1
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Biến đổi khí hậu hiện nay không còn là vấn đề của riêng một đất nước, một
quốc gia dân tộc nào, sự thay đổi khí hậu đã tác động đến tất cả các quốc gia trên
thế giới, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống. Vấn đề biến đổi khí hậu đã trở
thành chương trình nghị sự của toàn nhân loại, là một thách thức của thế kỷ XXI.
Việt nam là một trong năm nước hàng đầu phải chịu sự tác động của biến đổi
khí hậu. Khoảng 50 năm qua, nhiệt độ của Việt Nam đã tăng khoảng 0,7
0
C, mực
nước biển dâng khoảng 20cm, El-nino, La-nina ngày càng biểu hiện rõ, bão lũ, hạn
hán ngày càng ác liệt, gió mùa lạnh tần suất biểu hiện ít đi, bão lớn tăng cường và
có xu hướng lùi về phía nam. . . Biến đổi khí hậu đã, sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng
cho nước ta. Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước ta đã quán triệt, xây dựng thành
một phần trong Nghị Quyết Trung Ương VII về vấn đề cấp bách hiện nay, Nghị
quyết Trung Ương VII đã được phổ biến đến mọi tầng lớp, tổ chức và trở thành
chương trình Hành động Quốc gia.
Là một tỉnh miền núi của khu vực Tây Bắc Việt Nam, Lai Châu mới được tái
lập (2004) từ tỉnh Lai Châu cũ (bao gồm Điện Biên và Lai Châu), nền KT - XH của
tỉnh phát triển còn chưa ổn định và đang được kiện toàn, đời sống nhân dân còn gặp
nhiều khó khăn, trong khí đó, biến đổi khí hậu đang tác động ngày một mạnh mẽ
đến đời sống của người dân nơi đây. Trong những năm qua, biểu hiện biến đổi khí
hậu đã tác động đến Lai Châu, như: lượng mưa trung bình giảm, nhưng ngày mưa
lớn bất thường lại tăng lên; lũ quét tăng cường, các hiện tượng thời tiết cực đoan
sương muối, giá rét, mưa đá… có biểu hiện thất thường và gia tăng.
Nhằm làm sáng tỏ một số biểu hiện của biến đổi khí hậu của Lai Châu, từ đó
có cái nhìn chân thực hơn về biến đổi khí hậu trên địa phương này, đề xuất các giải
pháp ứng phó là việc làm vừa có giá trị khoa học, vừa đảm bảo tính nhân văn và
thời sự.
2
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài lựa chọn “Biến đổi khí hậu Lai Châu
và một số biện pháp ứng phó” làm nội dung nghiên cứu, nhằm giải quyết các
nhiệm vụ cấp bách nêu trên.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ
2. 1. Mục tiêu
- Phân tích biểu hiện biến đổi khí hậu Lai Châu cùng ảnh hưởng của nó đến
tự nhiên và đời sống.
- Từ những biến đổi khí hậu, đề xuất một số giải pháp ứng phó, giúp ổn định
đời sống người dân.
2. 2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục tiêu đề ra, nhiệm vụ của đề tài cần giải quyết các vấn
đề sau:
- Thu thập xử lý các tài liệu về biến đổi khí hậu chung và tài liệu biến đổi khí
hậu Lai Châu;
- Phân tích biến đổi khí hậu Lai Châu cùng tác động của nó đến tự nhiên và
đời sống xã hội;
- Đề xuất giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, giúp giảm thiểu tác động,
ổn định đời sống người dân.
3. Giới hạn của đề tài
Không gian nghiên cứu: đề tài nghiên cứu tỉnh Lai Châu, ranh giới hành
chính của tỉnh được phân định theo điều chỉnh Nghị quyết số 22/2003/QH11, ngày
26/11/2003 của Quốc hội nước CHXHCNVN;
Thời gian: chuỗi thời gian 50 năm từ 1960 đến 2010, có liên hệ với thời kỳ
trước;
Nội dung: nghiên cứu biến đổi khí hậu Lai Châu thông qua chế độ nhiệt độ,
lượng mưa và hiện tượng thời tiết đặc biệt.
3
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khí hậu là thành phần tự nhiên tác động mạnh mẽ đến tự nhiên và đời sống
xã hội con người, nên những nghiên cứu về khí hậu cũng như biến đổi khí hậu đã
được quan tâm có bề dày không chỉ trên thế giới mà cả ở nước ta. Nhất là trong
hoàn cảnh thiên nhiên chịu nhiều ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, vì vậy nước ta có
nhiều nghiên cứu về biến đổi khí hậu, việc nghiên cứu ở cả tầm quốc gia cũng như
cấp tỉnh (như Lai Châu), có thể khái lược về những nghiên cứu này.
Trần Thục, Lê Nguyên Tường, Khí hậu, biến đổi khí hậu và các biện pháp
thích ứng, Báo cáo Hội nghị khoa học trường ĐH Thủy Lợi, 2006. Trong báo cáo,
các tác giả đã trình bày lý thuyết khí hậu, chỉ ra những biểu hiện của biến đổi khí
hậu của thế giới và Việt Nam, đưa ra 3 giải pháp thích ứng, nhưng chủ yếu vẫn tập
trung vào lý luận là chính, phân tích biến đổi khí hậu ở Việt Nam chưa cụ thể, chưa
phân vùng biến đổi khí hậu.
Trung tâm Khoa học Công nghệ Khí tượng thủy văn & Môi trường, Nâng
cao nhận thức và tăng cường năng lực cho địa phương trong việc giảm nhẹ biến
đổi khí hậu, góp phần thực hiện Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc và Nghị
Định thư Kyoto về biến đổi khí hậu, 2007. Là tài liệu tập huấn cho địa phương, tài
liệu đã có các thống kê số liệu biến đổi khí hậu, nhưng chủ yếu là thế giới, có liên
hệ đến Việt Nam. Bên cạnh đó, nhóm biên soạn cũng đã trình bày một số nội dung
cơ bản về Công ước Khung và Nghị Định thư Kyoto. Những văn liệu này mang
tính chất toàn cầu và nguy cơ chung, có liên hệ đến nước ta.
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Nghiên cứu BĐKH ở Đông Nam Á và đánh
giá tác động tổn thương và biện pháp thích ứng, Đề tài hợp tác với SEA
STARTRC, 2007; Bộ Tài nguyên và Môi trường, Kịch bản biến đổi khí hậu, nước
dâng cho Việt nam, Tháng 6, năm 2011. Đây là bộ tài liệu cơ bản về biến đổi khí
hậu chung của khu vực và Việt Nam. Trong đó tài liệu đã đưa ra 4 loại kịch bản
phát thải biến đổi khí hậu trên thế giới và các kịch bản ứng với Việt Nam.
4
- Tỉnh Lai Châu: Sở tài nguyên và môi trường Lai Châu, Kế hoạch hành
động ứng phó với biến đổi khí hậu tỉnh Lai Châu, Lai Châu 2011. Đây là bộ tài liệu
của tỉnh Lai Châu thuộc chương trình Mục tiêu Quốc Gia. Bộ tài liệu phân tích biến
đổi khí hậu Lai Châu qua diễn thế nhiệt và mưa, đồng thời kiến nghị kịch bản trung
bình cho Lai Châu. Báo cáo biến đổi khí hậu và thiệt hại hàng năm của sở tài
Nguyên và Môi trường tỉnh Lai Châu
Như vậy các tài liệu từ cấp Nhà nước, cấp tỉnh, với đề tài, báo cáo việc
phân tích vẫn mang tính chất chung, chưa phân tích cụ thể các biểu hiện biến đổi
khí hậu cho một lãnh thổ tỉnh như tỉnh Lai Châu. Đề tài với số liệu từ tỉnh Lai
Châu, Viện Khí Tượng và Thủy Văn trình bày các biểu hiện biến đổi khí hậu trên
các yếu tố khí hậu, đề ra một số giải pháp ứng phó là một tài liệu chi tiết mang tính
địa phương.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5. 1. Phương pháp thu thập, xử lý và phân tích tài liệu
Đây là phương pháp truyền thống, nhưng được sử dụng thường xuyên trong
đề tài. Tài liệu, văn liệu về địa phương rất đa dạng về thể loại và phong phú về mặt
nội dung, trên cơ sở thu thập các tài liệu về Lai Châu chúng cần phải chọn lọc, xử lí
và phân tích để lựa chọn, tập hợp đưa vào đề tài. Chỉ khi có sự lựa chọn, phân tích
thì mới xác định được đúng ý tưởng của tài liệu và mục đích của đề tài; để làm
được việc đó, trong quá trình thu thập tài liệu thực hiện, đề tài luôn xác định
phương pháp này là phương pháp chủ đạo cho nghiên cứu.
