BÀI TẬP NHÓM
Doãn Duy Linh Nguyễn Sỹ Thành
Lê Đức Hùng Đỗ Tuấn Tú
Chu Đức Toàn Nguyễn Anh Tú
Trần Thị Thu Thủy
I. Mục tiêu của ASXH, các biện pháp thực hiện nhằm đạt được mục
tiêu đó
1) Mục tiêu
Con người muốn tồn tại và phát triển thì trước hết cần phải đáp ứng được
nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc, ở Để thỏa mãn nhu cầu đó con người cần phải tạo
ra những sản phẩm cần thiết. Việc thỏa mãn nhu cầu lại phụ thuộc vào khả năng
lao động của con người. Tuy nhiên trong suốt cuộc đồi không phải lúc nào con
người cũng có thể lao động được, cuộc sống luôn đối mặt với những khó khăn, rủi
ro, bất hạnh làm mất hoặc hạn chế thu nhập. Những điều kiện không thuận lợi đã
làm cho một bộ phân con người cần phải có sự giúp đỡ nhất định để đảm bảo cuộc
sống bình thường. Do đó an sinh xã hội ra đời nhằm mục tiêu tạo ra một “ vỏ
bọc”, một sự che chở đảm bảo về vật chất, tinh thần và các dịch vụ xã hội mà nhà
nước, cộng đồng dân cư, nhóm người hay một tổ chức ( gồm các cá nhân, tập thể
hay cộng đồng) tạo nên. Nó mang lại cho những đối tượng nghèo, yếu thế, các đối
tượng gặp rủi ro bất thường các điều kiện cơ bản khi họ đối diện với khó khăn,
thách thức. Dưới góc độ kinh tế an sinh xã hội còn là công cụ phân phối lại thu
nhập giữa các thành viên trong cộng đồng.
2. Để đạt được những mục tiêu trên thì hoạt động cần phải làm đó là:
Trước hết cần tạo ra một hệ thống mạng lưới hệ thống an sinh xã hội rộng
khắp, cơ cấu chặt chẽ để không bỏ lọt bất cứ đối tượng nào khi có biến cố xảy ra. Hệ
thống an sinh xã hội cần huy động được sự tham gia của toàn xã hội, thể hiện sự san
sẻ và trách nhiệm của cộng đồng trước rủi ro, khó khăn của đồng loại.
Ngày nay với xu hướng toàn cầu hóa, vấn đề về an sinh xã hội không còn là
vấn đề của riêng một lãnh thổ, một quốc gia mà đó là sự san sẻ giúp đỡ lẫn nhau của
toàn bộ thế giới thông qua các hoạt động viện trợ, cứu trợ các thảm họa do đó các
quốc gia cần có sự liên kết chặt chẽ với nhau để có thể phối hợp nhịp nhàng, ứng
phó nhanh nhất với các biến cố.
II- Vai trò quản lý của Nhà nước trong việc thực thi các chính sách
ASXH
2.1. Kết hợp chính sách ASXH với chính sách xóa đói giảm nghèo
2.1.1. Chính sách xóa đói giảm nghèo
- Đói nghèo: được hiểu là sự thiệt hại những điều kiện tối thiểu để đảm bảo
mức sống tối thiểu của một cá nhân hay một cộng đồng dân cư, đói nghèo gồm hai
khái niệm cơ bản:
•Nghèo tuyệt đối: là tình trạng thiếu hụt những điều kiện tối thiểu để duy
trì cuộc sống, tiếp cận những nhu cầu, các vấn đề về dinh dưỡng, giáo dục và các
dịch vụ y tế. Việc xác định một đối tượng là nghèo hay không phải dựa trên chuẩn
nghèo của quốc gia và của thế giới.
•Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư, một cá nhân có thu
nhập thấp hơn mức thu nhập, mức sống trung bình của xã hội, do đó học thiếu cơ
hội để tạo thu nhập, thiếu tài sản để tiêu dùng và dễ bị tổn thương khi gặp rủi ro.
- Xóa đói giảm nghèo: là tổng thể các biện pháp chính sách của nhà nước
và xã hội hay là của chính những đối tượng thuộc diên nghèo đói, nhằm tạo điều
kiện để họ có thể tăng thu nhập, thoát khói tình trạng thu nhập, không đáp ứng
được những nhu cầu tối thiểu trên cơ sở chuẩn nghèo được quy định theo từng địa
phương, khu vực, quốc gia.
