Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Tình trạng nợ nước ngoài ở các nước đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (800.84 KB, 71 trang )

Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 1
Qúa trình toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra nhanh chóng với quy mô ngày càng lớn trong tất cả mọi
lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội. Hay nói cách khác xu thế hội nhập đang trở thành xu thế chung và tất
yếu đối với tất cả các quốc gia. Trong xu thế ấy, không một quốc gia nào muốn phát triển lại có thể đứng
ngoài cuộc không tham gia vào quá trình vận chuyển các luồng vốn quốc tế, bởi vì hội nhập sẽ tạo cơ hội
thuận lợi cho các nước, đặc biệt là các nước kém phát triển có thể đi tắt đón đầu trong việc Jếp cận với
công nghệ mới, tận dụng các nguồn vốn từ bên ngoài, nhưng đồng thời cũng đặt ra cho các nước này
những thách thức, khó khăn. Để tăng trưởng kinh tế, mỗi quốc gia không chỉ trông đợi vào nguồn vốn
sẵn có ít ỏi của bản thân mình mà phải biết thu hút cả nguồn vốn từ bên ngoài. Sử dụng vốn vay nước
ngoài hợp lý sẽ đem lại những hiệu quả hết sức to lớn, tạo được những lợi thế của những người đi sau, là
sự chọn lựa thông minh để rút ngắn thời gian \ch luỹ vốn, nhanh chóng phát triển kinh tế đất nước. Tuy
nhiên, cũng phải lưu ý rằng sử dụng vốn vay cũng chính là tạo cho mình một khoản nợ đáng kể. Chính vì
vậy chúng ta cần phải hiểu rõ việc sử dụng nợ nước ngoài rất cần có một chiến lược cụ thể, hợp lý; nếu
không chính các khoản nợ đó lại là những rào cản đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, cản trở quá
trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới 2
CHƯƠNG I: 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI 3
Article I.
LỜI MỞ ĐẦU
SVTH: Nhóm 5 Trang 1
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
Qúa trình toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra nhanh chóng với quy mô ngày càng
lớn trong tất cả mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội. Hay nói cách khác xu thế hội nhập
đang trở thành xu thế chung và tất yếu đối với tất cả các quốc gia. Trong xu thế ấy, không
một quốc gia nào muốn phát triển lại có thể đứng ngoài cuộc không tham gia vào quá
trình vận chuyển các luồng vốn quốc tế, bởi vì hội nhập sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho các
nước, đặc biệt là các nước kém phát triển có thể đi tắt đón đầu trong việc tiếp cận với


công nghệ mới, tận dụng các nguồn vốn từ bên ngoài, nhưng đồng thời cũng đặt ra cho
các nước này những thách thức, khó khăn. Để tăng trưởng kinh tế, mỗi quốc gia không
chỉ trông đợi vào nguồn vốn sẵn có ít ỏi của bản thân mình mà phải biết thu hút cả nguồn
vốn từ bên ngoài. Sử dụng vốn vay nước ngoài hợp lý sẽ đem lại những hiệu quả hết sức
to lớn, tạo được những lợi thế của những người đi sau, là sự chọn lựa thông minh để rút
ngắn thời gian tích luỹ vốn, nhanh chóng phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, cũng
phải lưu ý rằng sử dụng vốn vay cũng chính là tạo cho mình một khoản nợ đáng kể.
Chính vì vậy chúng ta cần phải hiểu rõ việc sử dụng nợ nước ngoài rất cần có một chiến
lược cụ thể, hợp lý; nếu không chính các khoản nợ đó lại là những rào cản đối với sự phát
triển kinh tế của đất nước, cản trở quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới .
Vấn đề quản lý nợ nước ngoài là một vấn đề mà các nước đang phát triển cũng
cần quan tâm trong quá trình bước sang chặng đường đổi mới để hoà nhập vào nền kinh
tế chung của khu vực và thế giới . Để góp phần giải quyết những mặt hạn chế còn tồn tại,
góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nợ nước ngoài, nhóm đã
chọn đề tài : “Tình trạng nợ nước ngoài ở các nước đang phát triển” cho bài tiểu luận
của nhóm.
Kết cấu tiểu luận gồm 3 chương :
CHƯƠNG I: Một số vấn đề cơ bản về nợ nước ngoài.
SVTH: Nhóm 5 Trang 2
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
CHƯƠNG II:Thực trạng nợ nước ngoài ở các nước đang phát triển.
CHƯƠNG III: Một số giải pháp và kiến nghị khắc phục tình trạng nợ nước ngoài ở
các nước đang phát triển và ở Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm về nợ nước ngoài:
SVTH: Nhóm 5 Trang 3
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải

Trong cuốn Thống kê nợ nước ngoài: Hướng dẫn tập hợp và sử dụng do nhóm
công tác liên ngành của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì khái niệm nợ nước ngoài được
hiểu như sau: “Tổng nợ nước ngoài tại
bất

kỳ
thời điểm nào là số dư nợ của các công
nợ thường xuyên thực tế, không phải công nợ bất thường, đòi hỏi bên nợ phải thanh
toán gốc và/hoặc lãi tại một (số) thời điểm trong tương lai, do đối tượng cư trú tại một
nền kinh tế nợ đối tượng không cư trú”.
Theo định nghĩa được quốc tế thừa nhận rộng rãi này, nợ nước ngoài của một nước
là tất cả các khoản nợ của nước đó với nước ngoài, bất kể người đi vay là
Chính phủ, các Tổ chức của Chính phủ hay các doanh nghiệp tư nhân; các chủ nợ có thể
là các Tổ chức quốc tế, Chính phủ, các Tổ chức thuộc Chính phủ hoặc các doanh nghiệp
tư nhân nước ngoài.
Tại Việt Nam, theo khoản 8 điều 2 quy chế vay và trả nợ nước ngoài (Ban hành
kèm theo Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 1 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ)
thì: “Nợ nước ngoài của quốc gia


số
dư của mọi nghĩa vụ hiện hành (không bao gồm
nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả nợ gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước
ngoài tại Việt Nam. Nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm nợ nước ngoài của
khu

vực
công và nợ nước ngoài của khu vực tư nhân”. Như vậy, theo cách hiểu này nợ nước
ngoài là tất cả các khoản vay mượn của tất cả các pháp nhân Việt Nam đối với nước
ngoài và không bao gồm nợ của các thể nhân (nợ của cá nhân và hộ gia đình).

1.2. Nguồn gốc hình thành nợ nước ngoài:

Đối với các nước cho vay (các nước phát triển): Có nguồn vốn tích tụ, tập trung lớn
nhưng không sử dụng hết.

Đối với các nước đang phát triển: Luôn thiếu vốn trong nước, có nhu cầu vốn lớn để
đẩy mạnh đầu tư sản xuất, nhằm tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Do vậy mà các nhóm nước hợp tác với nhau để thỏa mãn nhu cầu về vốn của hai bên,
thông qua việc cho vay, thường là ODA.
SVTH: Nhóm 5 Trang 4
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
1.3. Phân loại nợ nước ngoài:
Việc phân loại nợ nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc theo dõi và quản lý nợ
có hiệu quả. Phân loại nợ nước ngoài được chia theo các hình thức chủ yếu sau
1.3.1. Phân loại theo chủ thể đi vay:

Nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh
Nợ công là các nghĩa vụ nợ của các khu vực công và bao gồm nợ của khu vực công
cùng với nợ của khu vực tư nhân được khu vực công bảo lãnh.
Nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được công quyền bảo lãnh được xác định là các
công nợ
nước

ngoài
của khu vực tư nhân mà dịch vụ trả nợ được bảo lãnh theo hợp đồng
bởi một đối tượng thuộc khu vực công cư trú tại cùng một nền kinh tế với bên nợ đó.