5. 2 Phương pháp dự báo
Dự báo là phương pháp nội suy hoặc ngoại suy, căn cứ vào các dấu hiệu, cứ
liệu khoa học có thể đề xuất các nhận định để dự báo diễn biến và sự thay đổi của
các khu vực, các đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này sẽ giúp ta thấy được
những xu hướng của sự biến đổi, từ đó có cách khai thác, hoặc tác động tới lãnh thổ
hợp lí tránh được những tai biến, tổn thất, đảm bảo tính bền vững.
5
Đề tài sử dụng phương pháp dự báo sau khi đã đánh giá các điều kiện tự
nhiên, tài nguyên thiên nhiên của tỉnh cùng phân tích biến đổi khí hậu, lấy đó làm
cơ sở cho việc kiến nghị các biện pháp khai thác lãnh thổ.
5. 3 Phương pháp hệ thống thông tin Địa lý – GIS
Hệ thông tin địa lí GIS là một hệ thống thông tin về Địa lí, gồm nhiều hệ
thống phương tiện hỗ trợ cung cấp thông tin, đây là một trong những phương pháp
hiện đại nhưng có giá trị to lớn, hỗ trợ cho nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khoa học
khác nhau, trong đó Địa lí là khoa học đang được ứng dụng nhiều, để nghiên cứu,
đánh giá hiện trạng và khai thác, sử dụng lãnh thổ.
5. 4 Phương pháp khảo sát thực địa
Đây là phương pháp truyền thống nhưng không thể thiếu trong nghiên cứu,
nhất là với khoa học Địa lí. Bản thân tác giả là người Lai Châu (cũ), nên các tuyến
thực địa, các địa điểm thực địa trong đề tài được tác giả xây dựng và thực hiện
nghiêm túc, là cơ sở thực nghiệm có căn cứ thực tiễn, chứng minh cho những nhận
định của mình.
5. 5. phương pháp bản đồ, biểu đồ
Đây là phương pháp đặc trưng của bộ môn Địa Lý, bản đồ, biểu đồ không
chỉ khái quát hóa nội dung mà còn chỉ ra được các mối quan hệ giữa đối tượng
nghiên cứu và với thành phần tự nhiên khác. Biểu đồ có thể phản ảnh tốt các yếu tố
động lực và diễn thế cùng những minh chứng cụ thể của đối tượng, nhất là nghiên
cứu biến đổi khí hậu. Bản đồ phản ảnh tính chất không gian của đối tượng. Đề tài
sử dụng phương pháp bản đồ, biểu đồ để phân tích không gian và diễn thế biến đổi
các yếu tố khí hậu Lai Châu.
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài cung cấp những kiến thức về biến đổi khí hậu; là tài liệu tham khảo cho
những nhà nghiên cứu, sinh viên học tập (nhất là sinh viên chuyên nghành địa lý).
Là tài liệu tham khảo giảng dạy, học tập môn địa lý địa phương tỉnh Lai Châu.
6
Góp phần nâng cao năng lực, nhận thức và trách nhiệm của mọi người trong
việc bảo vệ môi trường sống của mình.
7. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận đề tài bao gồm các chương sau:
Chƣơng I. Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chƣơng II. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội Tỉnh Lai Châu
Chƣơng III. Tình hình biến đổi khí hậu Lai Châu và biện pháp ứng phó
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Khí hậu và biến đổi khí hậu
Khí hậu theo quan điểm của (alixôp): “khí hậu là trạng thái khí quyển ở một
nơi nào đó được đặc trưng bằng các chỉ số trung bình nhiều năm về nhiệt độ, độ
ẩm, lượng mưa, lượng bốc hơi, gió, mây, giữa các thành phần này có mối quan hệ
thống nhất và hoàn chỉnh”.
Khái niệm mang tính chất địa lý của khí hậu theo Sneiderkarius như sau:
“Khí hậu là một cơ quan điển hình của một nơi nào đó hoặc là tập hợp các trạng
thái khí quyển và các quá trình thời tiết của một khoảng không gian lớn quan sát
được gần mặt đất có tác động đến bề mặt trái đất trong một khoảng thời gian dài”.
Tập hợp này được biểu thị bằng sự phân bố của các giá trị trung bình được lặp lại
thường xuyên và các giá trị cực trị.
Khái niệm khí hậu địa phương: là khí hậu của một khu vực nào đó có quy mô
địa phương được tạo nên bởi quan hệ giữa điều kiện địa hình(hướng dốc và độ
dốc), địa mạo (kiểu dạng địa hình của khu vực đó) với điều kiện bức xạ mặt trời từ
mối quan hệ này sẽ hình thành nên các điều kiện nhiệt độ, không khí, chế độ gió,
chế độ mưa khác nhau ở các khu vực đó.
Biến đổi khí hậu: là sự thay đổi khí hậu từ trạng thái này sang trạng thái
khác, mà biểu hiện là sự thay đổi của các thành phần đặc trưng.
7
Ban đầu biến đổi khí hậu được lấy tên là Elnino, theo tiếng Tây Ban Nha có
nghĩa là “bé trai”, nguyên nhân là sự thay đổi khí hậu do dòng biển nóng, lạnh có
tính quy luật và hoang mạc Atacama. Elnino trong khí tượng còn được gọi là “dao
động phương Nam”.
Ngược lại với Elnino là Lanina, còn gọi là “bé gái”. Lanina là hiện tượng
ngược của Elnino, về cơ bản, khi Lanina xuất hiện sẽ làm cho hoàn lưu khí quyển
trở về trạng thái bình thường ở khu vực Thái Bình Dương. Tại Nam Mỹ thời tiết trở
lại lại như vốn có, còn khu vực Đông Nam Á, Bắc Úc lại mưa lớn kéo dài.
Theo công ước chung của LHQ về biến đổi khí hậu: “Biến đổi khí hậu là
“những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu”, là những biến đổi trong môi
trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành
phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản
lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc
lợi của con người”.
1.1.2 Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu
Khí hậu là thành phần quan trọng cấu thành nên sự sống của trái đất. các
nhân tố khí hậu: nhiệt độ, độ ẩm, khí áp, gió…luôn có mối quan hệ tương hỗ và
phụ thuộc, những mối quan hệ đó khá đa dạng và phức tạp, luôn biến đổi theo
không gian và thời gian, chúng được phản ánh một cách sinh động qua thời tiết và
các hợp quần khác của tự nhiên.
Khí hậu luôn biến đổi theo thời gian. Quá trình sinh tồn và phát triển, con
người thường xuyên tác động đến tự nhiên, sự tác động này ngày càng mạnh mẽ
không ngừng gia tăng cả về bề rộng lẫn chiều sâu, điều này đã góp phần dẫn đến sự
biến đổi của tự nhiên, trong đó có khí hậu. Khí hậu biến đổi trong những năm gần
đây, đặc biệt từ thời kì tiền công nghiệp (nửa cuối thế kỉ XIX), biểu hiện là sự nóng
lên toàn cầu, kéo theo hàng loạt những biến động của môi trường tự nhiên: bão lụt,
hạn hán, Elnimo, Lanina…sự dâng cao của mực nước biển. Đây một phần là hậu
8
quả con người can thiệp sâu vào môi trường tự nhiên; nhưng một phần cũng do yếu
tố tự nhiên.
- Sự biến đổi trong quỹ đạo Trái Đất: Trong các yếu tố tác động đến khí hậu,
sự thay đổi trong quỹ đạo của Trái Đất là yếu tố có ý nghĩa quan trọng làm thay đổi
năng lượng Mặt Trời, bởi vì dù chỉ có sự thay đổi rất nhỏ trong quỹ đạo Trái Đất
cũng đã dẫn tới những sự thay đổi trong sự phân phối của ánh sáng Mặt Trời khi
tiến tới bề mặt Trái Đất.