- Quan điểm về xóa đói giảm nghèo trong ASXH:
•Xóa đói giảm nghèo là một phần quan trọng nằm trong chính sách ASXH
của mỗi quốc gia. Cùng với các chính sách khác tạo nên một mạng lưới toàn diện
bảo vệ cho các thành viên xã hội.
•Xóa đói giảm nghèo góp phần đảm bảo ASXH một cách lâu dài và bền
vững.
•Xóa đói giảm nghèo xét về lâu dài góp phần làm giảm gánh nẵng cho hệ
thống ASXH thông qua việc thu hẹp đối tượng cần trợ cấp ASXH
•Xóa đói giảm nghèo tạo điều kiện cho chính sách ASXH tăng chất lượng
hoạt động thông qua việc tăng mức trợ cấp ASXH
a. Mục tiêu xóa đói giảm nghèo
•Đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo an ninh lương thực, tạo
công ăn việc làm, tăng hỗ trợ cho các vùng kém phát triển và hạn chế khoảng cách
chênh giữa các vùng.
•Ưu tiên cho chất lượng và khả năng tiếp cận của người dân tới các dịch vụ
y tế, giáo dục và phát triển; bảo vệ môi trường.
•Giảm mức độ dễ bị tổn thương và cả thiện năng lực của các nhóm dễ bị
tổn thương nhằm phòng chống rủi ro tốt hơn bằng cách phát triển và mở rộng
mạng lưới bảo trợ và an sinh xã hội cho người nghèo và đưa ra một phương thức
toàn diện hơn trong phòng chống thiên tai.
b . Giải pháp.
Để thực hiện những mục tiêu này, chương trình xóa đói giảm nghèo cần
phải làm được một số điều:
•Nhận thức đúng ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xóa đói giảm
nghèo, đói nghèo tồn tại như một thực tế khách quan, đói nghèo có tính tương đối
tùy thuộc mức sống từng khu vực, từng tầng lớp dân cư, từng nhà, từng người do
vậy cần có chiến lược lâu dài, thường xuyên.
•Chủ động trong dự báo chuẩn nghèo mới, có những chính sách cụ thể,
thiết thực hỗ trợ cho đối tượng cận nghèo bởi vì có thể hôm nay là cận nghèo, ngày
mai sẽ là hộ nghèo khi có chuẩn nghèo mới.
•Phải có cái nhìn khách quan khoa học về nguyên nhân cái nghèo để đưa ra
giải pháp hữu hiệu để đạt hiệu quả trong hoạt động xóa đói giảm nghèo.
•Giải quyết tốt công tác giáo dục đào tạo, cung cấp tri thức cần thiết cho
người dân để họ có thể tự lo cho cuộc sống của mình và đặc biệt quan tâm đến
những vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa.
•Tuyên truyền, giáo dục, động viên giúp các hộ nghèo vươn lên, nói không
với đói nghèo, đánh bật tư tưởng trông chờ ỷ lại.
•Nâng cao năng lực cán bộ trực tiếp làm công tác xóa đói giảm nghèo đồng
thời tiến hành thanh tra kiểm tra việc thực hiện tránh lãng phí, phô trương hình
thức, hỗ trợ không đúng , không hợp lý.