Nợ tư nhân
Loại nợ này bao gồm nợ nước ngoài của khu vực tư nhân không được khu vực

công của nền kinh tế đó bảo lãnh theo hợp đồng. Về bản chất đây là các khoản nợ do
khu vực tư nhân tự vay, tự trả.
1.3.2. Phân loại theo thời hạn vay:

Nợ ngắn hạn
Nợ ngắn hạn là loại nợ có thời gian đáo hạn từ một năm trở xuống. Nợ ngắn hạn
thường không thuộc đối tượng quản lý một cách chặt chẽ như nợ dài hạn. Tuy nhiên nếu
nợ ngắn hạn không trả được sẽ gây mất ổn định cho hệ thống ngân hàng. Đặc biệt khi
tỷ trọng nợ ngắn hạn trong tổng nợ có xu hướng tăng phải hết sức thận trọng vì luồng
vốn rút ra đột ngột có thể gây bất ổn cho nền tài chính quốc gia.

Nợ dài hạn
Nợ dài hạn là những công nợ có thời gian đáo hạn gốc theo hợp đồng hoặc đã gia
hạn kéo dài trên một năm tính từ ngày ký kết vay nợ cho tới ngày đến hạn khoản thanh
SVTH: Nhóm 5 Trang 5
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
toán cuối cùng. Nợ dài hạn là loại nợ được quan tâm quản lý nhiều hơn do khả năng tác
động lớn đến nền tài chính quốc gia.
1.3.3. Phân loại theo loại hình vay:

Vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA):
Theo định nghĩa của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD), hỗ trợ phát
triển chính thức bao gồm các chuyển khoản song phương (giữa các Chính phủ) hoặc
đa phương (từ các tổ chức quốc tế cho Chính phủ), trong đó ít nhất 25% tổng giá trị
chuyển khoản là cho không.
Tính ưu đãi của vay hỗ trợ phát triển chính thức: Vay hỗ trợ phát triển chính thức
là loại nợ có nhiều điều kiện ưu đãi, ưu đãi về lãi suất, về thời gian trả nợ và thời gian
ân hạn. Lãi suất của vay hỗ trợ phát triển chính thức thấp hơn nhiều so với vay thương
mại. Thời gian cho vay hỗ trợ phát triển chính thức dài (có thể từ 10, 15 hay 20 năm) và

thời gian ân hạn dài, do vậy các nước đang phát triển thường hướng tới và tận dụng tối
đa nguồn vốn này cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, vay hỗ trợ phát triển chính thức cũng có những mặt trái của nó. Tính ưu
đãi của vay hỗ trợ phát triển chính thức rất rõ rệt, bên cạnh đó, việc vay nợ hỗ trợ phát
triển chính thức đôi khi kèm theo các điều kiện ràng buộc khiến cái giá phải trả tăng đáng
kể.

Vay thương mại:
Khác với vay hỗ trợ phát triển chính thức, vay thương mại không có ưu đãi cả về
lãi suất và thời gian ân hạn, lãi suất vay thương mại là lãi suất thị trường tài chính quốc
tế và thường thay đổi theo lãi
suất

thị
trường. Chính vì vậy, vay thương mại thường
có giá khá cao và chứa đựng nhiều rủi ro. Việc vay thương mại của Chính phủ phải
được cân nhắc hết sức thận trọng và chi quyết định vay khi không còn cách nào khác.
1.3.4. Phân loại nợ theo chủ thể cho vay:
SVTH: Nhóm 5 Trang 6
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải

Nợ đa phương đến chủ yếu từ các cơ quan của Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế
giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), các ngân hàng phát triển trong khu vực, các cơ
quan đa phương như OPEC

và liên chính phủ, các tổ chức như CLB Paris, CLB Luân
Đôn

Nợ song phương đến từ Chính phủ một nước như các nước thuộc tổ chức OECD



các nước khác hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân danh một Chính phủ duy nhất dưới
dạng hỗ trợ tài chính, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật
1.4. Các tiêu chí đánh giá nợ nước ngoài:
1.4.1. Các chỉ tiêu phản ánh mức độ nợ:
Quy mô nợ và quy mô trả nợ, trả lãi so với nguồn thu trực tiếp và gián tiếp để trả nợ
thường được dùng để đánh giá mức độ nợ. Mức độ nợ cũng ngầm cho biết khả năng trả
nợ của các quốc gia trong trung và dài hạn. Các chỉ tiêu thường dùng:

Nợ/Xuất khẩu (bao gồm cả chuyển tiền của lao động xuất khẩu): nhiều nhà kinh tế
học cho rằng thu nhập xuất khẩu là chỉ tiêu đánh giá đúng về khả năng trả nợ của một
nước chứ không phải là GNI (WB thay đổi thuật ngữ GNP thành GNI từ khi sử dụng hệ
thống tài khoản quốc gia năm 1993) vì thu nhập xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ
trực tiếp và thường xuyên của một quốc gia. Các nguồn khác như giảm nhập khẩu hoặc
giảm dự trữ ngoại tệ thường là những nguồn gây ra những bất ổn và buộc phải có những
điều chỉnh.Ví dụ, giảm nhập khẩu có thể làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế nếu như
quốc gia có tỷ trọng nhập khẩu tư liệu sản xuất trong tổng kim ngạch nhập khẩu chiếm tỷ
trọng cao; hoặc nếu dùng dự trữ quốc tế để trả nợ thì sẽ làm cho khả năng
chống đỡ trước những cú sốc từ bên ngoài, đặc biệt là những cú sốc liên quan đến tỷ giá
hối đoái sẽ yếu đi. Tuy nhiên, không nên ỷ lại quá mức vào nguồn này vì thu
nhập xuất khẩu thường xuyên biến động, nhất là đối với các nước đang phát triển phụ
thuộc vào xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế với giá cả bấp bênh .
SVTH: Nhóm 5 Trang 7
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải

Nợ/GNI: tỷ lệ nợ so với thu nhập quốc dân tạo ra. Đây là chỉ tiêu đánh giá
khả năng trả nợ quốc gia thông qua thu nhập quốc dân được tạo ra. Tuy nhiên, tình trạng
nợ có thể không được đánh giá đúng mức do xá c định tỷ giá hối đoái

quy đổi, thông thường các nước đang phát triển hay đánh giá cao giá trị đồng nội tệ
hoặc sử dụng chế độ đa tỷ giá dẫn tới làm giảm tình trạng trầm trọng của nợ.

Trả nợ/Xuất khẩu hay còn gọi là tỷ lệ dịch vụ nợ (nợ gốc và lãi phải thanh toán so với
giá trị xuất khẩu). Đây là một tiêu chí quan trọng, phản ánh quan hệ giữa nghĩa vụ nợ
phải trả so với năng lực xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của quốc gia đi vay. Tỷ
lệ này thường được dùng để dự đoán dịch vụ nợ đã tích lũy đến mức nghiêm trọng thế
nào trong trung hạn.

Lãi/Xuất khẩu: Còn gọi là tỷ lệ dịch vụ lãi hay tỷ lệ giữa tổng lãi phải trả hàng năm so
với kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Một quốc gia phải thanh toán lãi với mức lãi suất
được quy định trong cam kết cho vay, thông thường lãi này được trích từ thu nhập xuất
khẩu. Quốc gia mắc nợ trong quá khứ thì hiện tại và tương lai họ sẽ trích thu
nhập từ xuất khẩu càng nhiều, hạn chế khối lượng ngoại tệ dành cho nhập khẩu. Đây là
chỉ tiêu tốt nhất để đánh giá nợ vì nó không chỉ chỉ ra gánh nặng nợ mà còn chỉ ra chi phí
vay nợ.

