Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

vấn đề nhập cư của canada và tác động của nó giai đoạn 2001-2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 72 trang )



1
Mục lục
Mục lục 1
LỜI MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu 3
1.1. Lý do chọn đề tài 3
1.2. Mục đích nghiên cứu 4
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 4
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 8
4. Phương pháp nghiên cứu 8
4.1. Phương pháp nghiên cứu trường hợp 8
4.2. Phương pháp sử học 9
4.3. Phương pháp so sánh 9
4.4. Phương pháp phân tích nội dung, bảng biểu 10
5. Sản phẩm khoa học dự kiến của đề tài 11
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NHẬP CƯ Ở CANADA 13
1.1. Khái niệm xuất – nhập cư 13
1.2 Tình hình nhập cư vào Canada từ 2001-2010 14
1.3. Nguyên nhân của tình trạng nhập cư vào Canada 22
1.3.1 Chính sách nhập cư 22
1.3.2 Điều kiện tự nhiên 22
1.3.3 Điều kiện kinh tế 23
1.3.4 Điều kiện văn hóa – giáo dục 23
1.3.5 Điều kiện xã hội 24
1.4 Chính sách của Canada về nhập cư 25


2
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CÚA NHẬP CƯ ĐỐI VỚI CANADA 32


2.1 Tác động tích cực 32
2.1.1 Tác động của nhập cư tới lực lượng lao động 32
2.1.2 Nhập cư góp phần tăng thuế đóng góp hàng năm 36
2.1.3 Nhập cư giúp thu hút thêm đầu tư 37
2.1.5 Nhập cư thu hút chất xám 42
2.2. Tác động tiêu cực 43
2.2.1. Nhập cư tác động đến dân số và lực lượng lao động 44
2.2.3. Nhập cư làm tăng các tệ nạn xã hội 48
2.2.4. Nhập cư gây ra tình trạng xung đột văn hóa 49
2.2.6. Nhập cư và nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia 52
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ NHẬP CƯ CỦA CHÍNH PHỦ
CANADA 55
3.1 Đưa ra các chương trình thu hút lao động có trình độ 55
3.2 Hỗ trợ người nhập cư định cư tại Canada 62
3.3 Ngăn chặn nhập cư bất hợp pháp và các biện pháp buôn người qua biên giới 64
KẾT LUẬN 67
Tài liệu tham khảo 69
Tiếng Việt 69
Tiếng Anh 70



3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu
1.1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, Thế giới đang phải đối mặt với nhiều vấn đề mang tính toàn cầu. Trong
đó, nhập cư là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu và có ảnh hưởng không nhỏ
đến đời sống chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội của mỗi quốc gia. Mỗi năm có hàng
triệu người dân nhập cư vào các quốc gia phát triển hơn, mong có được một cuộc sống tốt

đẹp hơn.
Trên thực tế, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, "cung" và "cầu" trong vấn đề nhập cư
vẫn chưa tìm được tiếng nói chung. Nhu cầu tuyển dụng lao động nhập cư để bảo đảm
phát triển kinh tế có mâu thuẫn việc văn hóa ngoại lai ảnh hưởng nền nếp, bản sắc văn
hóa của nước sở tại? Làm thế nào để bảo đảm quyền hợp pháp của người nhập cư hợp
pháp cũng như giải quyết ổn thỏa vấn đề nhập cư bất hợp pháp luôn là bài toán hóc búa
đối với bất cứ chính phủ nào.
Canada - đất nước thuộc khu vực Bắc Mỹ - được coi là “miền đất hứa” đối với
những người dân muốn nhập cư. Canada là một quốc gia phát triển đồng thời là một
trong những nền kinh tế lớn trên thế giới với các ngành công nghiệp chính gồm: khai mỏ,
chế biến gỗ, giấy, thực phẩm, thiết bị vận tải, hoá chất, dầu khí, điện năng, công nghệ
viễn thông, sinh học và dược phẩm điều này càng thu hút nguồn lao động từ bên ngoài
đến với Canada. Từ thập niên 70 của thế kỷ XX đến nay, số người nhập cư không ngừng
tăng ở đất nước này. Tuy nhiên, so với quốc gia láng giềng là Mỹ thì vấn đề nhập cư ở
Canada vẫn còn khá ít người quan tâm và đi sâu vào nghiên cứu.
Bước sang thế kỷ XXI, với vụ khủng bố 11/9/2001 ở Mỹ, Canada không thể tránh
khỏi những quan ngại về vấn đề này. Đồng thời, tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu cũng
có những tác động nhất định đến quốc gia này. Vì vậy, năm 2002, Luật nhập cư và bảo vệ
dân “tị nạn” được ban hành với nhiều điểm mới về nhập cư. Sau đó, bộ luật tiếp tục được


4
sửa đổi để phù hợp với tình hình chính trị - kinh tế - xã hội của Canada cũng như của Thế
giới. Chúng tôi chọn nghiên cứu trong giai đoạn 2001-2010 để thấy được sự thay đổi về
chính sách nhập cư của Canada qua các giai đoạn khác nhau và đánh giá tác động của
những chính sách nhập cư mà chính phủ nước này đưa ra cũng như tình hình nhập cư vào
Canada trong 10 năm đầu của thế kỷ XXI.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Từ những khảo sát đánh giá một cách khoa học, chính xác về những cải cách trong
chính sách nhập cư cũng như tình hình nhập cư trong giai đoạn 2001- 2010 của Canada,

bài nghiên cứu sẽ giúp người đọc trả lời những thắc mắc:
- Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng nhập cư vào Canada?
- Tình hình nhập cư ở Canada có gì khác so với các quốc gia khác trên thế giới,
đặc biệt là Mỹ?
- Chính sách nhập cư của Canada đã thay đổi như thế nào qua các năm?
- Tác động của việc nhập cư đến các mặt của đời sống của Canada như thế nào?
- Giải pháp gì cho việc cân bằng nhu cầu nhập cư?
Thông qua bài nghiên cứu, người đọc sẽ nhận thức được rõ hơn về vấn đề nhập cư.
Bên cạnh đó, chúng tôi có thể giúp người đọc có cái nhìn khái quát về tình hình nhập cư
cũng như những tác động của nó theo cả nghĩa tích cực và tiêu cực đến đất nước Canada.
Từ đây, có thể tìm ra những giải pháp mà chính phủ Canada sử dụng để cân bằng nhu cầu
nhập cư, đáp ứng được yêu cầu của đất nước
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề nhập cư của Châu Mỹ nói chung và của Canada nói riêng đã
thu hút được đông đảo các học giả trong và ngoài nước quan tâm, tìm hiểu. Đề tài này
cũng không còn là mới mẻ nhưng chính vì sự hấp dẫn và tầm quan trọng của nó, cho nên
đến nay đã có khá nhiều dự án, tài liệu và công trình nghiên cứu của cả Việt Nam và