2.1.2. Vai trò nhà nước trong việc phối hợp chính sách ASXH với XĐGN
Đó là tổng thể các biện pháp của Nhà nước và xã hội, của chính những đối
tượng thuộc diện đói nghèo nhằm tạo ra các điều kiện để họ tăng thêm thu nhập,
thoát khỏi tình trạng thu nhập không đáp ứng đượ nhu cầu tối thiểu trên cơ sở các
chuẩn nghèo được quy định theo từng địa phương và từng giai đoạn. Như vậy xóa
đói giảm nghèo, một mặt là sự can thiệp của nhà nước và xã hội, mặt khác là sự tự
vận động của chính những đối tượng thuộc diện đói nghèo. Trong đó sự giúp đỡ
của Nhà nước là quan trọng nhưng chỉ mang tính chất tạo lập môi trường và hỗ trợ,
sự tự vươn lên của các đối tượng thuộc diện đói nghèo mới mang tính chất quyết
định. Xóa đói giảm nghèo là một trong những phần quan trọng nằm trong chính
sách an sinh xã hội của mỗi quốc gia. Cùng với BHXH, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã
hội, các chương trình xóa đói giảm nghèo tạo ra tấm lưới toàn diện bảo vệ cho các
thành viên xã hội. Nếu như đối tượng của BHXH là người lao động, cứu trợ xã hội
là những người khó khăn và bị tổn thương trong cuộc sống, ưu đãi xã hội hướng
tới những người có công với đất nước thi xóa đói giảm nghèo hướng tới một diện
bảo vệ quan trọng dễ bị tổn thương trong cuộc sống đó là những người nghèo. Xóa
đói giảm nghèo góp phần bảo đảm ASXH một cách lâu dài và bền vững giúp
người nghèo thoát nghèo vươn lên tự đảm bảo cuộc sống của mình góp phần tạo ra
mạng lưới an xinh toàn diện cho mỗi quốc gia. Xóa đói giảm nghèo xét về lâu dài
góp phần giảm gánh nặng cho hệ thống an sinh xã hội thông qua việc thu hẹp đối
tượng cần trợ cấp của an sinh xã hội. Xóa đói giảm nghèo tạo điều kiện cho chính
sách an sinh xã hội tăng chất lượng hoạt động thông qua tăng mức trợ cấp cho an
sinh xã hội. Vậy vai trò của xóa đói giảm nghèo có thể coi là cầu nối nhằm tăng
hiệu quả của các chính sách khác. Tính chất đặc thù của XĐGN và ASXH là hiệu
quả kinh tế xã hội không rõ rệt lợi nhuận đầu tư được coi là không có, nên rất khó
thu hút các đối tượng khác tham gia đầu tư vào nên vai trò của nhà nước đặc biệt
quan trọng.
Diện bảo vệ của ASXH rộng bao gồm rất nhiều thành phần nhằm mục tiêu
đảm bảo công bằng xã hội và đặc biệt các chính sách của ASXH thường có sự đan
xen và lồng ghép làm sao để nguồn lực phát huy hiệu quả và chính sách XĐGN
thành công góp phần làm cầu nối để các đối tượng có thể tiếp cận tới các chính
sách ASXH khác.
2.2. Hoàn thiện công tác đào tạo đội ngũ cán bộ thực hiện chính sách
ASXH nhằm thực hiện kiểm tra, giám sát việc thực hiện hệ thống chính sách an
sinh xã hội đối với nông dân.
Đào tạo cán bộ thực hiện chính sách an sinh xã hội là yếu tố nền tảng và
quyết định tới hiệu quả bền vững của các chính sách này trong tương lai. Cán bộ
đóng vai trò nòng cốt và trung tâm trong quá trình đưa chương trình ASXH tới với
nông dân. Nhìn chung, chúng ta cần xây dựng đội ngũ cán bộ tâm huyết và có trình
độ là do một số nguyên nhân sau:
- Để hệ thống an sinh xã hội đến được với bà con một cách hiệu quả nhất:
Theo tài liệu ghi chép của ngân hàng thế giới năm 2011 thì vẫn đang còn rất
nhiều hộ gia đình ở Việt Nam được nhận các khoản trợ cấp mà không hiểu tại sao
mình được hưởng hoặc khoản trợ cấp này đã đúng với quy định trợ cấp của nhà
nước hay chưa….?Điều này nói lên rằng các biện pháp tuyên truyền,phổ biến hệ
thống an sinh xã hội đến người nông dân không đạt hiểu quả,và nguyên nhân chính
là do năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ còn yếu kém.Các cấp lãnh đạo chưa có
hoặc tổ chức rất ít các chương trình cụ thể để tuyên truyền,hướng dẫn người nông
dân về cách thức tham gia hệ thống an sinh xã hội và lợi ích mà họ sẽ đạt
được.Trong khi đó các cán bộ thi hành trong lĩnh vực này hầu hết là bán chuyên
nghiệp,mắc bệnh quan liêu đã góp phần gián tiếp làm người nông dân không được
tiếp xúc với hệ thống an sinh xã hội.