Độ lệch tâm, độ nghiêng của trục và tuế sai là 3 chu kì chi phối tạo ra sự thay
đổi trong quỹ đạo Trái Đất. Sự kết hợp hiệu quả của các biến thể trong 3 chu kì này
đã tạo ra sự thay đổi trong sự tiếp nhận theo mùa vụ của bức xạ Mặt Trời trên bề
mặt Trái Đất. Như vậy, chu kì Milankovitch (tên gọi cho hiệu ứng tổ hợp của các
thay đổi trong chuyển động của Trái Đất lên khí hậu) ảnh hưởng trực tiếp đến việc
tăng hay giảm bức xạ Mặt Trời mà Trái Đất nhận được, từ đó sẽ ảnh hưởng đến
hoàn lưu khí quyển, đồng thời cũng ảnh hưởng tới hoạt động của hệ thống băng hà
trên Trái Đất.
- Hoạt động núi lửa: Phun trào núi lửa là một quá trình vận chuyển vật liệu từ
dưới sâu lòng đất lên bề mặt, như là một phần của tiến trình mà Trái đất loại bỏ sự
quá dư thừa về nhiệt độ và áp suất bên trong lòng nó. Sự phun trào núi lửa là sự giải
phóng ở các mức độ khác nhau những vật liệu đặc biệt vào trong bầu khí quyển.
Trong một thế kỉ mà xảy ra vài vụ nổ núi lửa sẽ có tác động ít nhiều đến khí hậu
toàn cầu, điển hình là chúng có thể gây ra hiện tượng “mát” cho một giai đoạn kéo
dài khoảng một năm hoặc nhiều hơn thế. Sự hoạt động của núi lửa Pinatubo năm
1991, hoạt động phun trào núi lửa lớn thứ hai trên Trái Đất trong thế kỉ XX (chỉ sau
hoạt động của núi lửa Novarupta xảy ra vào năm 1912) là một ví dụ, làm cho khí
hậu bị ảnh hưởng đáng kể, nhiệt độ toàn cầu giảm đi 0, 5
o
C, tầng ôzôn bị suy yếu đi
đáng kể.
Núi lửa cũng là một phần làm gia tăng lượng khí Cacbon có trong khí quyển.
Tuy nhiên, theo sự khảo sát của các đoàn địa chất Hoa Kì, đã ước tính rằng các
9
hoạt động của con người còn tạo ra một khối lượng khí cacbon nhiều gấp 130 lần
lượng khí được tạo ra do hoạt động núi lửa.
- Tác động của con người
Các hoạt động của con người là nguyên nhân chủ yếu làm thay đổi môi
trường. Những giả thuyết cho rằng con người đã gây ra sự biến đổi khí hậu đã được
tranh luận trong nhiều năm qua, cho đến nay, cuộc tranh luận khoa học này đã
chuyển từ “chủ nghĩa hoài nghi” thành “khoa học đồng lòng”: chính hoạt động của
con người là nguyên nhân gây ra sự biến đổi nhanh chóng của khí hậu toàn cầu
trong một vài thập kỉ gần đây. Trong hầu hết các mối quan tâm về những tác động
do con người gây ra, thì mối quan tâm hàng đầu hiện nay đó là sự gia tăng của
lượng khí CO
2
do việc đốt các nhiên liệu có nguồn gốc hóa thạch, việc sản xuất xi
măng…. Các yếu tố khác, bao gồm cả việc sử dụng đất, lỗ thủng tầng ô zôn, sản
xuất nông nghiệp và nạn phá rừng… cũng đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến
biến đổi khí hậu.
- Hiệu ứng nhà kính: Trái Đất nhận năng lượng từ Mặt trời dưới dạng các bức
xạ sóng ngắn. Bức xạ sóng ngắn dễ dàng xuyên qua các lớp khí CO
2
và lớp ôzôn để
xuống mặt đất. Khi xuống mặt đất, một phần của năng lượng này được phản xạ vào
không khí, một phần bị các chất trên mặt đất hấp thu, làm cho bề mặt trái đất nóng
lên. Khi bề mặt Trái Đất nóng lên lại bức xạ năng lượng vào khí quyển dưới dạng
các bức xạ bước sóng dài, chủ yếu là các bức xạ nhiệt. Các bức xạ sóng dài không
có khă năng xuyên qua “khí nhà kính”, gồm khí CO
2
, hơi nước, CH
4
, các hợp chất
chloroflorocacbon (CFC) và NO
2
. Khí nhà kính có mặt trong khí quyển sẽ hấp thụ
những bước xạ sóng dài, được sưởi nóng và lại phản xạ ra mọi phía trong đó có phía
lên bề mặt của Trái Đất. Kết quả là bề mặt Trái Đất bị ấm lên, nhiệt độ bề mặt Trái
Đất cũng bị nóng lên. Hiện tượng này được gọi là “hiệu ứng nhà kính” vì trong quá
trình nóng lên của Trái Đất tương tự như quá trình nóng lên trong nhà kính, có sự
tăng khí CO
2
và các chất bức xạ nhân tạo, lớp khí này có tác dụng như lớp kính giữ
nhiệt của nhà kính trồng rau xanh vào mùa đông. Nổi bật trong các khí gây hiệu ứng
10
nhà kính là CO
2
, có khả năng hấp thụ các tia bức xạ bước sóng dài và nóng lên. Do
vậy, người ta cho rằng sự phát sinh CO
2
ngày càng nhiều trong khí quyển sẽ làm
bầu khí quyển nóng lên, (CO
2
tăng lên là kết quả của đốt cháy nhiên liệu, củi, than
đá, giao thông vận tải, cháy rừng làm mất nguồn hấp thu bớt CO
2
nhả O
2
). Sự tăng
nhiệt độ làm thay đổi khí hậu của khí quyển toàn cầu.
Các nguồn phát sinh khí nhà kính bao gồm:
+Tự nhiên: CO
2
, hơi nước, CH
4
, O
3
và NO
2
+Nhân tạo: trong khoảng 50 năm trở lại đây, hàm lượng CO2, CH
4
, NO
2
đã
gia tăng nhanh chóng, và hợp chất mới xuất hiện CFC
’
s- chất làm lạnh, dung môi,
thuốc xịt, … Một phần tử CFC có thể hấp thụ các tia hồng ngoại gấp 12000-16000
lần so với CO
2
.
Một số nguyên nhân làm tăng lượng khí nhà kính:
+ Quá trình đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch.
+ Phá rừng làm giảm nguồn hấp thu CO
2
.
+Sản phẩm phụ của quá trình đốt cháy nylon.
Tác nhân chính gây hiệu ứng nhà kính: CO
2
(50%), CH
4
(13%), N
2
O (5%),
hơi nước (3%); ngoài ra còn có CFC
’
s (24%), CO, NO
x
và hợp chất hữu cơ dễ bay
hơi. Suy thoái lớp ozone do nhiều chất khí CFC
’
s, clo… làm số lượng tia cực tím
UV chiếu thẳng vào khí quyển nhiều hơn, là nguyên nhân gián tiếp thúc đẩy hiệu
ứng nhà kính.
Ngày nay, con người được nghe nói nhiều đến tác hại của hiệu ứng nhà kính.
Thực tế hiệu ứng nhà kính tự nhiên có vai trò quan trọng đối với Trái Đất:
+ Nhờ hiệu ứng nhà kính mà nhiệt độ trung bình của bề mặt Trái Đất vào
khoảng 60
o
F. Nếu không có hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ sẽ vào khoảng -70
o
F (hay -
22
o
C).
+ Giữ trạng thái “cân bằng nhiệt” trên bề mặt Trái Đất. Bình thường sự gia
tăng nhiệt độ trên bề mặt Trái Đất ảnh hưởng đến cân bằng nhiệt theo hai cách: khí
nhà kính tăng trong giới hạn cho phép, nhiệt độ không khí đảm bảo ở mức cân bằng.