5
nước ngoài đề cập đến dưới nhiều góc độ, quan điểm khác nhau. Tuy nhiên qua tìm hiểu
một số công trình nghiên cứu đã được công bố, có thể thấy những nghiên cứu này hầu
như chưa tập trung nhiều vào vấn đề nhập cư của Canada và tác động của nó giai đoạn
2001-2010 mà chỉ mới dừng lại phân tích sâu ở những giai đoạn trước đó và cũng chưa
đề cập nhiều đến tác động và ảnh hưởng của việc nhập cư.
Ở nước ngoài, trong một đạo luật sửa đổi “An Act to amend the Immigration and
Refugee Protection Act, the Balanced Refugee Reform Act, the Marine Transportation
Security Act and the Department of Citizenship and Immigration Act”
1
được Hạ viện

Canada thông qua vào ngày 11/1/2012 đã đề cập tới những chính sách mới để bảo vệ
những người nhập cư. Theo đó, đạo luật này sẽ dựa trên ba đạo luật cũ để sửa đổi và bổ
sung thêm một số điều: đạo luật Nhập cư và bảo vệ người tị nạn, đạo luật An ninh giao
thông vận tải, luật Quốc tịch và nhập cư. Bằng cách đưa ra những đạo luật sửa đổi một
cách chi tiết và rõ ràng, đạo luật đã cung cấp đầy đủ thông tin về các chính sách đối với
người nhập cư để giúp những người dân nhập cư đã, đang và có dự định đến sinh sống và
làm việc tại Canada có thể hình dung rõ nét nhất về việc nhập cư đến đất nước này. Một
trong số những điểm sáng giúp cho nhóm có thể tìm hiểu và phát triển vấn đề nghiên cứu
của mình có thể kể đến tính mới mẻ và cập nhật (tài liệu mới được ban hành vào đầu quý
I năm 2012) và một hệ thống chi tiết đầy đủ thông tin về các điều khoản cũng như chính
sách đối với việc nhập cư tới Canada. Tuy nhiên, đây mới chỉ là tài liệu sơ cấp cung cấp
một cách cơ bản nhất các điều luật, chứ không phải bài phân tích các chính sách cũng
như vấn đề nhập cư ở Canada. Sự thiếu hụt ấy và việc đi sâu phân tích cũng là một hướng
đi mới cho nhóm có thể hoàn thiện tốt nhất đề tài nghiên cứu của mình.


1
“An Act to amend the Immigration and Refugee Protection Act, the Balanced Refugee Reform
Act, the Marine Transportation Security Act and the Department of Citizenship and Immigration
Act”, Parliament of
Canada< />l=41&Ses=1&source=library_prb&Language=E >;[5/11/2012]



6
Công trình nghiên cứu “US and Canadian Immigration Policies”
2
(11/2002) của
luật sư Peter Rekai, viện nghiên cứu C.D. Howe, có thể coi là một ví dụ tiêu biểu trong
nghiên cứu vấn đề nhập cư: Chính sách nhập cư của Mỹ và Canada. Có thể nói đây là

một công trình nghiên cứu khá chi tiết và tỉ mỉ với phần mở đầu, chính sách nhập cư của
Mỹ và Canada, tình hình nhập cư và thực thi chính sách của hai nước, phần kết luận. Các
đặc trưng đáng chú ý trong bài nghiên cứu này nằm ở những phân tích sâu sắc về tình
hình nhập cư với những số liệu cụ thể, sự thay đổi chính sách trong vấn đề nhập cư giữa
hai nước và các mặt tích cực- hạn chế trong chính sách của hai nước. Đây cũng là nguồn
thông tin tương đối thuyết phục và có nhiều đóng góp nhất cho việc tìm hiểu và phát triển
vấn đề nghiên cứu của nhóm. Mặc dù vậy, bài nghiên cứu cũng chưa thực sự đề cập
nhiều đến nguyên nhân của tình trạng nhập cư cũng như những tác động- ảnh hưởng của
nó đến kinh tế- chính trị- xã hội Canada. Hơn nữa, bởi sự biến động của tình hình nhập
cư và sự thay đổi trong chính sách của chính phủ,bài nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở giai
đoạn trước năm 2002, cho nên chưa cập nhật được tình hình nhập cư của nước này trong
những năm tiếp theo (2008-2010). Những vấn đề còn thiếu sót này sẽ là một trong những
khía cạnh mới được bổ sung trong đề tài nghiên cứu của nhóm.
Ở Việt Nam không có nhiều công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến vấn đề
nhập cư của Canada, nhưng trong đó có thể kể đến bài nghiên cứu của tác giả Phạm Thị
Mỹ Trang với tiêu đề “Vấn đề nhập cư của Mỹ và Canada” được đăng trên Tạp chí
nghiên cứu Châu Mỹ ngày nay (số 06-2011). Bài nghiên cứu được mở đầu bằng việc đưa
ra tình hình nhập cư ở Mỹ và Canada trong khoảng thời gian từ thập niên 70 của thế kỷ
XX đến năm 2008. Tác giả đã chú ý đưa ra những ví dụ tiêu biểu trong các lần thống kê
dân số định kỳ của hai nước, đồng thời khái quát về tình hình nhập cư bất hợp pháp của
hai nước cũng như sự thay đổi chính sách trong các mốc thời gian quan trọng. Ở phần
tiếp theo về những khác biệt giữa Mỹ và Canada đối với người nhập cư, cùng với việc
đưa ra các tiêu chí so sánh, tác giả còn phân tích cụ thể những quan điểm và con số nhập


2
Rekai, P. (2012), US and Canadian Immigration Policies, C.D. Howe Institue, Toronto
(www.cdhowe.org/pdf/temp/rekai.pdf )