Lãi/ GNI: Tổng lãi phải trả so với GNI, phản ánh tiềm năng trả lãi của nước đi vay.
1.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nợ:
Cơ cấu nợ hàm chứa những thông tin quan trọng về mức độ rủi ro của việc
vaynợ. Thông thường rủi ro sẽ cao khi tỷ trọng nợ ngắn hạn, tỷ lệ nợ thương mại và tỷ lệ
nợ song phương cao. Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu gồm:

Nợ ngắn hạn/Tổng nợ: phản ánh tỷ trọng các khoản nợ cần thanh toán
trong thời gian nhỏ hơn một năm trong tổng nợ. Tỷ lệ này càng cao, áp lực trả nợ càng
lớn.

Nợ ưu đãi /Tổng nợ: tỷ lệ này càng cao, gánh nặng nợ nước ngoài càng nhẹ.
SVTH: Nhóm 5 Trang 8
Lớp: Cao học 12 B1

Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải

Nợ đa phương/Tổng nợ: các khoản nợ đa phương thường nhằm mục đích hỗ trợ, ít
mưu cầu về lợi nhuận, do đó việc tăng tỷ trọng nợ đa phương trong tổng nợ
phản ánh tình hình nợ nước ngoài của một nước thay đổi theo chiều hướng khá tốt.
1.4.3. Các chỉ tiêu đánh giá tính thanh khoản:
Các chỉ tiêu thuộc nhóm này thường thể hiện khả năng trả nợ tức thời hay
nóicách khác khả năng đối phó nhanh của nền kinh tế đối với các biến động bất thường
của dòng tiền vay mượn, đặc biệt là luồng tiền ngắn hạn. Các chỉ tiêu gồm có:

Dự trữ quốc tế/Tổng nợ: phản ánh khả năng sử dụng dự trữ ngoại hối để trả nợ của
Ngân hàng Trung ương một nước.

Tỷ lệ dịch vụ nợ/Tổng thu ngân sách: có giới hạn an toàn từ 10% -12%

Dự trữ quốc tế/Nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, theo tiêu chuẩn quốc tế,
dự trữ quốc tế cần đạt tối thiểu ở mức 12 tuần nhập khẩu để có đủ tiềm lực can thiệp tỷ
giá khi mở rộng biên độ, tiến tới thả nổi tỷ giá và nâng cao quy mô vay vốn nước ngoài
trong giới hạn an toàn. Ngoài ra, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và phi kinh tế khác
cũng được sử dụng để đánh giá rủi ro và mức độ nợ như tốc độ tăng trưởng kinh tế, các
chỉ số kinh tế và chính trị như tốc độ tăng cung tiền, tỷ lệ lạm phát - tỷ lệ lạm phát trong
nước thấp có thể làm giảm mức sinh lời từ các công cụ vay nợ trong nước, tỷ lệ xuất
khẩu/GDP, tỷ lệ đầu tư, mức độ nhập khẩu và phụ thuộc vào nông nghiệp, thâm hụt ngân
sách và nhiều thước đo về cơ cấu chính trị và mức độ ổn định khác. Ngoài ra, nhân tố
biến động kinh tế thế giới cũng góp phần tác động không nhỏ đến quy mô vay nợ của một
quốc gia. Khi nền kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, nguồn thu từ xuất khẩu (nguồn
trang trải nợ) của quốc gia cũng bị ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực. Hoặc
khi lãi suất trên thế giới tăng lên, quốc gia có thể phải giảm quy mô vay
xuống, đồng thời nghĩa vụ trả nợ của quốc gia đó có thể tăng lên.
1.4.4. Đánh giá mức độ nợ theo nhóm chỉ tiêu:


Nhóm chỉ tiêu nợ theo Ngân hàng Thế giới:
SVTH: Nhóm 5 Trang 9
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
Theo Ngân hàng Thế giới, từ năm 1989 đến năm 1992 các quốc gia mắc nợ được
phân thành 3 nhóm: nợ quá nhiều, nợ vừa phải, nợ ít theo 4 chỉ tiêu Nợ/GNI, Nợ/Xuất
khẩu, Trả nợ/ Xuất khẩu, Trả lãi/ Xuất khẩu tính theo giá trị danh nghĩa. Một quốc gia
được xếp vào nhóm nợ quá nhiều nếu có 3 trong 4 chỉ tiêu rơi vào mức tới hạn
được tóm tắt trong bảng 1.
Bảng 1: Phân loại nợ theo nhóm các quốc gia
Chỉ số
Phân loại
Nợ/GNI Nợ/Xuất khẩu
Trả nợ/
Xuất khẩu
Trả lãi/
Xuất khẩu
Nợ quá nhiều >50% >275% >30% >20%
Nợ vừa phải 30-50% 165-275% 18-30% 12-20%
Nợ ít <30% <165% <18% <12%
Nguồn: Hjertholm Peter (2001), Debt Relief and the Rule of Thumb: Analytical
Historyof HIPC Debt Sustainability Targets, Wider Conference on Debt Relief,
Henlsinki,17-18 /08/2001.
Tuy nhiên, đánh giá nợ dựa trên giá trị danh nghĩa không đủ để phản ánh khả năng
thanh toán thực sự của một quốc gia và cũng không cho thấy được bức tranh toàn cảnhvề
khả năng thanh toán dịch vụ nợ của quốc gia, đặc biệt trong dài hạn. Cho nên
đến năm 1992, trong WDT 1992-1993, Ngân hàng Thế giới đã điều chỉnh các chỉ tiêu,
các chỉ tiêu bây giờ được tính theo giá trị hiện tại của tổng nợ. Ngân hàng thế giới không
sử dụng tổ hợp 4 chỉ tiêu nữa mà coi trọng chỉ tiêu Nợ/GNI và Nợ/ Xuất khẩu và dùng

các chỉ tiêu đó để đánh giá và xếp loại mức độ nghiêm trọng về nợ của một quốc gia.
Thông thường Ngân hàng Thế giới xếp loại nhóm nước theo cách kết hợp giữa
tình trạng nợ và thu nhập trong bảng 2.
Bảng 2: Phân nhóm các quốc gia theo thu nhập
SVTH: Nhóm 5 Trang 10
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
Chỉ số
Thu nhập
Giá trị hiên tại của
Nợ/Xuất khẩu > 220%
hoặc giá trị hiện tại của
Nợ/GNI >80%
220% >Giá trị hiện tại
củaNợ/Xuất khẩu>132%
hoặc 80% > Giá trị hiện
tại của Nợ/GNI >48%
Giá trị hiện tại của
Nợ/Xuất khẩu < 132%
hoặc giá trị hiện tại của
Nợ/GNI < 48%
TN thấp Nhóm nước thu nhập
thấp nợ nghiêm trọng
Nhóm nước thu nhập
thấp nợ trung bình
Nhóm nước thu nhập
thấp nợ ít
TN trung bình Nhóm nước thu nhập
trung bình nợ nghiêm
trọng

Nhóm nước thu nhập
trung bình nợ trung bình
Nhóm nước thu nhập
trung bình nợ ít
TN cao Không xếp loại tình trạng nợ đối với nhóm nước thu nhập cao
Nguồn: World Bank (2005), Global Development Finance 2005:Mobilizing
Financeand Managing Vulnerability.

Nhóm chỉ số đánh giá tình trạng nợ theo sáng kiến các nước nghèo nợ nghiêm
trọng (HPICs)
Một nước được xem là nợ không bền vững nếu rơi vào các giá trị tới hạn bảng 3.
Bảng 3: Giá trị tới hạn nợ nghiêm trọng
Chỉ số Từ năm 1996 Từ năm 2001
Giá trị hiện tại của Nợ/ Xuất khẩu >200-250% (1) >150% (2)
Giá trị hiện tại của Trả nợ/ Xuất khẩu >20-25% >20-25%
Giá trị hiện tại của Nợ/ Thu ngân sách >250% >280%
Nguồn: Hjertholm Peter (2001), Debt Relief and the Rule of Thumb: Analytical
History of HIPC Debt Sustainability Targets, Wider Conference on Debt Relief,
Henlsinki, 17-18 /08/2001.
SVTH: Nhóm 5 Trang 11
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
(1) Đối với nền kinh tế mở (Xuất khẩu/GDP ≥ 40% và thu ngân sách/GDP ≥ 20%)
có thể đối mặt với tình trạng nợ không bền vững thấp hơn giá trị tới hạn 200-250%.
(2) Đối với nền kinh tế mở (Xuất khẩu/GDP ≥ 30% và thu ngânsách/GDP ≥15%)
có thể đối mặt với tình trạng nợ không bền vững thấp hơn giá trị tới hạn 150%.