11
Khi các nhà kính vượt quá giới hạn và phát sinh khí nhà kính mới, thì “hiệu ứng nhà
kính” gây hậu quả nghiêm trọng. Một trong số hậu quả nghiêm trọng của hiệu ứng
nhà kính đó là sự nóng dần lên của Trái Đất. Nhiệt độ Trái Đất tăng lên, hiện tượng
băng tan ở hai cực, mực nước biển tăng; khu vực bờ biển mong manh dễ bị tràn
ngập sóng gió. Bão tố xảy ra thường xuyên hơn, nước mặn thấm vào mực nước
ngầm, hủy hoại nông nghiệp và ảnh hưởng đến việc cung cấp nước ngọt, khí hậu
thay đổi bất thường, ảnh hưởng đến chế độ mưa toàn cầu, những vùng hiện nay
đang có đủ nước ngọt sẽ lâm vào cảnh thiếu nước ngọt thường xuyên hơn.
1.1.3. Những biểu hiện của biến đổi khí hậu
- Sự nóng lên của khí quyển và trái đất nói chung;
- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống
của con người và các sinh vật trên trái đất;
- Sự dâng cao mực nước biển do tan băng dẫn tới sự ngập úng của các vùng
đất thấp, các đảo nhỏ trên biển;
- Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng
khác nhau của Trái Đất, dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài sinh vật, các
hệ sinh thái và hoạt động của con người;
- Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình
tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác;
- Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành
phần của thủy quyển, sinh quyển, các địa quyển.
Trong các biểu hiện biến đổi khí hậu, biểu hiện dễ nhân thấy hơn là sự gia
tăng nhiệt độ toàn cầu và sự gia tăng của mực nước biển
1.1.3.1. Sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu
- Tất cả các trạm đo nhiệt độ đều có thể đo, đánh giá và xác nhận được bằng
chứng về biến đổi khí hậu. Trong mấy chục năm vừa qua nhiệt độ trung bình toàn cầu
đã tăng lên tới 0,3 - 0,4
0
C và hiện đang có xu hướng tăng tiếp.
12
- Theo các mô hình nghiên cứu trong thế kỷ XX, nhiệt độ trung bình của Trái
Đất có thể tăng từ 1,1 - 6
0
C, khả năng xảy ra từ 1,8 - 4
0
C trong đó tùy theo sự phát
thải hiệu ứng nhà kính được cắt giảm đến mức độ nào để làm giảm bớt các khí
CO
2
và các khí gây hiệu ứng nhà kính.
- Nếu như ngay từ lúc này, nhân loại dừng phát thải khí nhà kính thì nhiệt độ
bề mặt Trái Đất vẫn tiếp tục nóng lên, nước biển vẫn tiếp tục dâng lên trong vòng
50 năm nữa. Nhiệt độ trái đất nóng lên làm cho băng của các dãy Himalaya, Nam
cực, Bắc cực và các vùng khác tan chảy. Những núi băng này tan chảy sẽ làm cho
mực nước biển tăng lên từ 28 - 43cm. Nhưng có thể mực nước biển này còn cao
hơn nữa, tùy theo sự phát thải của hiệu ứng nhà kính và tác động của con người.
- Như vậy, nhiệt độ trên bề mặt Trái Đất đã tăng 0,74 ± 018
0
C trong thời
gian cuối thế kỉ. Ban Hội thẩm quốc tế về biến đổi khí hậu toàn cầu đã kết luận
rằng, các khí gây hiệu ứng nhà kính là thủ phạm chính đối với sự gia tăng nhiệt độ
đã quan sát được từ giữa thế kỉ XX, trong khi các hiện tượng tự nhiên như sự biến
đổi của năng lượng Mặt Trời và các hoạt động núi lửa lại là nguyên nhân chính gây
ra sự nóng lên của Trái Đất từ thời kì tiền công nghiệp đến năm 1950 (và về sau
này có một chút tác dụng làm mát). Những kết luận cơ bản này đã được xác nhận
bởi hơn 40 học viện khoa học xã hội và tự nhiên, bao gồm tất cả các viện hàn lâm
quốc gia của các nước công nghiệp lớn.
1.1.3.2. Sự gia tăng của mực nước biển
Từ năm 1961 đến 2003, mực nước biển toàn cầu đã tăng trung bình
1,8mm/năm. Giai đoạn 1993 - 2003, tỷ lệ này đã tăng nhanh hơn khá nhiều, khoảng
3,1mm/năm. Cho dù tỷ lệ có sự tăng nhanh hơn trong giai đoạn 1993 – 2003, phản
ánh sự biến thiên trong thời kì 10 năm, nhưng chưa thể kết luận được rằng sẽ có xu
hướng gia tăng trong giai đoạn dài hơn. Mực nước biển đã được quan sát từ thế kỉ
XIX đến thế kỉ XX và chắc chắn rằng là có sự gia tăng, mực nước biển gia tăng
trong suốt thế kỉ XX ước chừng khoảng 0,17m.
13
Ở Việt Nam, tác động của BĐKH cũng đã được nhận thấy qua nhiều dấu
hiệu. Trước hết, những diễn biến bất thường của thời tiết, khí hậu trong nhiều năm
gần đây có liên quan đến sự biến đổi của các hệ thống hoàn lưu khí quyển, đại
dương qui mô lớn, cũng như sự biến đổi trong hoạt động của gió mùa châu Á. Bão,
áp thấp nhiệt đới có xu hướng dịch chuyển về phía nam và có qũy đạo phức tạp,
khó dự báo hơn. Hạn hán, lũ lụt dường như xảy ra bất thường hơn. Hiện tượng
nắng nóng có xu hướng gia tăng cả về cường độ, tần suất và độ dài các đợt. Số
ngày rét đậm, rét hại giảm đi nhưng mức độ khắc nghiệt và độ kéo dài các đợt
có dấu hiệu gia tăng. Nhìn chung, biến đổi khí hậu dường như đã làm gia tăng
những hiện tượng cực đoan, dẫn đến sự gia tăng các thiên tai có nguồn gốc khí
tượng, tác động xấu đến nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội và môi trường.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Hiện trạng biến đổi khí hậu trên thế giới
Khí hậu toàn cầu có sự thay đổi mạnh mẽ, đặc biệt từ giữa thế kỷ XIX
nhiệt độ không khí toàn cầu có sự gia tăng và biểu hiện rõ nhất là ở Bắc cực, thuộc
Bắc Đại Tây Dương.
Đến thế kỷ XX, tồn tại hai quan niệm khác nhau về xu thế biến đổi khí
hậu toàn cầu. Quan niệm thứ nhất, một số nhà khoa học cho rằng, khả năng tiếp tục
lạnh đi của khí hậu vẫn còn tồn tại. Quan niệm thứ hai, bằng những chứng cứ xác
thực, các nhà khoa học đã phát hiện xu hướng nóng lên của khí hậu, từ sau những
năm thứ 7 của thế kỷ này và dự đoán khí hậu thế giới sẽ nóng lên từ 0,5
0
C đến 1
0
C
ở cuối thế kỷ.
Khí hậu đang thay đổi, những hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện ngày
càng nhiều gây thiệt hại không nhỏ tới sản xuất và đời sống. Hiện tượng hạn hán, lũ
lụt, bão tuyết diễn ra trên phạm vi rộng cả vùng nhiệt đới và vùng ôn đới. Năm
1972, Liên Xô đã phải trải qua đợt hạn hán nghiêm trọng với kỷ lục thế kỷ về nhiệt
độ, độ hụt lượng mưa và lượng nước sông, gây mất mùa nặng và nạn cháy rừng
14
hoành hành. Mùa hè năm 1976 ở Tây Âu, miền Trung và miền Tây nước Mỹ,
Canada. Úc phải trải qua đợt hạn hán nghiêm trọng.
Trái đất nóng lên với tốc độ ngày càng tăng, biểu hiện là nhiệt độ trung bình
của trái đất tăng từ 0,3
0
C đến 0,6
0
C trên bề mặt, tốc độ gia tăng chưa từng thấy
trong gần 1.000 năm qua. Riêng giai đoạn 1885 - 1990, nhiệt độ Trái Đất đã tăng
0,5
0
C xuất phát từ sự thay đổi hàm lượng CO
2
trong khí quyển, từ 0,027% lên
0,035%. Theo tính toán, khi hàm lượng CO
2
trong khí quyển tăng gấp đôi, thì nhiệt
độ Trái Đất tăng lên khoảng 3
0
C, và có khu vực có thể tăng lên 4,9
0
C - 5,4
0
C, ở
các vĩ độ cao của Bắc bán cầu có thể tăng lên 7 - 8
0
C. Ngiên cứu của các nhà khoa
học Mỹ cho biết: “nếu nồng độ CO
2
tăng gấp 4 lần trong vòng 500 năm tới, thì
nhiệt độ trên toàn lục địa sẽ cao hơn nhiệt độ hiện nay từ 7
0
C đến 10
0
C”.