7
cư của cả hai nước. Không dừng lại ở đó, hai phần tiếp theo tác giả đã dẫn độc giả đến
với những chính sách nhập cư của Mỹ và Canada bằng việc phân tích cụ thể và chi tiết
từng chính sách theo chiều dài thời gian với mục đích và kết quả thực tế của chính sách.
Những phân tích sâu sắc, đánh giá đầy đủ cộng với sự am hiểu của tác giả sẽ là nguồn
thông tin đáng giá giúp bổ sung tư liệu học hỏi và vận dụng cho đề tài nghiên cứu của
nhóm. Ngoài ra, đúng như tiêu đề của bài nghiên cứu về vấn đề nhập cư của cả Mỹ và
Canada, cho nên bài nghiên cứu không phải chỉ tập trung nghiên cứu riêng về Canada,
việc không đưa ra những tác động của sự nhập cư cũng như các giải pháp của chính phủ
cũng là điều không thể tránh khỏi. Đó cũng chính là cơ hội để nhóm bổ sung và xây dựng
đề tài của mình.
Bên cạnh đó, còn có nhiều tài liệu có giá trị cao như: nghiên cứu “Immigration
policy, source countries and immigrant skills: Australia, Canada and the United States”
(06/1987) của giáo sư Bary R. Chiswick - trung tâm nghiên cứu kinh tế trường đại học
Chicago; tài liệu “Canada facts and figures- immigration overview permanent and
temporary residents” ( 2010) của chi nhánh nghiên cứu và đánh giá Quốc tịch và Nhập cư
Canada,… cùng nhiều bài phân tích nghiên cứu khác về vấn đề nhập cư ở Canada trên
các website như : nhapcucanada.com, immigration.vn, migrationexpert.ca, cic.gc.ca,
canadavisa.com,…
Những công trình nghiên cứu cũng như các tài liệu đã trình bày trên đây là những
cơ sở lý thuyết quan trọng, phục vụ đắc lực cho đề tài nghiên cứu của nhóm. Tuy vậy,
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề trên những khía cạnh cụ thể
về “vấn đề nhập cư của Canada và tác động của nó giai đoạn 2001-2010”. Vì thế, trên
tinh thần tiếp thu những thành quả nghiên cứu của các học giả đi trước, nhóm chúng tôi
mạnh dạn xây dựng vấn đề này để nghiên cứu, chúng tôi hi vọng sẽ có những tìm tòi và
đóng góp mới cho khoa học.





8
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề nhập cư ở Canada. Đề tài sẽ tập trung
nghiên cứu các đối tượng sau:
- Bối cảnh kinh tế - chính trị - xã hội tác động đến tình hình nhập cư ở Canada và
ngược lại.
- Thực trạng nhập cư (cả hợp pháp và bất hợp pháp) và đời sống của những người
dân nhập cư đó, các chính sách của chính phủ và kết quả đạt được.
Về phạm vi nghiên cứu, đề tài nghiên cứu chủ yếu trên các phạm vi sau:
- Phạm vi thời gian: tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 2001 đến
2010.
- Phạm vi không gian: Canada
- Phạm vi lĩnh vực: tập trung nghiên cứu ở lĩnh vực pháp luật (các điều luật về
nhập cư, các chính sách về nhập cư hợp pháp và bất hợp pháp,…). Ngoài ra còn đề cập
đến các tác động của việc nhập cư đến các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Lý do cho sự lựa chọn này là do nghiên cứu trường hợp cho phép người nghiên
cứu hiểu được một cách sâu sắc nhất về cách thức hoạt động và chức năng của đối tượng
mình nghiên cứu.
Trước hết nhóm nghiên cứu sẽ đưa ra các câu hỏi, giả thuyết nhằm xác định chính
xác đơn vị phân tích và đưa ra trường hợp nghiên cứu. Theo đó, trường hợp nghiên cứu ở
đây là một thực thể - quốc gia Canada và số lượng trường hợp là 1. Như vậy, theo phân
loại phương pháp nghiên cứu, đây là nghiên cứu một trường hợp. Hơn nữa trường hợp
được lựa chọn để nghiên cứu là trường hợp đặc trưng nhằm giúp nhóm có thể kiểm
nghiệm, và mở rộng những nghiên cứu đã có trước đó về nguyên nhân, tình hình nhập cư


9
cũng như luật nhập cư của Canada. Thêm vào đó, nhóm cũng lựa chọn phương pháp

nghiên cứu trường hợp theo chiều dọc để tìm ra những điểm khác biêt, những sự thay đổi
của tình hình nhập cư vào Canada cũng như luật pháp về nhập cư của nước này trong các
giai đoạn trước đến mười năm đầu thế kỷ XXI. Tiếp theo sau khi thu thập các tài liệu,
nhóm sẽ tổng hợp, phân tích, so sánh để tìm ra những những thay đổi và rút ra đánh giá,
nhận xét về luật pháp cũng như các chính sách giải quyết vấn đề nhập cư của quốc gia
này.
4.2. Phương pháp sử học
Trong phương pháp nghiên cứu khoa học, phương pháp sử học giúp mở rộng và
làm vững chắc kiến thức nền của người nghiên cứu, tìm ra những ẩn số trong nghiên cứu;
đồng thời giúp tìm được ra các mối liên hệ của các sự kiện trong quá khứ và mối liên hệ
với các sự kiện hiện tại.
Thời gian dự kiến được chia thành hai giai đoạn: trước những năm 2001 và từ năm
2001 - 2010, nhưng sẽ tập trung nhiều hơn vào giai đoạn thứ hai. Sau khi đã xác định
được giai đoạn, nhóm tiến hành thu thập tài liệu. Nguồn tài liệu chủ yếu là tài liệu sơ cấp
(luật nhập cư, các sắc lệnh, nghị quyết của chính phủ Canada về nhập cư…) và tài liệu
thứ cấp, là sách nghiên cứu, các bài báo, bài viết trên tạp chí hay Internet về tình hình và
chính sách an sinh xã hội của Canada trong các giai đoạn trên; những số liệu, bảng biểu,
biểu đồ về tiền lương, tiền trợ cấp… qua các năm Tiếp đó, các dữ liệu sẽ được đặt trong
bối cảnh chính trị xã hội cụ thể mà tập trung chủ yếu vào giai đoạn thứ hai (2000 -2010)
để phân tích, thống kê, so sánh, đánh giá, nhằm làm sáng tỏ những thay đổi, khác biệt,
trong chính sách nhập cư của Canada cũng như những tác động của việc nhập cư tới kinh
tế, chính trị, xã hội của các quốc gia này.
4.3. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh giúp kiểm chứng sự giống và khác nhau trên một số lượng
trường hợp nhất định.