Nhóm chỉ tiêu đánh giá nợ theo IMF
IMF đánh giá nợ qua một hệ thống chỉ tiêu gồm:
- Chỉ số về gánh nặng nợ, tỷ lệ về gánh nặng nợ thường được sử dụng nhiều nhất là

tổng số nợ công so với tổng sản phẩm quốc nội theo giá thị trường. Nợ công được định
nghĩa là tất cả các khoản nợ do Chính phủ đi vay (cả trong nước và nước ngoài). Tỷ lệ nợ
công theo tiêu chuẩn của các nước châu Âu muốn gia nhập Liên minh theo theo Hiệp ước
Maastricht là 60%.
- Chỉ số về khả năng trả nợ so với tiền mặt, tỷ lệ này cho thấy nhu cầu tiền mặt cần để
trả nợ trong tương lai gần: Trả nợ / Xuất khẩu và Trả nợ / Thu ngân sách.
- Các chỉ số về khả năng trả nợ theo giá trị hiện tại, các chỉ số về khả năng
trả nợ theo giá trị hiện tại là một thước đo về khả năng của một đất nước trong việc thanh
toán các khoản chi trả trong tương lai vào thời điểm hiện tại: Nợ/Xuất khẩu, Nợ nước
ngoài của khu vực công/ Thu chính phủ.
- Chỉ số về sự thay đổi mức độ bền vững nợ, chỉ số này cho thấy sự thay đổi về mức
độ bền vững nợ do có sự thay đổi về các biến số kinh tế vĩ mô khác. Thước đo thường
được sử dụng trong việc phân tích tính bền vững nợ là mức độ chênh lệch giữa tốc độ
tăng trưởng GDP thực tế và lãi suất thực tế: gY- i; nếu (gY– i) >0, thì tình hình vay
nợ vẫn còn được kiểm soát; nếu (gY– i) <0 thì Chính phủ cần phải điều chỉnh
cán cân ngân sách cơ bản của mình đủ để có tình trạng nợ bền vững.
- Các rủi ro về đồng tiền vay: cơ cấu đồng tiền chi trả nợ. Đối với một số khoản vay
thì số tiền vay nợ có thể là bằng một loại đồng tiền, giải ngân bằng một loại đồng tiền
khác và chi trả bằng một loại khác nữa. Rủi ro gắn liền với vay nợ đối với một quốc gia đi
SVTH: Nhóm 5 Trang 12
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
vay chính là về đồng tiền dùng để thanh toán chi trả nợ. Ngoài ra, việc lựa
chọn cơ cấu tiền vay thích hợp còn hạn chế việc bùng nổ rủi ro hối đoái.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG NỢ NƯỚC NGOÀI Ở CÁC
NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
2.1. Thực trạng nợ nước ngoài ở các nước đang phát triển trên thế giới từ thập niên
1980 đến 2009:
2.1.1. Tình hình chung nợ nước ngoài ở các nước đang phát triển

Nợ nước ngoài đang là nhân tố chính gây mất ổn định tại nhiều quốc gia đang phát
triển hiện nay. Nó là nhân tố không thể thiếu đối với các nước đang trong giai đoạn phát
SVTH: Nhóm 5 Trang 13
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
triển kinh tế khi tiền tiết kiệm trong nước có ít, những thâm hụt tài khoản vãng lai cao, và
sự cần thiết của nhập khẩu vốn để tăng nội lực quốc gia. Tình hình nợ nước ngoài ở các
quốc gia đang phát triển được chia làm 2 giai đoạn từ trước và sau năm 2000.
2.1.1.1. Giai đoạn từ 1980 đến năm 2000
Quy mô cuộc khủng hoảng nợ của các nước chậm phát triển, 1970-1989
Chỉ tiêu 1970 1980 1981 1982 1983 1984 1985 1986 1987 1988 1989
Tổng số nợ
(tỷ USD)
68,4 635,8 747,7 846,6 897,0 942,0 1.016,6 1.099,0 1.194,8 1.228,9 1.262,8
Tỷ số Nợ/Xuất
khẩu
99,4 89,1 95,0 119,8 133,4 132,9 148,8 167,8 156,6 147,6 139,0
Tỷ lệ Trả
nợ/Xuất khẩu
13,5 13,2 15,6 18,9 17,8 19,2 20,3 21,9 19,1 19,3 17,5
TỷlệNợ/GDP
13,3 24,4 27,9 31,3 33,2 34,1 36,6 38,1 38,4 36,2 34,5
Nguồn: [1] Micheal Todaro, Kinh tế học cho thế giới thứ ba
Trong 20 năm, từ 1970 đến 1989, nợ nước ngoài của các nước đang phát triển tăng
1.846% (từ 68,4 tỷ USD đến 1.263 tỷ USD), nhất là giai đoạn từ những năm 1970 đến
1980 với tốc độ tăng rất nhanh, gần 1.000% chỉ trong 10 năm. Các chỉ tiêu tỷ lệ Nợ/ Xuất
khẩu, tỷ lệ Trả nợ/ Xuất khẩu, và tỷ lệ Nợ/ GDP cũng tăng lên nhanh chóng qua các năm
và đạt đỉnh điểm vào giữa những năm 1980. Trong đó, đa phần nợ tập trung vào 4 nước
thuộc khu vực Châu Mỹ La tinh gồm Brazil (114,5 tỷ USD), Mê-hi-cô (105 tỷ USD), Ac-
hen-ti-na (49,4 tỷ USD) và Ve-ne-zue-la (33,9 tỷ USD) trong tổng số nợ là 485 tỷ USD

của 17 nước nợ nhiều nhất thế giới năm 1987
1
, 4 nước này chiếm 62,43% tổng số nợ. Cụ
thể, những năm đầu thập kỷ 70, nợ nước ngoài của Brazil là 4 tỷ đô la, đến cuối thập kỷ
70, con số này là 50 tỷ đô la, và đến năm 1989 thì nhảy vọt lên 121 tỷ. Cũng trong thời
gian nói trên, các quốc gia khác là Mê-hi-cô, Ac-hen-ti-na, Ve-ne-zue-la, Chi-lê hoặc Co-
lom-bi-a cũng bị tình trạng tương tự. Ví dụ, nợ nước ngoài của Mê-hi-cô tăng từ 7 tỷ đô-
la đầu thập kỷ 70 đến 38 tỷ vào cuối thập kỷ và đến năm 1989 thì con số này là 106 tỷ,
tương đương với 76% tổng thu nhập kinh tế quốc dân nước đó (Times, 08/01/1989), điều
1
Micheal Todaro, Kinh tế học cho thế giới thứ ba
SVTH: Nhóm 5 Trang 14
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
này có nghĩa là 80% thu nhập từ xuất khẩu của Mê-hi-cô cũng chỉ đủ để trả số tiền lãi
hàng năm của món nợ này, chưa nói đến khoản gốc phải trả
2
.
Đến năm 2000, tổng số nợ nước ngoài từ vay mới và từ lãi mẹ đẻ lãi con của các
nước Mỹ La tinh đã lên đến 739 tỷ đô-la, tăng 650 tỷ so với 40 năm trước đó. Chỉ riêng số
tiền các quốc gia con nợ này phải bỏ ra để trả lãi và khấu hao cơ bản của món nợ khổng lồ
nói trên cũng đã tốn mất hơn một nửa ngân sách hàng năm. Mê-hi-cô là nước mắc nợ
nhiều nhất, 161 tỷ đô-la, tăng 181% so với đầu thập kỷ 80, tiếp theo là Ac-hen-ti-na là
139 tỷ, tăng 127% so với năm 1991
3
.
Tại khu vực Đông Nam Á, nhiều quốc gia cũng đang sống dở chết dở vì nợ nước
ngoài. Bước sang những năm đầu tiên của Thiên niên kỷ thứ 3, nợ nước ngoài của
Indonesia đã đạt con số 150 tỷ và nước này trở thành một trong bốn con nợ lớn nhất thế
giới, sau Mê-hi-cô, Brazil và Ac-hen-ti-na. Năm 1999, Indonesia đã phải dùng đến hơn