- Để đảm bảo cho hệ thống an sinh xã hội vận hành trơn tru
Trong những năm qua việc chính sách an sinh xã hội chưa phát huy hết tác
dụng của nó một phần lý do là vấn đề con người trong hệ thống ASXH. Việc đời
sống của cán bộ chưa được đảm bảo sẽ dẫn tới những hệ lụy như thiếu tận tình trong
công tác tuyên truyền hướng dẫn hoặc hiện trạng tham nhũng, bòn rút kinh phí quốc
gia dành cho ASXH trong quá trình thực hiện. Bên cạnh đó việc đào tạo nâng cao
trình độ cán bộ sẽ đảm bảo các chính sách được hiểu đúng, hiểu sâu và phát huy tác
dụng tối đa trong việc hỗ trợ nông dân nâng cao đời sống của mình.
Để tìm ra các biện pháp nhằm nâng cao trình độ, trách nhiệm làm việc của
cán bộ không những chỉ phải tập trung vào việc làm thế nào để đào tạo mà còn phải
chú ý tới việc nâng cao đời sống của người trực tiếp làm công việc này. Theo mô
hình các nhân tố động của Maslow, để con người có động lực họ cần phải được thỏa
mãn lần lượt các nhu cầu từ vật chất,an toàn, xã hội, được tôn trọng và tự hoàn thiện
mình. Căn cứ vào các nhu cầu này, các chính sách trong thời gian tới có thể hướng
đến việc làm tăng mức độ thỏa mãn nhu cầu vật chất, an toàn để tạo sự yên tâm cho
cán bộ trong làm việc. Đồng thời bên cạnh đó phải đưa ra các chương trình đào tạo
để thỏa mãn các nhu cầu về tri thức, tự hoàn thiện mình của cán bộ làm ASXH. Các
biện pháp này phải được tiến cùng lúc và phối hợp nhịp nhàng chứ không phải chỉ là
các chính sách đơn lẻ và kém hiệu quả.
-Để tạo ra nguồn số liệu nghiên cứu
Hiện nay có rất nhiều nguồn tại liệu về ASXH cho người nông dân do nhà
nước và các cơ quan nghiên cứu phát hành nhưng các số liệu này lại không thống
nhất.Do đó khi phân tích các chính sách về an sinh xã hội vẫn chỉ là những nhận
định chủ quan, thiếu cơ sở dữ liệu cho các phân tích khoa học nhằm phát hiện ra các
mối quan hệ nội tại thông qua các mô hình hiện đại.Bởi vậy cần một nguồn nhân lực
có trình độ cao để đảm bảo việc nghiên cứu các dữ liệu đầu vào và đầu ra là chuẩn
xác.Từ các nghiên cứu đó nhà nước có thể phân tích được những điều mạnh cần phát
huy hay những điểm yếu cần khắc phục trong những chính sách đã ban hành hay
như đưa ra được các công cụ chính sách mới dựa trên những tài liệu có được.
Các lợi ích mang lại từ việc xây dựng đội ngũ cán bộ đó là:
-Lợi ích cho nhóm đối tượng thụ hưởng
Việc tạo ra được một đội ngũ cán bộ có trình độ,năng lực,trách nhiệm với
công việc cao sẽ tạo điều kiện cho người nông dân tiếp xúc với hệ thống chính sách
an sinh xã hội của nhà nước một cách dễ dàng nhất.Khi đã tham gia hệ thống xã hội
thì người nông dân sẽ nhận được sự giúp đỡ của nhà nước và cơ bản họ đã giải quyết
được vấn đề cơ bản nhất là “thu nhập”.
Với đội ngũ cán bộ tận tình và chu đáo,người nông dân sẽ nhận được đầy đủ
các lợi ích mà mình được hưởng,ngoài ra họ còn được các cán bộ tư vấn,giúp đỡ họ
nên làm như thế nào để sử dụng các khoản trợ cấp một cách hiệu quả nhất.Từ đó
người nông dân có thể yên tâm phát triển kinh tế,ổn định cuộc sống.
-Lợi ích đối với nhà nước
Đào tạo được đội ngũ các bộ có trình độ và trách nhiệm đem lại lợi ích to lớn
cho nhà nước.Những người làm công tác này sẽ truyền đạt được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước tới đời sống người nông dân,truyền đạt được ích lợi của việc
tham vào hệ thống ASXH đối với người nông dân.Có như thế người nông dân mới
tin tưởng và đồng tình vào các chính sách của Đảng và Nhà nước,từ đó giúp nhà
nước ổn định về mặt chính trị.