10
Trong bài nghiên cứu, nhóm dự định so sánh những thay đổi trong tình hình và
chính sách về nhập cư của Canada trước và sau năm 2002 khi luật mới được ban hành.

Các tiêu chí so sánh dự kiến sẽ là:
- Số lượng người nhập cư vào Canada qua các năm
- Mục đích của những người nhập cư vào Canada
- Những thành phố tập trung đông dân nhập cư, số lượng người nhập cư ở các
thành phố này.
- Những nét thay đổi chính trong chính sách nhập cư mới (2002) của Canada. Với
những tiêu chí đặt ra, việc thu thập tài liệu sẽ hướng đến những tài liệu sơ cấp như các bộ
luật của Canada về nhập cư cùng các tài liệu thứ cấp như tạp chí chuyên ngành, những
bài viết trích dẫn nguyên văn chính sách nhập cư của Canada, những số liệu, bảng biểu về
số lượng người nhập cư qua các năm. Những điểm khác biệt và tương đồng sẽ được tìm
ra thông qua việc phân tích những tài liệu trên như những điểm mới trong chính sách mới
là gì, các điều kiện cho người nhập cư và Canada liệu có được ưu tiên hơn so với các giai
đoạn trước hay không…
Không chỉ so sánh tình hình nhập cư và chính sách nhập cư của Canada trong các
giai đoạn khác nhau, nhóm dự kiến sẽ so sánh các vấn đề trên của Canada với các quốc
gia khác mà điển hình là Mỹ để tìm ra những điểm khác biệt giữa tình hình và chính sách
nhập cư của hai nước này.
4.4. Phương pháp phân tích nội dung, bảng biểu
Phương pháp phân tích nội dung góp phần nghiên cứu mối quan hệ giữa những
thay đổi về kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa, tìm ra những đặc điểm của văn hóa, thể
chế, xã hội.
Trong bài nghiên cứu, nhóm dự định sử dụng phương pháp phân tích nội dung để
phân tích khái niệm “nhập cư”, “nhập cư hợp pháp” và “nhập cư bất hợp pháp”, đồng
thời phân tích những tác động của việc nhập cư tới đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của


11
Canada, cũng như những thay đổi trong chính sách nhập cư mới của quốc gia này với
chính sách cũ của nó.
Nguồn của tài liệu ở đây bao gồm tài liệu sơ cấp (các bộ luật về nhập cư), tài liệu

thứ cấp (chủ yếu là sách, tạp chí chuyên ngành, những văn bản trình bày về chính sách
nhập cư của Canada, về bối cảnh mới của thế giới tác động đến việc thay đổi chính sách
nhập cư của nước này…)
Sau khi thu thập và phân tích nội dung tài liệu, nhóm nghiên cứu sẽ tiến hành xác
định độ tin cậy của các thông tin đó qua việc kiểm chứng độ chính xác của tài liệu, tham
khảo, so sánh với các tài liệu khác và cuối cùng là đưa ra kết quả nghiên cứu.
Về phần bảng biểu, nhóm dự định sẽ phân tích các bảng biểu hay bảng số liệu về
số lượng người dân nhập cư vào Canada, mục đích của họ, phân loại dân nhập cư ở
Canada qua các năm để rút ra kết luận về những thay đổi trong tình hình nhập cư ở nước
này. Bên cạnh đó những bảng biểu về tình hình nhập cư ở Mỹ cũng được sử dụng nhằm
so sánh với Canada. Cùng với đó, các bảng biểu về các số liệu kinh tế như GPD, tỷ lệ thất
nghiệp hay các thành phần kinh tế có người nhập cư hoạt động trong đó, cùng những số
liệu về các vấn đề xã hội như tháp tuổi hay tỷ lệ người trong và ngoài độ tuổi lao đông…
được phân tích để thấy được những tác động của nhập cư tới đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội của Canada.
5. Sản phẩm khoa học dự kiến của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài dự kiến sẽ bao gồm ba chương sau:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nhập cư ở Canada
Chương 1 sẽ trình bày khái quát về tình hình nhập cư ở Canada trong giai đoạn từ
năm 2001 đến 2010 với các nội dung chính như:
- Khái niệm nhập cư, nhập cư hợp pháp và nhập cư bất hợp pháp.
- Nguyên nhân của tình trạng nhập cư.


12
- Tình hình nhập cư của Canada.
- Chính sách của chính phủ Canada đối với vấn đề nhập cư.
Chương 2: Tác động - ảnh hưởng của vấn đề nhập cư đến Canada
Trong phần này, nhóm đưa ra những tác động tiêu biểu nhất của nhập cư đến
Canada trong thời gian 2001 – 2010 từ hai hướng là các ảnh hưởng tích cực và các ảnh

hưởng tiêu cực. Qua việc phân tích, đánh giá tình hình thực tế, các số liệu thống kê để từ
đó chỉ ra và làm rõ mức độ tác động, những lợi ích và điểm bất lợi mà nhập cư đã mang
lại cho quốc gia này.
Chương 3: Giải pháp của chính phủ Canada
Từ những thực tế nêu trên, trong phần này, nhóm sẽ tập trung nêu ra và phân tích
những chính sách chính phủ Canada áp dụng để giải quyết vấn đề nhập cư từ năm 2001
đến năm 2010. Cụ thể là Luật Hành động Bảo vệ người nhập cư và người tị nạn năm
2002, việc sửa đổi một số điều luật năm 2008 và những chính sách mới vào năm 2010.