50% thu nhập từ xuất khẩu để trả lãi và khấu hao nợ hàng năm. Philipine, ngay từ tháng
10 năm 1983 đã phải tuyên bố là không thể tiếp tục trả lãi suất và khấu hao nợ hàng năm
của món nợ nước ngoài 24 tỷ đô-la nhằm tìm kiếm một sự thoả hiệp từ các ngân hàng
phương Tây. Cụ thể, năm 1985, nếu như Chính phủ Philipine chỉ phải dành ra 22 tỷ pê-sô
(khoảng 900 triệu USD theo thời giá) trong tổng số thu nhập 67 tỷ pê-sô để trả lãi và khấu
hao tiền vay hàng năm thì đến năm 1999, con số này đã là 100 tỷ pê-sô (hơn 3 USD theo
thời giá) trong tổng số thu nhập hàng năm 120 tỷ pê-sô. Tương tự, nếu năm 1980, cứ chi 4
USD cho giáo dục thì Philipine phải chi 3 USD trả lãi và khấu hao nợ nước ngoài, các con
số tương ứng là 10 và 22 USD của năm 1985 và 30 và 100 năm 1989
4
.
2.1.1.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến 2009
5
2
Alvin Y. So, Nợ nước ngoài: Số phận của những con nghiện không biết điểm dừng, 2010
3
Phạm Quang Hòa, Nợ nước ngoài: Nhiều “con nghiện” sống dở chết dở, 2010
4
Phạm Quang Hòa, Nợ nước ngoài: Nhiều “con nghiện” sống dở chết dở, 2010
5
World, Global Development Finance, 2011, page 10
SVTH: Nhóm 5 Trang 15
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
Các chỉ số nợ nước ngoài (gồm tỷ lệ Nợ/ Xuất khẩu, Nợ/ GNI và Trả nợ/ Xuất khẩu)
được cải thiện đáng kể từ đầu thập kỷ đến năm 2008. Lợi nhuận từ xuất khẩu tăng nhanh
chóng nhờ vào khối lượng xuất khẩu tăng và giá cả hàng hóa thương mại quốc tế tăng cao
cho tới cuối năm 2008. Sự xoay chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế từ nợ thành tài sản có, và
sự xóa nợ đáng kể đối với các nước có thu nhập thấp theo HIPC (Sáng kiến các nước
nghèo mắc nợ) và MDRI (Sáng kiến

xóa nợ đa phương) là các nhân tố quan
trọng trong việc giảm gánh nặng nợ
nước ngoài của các nước đang phát
triển. Từ năm 2000 đến năm 2008, tỷ
lệ nợ/ xuất khẩu giảm hơn một nửa, từ
124,8% xuống còn 58,4%, và tỷ lệ nợ/
GNI giảm từ 37,8% xuống 20,6%. Tuy
nhiên, xu hướng này bất ngờ thay đổi
vào năm 2009 khi tốc độ tăng trưởng
giảm và thu nhập từ xuất khẩu giảm
mạnh trong hầu hết các nước đang
phát triển do sự ảnh hưởng của nền
kinh tế toàn cầu và cuộc khủng hoảng tài chính thế giới lúc này. Thu nhập từ xuất khẩu
năm 2009 giảm gần 20% so với mức năm 2008, cùng với việc gia tăng nợ nước ngoài của
các nước này đã đẩy tỷ lệ nợ/ xuất khẩu lên 74,6%, mức cao nhất từ năm 2005. Tỷ lệ trả
nợ/ xuất khẩu cũng bị ảnh hưởng tương tự, tăng từ 9,2% năm 2008 lên 11,3% năm 2009.
Ít thấy có sự thay đổi trong tỷ lệ nợ/ GNI nhưng nó cũng tăng lên năm 2009.
Các tỷ lệ nợ được cho bởi bảng số liệu bên dưới cũng trở nên xấu đi, tuy nhiên, sự
tăng lên của các tỷ lệ này khác nhau giữa từng khu vực. Khu vực Đông Á và Thái Bình
Dương và Trung Đông và Bắc Á có tỷ lệ nợ nước ngoài thấp nhất ở cả hai chỉ tiêu là Nợ/
GNI và Nợ/ Xuất khẩu. Năm 2009, các nhóm nước này trải qua một sự tăng nhẹ trong hai
chỉ tiêu nợ. Ngược lại, Châu Âu và Trung Á là khu vực tăng tỷ lệ Nợ/ GNI cao nhất, từ
SVTH: Nhóm 5 Trang 16
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
35,1% năm 2008 lên 44,7% năm 2009, gấp 3 lần tỷ lệ của khu vực Đông Á và Thái Bình
Dương, và gấp 2 lần khu vực Mỹ La tinh và Caribean. Tỷ lệ Nợ/ Xuất khẩu của khu vực
này cũng cao nhất với 131,8% năm 2009 (so với 91,6% năm 2008).
Chỉ số nợ cho các nhóm nước (%), 2000-2009
Khu vực

Tỷ lệ Nợ/ GNI Tỷ lệ Nợ/Xuất khẩu
2000 2008 2009 2000 2008 2009
Đông Á và Thái Bình Dương 29,6 12,9 13,2 78,1 30,9 39,0
Châu Âu và Trung Á 52,9 35,1 44,7 140,2 91,6 131,8
Mỹ La tinh và Caribbean 38,3 21,5 23,7 169,6 85,2 111,4
Trung Đông và Bắc Á 38,4 14,9 15,4 118,4 33,9 37,4
Nam Á 26,7 20,8 20,7 181,5 87,4 104,4
Hạ Saharan Châu Phi 66,0 21,4 22,9 185,2 49,0 66,5
Nguồn: World Bank Debtor Reporting System and IMF
Trong giai đoạn 9 năm, 2000-2009, đã có một sự cải thiện đáng kể trong vấn đề xử
lý nợ nước ngoài của các nước đang phát triển qua chỉ tiêu Trả nợ/ Xuất khẩu. Tỷ lệ này
giảm hơn một nửa từ năm 2000 đến 2008, từ 20,9% xuống 9,2% đối với nhóm nước có
thu nhập trung bình, và từ 12,2% xuống 4,9% đối với nhóm nước có thu nhập thấp. Như
ta đã biết, năm 2009 có một sự giảm mạnh trong thu nhập từ xuất khẩu, làm giảm đáng kể
tỷ lệ Nợ/ Xuất khẩu, và điều này tác động mạnh hơn đối với nhóm nước có thu nhập trung
bình hơn là nhóm nước có thu nhập thấp. Thu nhập từ xuất khẩu giảm gần 20% trong năm
2009, và vì vậy, tỷ lệ chi phí trả lãi vay so với xuất khẩu tăng tới 11,3% (tăng 22% so với
năm 2008). Ngược lại, các nước có thu nhập thấp lại giảm không đáng kể (10% so với
mức năm 2008) trong thu nhập từ xuất khẩu, và tỷ lệ Trả nợ/ xuất khẩu không bị ảnh
hưởng khi có sự tăng nhẹ từ 4,9% lên 5,1% năm 2009. Bên cạnh đó, các nước có thu nhập
thấp cũng hưởng lợi từ việc cấu trúc lại và sự giảm nợ. Năm 2009, Câu lạc bộ Paris đã cơ
SVTH: Nhóm 5 Trang 17
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
cấu lại các khoản nợ 5 tỷ USD từ
yêu cầu của 6 nước thu nhập
thấp (gồm Burundi, Cộng
Hòa Trung Phi, Comoros, Coote
d’Icoire, Haiti và Togo), trong đó
xóa nợ 1,2 tỷ USD. Tất cả 6