Những năm 90 của thế kỷ XX được ghi nhận là thập kỷ nóng nhất kể từ
1861, khi có số liệu trắc quan bằng máy và thậm chí là nóng nhất trong 1000 năm
qua. Ở bán cầu Bắc, hai giai đoạn có nhiệt độ tăng nhanh nhất là từ 1910 - 1945 và
từ năm 1976 đến nay, mức tăng khoảng 0,15
0
C một thập kỷ.
Sự gia tăng nhiệt độ trung bình của Trái Đất ngày càng rõ ràng hơn. Nhiệt độ
Trái Đất đã tăng thêm 0,75
0
C so với thời kỳ tiền công nghiệp, 11 năm nóng nhất
trong vòng 125 năm qua đã xảy ra ra từ những năm 90 của thế kỷ XX, gần nhất là
năm 2005 và cũng là năm nóng nhất.
Gia tăng nhiệt độ hiện nay ngày càng có xu hướng tăng nhanh so với dự báo
của các nhà khoa học. Tuy nhiên xét ở những điều kiện, vị trí địa lí cụ thể thì mức
gia tăng nhiệt độ có sự khác biệt giữa các vùng; giới khoa học cảnh báo, Bắc cực sẽ
là nơi đầu tiên bị ảnh hưởng bởi hiện tượng “ấm hóa” toàn cầu, băng và tuyết phản
xạ từ 80 đến 90% bức xạ Mặt Trời. Tuy nhiên, khi những bề mặt băng này biến mất
thì đất và biển ở bên dưới sẽ hấp thụ nhiều bức xạ hơn dưới dạng nhiệt. Chính
lượng nhiệt này sẽ tác động trở lại, làm băng và tuyết tan nhiều.
Bắc cực ấm lên sẽ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho sinh vật và con
người. Các sinh vật trong vùng Bắc cực nằm trong nguy cơ tuyệt chủng cao. Ở các
15
khu vực châu Âu và vĩ độ trung bình, nhiệt độ cũng đã tăng lên (bằng chứng là mùa
hè trở nên nóng hơn nhiều so với trước đây), gây ra tình trạng tử vong cao ở khu
vực này.
Bên cạnh đó hiện tượng lạnh đi khác thường của khí hậu cũng đáng được
quan tâm, mùa thu 1976, tại nhiều nơi thuộc Liên Xô (cũ) nhiệt độ đã giảm xuống
từ 10 - 15
0
C, một hiện tượng hiếm thấy trong vòng 50 năm trước, những vùng khác
cũng có sự lạnh đi khác thường.
Đứng trước những biến dổi khí hậu đang tăng cường mang tính chất cực
đoan trên phạm vi rộng lớn trong nững năm cuối thế kỷ XX, các nhà khoa học đã tỏ
ra quan ngại đến xu thế thay đổi xấu hơn nữa của khí hậu Trái Đất. Tháng 6 năm
1976, tổ chức Khí tượng thế giới phải ra tuyên bố đặc biệt, kèm theo những giải
thích cần thiết về biến đổi khí hậu trên thế giới. Nhiều giả thuyết và phỏng đoán
được đưa ra, những câu hỏi về khí hậu thế giới đặt ra ngày càng nhiều. Hàng loạt
hội nghị chuyên đề hợp tác khoa học giữa các nước, các tổ chức có liên quan diễn
ra, nhằm nghiên cứu sâu hơn về biến đổi khí hậu quy mô toàn cầu.
Những năm cuối thế kỷ XX sang những năm đầu thế kỷ XXI, loài người
đang phải ghánh chịu nhiều thảm họa thiên tai khốc liệt mà nguyên nhân căn bản
bắt nguồn từ sự biến đổi khí hậu.
1.2.2. Hiện trạng biến đổi khí hậu ở Việt Nam và Lai Châu
Trước những tình hình biến đổi khí hậu toàn cầu chung, khí hậu Việt Nam
cũng biến đổi tiêu cực như: nhiệt độ tăng, bão mạnh, mưa lớn, lũ lụt, hạn hán, nước
biển dâng cao. . .Việt Nam đã và đang phải đương đầu với những biểu hiện ngày
càng gia tăng của những hiện tượng thời tiết này.
Theo Thông báo Quốc gia lần thứ 2 của Bộ Tài nguyên và Môi trường: Kể từ
năm 1958 đến năm 2007, nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam tăng lên khoảng 0,5
- 0,7
0
C. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn nhiệt độ mùa hè và nhiệt độ ở các vùng
phía Bắc tăng nhanh hơn các vùng phía Nam. Cụ thể như năm 2007, nhiệt độ trung
16
bình cả năm tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đều cao hơn trung bình của
thập kỷ 1931- 1940 là 0, 8 - 1,3
0
C; cao hơn thập kỷ 1990 - 2000 là 0,4 - 0,5
0
C.
Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa trung bình năm trên lãnh
thổ nước ta biểu hiện bất thường qua các thời kỳ và các vùng khác nhau. Lượng
mưa năm giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc và tăng ở các vùng khí hậu phía Nam.
Tính trung bình trong cả nước, lượng mưa trong 50 năm qua đã giảm khoảng 2%.
Tuy vậy, biến đổi lượng mưa có xu hướng cực đoan, tăng trong mùa mưa và giảm
mạnh trong mùa khô.
Bên cạnh đó, số đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam cũng giảm rõ rệt
trong 2 thập kỷ qua. Các biểu hiện thời tiết dị thường xuất hiện ngày càng nhiều,
tiêu biểu như đợt lạnh gây rét đậm, rét hại kéo dài 30 ngày trong tháng 1 và tháng 2
năm 2008 ở Bắc Bộ, đã gây thiệt hại lớn về cây trồng, vật nuôi cho các địa phương.
Đặc biệt, do tác động của biến đổi khí hậu, trong khoảng 5 - 6 thập kỷ gần
đây, tần số xoáy thuận nhiệt đới hoạt động trên biển Đông tăng lên với tốc độ 0,4
cơn mỗi thập kỷ; tần số xoáy thuận nhiệt đới ảnh hưởng đến Việt Nam tăng với tốc
độ 0,2 cơn mỗi thập kỷ và có cường độ mạnh xuất hiện nhiều hơn. Quỹ đạo của bão
có dấu hiệu dịch chuyển dần về phía Nam và mùa mưa bão kết thúc muộn hơn.
Nhiều cơn bão có đường đi bất thường và không theo quy luật. Điển hình như
“siêu” bão số 8, hoàng hành suốt dọc các tỉnh ven biển từ Nghệ An đến tận Quảng
Ninh trong mấy ngày đầu của tháng 10 năm 2013, để lại nhiều hậu quả.
Một biểu hiện đáng lo ngại của biến đổi khí hậu nữa là mực nước biển dâng,
đã gây ngập lụt trên diện rộng, nhiễm mặn nguồn nước, ảnh hưởng lớn đến sản xuất
nông nghiệp, gây rủi ro đối với công nghiệp và các hệ thống kinh tế - xã hội. Số
liệu quan trắc tại các trạm hải văn ven biển Việt Nam cho thấy, tốc độ dâng lên của
mực nước biển trung bình hiện nay là 3mm/năm, tương đương với tốc độ tăng
trung bình trên thế giới. Trong 50 năm qua, mực nước biển tại trạm hải văn Hòn
Dấu (Hải Phòng) tăng lên khoảng 20cm.
17
Cũng như các tỉnh miền núi phía Bắc, khí hậu tỉnh Lai Châu đã chịu ảnh
hưởng nhiều tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Theo khảo sát của các cơ quan
chức năng, những biểu hiện dễ nhận thấy nhất là sự thay đổi nhiệt độ, lượng mưa
và gia tăng các hiện tượng thời tiết tiêu cực như: gió Tây khô nóng, rét đậm, rét hại,
sương muối, giông lốc, mưa đá, lũ quét, sạt lở đất, . . . xuất hiện với tần suất và
mức độ lớn hơn.