13
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NHẬP CƯ Ở CANADA
1.1. Khái niệm xuất – nhập cư
Xuất- nhập cư là hiện tượng mang tính lịch sử và thời đại, nó được xuất phát từ
những nguyên nhân chung của tình hình hình kinh tế- chính trị- xã hội hoặc các chính
sách phát triển của mỗi nước hay xuất phát từ chính mục đích cá nhân con người. Đã có
khá nhiều quan niệm khác nhau về nhập cư theo cách hiểu thông thường, theo từ điển hay
các văn bản pháp quy.
Theo cách hiểu thông thường, nhập cư là việc một người có quốc tịch ở quốc gia
này, đến cư trú tạm thời hoặc lâu dài ở một quốc gia khác. Trong từ điển Oxford, nhập cư
có nghĩa là hành động đến sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Tương tự như vậy, “Luật di cư
quốc tế số 27: Giải thích về di cư”- của Tổ chức di cư quốc tế (IMO), nhập cư là quá trình
một người không phải công dân của một quốc gia chuyển tới đó với mục đích định cư lại.
Cùng quan niệm đó nhưng có ngoại diên rộng hơn, Luật sư Edgardo Martinez, tiểu
bang Iniana, Hoa Kỳ cho rằng nhập cư là thuật ngữ dùng để diễn tả hành động và quá
trình một công dân của một nước xác định đến nước khác sau khi làm các thủ tục xin cư
trú ở nước đó. Nhập cư chỉ đơn thuần là việc phân phối lại công dân từ nước này sang
nước khác
3
.

Trong tác phẩm “100 years of immigration in Canada” xuất bản năm 2000 của hai
tác giả Monica Boyd (Giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu Dân số và nhân khẩu học, Đại
học Florida, Canada) và Michael Vickers (Chuyên viên nghiên cứu xu hướng xã hội
Canada), nhập cư được định nghĩa là sự di chuyển vào các quốc gia khác nhằm mục đích
định cư hợp pháp.
Ở Canada, tài liệu “Backgrounder- 2013 Immigration Levels Planning: Public and
Stakeholder Consultations” của CIC, “khi nói về nhập cư, chúng tôi đề cập đến những


3
Edgardo Martinez, “What is immigration”
< [15/12/2012].



14
người thường trú, tức là những người đã quyết định chuyển vĩnh viễn sang Canada làm
việc và sinh sống”.
Như vậy, với định nghĩa nhập cư ta có thể hiểu trên hai phương diện: chủ thể và
tính chất. Chủ thể của nhập cư được xác định là con người. Nhập cư mang tính chất vượt
qua phạm vi biên giới của một quốc gia với những mục đích cụ thể trong một thời gian
tương đối dài.
1.2 Tình hình nhập cư vào Canada từ 2001-2010
Ngày nay, xuất phát từ chính nhu cầu của bản thân, quyền tự do cá nhân luôn gắn
liền với quyền tự do đi lại, tự do tìm kiếm và lựa chọn nơi mình sinh sống tùy thuộc vào
khả năng của mỗi người. Cùng với các nước phát triển như Hoa Kỳ, Liên bang Nga, Đức,
Pháp,… Canada không nằm ngoài danh sách những nước tiếp nhận số lượng người nhập
cư lớn nhất thế giới. Mỗi năm Canada chào đón khoảng 250.000 người nhập cư thường
trú, hơn 200.000 công nhân làm việc tạm thời và sinh viên quốc tế mỗi năm.
4








4
“Báo cáo thường niên trình Quốc hội Canada về vấn đề Nhập cư”, Citizenship and Immigration
Canada < [15/12/2012].


15

Bảng 1.2.1: 10 nước có tổng số người nhập cư cao nhất thế giới
( năm 1990. 2005 và ước tính cho năm 2010)
TT
1990



2005
2010




Nước/ vùng
lãnh thổ




Tổng
số
(triệu)
Tỉ lệ
(%)
trong
tổng
số
dân
Nước/ vùng lãnh
thổ
Tổng
số
(triệu)
Tỉ lệ
(%)
trong
tổng
số dân
Nước/ vùng
lãnh thổ



Tổng
số
(triệu)
1

Hoa Kỳ
23.3
15.0
Hoa Kỳ
38.4
20.2
Hoa Kỳ
42.8
2
Liên bang
Nga
11.5
7.4
Liên bang Nga
12.1
6.4
Liên bang Nga
12.3
3
Ấn Độ
7.4
4.8
Đức
10.1
5.3
Đức
10.8
4
Ukraina
7.1

4.6
Ukraina
6.8
3.6
Ả rập Xê út
7.3
5
Pakistan
6.6
4.2
Pháp
6.5
3.4
Canada
7.2
6
Đức
5.9
3.8
Ả rập Xê út
6.4
3.3
Pháp
6.7
7
Pháp
5.9
3.8
Canada
6.1

3.2
Anh
6.5
8
Ả rập Xê út
Xê- út
4.7
3.1
Ấn Độ
5.7
3.0
Tây Ban Nha
6.4
9
Canada
4.3
2.8
Vương quốc Anh
5.4
2.8
Ấn Độ
5.4
10
Australia
4.0
2.6
Tây Ban Nha
4.8
2.5
Ukraina

5.3
Nguồn: Báo cáo của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc (9/2006) và UN (2008): Trends in
Migration Stock.
Có thể nói số lượng người nhập cư đến Canada đã tăng nhanh chóng trong vòng
20 năm qua (1990-2010), từ 4,3 triệu người năm 1990 đã lên đến 6,1 triệu người năm
2005, và có xu hướng tăng trong những năm tiếp theo.
Như một hệ quả tất yếu, với sự già hóa dân số và tỷ lệ sinh giảm, đã và đang gây
ra áp lực lớn để tăng trưởng nguồn lao động nhằm hướng tới một nền kinh tế tăng trưởng
bền vững của Canada. Với những chính sách hỗ trợ dân nhập cư, Bộ Quốc tịch và Nhập
cư Canada đã đưa ra những thay đổi trong chương trình nhập cư nhằm hướng đến một hệ


16
thống nhập cư nhanh chóng và linh hoạt.
5
Canada luôn mở rộng cánh cửa nhập cư, đáp
ứng nguyện vọng của người dân tiến tới việc không phải thuê lao động khai thác tài
nguyên của đất nước rộng thứ hai thế giới này. Theo một dự án thống kê của Canada,
năm 2011 số lao động nhập cư sẽ chiếm 100% lực lượng lao động của nước này. Vào
năm 2031, sẽ chiếm phần lớn mạng lưới tăng trưởng dân số Canada.
6

