cực trong
việc mở rộng phạm vi ngành hàng phối hợp lắp đặt mạng lưới chấp nhận thẻ, trong đó
chú trọng các ngành kinh doanh bán lẻ, các đơn vị cung ứng dịch vụ hàng ngày như dịch
vụ taxi, dịch vụ bán vé tàu hoả,
Về liên minh thẻ: Điểm nhấn đáng kể của công tác phát triển mở rộng mạng lưới
chấp nhận thanh toán thẻ trong 3 năm gần đây chính là hoạt động hợp tác kết nối mạng
lưới ATM, POS.
Nhằm chia sẻ cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động thẻ và tạo thuận lợi cho người sử
dụng, các ngân hàng đã liên kết tạo thành các liên minh thẻ. Các liên minh thẻ lớn hiện
nay bao gồm:
Tên liên minh
thẻ
Số lượng thành
viên
Số lượng máy
ATM
Số lượng máy
POS/EDC
Số lượng thẻ đã
phát hành
Smartlink 32 6738 33.498
4.721.946
VNBC 10 1800 2000 5.766.053
Banknetvn 20 5477 10.548 5.170.229
( Số liệu cập nhật tới năm 2011)
Liên minh thẻ Smartlink gồm: NH TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank),
NH TMCP Nam Việt, NH TMCP Sài Gòn, NH TMCP Đông Nam Á (SeABank), NH
TMCP Tiên Phong, NH TMCP Việt Á, GP Bank, NH TMCP Quân đội (Militarybank),
NH TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB), NH TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank),
NH TMCP các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, NH TMCP Kỹ thương Việt Nam
(Techcombank), NH TMCP Á châu (ACB), NH TMCP Sài Gòn Thương tín
(Sacombank), NH TMCP Bảo Việt, Habubank
Liên minh Banknet ( CTCP chuyển mạch quốc gia) gồm 20 thành viên: NH NN-
PTNT Việt Nam, NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Vietinbank, Saigonbank, ACB,
22
Sacombank, MH Bank, AnBinhbank, SeABank, NH TMCP Đại Dương, Habubank, NH
TMCP miền Tây, NH TMCP Xăng dầu Petrolimex, NH Liên doanh Việt Nga (VRB), NH
TMCP Đại Tín.
Liên minh thẻ VNBC gồm 10 ngân hàng và 1 công ty thành viên: MaiLinh Group,
NH Đông Á (DongA Bank), NH TMCP Sài Gòn Công thương (Saigonbank), NH Phát
triển nhà ĐBSCL (MH Bank), NH TMCP nhà Hà Nội (Habubank), NH TMCP Dầu khí
toàn cầu (GP Bank), Tập đoàn Mai Linh, NH United Overseas Bank (Singapore)…
Hiện nay, các liên minh thẻ cũng đã kết nối với nhau. Ví dụ, liên minh Smarlink và
VNBC đã kết nối thành công và hiện tại đã giao dịch được trên các máy của các NH
DongA Bank, Vietcombank, Techcombank, AnBinhbank, Eximbank, Militarybank, VIB.
Các liên minh thẻ trên được lập nên từ năm 2008 nhằm thực hiện kết các hệ thống
POS của các ngân hàng thành viên lại với nhau nhằm hỗ trợ hoạt động thanh toán cho tất
cả các khách hàng của không chỉ một mà là của mọi ngân hàng thành viên trong cũng
một liên minh.
Số lượng POS của các ngân hàng thuộc ba mạng Banknetvn - Smartlink - VNBC,
được kết nối liên thông qua hệ thống Smartlink trong 9 tháng đầu năm 2011 nay đạt gần
58.000 điểm, đưa độ bao phủ thị trường POS lên 90% số lượng POS của toàn thị trường.
Mạng lưới ATM đến nay gần như cơ bản đã liên thông toàn thị trường, chủ thẻ của
các ngân hàng đã có thể thực hiện các giao dịch trên ATM của các ngân hàng khác và
ngược lại một cách dễ dàng, thuận lợi với mức phí rất hợp lý.
Việc chia sẻ mạng lưới và đẩy mạnh kết nối liên thông hệ thống ATM, POS không
chỉ góp phần gia tăng thuận tiện cho chủ thẻ của các NHTM mà còn góp phần nâng cao
hiệu quả cho hoạt động thẻ của các NHTM, tiết kiệm chi phí đầu tư cho mỗi ngân hàng
và cho toàn xã hội, cũng như giúp hạn chế lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế,
qua đó thúc đẩy hoạt động TTKDTM
Đến nay, mạng lưới thanh toán thẻ tại Việt Nam đã sẵn sàng chấp nhận thanh toán
các thẻ mang thương hiệu Visa, MasterCard, American Express, JCB, Diners Club, CUP
và DiscoverCard, là các thương hiệu thẻ hàng đầu và phổ biến nhất trên thế giới hiện
nay
Đối với hoạt động thanh toán thẻ nội địa, thời gian gần đây, các ngân hàng đã chú
trọng đầu tư và tích cực mở rộng mạng lưới ĐVCNT nội địa, trong đó chú trọng các
23
ĐVCNT trong các lĩnh vực kinh doanh nhà hàng, khách sạn, trung tâm thương mại, siêu
thị, nhằm tạo cơ sở thuận lợi và dễ dàng cho khách hàng sử dụng thẻ ghi nợ nội địa để
thanh toán hàng hoá, dịch vụ. Một số dịch vụ tiện ích thanh toán cá nhân hàng ngày như
taxi, mua vé tàu hoả, vé máy bay cũng bắt đầu được một số ngân hàng hợp tác với đơn
vị cung cấp dịch vụ cho phép thanh toán bằng thẻ ghi nợ nội địa. Tại hệ thống siêu thị
thegioididong.com và thegioidientu.com, doanh số thanh toán tại quầy bằng thẻ trung
bình mỗi tháng 10 tỉ đồng, chiếm gần 3% tổng doanh số 350 tỉ đồng. Tại hệ thống siêu thị
Co.op Mart, cách đây hơn một năm doanh số thanh toán bằng thẻ chỉ ở mức 0,2-0,3%
tổng doanh thu, gần đây tăng lên được 2%. Ở hệ thống siêu thị Big C, doanh thu qua thẻ
bắt đầu tăng nhưng hiện tại chỉ ở mức 2% tổng doanh thu. Siêu thị Citimart, Maximark
cho biết thanh toán không dùng tiền mặt chỉ đạt từ 1% đến không quá 5% tổng doanh thu.