Theo kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam của Bộ Tài
nguyên và Môi trường, biến đổi khí hậu sẽ tác động đến các tỉnh vùng núi và trung
du Bắc Bộ trong đó có Lai Châu gồm; các khu vực này thường chịu ảnh hưởng của
lũ, lũ quét, sạt lở đất, cháy rừng, hạn hán. Các lĩnh vực: an ninh lương thực. Lâm
nghiệp, giao thông vận tải, môi trường, tài nguyên nước, đa dạng sinh học, y tế, sức
khỏe cộng đồng, các vấn đề xã hội khác thuộc vùng núi và trung du Việt Nam đều
có nguy cơ chịu tác động của biến đổi khí hậu.
Lai Châu là tỉnh có điều kiện và tiềm năng để phát triển phát triển kinh tế -
xã hội, song cũng chịu nhiều tai biến thiên nhiên. Khí hậu Lai Châu mang đặc thù
của nhiệt đới vùng núi hơi lạnh và hơi khô, chịu tác động mạnh của tính phi địa đới
theo đai cao. Trong những năm gần đây, các tai biến thiên nhiên như lũ lụt, lũ ống,
lũ quét, trượt lở đất…các hiện tượng khí hậu cực đoan như rét đậm, rét hại cũng
xuất hiện ngày càng nhiều, hiện tượng băng tuyết bắt đầu xuất hiện tại vùng núi cao
như đèo Ô Quy Hồ, Sìn Hồ ngoài ra tình trạng hạn hán trên nhiều địa bàn của Lai
Châu xảy ra thường xuyên hơn và vi ảnh hưởng ngày càng rộng. Các tai biến thiên
nhiên không chỉ gây thiệt hại nặng nề về người và của, mà còn gây ra tâm lí hoang
mang, lo lắng cho nhân dân ở vùng bị thiệt hại nói riêng và của cả tỉnh nói chung.
18
CHƢƠNG 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI LAI CHÂU
2. 1. Vị trí địa lí
Vị trí địa lí không phải là thành phần cấu tạo nên tự nhiên, nhưng với hệ
tọa độ địa lí (quy luật địa đới) thì các đặc trưng khác của tự nhiên sẽ biến đổi
theo nó, vị trí địa lí sẽ giúp cho tự nhiên có một đặc điểm riêng của mình.
Là một tỉnh miền núi nằm ở phía Tây Bắc của Tổ Quốc, cách xa thủ đô Hà
Nội 450km về phía Tây Bắc, Lai Châu có toạ độ địa lí xác định như sau:
Vĩ độ: từ 21
0
40
’
đến 22
0
50
’
vĩ độ Bắc;
Kinh độ: từ 102
0
20
’
đến 103
0
kinh độ Đông
(*)
.
Phía Bắc: giáp tỉnh Vân Nam - Trung Quốc.
Phía Đông: giáp tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Sơn La.
Phía Tây và Tây Nam: giáp tỉnh Điện Biên.
Với vị trí địa lí như trên Lai Châu có vị trí đặc điểm sau: tỉnh có 273km
đường biên giới với Trung Quốc, có cửa khẩu Ma Lù Thàng cùng nhiều tuyến
đường trên tuyến biên giới Việt – Trung, giúp tỉnh trực tiếp giao lưu với các tỉnh
phía Tây Nam (Trung Quốc); được nối với khu vực tam giác tăng trưởng kinh tế
của cả nước là: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, các đường quốc lộ: 6, 4D, 70,
32, 279, 12, 127, đường sông. Lai Châu còn nằm trên tuyến du lịch Tây Bắc - Hà
Nội - Lào Cai - Sa Pa - Lai Châu - Điện Biên - Sơn La - Hoà Bình - Hà Nội. Nằm
trong tam giác năng lượng khoáng sản Yên Bái - Lào Cai - Phong Thổ. Vị trí địa lí
đã giúp Lai Châu có tiềm năng để phát triển dịch vụ - thương mại, xuất nhập khẩu
và đặc biệt là du lịch, đồng thời cũng có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về
quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. ngoài ra Lai Châu còn
là vùng đầu nguồn và phòng hộ đặc biệt chủ yếu của sông Đà, đảm bảo sự phát
triển bền vững của quốc gia, hiện đang trực tiếp đang xây dựng công trình thủy
điện Lai Châu trên sông Đà (tại Nậm Hàng – Nậm Nhùn).
Vị trí địa lí kết hợp với địa hình Lai Châu là vùng núi trung bình và núi cao
của khu vực Tây – bắc, núi cao tập trung ở phía bắc, tây bắc và đông – bắc Lai
19
Châu, ở đây là phần cuối cùng của cao nguyên Vân Qúy (Trung Quốc). Nhìn chung
các dãy núi cao có hướng tây bắc – đông nam, phần phía bắc một số đỉnh cao từ
2.000 – 2.500m; dãy Hoàng Liên Sơn án ngữ ở tây – bắc, có nhiều đỉnh cao từ
2.500 – 3.000m, trong đó bao gồm đỉnh Fan Xi Păng cao nhất cả nước. Mặt khác,
về cấu trúc địa hình còn mang một số đặc điểm trung là: Núi thấp dần, đổ dồn
xuống các sông và suối lớn, núi non xen kẽ với các thung lũng sông, khe suối và
các bồn địa. Lọt vào các dãy núi có rất nhiều dải trũng rộng, tạo thành những cánh
đồng hẹp kéo dài, trong đó đáng chú ý là cánh đồng Than Uyên. Vùng núi tương
đối bằng phẳng của Bình Lư nối liền với cánh động rộng Than Uyên cùng các dãy
núi phía đông là bộ phận kéo dài của hệ thống núi bắc Lào, hướng núi cùng hướng
với sự sắp xếp của các sông suối trong tỉnh, thường có hướng bắc – nam, hoặc tây
bắc – đông nam, có đỉnh không vượt quá 2. 000m. Do cấu trúc địa hình đặc biệt ở
đây, đã ảnh hưởng rất lớn đến tác động của gió mùa và hệ quả in đậm lên lãnh thổ.
Do nằm phía tây dãy Hoàng Liên Sơn, tác động của gió mùa cực đới đã suy
yếu đáng kể; mặt khác Lai Châu nằm sau dãy núi ở bắc Lào, nên toàn bộ lãnh thổ
được bao bọc chung quanh các dãy núi cao, kết hợp với điều kiện nhiệt - ẩm của
khí hậu nhiệt đới, gió mùa tạo cho Lai Châu có kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa núi
cao, ngày nóng đêm lạnh và có sự phân hóa cao. Chính những điều kiện trên đã tác
động đến các thành phần tự nhiên khác của tỉnh như: thổ nhưỡng, thủy văn, sinh
vật… làm nên kiểu tự nhiên rừng nhiệt đới ẩm gió mùa thường xanh vùng núi.
2. 2. Địa chất
Địa chất kiến tạo là nền rắn của tự nhiên, là cơ sở để xác định nguồn gốc và
quá trình phát triển của tự nhiên. Nền rắn là kết quả mối quan hệ tương tác giữa nội
lực và ngoại lực diễn ra từ hàng triệu năm trước và là cơ sở nền móng cho các quá
trình địa lí khác phát triển, có thể nói nền rắn như là “khiên”, là “nền tảng” cho sự
phân bố, sắp xếp các loại hình tự nhiên. Đặc điểm địa chất kiến tạo sẽ quy định các
hình thái địa hình, không chỉ thế, các loại nham thạch, thành hệ đá cũng sẽ ảnh
20
hưởng đến hoạt đống ngoại sinh, thổ nhưỡng, sinh vật,…góp phần tạo nênsắc thái
chung cho các loại hình tự nhiên.