Về lợi ích kinh tế,việc sở hữu nguồn nhân lực chất lượng cao này giúp Nhà
nước thu được một khoản tài chính từ việc người dân tham gia đông đảo vào hệ
thống an sinh xã hội từ đó giúp nhà nước có điều kiện phát triển các mục tiêu
khác.Ngoài ra thì sự trách nhiệm của các cán bộ giúp Nhà nước tránh được tình
trạng thấm thoát Ngân sách do tham ô,tham nhũng của các cán bộ thực hiện.
2.3. Về kinh tế, tài chính để thực hiện chương trình an sinh xã hội đối
với nông dân
• Về phía nhà nước:
- Đối với thực hiện an sinh đóng góp.
Vấn đề tài chính là vấn đề then chốt mang ý nghĩa quyết định đối với việc
thực thi chương trình an sinh xã hội đối với nông dân. Giải quyết tình trạng an sinh
xã hội đối với nông dân mặc dù vẫn trên tinh thần xã hội hóa, song do mang tính
chất đặc thù của khu vực nông nghiệp với thu nhập thấp lại tập trung phần đông dân
số, nên điều kiện tiên quyết thực hiện thành công chương trình này là đồng thời với
quá trình xã hội hóa chương trình ASXH đối với nông dân, phải tăng chi NSNN để
thực hiện trợ giúp và hỗ trợ người nông dân được tham gia đầy đủ vào hệ thống
ASXH. Trong đó, chi NSNN đóng vai trò thiết yếu.
Chính phủ cần phải khuyến khích người dân tích cực tham gia vào hệ thống
BHYT tự nguyện thông qua việc trợ giúp tối thiểu kinh phí mua thẻ, điều này tạo cơ
hội cho người dân nhận thức được lợi ích từ việc sử dụng thẻ BHYT tự nguyện, tạo
tiền đề tích cực cho việc thực hiện BHYT toàn dân. Nhà nước nên có các chính sách
nhằm tăng mức tiền trợ giúp hàng tháng đối với các đối tượng yếu thế để ít nhất phải
đảm bảo cho người dân sống trên mức sống tối thiểu. Ngoài việc chi trợ giúp cho
các đối tượng yếu thế sống trên mức tối thiểu, Nhà nước nên cân nhắc một khoản
tiền để hỗ trợ đào tạo và tìm việc làm cho nông dân, từ đó giúp người dân thoát
nghèo.
Ngoài ra, việc bảo đảm tính minh bạch và kiểm soát của xã hội, cộng đồng,
của Nhà nước, của nông dân trong việc quản lý hoạt động của các quỹ an sinh xã hội
là hết sức quan trọng. Cần phát huy tối đa vai trò của kiểm toán độc lập trong việc
giúp Nhà nước, cộng đồng và nông dân giám sát việc thực thi của cơ quan và người
quản lý các quỹ an sinh xã hội. Hơn ở đâu hết, phải triệt để chống tham nhũng và
bảo đảm tính minh bạch trong quản lý các quỹ an sinh xã hội thì mới có thể huy
động được mọi tiềm lực của xã hội và người nông dân trong việc hình thành và phát
triển các quỹ an sinh xã hội. Mặt khác trong giai đoạn đầu, vai trò của Nhà nước có
tầm quan trọng hàng đầu trong việc hình thành và quản lý các quỹ an sinh xã hội cho
nông dân. Trong quá trình phát triển, vai trò của cộng đồng và nông dân sẽ tăng dần
đối với sự hình thành, phát triển và quản lý hoạt động của các quỹ an sinh xã hội.
Nhưng trong mọi giai đoạn phát triển, thể chế quản lý các quỹ an sinh xã hội cho
nông dân phải quy định rõ ràng, minh bạch, cụ thể sự đóng góp, tham gia của mỗi
chủ thể (nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức khác và nông dân…) và sự thụ hưởng
(hoàn cảnh, tiêu chuẩn, mức độ hưởng thụ, thủ tục giải ngân…) của mỗi loại đối
tượng nông dân. Không thực hiện được điều này, nông dân và cộng đồng, những nhà
hảo tâm, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội dân sự… sẽ không có niềm tin để tham
gia đóng góp và hưởng lợi từ các quỹ an sinh xã hội. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn tới
vấn đề tài chính thực hiện an sinh đóng góp của nông dân.