nước này đều đủ tư cách là thành
viên của HIPC và được giảm nợ từ MDRI. Nhờ những tổ chức HIPC và MDRI này, một
số nước đang phát triển sẽ tiếp tục cải thiện các chỉ số nợ của họ trong thời gian sắp tới.
2.1.2. Nguyên nhân các cuộc khủng hoảng nợ của các nước đang phát triển
6
Nguồn gốc của cuộc khủng hoảng những năm 1980 xuất phát từ thời kỳ 1974-1979
khi việc vay nợ quốc tế bùng nổ và được thúc đẩy bởi việc tăng vọt giá dầu của nhóm
OPEC. Giai đoạn 1967-1973, các nước đang phát triển đóng vai trò lớn trong nền kinh tế
khi tốc độ tăng trưởng trung bình của các nước này là 6,6%. Đặc biệt, các nước công
nghiệp mới gồm Mê-hi-cô, Brazil, Ve-ne-zue-la và Ac-hen-ti-na có tốc độ tăng trưởng
vượt xa mức trung bình của các nước đang phát triển. Để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng
của mình, nhiều nước đã bắt đầu nhập khẩu nhiều, nhất là các mặt hàng tư liệu sản xuất,
dầu lửa và lương thực. Giá dầu tăng cao và cuộc khủng hoảng thế giới khiến tốc độ tăng
trưởng của các nước công nghiệp mới này giảm mạnh. Để duy trì được tốc độ tăng
trưởng, các nước đang phát triển tăng cường vay nợ. Nhu cầu vốn của các nước này tăng
mạnh, trong khi nguồn vốn vay song phương có giới hạn, và nguồn vốn rẻ từ tổ chức IMF
lại có nhiều điều kiện ràng buộc, khiến các nước này tìm đến các ngân hàng thương mại
và các chủ nợ tư nhân khác nhằm tài trợ cán cân thanh toán quốc gia. Những ngân hàng
thương mại lúc này nắm giữ phần lớn số dư của khối OPEC (đang kiếm được lượng tiền
lớn từ việc tăng giá dầu thế giới) đã cạnh tranh nhau đưa ra các điều kiện ưu đãi và dễ
6
Micheal Todaro, Kinh tế học cho thế giới thứ ba
SVTH: Nhóm 5 Trang 18
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
dàng cho các nước công nghiệp mới và các nước có thu nhập trung bình đang trong tình
trạng đói vốn. Do đó, số nợ nước ngoài của các nước đang phát triển này tăng lên nhanh
chóng, từ 180 tỷ năm 1975 lên 406 tỷ năm 1987. Trong đó, nợ không được ưu đãi, và kỳ
hạn nợ ngắn và lãi suất theo thị trường chiếm tỷ lệ cao, lên tới 40% trong tổng số nợ năm
1971, 68% năm 1975 và lên tới hơn 77% năm 1979. Tuy nhiên, sự gia tăng khối lượng nợ

và lãi vay chưa là vấn đề đối với các nước đang phát triển giai đoạn này do giá dầu thực tế
lúc này giảm do lạm phát, lãi suất thực tế thấp và thu nhập xuất khẩu tăng cho phép các
nước này thu hẹp thâm hụt tài khoản vãng lai và duy trì tốc độ tăng trưởng nhất định.
Đến năm 1979, giá dầu thế giới tăng đột ngột làm tăng chi phí cho việc nhập khẩu
dầu lửa, lãi suất cũng tăng mạnh do chính sách kinh tế của các nước đã công nghiệp hóa
và thu nhập từ xuất khẩu giảm do tăng trưởng chậm của các nước phát triển hơn. Thực
trạng đó chưa phải là tất cả khi các nước này gánh một món nợ khổng lồ từ các năm trước
cùng với lãi suất vay nợ cũ tăng theo thị trường trở thành một gánh nặng cho các nước
đang phát triển này.
Bên cạnh đó, việc chuyển một số vốn tư nhân lớn ra nước ngoài để đầu tư của cư
dân các nước mắc nợ vì những lý do chính trị, kinh tế làm tình hình nợ các quốc gia này
thêm khủng hoảng.
2.1.3. Những giải pháp mà các nước đang phát triển đã sử dụng trong việc xử lý nợ
nước ngoài ở các nước đang phát triển trong thời kỳ này.

Các quốc gia con nợ đã nhóm họp để tìm cách giải quyết vấn đề nợ nước ngoài. Họ
đứng trước 2 lựa chọn: cắt giảm nhập khẩu và áp dụng các biện pháp thắt chặt tài khóa và
tiền tệ, do đó cản trở những mục tiêu tăng trưởng và phát triển, hoặc họ có thể tài trợ cho
những thâm hụt tài khoản vãng lai đang lớn dần bằng cách vay thêm nợ nước ngoài. Lựa
chọn cắt giảm tăng trưởng không thể thực hiện, vì vậy các nước này tiếp tục vay nợ nước
ngoài. Kết quả, giữa những năm 1980, một số nước như Brazil, Mê-hi-cô, Ac-hen-ti-na,
Philipine và Chile phải đối mặt với những khó khăn trong việc lấy thu nhập từ xuất khẩu
thanh toán cho những khoản lãi vay. Trong khi các khoản vay mới bị hạn chế do nguồn
SVTH: Nhóm 5 Trang 19
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
vốn tư nhân của thế giới đã cạn, nợ đến hạn lại tăng khiến các nước này phải thanh toán
nợ cho các ngân hàng thương mại nhiều hơn số nợ mới họ nhận được.

Giải pháp thứ hai mà các nước đang phát triển lựa chọn là các nước này tiến hành đàm

phán với các quốc gia cho vay về các vấn đề:
+ Hạ mức lãi suất đối với những khoản vay cũ và những khoản nợ mới trong tương
lai. Các quốc gia Mỹ La-tinh đã vay nợ vào thời điểm (những năm đầu thập kỷ 70) lãi
suất đạt mức kỷ lục 14-16%/năm. Do mức lãi suất giữa thập kỷ 80 đã giảm đi nhiều, các
quốc gia con nợ Mỹ La-tinh đã đề nghị các ngân hàng nước ngoài giảm mức lãi suất đánh
vào các khoản nợ cũ của họ từ 2-4%.
+ Thời hạn hoàn trả vốn cần được kéo dài thêm để giúp giảm bớt gánh nặng trả lãi
suất hàng năm cho các quốc gia con nợ Mỹ La-tinh.
+ Nới lỏng giới hạn tối đa cho việc phải sử dụng bao nhiêu phần trăm thu nhập từ
xuất khẩu để trả lãi nợ nước ngoài. Các quốc gia con nợ không thể sử dụng đến 80% thu
nhập từ xuất khẩu để trả nợ vì nếu tiếp tục như vậy, họ sẽ không còn tiền để nhập khẩu
máy móc và công nghệ cần thiết cho tiến trình công nghiệp hoá trong nước.