Theo Vũ Tự Lập và nnk, về cơ bản Việt Nam nằm ở nơi tiếp xúc của nhiều
hệ thống tự nhiên, là nơi giao thoa, hội tụ của nhiều địa hệ, trong đó có cấu trúc địa
chất. Theo các nhà nghiên cứu, Việt Nam có hai cấu trúc kiến tạo chính là cấu trúc
địa chất kiến tạo Việt – Trung (xứ miền nền Hoa Nam, bắc Việt Nam) và kiến trúc
Đông Dương (kiên Kong Tum, nam Việt Nam). Cấu trúc địa chất miền nền Hoa
Nam bắc Việt Nam, với khối nhô vòm Sông Chảy cùng các đá cổ kết tinh tiền
Cambri như Gơnai, mica… có trình độ biến chất cao, cùng địa hình có tính chất
chuyển tiếp của khu vực miền Bắc Việt Nam là biểu hiện rõ nhất cho cấu trúc địa
chất này. Tương tự như vậy, với cấu trúc địa chất phía nam nước ta, khiên Kong
Tum với các đá biến chất cổ tiền Cambri là biểu hiện sự có mặt của cấu trúc này
trên lãnh thổ Việt Nam. Nếu ta phân chia Việt Nam theo các đơn vị địa chất nhỏ
hơn thì rất khó và phức tạp, bởi vì từ hai cấu trúc địa chất chính đã nói còn được
phân hóa thành nhiều đơn vị nhỏ hơn. Ngoài ra, lãnh thổ Việt Nam còn có các cấu
trúc địa chất khác như cấu trúc địa chất Miễn – Thái – Mã, chạy qua tây nam (Hà
Tiên) và tây bắc (Mường Tè) nước ta.
Phân tích ở trên ta thấy, Lai Châu nằm ở hai cấu trúc kiến tạo lớn của đất
nước ta là kiến tạo Đông Dương và Miễn – Thái – Mã. Nếu ta xét đến lịch sử kiến
tạo địa chất và các đơn vị kiến tạo thì “rất phức tạp”, mặc dù vậy, đặc điểm địa chất
của Lai Châu có tính chất sau:
2. 2. 1. Các hệ thống đứt gãy địa chất Lai Châu
Nằm trong khu vực Tây Bắc, Lai Châu về cơ bản có lịch sử và cấu trúc địa
chất gắn liền với khu vực này. Trong quá trình phát triển, khu vực đã trải qua các
giai đoạn địa chất khá phức tạp, cơ bản lãnh thổ hoàn thiện trong đại Trung sinh
(Merozoi) và các tác động mạnh mẽ của Tân sinh đại, các vận động kiến tạo đã ảnh
hưởng tới khu vực và làm cho Lai Châu có 6 đứt gãy kiến tạo lớn và các đứt gãy
kiến tạo nhỏ.
21
* Đứt gãy Điện Biên – Lai Châu: Thuộc kiến tạo lớn này được chia thành 2
đơn vị địa chất nhỏ hơn là đới kiến tạo Pu Si Lung và đới kiến tạo Mường Nhé –
Mường Tè. Các đới kiến tạo này được phân chia với nhau bởi các đứt gãy Mường
Tè. Thành phần thạch học và mức độ biến cải của nó phụ thuộc rất nhiều vào lịch
sử phát triển của các đới kiến trúc địa chất và cường độ hoạt động của đứt gãy.
* Đứt gãy Vạn Yên – Nậm Xe: Ở Lai Châu, đứt gãy Vạn Yên – Nậm Xe
phân bố từ Vạn Yên qua Nậm Xe đến biên giới Việt – Trung, bao gồm một số đứt
gãy có hướng tây – nam. Dọc theo các đứt gãy ta còn thấy sự xuất hiện của một số
phun trào mafic thuộc hệ tầng Viên Nam (T
1
vn), phun trào mắcma axit phức hệ Tú
Lệ, ngoài ra còn có các xâm nhập axit, kiềm chúng có tuổi từ Creta đến Paleogen.
Dọc theo các đứt gãy, ta còn phát hiện nhiều nguồn nước nóng, nước khoáng như:
Pắc Tà, Nà Bao, Tả Pa Hồ… Về mặt địa mạo, các đứt gãy đã tạo nên các dạng địa
hình dạng thung lũng dốc và hẹp.
* Đứt gãy Phong Thổ - Vạn Yên: Trên địa bàn Lai Châu, đứt gãy Phong
Thổ - Vạn Yên có hướng tây bắc – đông nam, kéo dài từ biên giới Việt – Trung,
qua Phong Thổ, Đông Pao đến phía nam. Đứt gãy này có các phun trào mafic thuộc
hệ tầng Viên Nam, phun trào bazơ hệ tầng Pu Tra và các xâm nhập kiềm phức hệ
Pu Sam Cáp.
* Đứt gãy Sông Đà: Đứt gãy này chạy dọc theo bờ trái (tả ngạn) sông Đà,
dọc theo thung lũng suối Nậm Quế và suối Nậm Mạ, qua Nậm Nga, Phìn Hồ kéo
dài về phía Tây Bắc, tới biên giới Việt – Trung. Dọc theo đứt gãy còn có các phun
trào mafic hệ tầng Viên Nam, tại Huổi Lá có sụt hố nhỏ với trầm tích chứa than hệ
tầng Suối Bàng. Về địa mạo, dọc theo đứt gãy hình thành các thung lũng hẹp: Nậm
Quế, Pa Há…kèm theo chúng còn có các suối nước nóng.
* Đứt gãy Sơn La: Đới đứt gãy này gồm có một số đứt gãy gần như song
song, chạy từ phía đông cao nguyên Tà Phìn, từ Tả Sìn Thàng qua Ca Sin Chải, đến
biên giới Việt – Trung. Dọc theo hệ thống đứt gãy có phun trào mafic tuổi Pecmi
22
muộn – Tiriat sớm xuất hiện ở vùng Hồng Thu, xâm nhập kiềm tuổi Paleogen ở Ma
Lu Thàng.
* Đứt gãy Mè Giảng – Nà Hừ: Đứt gãy này có vị trí ở phía tây bắc của tỉnh
và hướng cắm về phía đông (hướng á kinh tuyến). Dọc theo đứt gãy có các thân
xâm nhập thuộc phức hệ Điện Biên.
Ngoài ra, Lai Châu còn có các đứt gãy nhỏ khác là bộ phận thuộc các đứt gãy
chính trên như: đứt gãy Mường Tè (Mè Giảng - Nà Hư), đứt gãy Pac Ma, đứt gãy
Nậm Chà, đứt gãy Mường Toong, đứt gãy Nậm Sa, đứt gãy Nậm Pô…
2.2.2. Các nham thạch chính của Lai Châu
Từ lịch sử và đặc điểm địa chất đã phân tích ở trên, về nham thạch Lai Châu
theo Hoàng Xuyên và nnk có 3 loại nham thạch chính là: đá Macma, đá Vôi và
Diệp thạch [Đặc điểm thủy văn tỉnh Lai Châu. tr13].
Macma: đây là các loại đá kiến tạo, hình thành từ quá trình địa chất macma
và núi lửa, nên chúng thường xuất hiện ở những khu vực kiến tạo lớn như ở phía
bắc và đông bắc của tỉnh, đó cũng chính là những khu vực núi cao, đồ sộ được cấu
tạo bởi đá Granite cứng, rắn chắc vì vậy tạo nên các dạng địa hình sắc sảo, nhọn và
có nhiều khe nứt.
Đá vôi: loại nham thạch này có mặt chủ yếu ở trên cao nguyên Tà Phìn và
Sín Trải, ngoài ra còn nằm rải rác ở một số khu vực khác của tỉnh. Loại nham thạch
này bị phong hóa mạnh, nhất là trong điều kiện khí hậu của Lai Châu là nhiệt đới
lượng mưa lớn nên hoạt động kastơ diễn ra mạnh mẽ, tạo ra nhiều dạng địa hình
kastơ. Đặc biệt là với hình thức canh tác của một số dân tộc thiểu số, dạng địa hình
của nham thạch này càng trở nên cực đoan và mất dần lớp phủ thổ nhưỡng.
Diệp thạch: đây là loại nham thạch phổ biến của Lai Châu, bao gồm các loại
như diệp thạch sút, diệp thạch than, diệp thạch sét… các loại nham thạch này xuất
hiện hầu hết ở các địa phương của tỉnh.
Ngoài ra, còn một số loại đá khác như: sa thạch than, cuội kết, dăm kết, sỏi
kết, phiến thạch… nhưng không nhiều lắm. Nếu chúng ta phân loại theo đặc điểm
23
của từng loại đá, theo Báo cáo tổng kết điều tra khoáng sản – tai biến địa chất Lai
Châu 2006, thành tạo địa chất đá Lai Châu được chia thành 14 nhóm.