- Đối với thực hiện an sinh không đóng góp
Một khoản tiền nữa mà NSNN phải chi hàng năm đó là số tiền thực hiện trợ
giúp đột xuất cho các đối tượng không may gặp rủi ro về kinh tế bởi thiên tai, địch
họa Đấy là trường hợp thực hiện an sinh không đóng góp.
Nguồn tài chính cho quỹ này phải dựa vào nguyên thắc, để đảm bảo tăng thu
NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu, Nhà nước ta đặc biệt coi trọng nguồn thu từ
thuế, nhất là nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân. Bởi thực tế hiện nay, người lao
động làm việc ở khu vực chính thức nói chung, khu vực hành chính sự nghiệp nói
riêng đều có thu nhập đảm bảo cuộc sống lớn hơn mức lương tối thiểu rất nhiều lần.
Tuy nhiên, nhiều người trong số họ lại chưa phải đóng thuế thu nhập hoặc nếu có thì
mức đóng lại rất ít so với thu nhập của họ.
Nguồn tài chính cho an sinh không đóng góp thường rất lớn, vì thiên tai địch
họa thường không lường trước được, và tổn thất để lại cũng không phải nhỏ, do đó
nguồn thu tài chính thường huy động thêm lòng hảo tâm đóng góp của người dân,
các doanh nghiệp trong xã hội.
• Về phía người nông dân
Đây là một giải pháp với mục đích nâng cao thu nhập của người dân để họ có
thể chủ động tham gia ASXH đóng góp và có thể thực hiện các hoạt động TGXH từ
cộng đồng.
Đối với người nông dân cách tăng thu nhập hiệu quả và bền vững nhất để
hòa nhập vào hệ thống an sinh xã hội, đối với nông dân là tăng khả năng tiếp cận tới
cơ hội việc làm. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương
chính sách như: Hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, đồng thời đẩy mạnh cổ phần
hoá đối với các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp….
- Khuyến khích nông dân thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng
sản xuất hàng hoá tập trung, chuyên canh phục vụ cho xuất khẩu và cung cấp
nguyên liệu cho các ngành chế biến (bông, cà phê, cao su, hạt điều, chè, mía, gỗ, tre,
lúa, ngô, khoai, sắn, vừng, đậu, lạc ).
- Trong điều kiện cách mạng KH&CN, kinh tế tri thức, cần có chính sách
phát triển và chuyển giao công nghệ sinh học để nâng cao năng suất và chất lượng
vật nuôi, cây trồng, nâng cao giá trị trên một đơn vị diện tích gieo trồng, coi đó là
động lực kỹ thuật cơ bản cần được ưu tiên trong những năm tới. Đặc biệt chú ý sử
dụng khoa học và kỹ thuật để bảo tồn, nâng cao chất lượng các giống cây trồng, vật
nuôi truyền thống có giá trị kinh tế cao.
- Hoàn thiện và nâng cao chất lượng của các chương trình hướng nghiệp, đào
tạo nghề đối với nông dân. Các chương trình hướng nghiệp đối với học sinh nên do
người của những trung tâm tạo nghề về các trường trung học phổ thông báo cáo;
những chương trình đào tạo nghề nên để chính quyền địa phương phối hợp với
những doanh nghiệp cần tuyển lao động tổ chức đào tạo. Có như vậy khi đào tạo
xong người lao động có thể lập tức đi làm việc ở các KCN, KCX hoặc những công
ty tuyển dụng đã phối hợp tổ chức đào tạo ở địa phương.
Điều này sẽ tạo điều kiện về pháp lý cho việc tổ chức thực hiện CSXH trong
khu vực nông thôn và đối tượng nông dân.
-Tiếp tục thực hiện chủ trương phát triển kinh tế trong khu vực nông thôn,
phát huy ưu thế của kinh tế hộ, chuyển mạnh sang các hộ sản xuất hàng hoá, phát
triển kinh tế trang trại trong nông nghiệp, khuyến khích người lao động trong nông
thôn đặc biệt là trong lĩnh vực ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ đăng ký