Giải pháp thứ ba của các nước này là cầu cứu đến thiết chế tài chính như Ngân hàng
Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Hoa Kỳ và chấp nhận những
điều kiện ràng buộc của nó. Các quốc gia chủ nợ đã gởi một nhóm người gồm các chuyên
gia kinh tế hàng đầu của các tổ chức trên tới các quốc gia con nợ để nghiên cứu và đề ra
các biện pháp giải quyết vấn đề. Những đề xuất của các chuyên gia gồm:
+ Thứ nhất, hai quốc gia này được phép 'giãn nợ', tức là lùi thời hạn trả nợ thêm
một thời gian nữa. Việc giãn nợ có thể tạm thời chặn đứng được nguy cơ xảy ra một cuộc
khủng hoảng tài chính có khả năng là nguyên nhân gây ra các cuộc khủng hoảng khác tiếp
theo trong trường hợp các quốc gia con nợ có ý định tuyên bố vỡ nợ.
+ Thứ hai, nhằm giúp đỡ các quốc gia Mỹ La-tinh trả được nợ, các tổ chức tài
chính nói trên đã quyết định cho các quốc gia con nợ này vay thêm tiền để trả nợ kèm
SVTH: Nhóm 5 Trang 20
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
theo những điều kiện cho vay mới. Đó là những khoản vay khẩn cấp, ngắn hạn hơn và với
lãi suất cao hơn mức thị trường lúc đó.
Thực tế, những giải pháp cấp cứu nói trên trong thực tế đã đem lại lợi nhuận lớn hơn

cho các tổ chức tài chính quốc tế và Ngân hàng Hoa Kỳ và tạo điều kiện cho họ kiểm soát
chặt chẽ hơn các quốc gia con nợ ở Mỹ La-tinh. Cụ thể, các ngân hàng phương Tây đã
thiết lập được sự giám sát chặt chẽ lên các báo cáo quyết toán tài chính của các quốc gia
con nợ. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) có thể thanh tra sổ sách của các quốc gia con nợ bất
kể lúc nào mà không gặp trở ngại gì. Kế hoạch phân bổ ngân sách và các chương trình
phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia con nợ phải do IMF phê duyệt thì mới được
thực hiện. Ngoài ra IMF còn đòi hỏi các quốc gia con nợ Mỹ La-tinh phải thực hành một
chính sách nghiêm ngặt thì mới được duyệt vay những khoản tiền mới. Chính sách này
bao gồm:
1- Giảm đáng kể chi tiêu của Chính phủ như hoãn hoặc giảm bớt một số chương
trình chi tiêu cho giáo dục, y tế và các phúc lợi xã hội,
2- Tăng thu cho ngân sách bằng cách tăng các loại thuế,
3- Giảm nhập khẩu để cân bằng cán cân thương mại, và
4- Tăng cường xuất khẩu thu ngoại tệ.

Giải pháp thứ tư và cũng là giải pháp cuối cùng mà các nước đang phát triển có thể sử
dụng, đó là tuyên bố vỡ nợ. Các con nợ sau khi lâm vào tình thế nợ nần chồng chất, và
một vài nước trong số đó đã tuyên bố vỡ nợ vì không thể tiếp tục trả lãi được nữa như tình
huống của Mê-hi-cô, Brazil, Philipine và nhiều nước Châu Phi khác vào những năm 1980.
Nếu tuyên bố vỡ nợ, những thiết tài chính phương Tây này hoàn toàn có thể phát động
các cuộc chiến tranh kinh tế nhằm lật đổ chính phủ của các quốc gia con nợ như yêu cầu
'đóng băng' tài sản của các quốc gia con nợ tại Hoa Kỳ, cấm vận kinh tế, chấm dứt cho
vay, thậm chí yêu cầu các công ty nước ngoài rút hoạt động đầu tư khỏi các quốc gia con
nợ. Do đã chìm sâu trong khủng hoảng kinh tế, bất kỳ một động thái nào nói trên cũng dễ
SVTH: Nhóm 5 Trang 21
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
dàng dẫn đến tình trạng hỗn loạn về kinh tế và bất ổn về chính trị trong các quốc gia con
nợ này. Vì vậy, đây là một giải pháp tiêu cực mà các nước đang phát triển có thể nghĩ
đến. Tuy nhiên, về phía các nước cho vay, nếu các quốc gia này không trả nợ, nhất là với

những món nợ khổng lồ lúc đó, một cuộc khủng hoảng tài chính thế giới sẽ nổ ra do các
quốc gia này đang nợ một món tiền rất lớn, khoảng vài trăm tỷ đô-la. Nhiều ngân hàng
Hoa Kỳ đã trót cho các quốc gia Mỹ La-tinh vay quá nhiều tiền. Ví dụ, Bank of America,
Chase Manhatan Bank đã bị đọng khoảng 30-40% tổng vốn của mình tại các quốc gia Mỹ
La-tinh. Bởi vậy, nếu các quốc gia này tuyên bố vỡ nợ thì họ và một số thiết chế tài chính
khác cũng bị phá sản luôn.
2.1.4. Hậu quả từ cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài của các nước đang phát triển
2.1.4.1. Lệ thuộc về kinh tế và chính trị ở các quốc gia chủ nợ
Từ những điều kiện ràng buộc từ các quốc gia chủ nợ, các quốc gia con nợ bị lệ
thuộc kinh tế vào chủ nợ, qua đó đã tiến dần đến chỗ bị lệ thuộc cả chính trị. Ví dụ:

Để lấy lòng Hoa Kỳ, Mê-hi-cô đã cam kết trong NAFTA sẽ đối xử với các công ty
Mỹ đầu tư ở Mê-hi-cô như các công ty trong nước, thậm chí còn hơn. Ví dụ, Chính phủ
Mê-hi-cô cam kết sẽ bồi thường cho bất kỳ công ty Mỹ nào bị thiệt hại do thay đổi chính
sách ở nước này. Điều đó dẫn đến một vụ việc là Chính phủ Mê-hi-cô đã đồng ý cho một
công ty Mỹ đầu tư vào bãi chứa chất thải độc hại ở Mê-hi-cô. Nhưng khi chính quyền
thành phố nơi có bãi chứa từ chối bởi lo sợ hiểm hoạ môi trường, công ty Mỹ đã kiện và
Chính phủ Mê-hi-cô đã phải bồi thường cho họ số tiền mà họ có thể kiếm được nếu được
phép đầu tư.

Tại Indonexia, cuối năm 1999, khi Chính phủ nước này định can thiệp vào quá trình
Đông Ti-mo tách ra khỏi Indonesia, các quốc gia phương Tây chỉ mới đe dọa ngừng cho
Indonesia vay tiền, Chính phủ đã phải ngay lập tức án binh bất động và chấp nhận cho Úc
đưa quân đội đến Đông Ti-mo.
SVTH: Nhóm 5 Trang 22
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
2.1.4.2. Nợ nước ngoài tác động một cách sâu sắc lên xã hội bên trong các quốc gia
con nợ


Thứ nhất, nó làm cho đồng tiền bị phá giá. Ví dụ ở Mê-hi-cô, năm 1982 với 25 pê-sô
thì bạn có thể mua được 1 USD nhưng đến năm 1984, để mua được 1 USD Mỹ, bạn phải
bỏ ra 200 pê-sô. Rất nhiều người dân Mê-hi-cô vì lo sợ nền kinh tế có thể sụp đổ bất cứ
lúc nào nên đã đổ xô đi mua USD, tạo ra một tâm lý bất ổn bao trùm lên toàn bộ xã hội.

Thứ hai, do đồng tiền bị mất giá, nạn lạm phát cũng gia tăng. Đầu năm 1980, mức lạm
phát của Mê-hi-cô đã là 80%. Tình trạng lạm phát của Brazil có phần tệ hại hơn, từ mức
200% vào năm 1985 đã tăng lên 500% vào năm 1986. Nhưng có lẽ Pê-ru mới là nước có
mức lạm phát cao nhất, khoảng 1700% vào năm 1989.