Tình hình nhập cư vào Canada giai đoạn 2001-2010 được cụ thể hóa theo các tiêu
chí sau:
- Xét về mặt thành phần dân nhập cư, có thể chia thành:
+ Dân nhập cư đến từ các khu vực địa lý: Nước và châu lục
+ Dân nhập cư theo độ tuổi ( dưới, trong và sau độ tuổi lao động)
+ Dân nhập cư theo mục đích (lao động- làm việc trong lĩnh vực kinh tế,
hôn nhân, tị nạn, )
- Xét về điểm đến của dân nhập cư: các tỉnh/ lãnh thổ của Canada

Thứ nhất, về thành phần dân nhập cư, tỉ lệ người nhập cư vào Canada tăng tương
đối đáng kể nhất là những dòng di cư từ khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, Châu Phi,
phần đông trong số đó từ nguồn xuất khẩu lao động. Những người dân nhập cư Canada
đến từ hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau. Chỉ tính riêng 10 nước có số dân
nhập cư thường trú hợp pháp ở Canada nhiều nhất, đã chiếm tới 52.7% (147,799 người)
tổng số năm 2010.
7



5
Citizenship and Immigration
Canada< />31.asp>;[15/12/2012].

6
“Immigration: The Changing Face of Canada Policy Brief”, The Canadian Chamber of
Commerce<
[15/12/2012].

7
“Báo cáo thường niên trình Quốc hội Canada về vấn đề Nhập cư”, Citizenship and Immigration
Canada< [15/12/2012].


17
Ở Châu Á, đáng chú ý nhất là ba nước Philippin, Ấn Độ và Trung Quốc luôn dẫn
đầu về số cư dân thường trú được chấp nhận ở Canada. Năm 2001, Trung Quốc đứng ở vị
trí số 1 của bảng xếp hạng 10 nước có số cư dân thường trú được chấp nhận ở Canada với
hơn 40000 người. Đến năm 2010, Philippin vươn lên đứng đầu với hơn 36000 người
(năm 2001 có gần 13000 người). Điều đó cho thấy một sự thay đổi đáng kể trong thành

phần cư dân nhập cư thường trú của Canada. Một phần của sự thay đổi đó là do chính
sách xuất cư của các nước, phụ thuộc vào tình hình dân số và mức độ phát triển của mỗi
nền kinh tế.
Bảng 1.2.2: 10 nước dẫn đầu về số lượng người nhập cư thường trú hợp pháp ở
Canada năm 2010
Source country
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
1.Philippines
12,928
11,011
11,987
13,303
17,525
17,718
19,067
23,727
27,277
36,578
2.India
27,901
28,838

24,594
25,573
33,142
30,746
26,047
24,549
26,117
30,252
3.China,People's
Republic of
40,365
33,304
36,251
36,429
42,292
33,078
27,013
29,337
29,051
30,197
4.United Kingdom
5,359
4,724
5,199
6,062
5,864
6,541
8,129
9,243
9,565

9,499
5.United States
5,909
5,294
6,013
7,507
9,263
10,943
10,449
11,216
9,723
9,243
6.France
4,428
3,962
4,127
5,028
5,430
4,915
5,526
6,383
7,299
6,934
7.Iran
5,746
7,889
5,651
6,063
5,502
7,073

6,663
6,010
6,066
6,815
8.United Arab Emirates
4,523
4,444
3,321
4,358
4,053
4,100
3,368
4,695
4,640
6,796
9.Morocco
3,951
4,057
3,243
3,471
2,692
3,109
3,789
3,906
5,221
5,946
10.Korea, Republic of
9,608
7,334
7,089

5,337
5,819
6,178
5,866
7,246
5,864
5,539
Nguồn: Bộ Quốc tịch và nhập cư Canada, những số liệu và thực tế năm 2010
(Citizenship and Immigration Canada, Facts and Figures 2010).


18
Canada- miền đất hứa phía Đông Bán cầu với nền kinh tế lớn thứ 9 thế giới
8
đang
thu hút một lực lượng lớn lao động từ các nước trên thế giới. Những người trong độ tuổi
lao động (từ 25 đến 44 tuổi) chiếm phần lớn trong số dân nhập cư thường trú tại Canada.
Trong đó, người nhập cư đến từ khu vực Châu Á- Thái Bình Dương luôn dẫn đầu về số
lượng. Năm 2010, số người trong độ tuổi lao động ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương
đến nhập cư thường trú tại là hơn 65000 người. Cho thấy không chỉ là những ưu đãi lớn
trong các chính sách thu hút nguồn lao động của Chính phủ Canada, mà còn là mục tiêu
hướng tới một nguồn lao động dồi dào, cần mẫn, giá rẻ ở một số nước Châu Á- Thái Bình
Dương như Philippin, Trung Quốc,…
Biểu đồ 1.2.1: Số dân nhập cư thường trú tại Canada theo độ tuổi và nguồn gốc khu
vực, năm 2010



8
“Canada is the 9

th
largest economy in the world based on GDP”, Economy
Watch< [15/12/2012].


19
Nguồn: Bộ Quốc tịch và nhập cư Canada, những số liệu và thực tế năm 2010
(Citizenship and Immigration Canada, Facts and Figures 2010).
Trong số những người nhập cư đến Canada, rất nhiều người đã qua đào tạo và có
tay nghề cao, họ là các bác sĩ, luật sư, kỹ sư, y tá, doanh nhân,… Họ có những đóng góp
thiết thực, góp phần xây dựng nên nền kinh tế, văn hóa và xã hội Canada đa sắc màu
9
. Có
những người với mục đích du học, du lịch, theo diện xuất khẩu lao động, theo con đường
kết hôn hay đoàn tụ với gia đình, hay cũng có những người dân tị nạn không có nơi để
sống đã đến với Canada. Tuy nhiên, phần lớn người nhập cư nằm trong khu vực kinh tế,
với 56.1% tổng số người nhập cư vào Canada năm 2005.
Bảng 1.2.3: Tỷ lệ người nhập cư vào CANADA theo phân loại mục đích, năm 2005
Canadian immigration in 2005
Economic
56.1 %
Family
28.5%
Refugee
12.8%
Other
2.6%
Total number of immigrants
262,157 (100%)
Nguồn: The Canadian Immigration System: An Overview

Trong năm 2010, Canada đã phát huy truyền thống nhân đạo của mình thông qua
chương trình đón tiếp 7.265 người tị nạn được chính phủ bảo lãnh và 4.833 người tị nạn
được các cá nhân bảo lãnh - con số này nhiều hơn 63% số người tị nạn được bảo lãnh tư


9
“Five Myths About Immigrants”,
<
[15/12/2012].