2.2.3. Tài nguyên khoáng sản Lai Châu
Theo kết quả điều tra của dự án điều tra tổng thể tài nguyên khoáng sản – tai
biến địa chất tỉnh Lai Châu năm 2006, cho đến nay, Lai Châu đã đăng kí được 169
mỏ và điểm quặng thuộc 6 nhóm và phân bố như sau:
* Nhóm nguyên liệu cháy: trên địa bàn tỉnh Lai Châu đã xác định được 4
điểm thuộc nhóm nguyên liệu cháy – than đá là: Nậm Than, Huổi Lá, Vàng Sôn và
Kan Hồ. Các vỉa và thấu kính than nằm ở hệ tầng Suối Bàng, bên trên các lớp than
là các lớp trầm tích bột kết phân lớp mỏng, còn bên dưới là cá lớp cát kết màu xám.
Than đá có màu nâu, ánh kim, sờ bẩn tay, có chỗ nát vụn.
* Nhóm Kim loại: đây là nhóm có số lượng và trữ lượng thuộc loại phong
phú nhất, bao gồm các loại như: sắt, đồng, chì – kẽm, vàng, Molybden, thiếc,
phóng xạ, đất hiếm.
* Nhóm không kim loại: Lai Châu có 3 loại khoáng sản không kim loại là đá
quý – đá bán quý, pyrit và cao lanh.
* Nhóm nguyên liệu hóa: trong tỉnh Lai Châu mới chỉ phát hiện 2 nhóm
khoáng sản thuộc nhóm này là barit và potat – xút.
* Nhóm vật liệu xây dựng: nhóm khoáng sản này bao gồm các loại là đá ốp
lát, đá vôi, đá phiến, sét gạch ngói, cuội sỏi – cát.
* Nhóm nước nóng – nước khoáng: nước nóng và nước khoáng của Lai
Châu khá phong phú và đa dạng, chất lượng tốt. Hiện nay đã xác định được 21
điểm nước nóng và nước khoáng như: Nà Ban, Tả Pao Hồ, Vàng Bó, Nậm Ngà,…,
các mỏ nước nóng và nước khoáng hầu hết là nguồn nước chảy xuống từ các đứt
gãy lớn và có nhiệt độ từ 40 đến 70
0
C, thành phần khoáng chủ yếu là bicabonat,
natri – kali, có tác dụng trong việc chữa bệnh, du lịch và phơi sấy nông sản.
24
2. 3. Địa hình địa mạo
2. 3. 1. Đặc điểm địa hình Lai Châu
Cấu trúc địa hình với các hướng sơn văn, hướng sườn và các dạng địa hình
lớn, nhỏ sẽ tác đồn đến tác động đến các khối khí, làm phân bố lại chế độ nhiệt -
ẩm, từ đó sẽ làm thay đổi các thành phần và đặc trưng khác trong các thành tố tự
nhiên và làm thay đổi đặc trưng địa phương. Như vậy, địa hình là nhân tố trong sự
phân hóa mang tính phi địa đới, ảnh hưởng đến sự phân hóa địa phương của tự
nhiên, làm cơ sở cho sự phân hóa đa dạng tự nhiên của các hệ thống lãnh thổ nhỏ.
Lai Châu nằm trong khu vực tây bắc Việt Nam, có cấu trúc chủ yếu là núi
đất, xen kẽ là các dãy núi đá vôi có dạng địa chất castơ tạo nên các hang động và
sông suối ngầm. Đặc biệt, mức độ hoạt động kiến tạo rất mãnh liệt xảy ra trong
những giai đoạn khác nhau gây nên những đứt gãy lớn, uốn nếp và lún sụt nhiều.
Địa hình của Lai Châu rất phức tạp và đa dạng, cấu trúc địa hình mang tính chất
miền núi, núi trung bình là phổ biến và chiếm phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh.
Núi ở đây bị bào mòn mạnh, tạo thành những bán bình nguyên rộng lớn với chiều
dài hàng trăm kilômét. Ngoài ra còn có dạng địa hình thung lũng, sông, suối, bãi
bồi, hang động Kastơ, hố sụt võng và chịu ảnh hưởng hoạt động của Tân kiến tạo.
Địa hình Lai Châu với đặc điểm chính là địa hình là núi và cao nguyên, bị cắt
xẻ mạnh, có độ chia cắt sâu và ngang lớn. Phía tây, tây bắc tỉnh là dãy Hoàng Liên
Sơn chạy dài gần 80km, với đỉnh Phan Xi Păng cao nhất nước ta (cao 3.143m).
Phía đông, đông bắc tiếp giáp với dãy núi sông Mã với độ cao 1.800m, và Mường
Nhé – Điện Biên qua phần đất thuộc vùng núi thấp, tương đối rộng và lưu vực sông
Đà, ở đây có các cao nguyên đá vôi dài 400km, rộng từ 1 – 25km, cao 600 –
1.000m. Phía bắc có đỉnh Pu Si Lung cao 3.076m, trên 90% diện tích có độ dốc
trên 25º, bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi chạy dài theo hướng tây bắc - đông nam,
xen kẽ là các thung lũng có địa hình tương đối bằng phẳng như Mường So, Tam
Đường, Bình Lư, Than Uyên…Nhìn chung, Lai Châu có đặc điểm cấu trúc địa hình
là núi thấp dần và đổ dồn xuống các sông và suối lớn, núi non xen kẽ với các thung
25
lũng sông, khe suối và các bồn địa úi đồi cao và dốc, các thung lũng sâu và hẹp có
nhiều sông suối, nhiều thác ghềnh, dòng chảy lưu lượng lớn lên có tiềm năng về
thuỷ điện.
* Đặc điểm sơn văn: hệ thống sơn văn của Lai Châu có thể chia thành 4 loại
chính: vùng núi cao, vùng núi trung bình, núi thấp và cao nguyên.
Núi cao: Phân bố ở phía bắc và tây bắc, kéo dài theo phương tây bắc – đông
nam, dọc biên giới Việt – Trung như: Pu Si Lung, Pu Đen Đing, Pu Sam Sao. . .
các núi được cấu tạo từ đá xâm nhập, địa hình mang sắc thái của vùng núi kiến tạo
- xâm thực với sống núi hẹp, các đỉnh có độ cao 2.000 – 3.000m. Sườn núi chủ yếu
phát triển quá trình xâm thực, bóc mòn xâm thực và đổ lở. Hiện tại sườn của các
khối núi bị chia cắt mạnh bởi hệ thống sông suối, và các dòng chảy tạm thời.
Vùng núi trung bình: đây là các vùng núi uốn nếp nằm ở độ cao 1.000 –
2.000m, là các dãy núi song song trải rộng lại bị chia cắt đã tạo nên các cánh núi
rừng trùng điệp, đây là dạng địa hình núi phổ biến của vùng. Địa hình đang bị chia
cắt bởi hoạt động xâm thực của sông Đà và hệ thống phụ lưu của nó. Quá trình
ngoại sinh chủ yếu là xâm thực, bóc mòn và bóc mòn tổng hợp. Hiện tại, dạng địa
hình chủ yếu là các dạng sườn trọng lực với đường phân thuỷ thoải hẹp. Bề mặt san
bằng 1.000 – 1.500m còn giữ lại được với các mảnh bằng khá rộng. Hệ thống sông
suối có hai hướng chảy chính: hướng chảy tây bắc - đông nam phù hợp với hướng
cấu trúc địa chất, và hướng chảy đông bắc - tây nam cắt qua phương cấu trúc địa
chất và đổ vào sông Đà.
Núi thấp: là các địa hình dạng đồi, núi thấp có độ cao dưới 1. 000m, đây
cũng là loại địa hình phổ biến của tỉnh, vì Lai Châu là địa hình miền núi, dạng khối
tảng, lại có khí hậu nhiệt đới, lượng mưa khá phong phú nên ngoại sinh khá phát
triển, cắt xẻ và hạ thấp địa hình, làm cho các dạng đồi núi thấp cũng khá phổ biến,
dạng địa hình này phân bố hầu hết tại các địa phương trong tỉnh, và cũng là một
trong những dạng địa hình được sử dụng mạnh mẽ trong các hoạt động kinh tế.