Thứ ba, do phải cắt giảm nhiều khoản chi ngân sách, đặc biệt là hạn chế nhập khẩu
máy móc thiết bị để phát triển công nghiệp, các kỳ vọng vào sự tăng truởng của nền kinh
tế Mỹ La-tinh đầu thập kỷ 70 đã tan như bong bóng xà phòng. Thay vào đó, các quốc gia
con nợ này đã chứng kiến một giai đoạn suy thoái kinh tế chưa từng có. Mức tăng GNP
của Mê-hi-cô từ +8% năm 1978 đã trở thành -5% năm 1983. Suy thoái kinh tế sinh ra thất
nghiệp hàng loạt. Nhiều quốc gia con nợ Mỹ La-tinh có tỷ lệ thất nghiệp vượt quá 50%.

Thứ tư, đồng tiền mất giá, nạn lạm phát, tình trạng thất nghiệp và suy thoái kinh tế
đương nhiên sẽ dẫn đến những bất ổn chính trị trong lòng xã hội của các quốc gia con nợ
này. Biểu tình và đình công đã trở thành một hiện tượng quá bình thường tại Mỹ La-tinh
trong thập kỷ 80. Năm 1983 ở Brazil đã xảy ra một cuộc nổi loạn của các công dân thủ
đô. Họ đập phá các cửa hàng, xông vào các siêu thị để cướp bóc lương thực, thực phẩm.
Tờ thời báo (Times) tháng 3 năm 1986 có đăng bài phản ánh tình trạng bất ổn chính trị
này, thậm chí còn coi đó là cuộc đấu tranh “một mất một còn” do các đảng cánh hữu phát
động nhằm tìm cách lật đổ các chính phủ đương thời.

Thứ năm, tình cảm “chống Mỹ” trong các quốc gia con nợ Mỹ La-tinh tăng lên. Người
dân Mỹ La-tinh coi Chính phủ và các Ngân hàng Hoa Kỳ là nguyên nhân làm cho cuộc
SVTH: Nhóm 5 Trang 23
Lớp: Cao học 12 B1

Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
sống của họ ngày càng khốn khó. Hàng năm, hàng chục tỷ USD bị chuyển từ các quốc gia
con nợ sang Hoa Kỳ chỉ để trả lãi những khoản nợ vay trước đó. Nếu như số tiền khổng lồ
này được chi dùng cho các mục tiêu và chương trình xã hội trong nước thì phần lớn người
dân lao động Mỹ La-tinh sẽ đỡ vất vả hơn nhiều.
2.1.5. Vấn đề đặt ra đối với Nợ nước ngoài ở các nước đang phát triển hiện nay
Đối với những nước đang phát triển, sự tồn tại của khoản nợ nước ngoài trên cán cân
thanh toán gần như là một điều hiển nhiên, đặc biệt là những nước nghèo tài nguyên thiên
nhiên. Bởi lẽ đặc thù của những nước này là nguồn tích lũy từ trong nước thì thấp nhưng
nhu cầu đầu tư lại cao, vì vậy việc bổ sung nguồn tích lũy trong nước bằng cách dựa vào
nguồn vốn nước ngoài để tài trợ, nâng cao mức phát triển cũng như mức sống người dân
có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, đi đôi với nó là những khó khăn lớn trong việc hoàn trả
nợ, lãi của những khoản nợ nước ngoài mà các quốc gia đang phát triển phải đối diện hiện
nay. Dưới đây là một số vấn đề đặt ra đối với nợ nước ngoài ở các nước đang phát triển
hiện nay.
2.1.5.1. Mối quan hệ tỷ lệ giữa tệ tham nhũng và nợ nước ngoài
Sau khi nghiên cứu trường hợp của Hi Lạp và một số nước nghèo có tỷ lệ nợ nước
ngoài lớn, và theo bảng số liệu điều tra tham nhũng các nước trên thế giới 2001-2005
7
của
tổ chức Minh bạch Quốc tế, các quốc gia có tỷ lệ nợ lớn như Philippines (đứng thứ
117/159 quốc gia tham nhũng trên thế giới), Indonesia (137/159), Côte d’Ivoire
(152/159), hay Haiti (155/159), … Qua đó, ta có thể thấy đặt câu hỏi là liệu có mối quan
hệ nào giữa nợ nước ngoài và tỷ lệ tham nhũng cao ở các quốc gia con nợ này. Nếu các
quốc gia con nợ lớn, và họ lại là các quốc gia có nạn tham nhũng trầm trọng thì liệu số
vốn nước ngoài được đầu tư vào các nước này có hiệu quả không, hay lại gây ra một cái
vòng luẩn quẩn về nợ và lãi nước ngoài mà không bao giờ trả hết được, và có khi chính
nợ nước ngoài lại là một trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng nợ ở quốc gia
mình như trường hợp ở Hi Lạp. Nhận thức được vấn đề này, các quốc gia con nợ có thể
7

Vi.wikipedia.org/wiki/tham_nhũng
SVTH: Nhóm 5 Trang 24
Lớp: Cao học 12 B1
Bài tiểu luận nhóm môn KTPT GVHD: TS. Nguyễn Chí Hải
đưa ra giải pháp cho chính quốc gia mình trong việc quản lý và xử lý nạn tham nhũng
quốc gia một cách nghiêm túc, cải cách bộ máy nhà nước, từ đó tiến tới xử lý vấn đề nợ
nước ngoài.
2.1.5.2. Sự lo ngại vỡ nợ của các con nợ lớn trên thế giới
Vấn đề đặt ra hiện nay là nếu một, hoặc hai nước con nợ lớn của thế giới, như Brazil,
Mê-hi-cô, hay Ac-hen-ti-na bị vỡ nợ, hay nhóm các con nợ cùng nhau quịt nợ thì nền tài
chính thế giới lúc đó sẽ thế nào. Số vốn vay lớn của một số ngân hàng lớn của Mỹ đã bị ứ
đọng vào các khoản cho vay ở các nước này, nếu các con nợ này không thể chi trả thì các
ngân hàng lớn ở Mỹ có nguy cơ đỗ vỡ, kéo theo đó là một hệ thống ngân hàng không chỉ
ở Mỹ mà trên thế giới sẽ dẫn đến sụp đổ. Hiểu được hậu quả đó, hiện nay, các nước đang
phát triển đã tạo điều kiện cho các nước này trả nợ thông qua nhiều chương trình khác
nhau. Có thể nói đến việc phân phối lại quyền rút vốn đặc biệt (SDRs), sử dụng SDRs
như là loại tiền tệ (do IMF phát hành) để dự trữ như ngoại tệ hay tiến hành các giao dịch
thương mại với các nước sở hữu khác. Hay việc các nước phát triển tạo điều kiện cho các
nước đang phát triển trả nợ thông qua chương trình HIPC - Sáng kiến giảm nợ cho các
nước nghèo và MDRI - sáng kiến xóa nợ đa phương. Ngoài ra, các nước phát triển, IMF
có thể tiến hành gia hạn nợ, hạ lãi suất cho các khoản vay. Đồng thời, nhằm giảm thiểu rủi
ro và giải quyết thanh khoản cho các ngân hàng chủ nợ, các ngân hàng này có thể bán
những khoản nợ ở các nước đang phát triển cho các nhà đầu tư tư nhân trên thị trường thứ
cấp để các nhà đầu tư này thu nợ.
2.1.5.3. Công tác quản lý vốn ODA
Vấn đề mấu chốt đối với các nước đang phát triển là phải vay mượn, nhất là vay vốn
nước ngoài dưới nhiều hình thức, thì mới có nguồn đầu tư cho tăng trưởng. Do đó, vấn đề
sử dụng vốn vay sao cho hiệu quả cần được quan tâm trước tiên, bởi đó là những đồng
tiền vay mượn, phải trả lãi và đến hạn sẽ phải trả nợ. Các nước đang phát triển cần thận
trọng đến từng đồng vốn vay, kể cả đó có là viện trợ phát triển chính thức (ODA)- loại

cho vay nước ngoài được xem là ưu đãi nhất hiện nay. Đó là nguồn lực tốt cho phát triển,
SVTH: Nhóm 5 Trang 25
Lớp: Cao học 12 B1

×