20
so với năm 2005.
10
Khu vực Châu Phi và Trung Đông là nơi có số người tị nạn đến
Canada lớn nhất với khoảng 44% tổng số người tị nạn nhập cư vào Canada năm 2010.

Biểu đồ 1.2.2: Tỷ lệ dân nhập cư thường trú tại Canada theo mục đích và nguồn gốc
khu vực, năm 2010

Nguồn: Bộ Quốc tịch và nhập cư Canada, những số liệu và thực tế năm 2010
(Citizenship and Immigration Canada, Facts and Figures 2010)
Thứ hai, về điểm đến của người dân nhập cư có sự khác nhau giữa các tỉnh/ vùng
của Canada, đã thể hiện rõ ràng sự khác biệt trong mức độ thu hút người nhập cư của mỗi
vùng với các chính sách riêng. Các thành phố lớn như Toronto, Montreal và Vancouver
được coi là những thanh nam châm thu hút những người dân nhập cư mới đến bởi họ


10

“Canada chào đón lượng người nhập cư hợp pháp lớn nhất trong vòng 50 năm qua,trong khi
vẫn duy trì tính toàn vẹn của hệ thống nhập cư”, Immigration.vn<
/>hop-phap-lon-nhat-trong-vong-50-nam-qua-trong-khi-van-duy-tri-tinh-toan-ven-cua-he-thong-
nhap-cu/>; [15/12/2012].


21
được hưởng nhiều chính sách ưu đãi, hơn nữa những nơi này có một hệ thống cơ sở vật
chất hạ tầng hiện đại, các dịch vụ công cộng, dịch vụ giáo dục, nhà ở… được đáp ứng
đầy đủ và phục vụ một cách hiệu quả nhất. Theo cuộc điều tra dân số đô thị (census
metropolitan areas –CMAs),bao gồm Toronto, Montreal và Vancouver, số người nhập cư
chiếm 45.7 % dân số của Toronto, 39.6% của Vancouver và 20.6% của Montreal. Trong
cả ba cuộc điều tra, những người mới đến cho biết họ lựa chọn những địa điểm này là vì
gia dình và bạn bè của họ sống ở đó. Yếu tố quan trọng thứ hai để lựa chọn Toronto là
những cơ hội việc làm, để lựa chọn Montreal là do ngôn ngữ, lựa chọn Vancouver là do
điều kiện khí hậu.
11

Biểu đồ 1.2.3: Tỷ lệ dân nhập cư trong tổng dân số quốc gia và CMA

Nguồn: Statistics Canada, Census of Population; Canadian Chamber of Commerce
Tóm lại, nhập cư là vấn đề hết sức quan trọng bởi nó ảnh hưởng đến sự phát triển
và thịnh vượng của không ít các quốc gia, trong đó có Canada. Trên tất cả, những nỗ lực


11
“Immigration: The Changing Face of Canada Policy Brief”, The Canadian Chamber of
Commerce<
[15/12/2012].



22
điều chỉnh chính sách cần phải được tăng cường hơn nữa để bảo vệ tính toàn vẹn và duy
trì tính ổn định của hệ thống nhập cư Canada một cách có hiệu quả nhất đáp ứng nhu cầu
phát triển của đất nước.
1.3. Nguyên nhân của tình trạng nhập cư vào Canada
Có nhiều nguyên nhân dẫn khiến Canada trở thành một trong những quốc gia thu hút
người nhập cư nhất trên thế giới.
1.3.1 Chính sách nhập cư
Từ năm 1967, lần đầu tiên trong chính sách nhập cư của thế giới, Canada dùng chế
độ cho điểm chọn người nhập cư. Từ đó chính sách nhập cư của Canada trở thành chính
sách có hiệu quả nhất thế giới được nhiều nước học tập. Điều đó cho thấy sự ưu việt của
chính sách nhập cư của Canada, vừa hạn chế được nguồn nhập cư bất hợp pháp, vừa thu
hút được nguồn dân cư chất lượng cao đến nhập cư.
Dân nhập cư đã đóng góp một phần quan trọng vào sự phát triển và nền văn hóa
của quốc gia này. Với nền dân số già và tỉ lệ sinh thấp, Canada phải dựa vào nhập cư để
phát triển lực lượng lao động. Dân nhập cư chiếm hơn 70% lượng tăng trưởng lực lượng
lao động và khoảng 20% dân số Canada. Đây là nguyên nhân chính khiến chính phủ
Canada vẫn chưa có ý định giảm hạn mức nhập cư mà còn có nhiều chính sách để thu hút
những người dân nhập cư giàu có và nguồn nhân lực chất lượng cao đến định cư.
Các chính sách cụ thể sẽ được đề cập rõ hơn ở phần sau.
1.3.2 Điều kiện tự nhiên
Đất nước Canada có lãnh thổ tự nhiên gần 10 triệu km
2
, nhưng mật độ dân số chỉ
khoảng 3,41 người/km
2
, là một trong những quốc gia có mật độ dân số thấp nhất trên thế
giới. Về mặt khí hậu, khu vực phía bắc Canada thuộc vùng đông địa đới với khí hậu rất
lạnh; địa đới dài và hẹp của phía nam thì thế đất lại bằng phẳng, khí hậu ôn hòa, tạo ra

thổ nhưỡng màu mỡ, sản vật phong phú, là khu vực tinh hoa của Canada, dân số đông
đúc, tập trung nhiều các loại ngành sản xuất. Với nguồn thiên nhiên phong phú, có nhiều