Với lợi thế đặc thù xuất phát từ tính chất phổ biến rộng rãi (hơn 32,4 triệu chủ thẻ
ghi nợ nội địa), đơn giản, dễ sử dụng của loại hình thẻ ghi nợ nội địa, dịch vụ thanh toán
thẻ ghi nợ nội địa đang thể hiện các đóng góp quan trọng trong việc tạo thói quen và nâng
cao nhận thức của người dân về phương tiện thanh toán thẻ hiện đại, qua đó góp phần đẩy
mạnh hoạt động TTKDTM trong dân cư.
2.2 Đánh giá hoạt động phát hành và thanh toán thẻ ngân hàng ở Việt Nam.
2.2.1 Ưu điểm
Việc thanh toán qua thẻ ngân hàng đã và đang trở nên phổ biến và được nhiều người sử
dụng ở nhiều nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng vì những lợi ích mà nó
mang lại với những tính năng ưu việt như gọn nhẹ, an toàn, thuận lợi Như chúng ta biết,
trong các giao dịch thượng mại cổ điển, việc thanh toán được thực hiện đa phần bằng tiền
mặt. Tuy nhiên, vận chuyển tiền mặt lại kèm theo rất nhiều rủi ro và bất tiện, người ta đã
nghĩ ra các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, qua thời gian hình thức thanh
toán bằng thẻ ra đời và đóng một vai trò quan trọng trong đời sống , thúc đẩy sự tiến bộ
của xã hội.
Tiện lợi
24
Là một công cụ tín dụng nhỏ và gọn nhẹ thay cho tiền mặt chấp hành chức năng phương
tiện lưu thông, thẻ ngân hàng tạo cho khách hàng tiện lợi mà ít có công cụ thanh
toán nào có thể sánh được. Đặc biệt, trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, thẻ ngân
hàng có thể dùng để thanh toán ở bất cứ nơi nào mà không cần đem theo tiền mặt
hay séc du lịch, không phụ thuộc vào quy mô số tiền họ cần thanh toán. Thẻ được
coi như là công cụ thanh toán ưu việt nhất trong số các công cụ thanh toán phi
thương mại.
Với thẻ tín dụng, bạn có thể mua hàng trên mạng, book khách sạn, vé máy bay trực
tuyến trong khi không thể làm điều này bằng tiền mặt. Bên cạnh đó, chiếc thẻ ghi nợ
hay còn gọi là thẻ thanh toán (debit card), để bạn thực hiện việc thanh toán hàng hoá và
dịch vụ cũng rất hữu ích không kém. Vẫn tích hợp đầy đủ các tiện ích của thẻ ATM như:
rút tiền, kiểm tra số dư, chuyển khoản , chiếc thẻ thanh toán này còn dùng để mua hàng
hoá tại siêu thị hoặc trả hoá đơn bữa ăn tại nhà hàng. Nếu bạn ở nhà mà vẫn muốn thực
hiện giao dịch thanh toán trực tuyến như: đặt mua vé máy bay, mua hàng trên eBay , thẻ
thanh toán sẽ là một trợ thủ đắc lực. Dựa trên tài khoản cá nhân và nhu cầu sử dụng của
bạn, ngân hàng sẽ cấp thẻ thanh toán nội địa hay thẻ thanh toán quốc tế. Hai thẻ này đều
có thể sử dụng để rút tiền mặt, thanh toán hàng hoá và dịch vụ chỉ khác nhau ở phạm vi
sử dụng. Thẻ thanh toán nội địa được sử dụng tại Việt Nam, trong khi thẻ thanh toán
quốc tế có thể rút tiền mặt và thanh toán trên toàn thế giới do có liên minh với các tổ
chức thanh toán thẻ quốc tế như: Visa, Mastercard, American Express, JCB hay Dinner
Club…
Đối với thẻ ATM, chỉ với cách nhập mã số cá nhân (PIN - Personal Identification
Number), chủ thẻ có thể tiếp cận tài khoản cá nhân của mình tại ngân hàng mọi nơi, mọi
lúc, 24/24 mỗi ngày và 7 ngày trong tuần. ATM đã cung cấp cho khách hàng sử dụng thẻ
khả năng giao dịch ngoài giờ làm việc, ngoài ngân hàng và khả năng tự phục vụ. Không
chỉ vậy, theo thời gian, các tổ chức đã chủ động kết nối hệ thống ATM với nhau tạo nên
một mạng ATM khu vực khi mà 3 liên minh thẻ Banknetvn, Smartlink và VNBC vào
năm 2010 đã hoàn thành kết nối liên thông hệ thống ATM trên phạm vi toàn quốc, qua đó
cho phép chủ thẻ của 3 liên minh này có thể thực hiện các giao dịch trên hệ thống ATM
của nhau. Hiện nay tất cả các máy ATM của tất cả các ngân hàng đã kết nối với nhau,
25