23
loại khoáng sản có trữ lượng đứng thứ đầu thế giới, giá tiền điện, gas rẻ, hơn nữa có
nhiều nhân tài chuyên nghiệp ưu tú đã cung cấp những điều kiện cơ bản để Canada trở
thành đất nước công nghiệp phát triển cao.
1.3.3 Điều kiện kinh tế
Canada có Tổng thu nhập quốc nội (GDP) ước tính 1.391 tỷ đô là Mỹ thu và thu
nhập bình quân trên đầu người khoảng 40,500 nghìn đô la Mỹ (năm 2011). Điều đó cho
thấy sự phát triển của nền kinh tế Canada . Vì thế, người ta nhập cư đến đây với hy vọng
sử dụng những kỹ năng và khả năng của mình với hy vọng đạt được một cuộc sống tốt
hơn cho bản thân và gia đình. Người dân chủ yếu nhập cư vào Canada để tìm kiếm cơ hội
làm việc và học tập (gần 80% - năm 2010).
Năm 1989, Canada và Mỹ ký kết và thực hiện hiệp định mậu dịch tự do, hiệp định
này thúc đẩy hoạt động mậu dịch của Canada với Mỹ, khiến các nhân sĩ công thương
Canada thuận tiện trong việc ra vào Mỹ để triển khai nghiệp vụ. Do vậy, Canada càng trở
thành một nước miễn thuế mà các nhân sĩ thương gia tranh nhau đầu tư. Đây còn là một
địa điểm kinh doanh lợi nhuận có khả quan và cũng là một trung tâm thương mại của thế
giới.
Hơn nữa, những chính sách thu hút nguồn vốn từ những người nhập cư như
Chương trình di dân thương mại đặc biệt để đón chào các chủ Doanh Nhân trên khắp thế
giới càng khiến Canada trở thành điểm đến hấp dẫn cho những người giàu có.
1.3.4 Điều kiện văn hóa – giáo dục
Năm 1971, Canada là nước đầu tiên trên thế giới có chính sách đa văn hóa. Nền
văn hóa đó càng trở nên phong phú thêm bởi làn sóng nhập cư của những người nhập cư
từ khắp mọi nơi trên thế giới. Canada công nhận và đánh giá cao sự đa dạng về chủng tộc
trong xã hội: có hơn 200 dân tộc cùng chung sống tại Canada; hơn 40 nền văn hóa được
đại diện trong nền báo chí các dân tộc thiểu số của Canada; dân nhập cư hiện nay chiếm

hơn 50% sự phát triển dân số Canada.


24
Luật đa văn hóa Canada ủng hộ sự hòa nhập đầy đủ và công bằng của người dân
thuộc mọi nguồn gốc vào xã hội Canada cũng như sự giao thoa giữa các cá nhân và cộng
đồng khác nguồn gốc.
Thông qua vấn đề đa văn hóa, Canada đã công nhận tiềm năng của mọi công dân
Canada, khuyến khích họ hòa nhập vào xã hội cũng như chủ động đóng góp vào các hoạt
động văn hóa xã hội, kinh tế chính trị tại địa phương.
Giáo dục ở Canada được chính phủ tài trợ nên chi phí học tập tương đối rẻ so với
các nước khác như Anh, Mỹ và Úc. Năm 2012, bảng xếp hạng 48 quốc gia do Universitas
tổ chức đánh giá dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau để tạo nên một hệ thống giáo dục
“tốt”, Canada xếp thứ 3 trong bảng xếp hạng quốc tế mới về các hệ thống giáo dục sau
đại học. Và theo một nghiên cứu khác của Council of Canadian Academies cũng vào năm
2012, Canada đứng thứ 4 thế giới về nghiên cứu khoa học.
1.3.5 Điều kiện xã hội
Chỉ số phát triển con người (HDI) của Canada đạt mức rất cao 0.908 đứng thứ 6
thế giới (năm 2011). Đó là nhờ sự phát triển toàn diện về mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ,
tuổi thọ… của con người Canada. Đây cũng là một nhân tố quan trọng thu hút người dân
nhập cư vào quốc gia này.
Người dân Canada nói chung và người dân nhập cư nói riêng được hưởng rất
nhiều những chính sách phúc lợi xã hội. Canada là một quốc gia rất coi trọng chế độ phúc
lợi xã hội, hàng năm đều lập kế hoạch một khoản tiền dự toán trợ giúp phúc lợi lớn, giáo
dục trưởng thành từ khi còn nhỏ, lập gia đình, lập nghiệp của trung niên cho tới tuổi già,
chính phủ đều có chế độ phúc lợi hoàn thiện và quan tâm chu đáo tới người thất nghiệp,
người tàn tật và người yếu thế. Có thể kể đến như Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp,
Tiền lương hưu (Phúc lợi của người già), Tiền phúc lợi nhi đồng và các chế độ phúc lợi
khác



25
Thêm vào đó, dân chúng Canada ủng hộ chính sách nhập cư của nhà nước. Do
vậy, những người mới nhập cư đến sẽ không phải chịu sự kì thị của người bản địa, dễ
dàng hòa nhập vào cuộc sống mới hơn.
1.4. Chính sách của Canada về nhập cư
Các cơ quan phụ trách vấn đề nhập cư ở Canada bao gồm: Bộ Quốc tịch và Nhập
cư Canada ( Citizenship and Immigration Canada), Hội đồng Nhập cư và Tị nạn (The
Immigration and Refugee Board), Cơ quan Dịch vụ Biên giới Canada (Canadian Border
Services Agency).
Có hiệu lực vào ngày 28/06/2002, Luật Nhập cư và bảo vệ dân tị nạn đã thay thế
Luật Nhập cư năm 1976. Trên cơ sở đó, các chính sách nhập cư của Canada đã được xây
dựng nhằm đáp ứng ngày một tốt hơn nguyện vọng của dân chúng. Bộ luật này là khung
pháp lý hướng dẫn cho hệ thống nhập cư Canada, đề ra các mục tiêu chính như: Hỗ trợ
phát triển nền kinh tế Canada mạnh mẽ và thịnh vượng, trong đó lợi ích từ việc nhập cư
sẽ được phân bố trên tất cả các khu vực ở Canada; hỗ trợ các gia đình đoàn tụ; hỗ trợ cho
những người tị nạn và khẳng định cam kết của Canada cho các nỗ lực quốc tế để tăng
cường sự trợ giúp cho những người có nhu cầu tái định cư; đồng thời tăng cường bảo vệ
an toàn và an ninh cho những người nhập cư. Cũng theo Luật này, mỗi năm sẽ được nhập
cư thêm 1% cư dân hiện tại của Canada, tuy hủy bỏ những nghề được ưu tiên nhập cư
nhưng vẫn đặc biệt quan tâm đến trình độ học vấn của dân nhập cư, nâng cao yêu cầu
thông thạo tiếng Anh và tiếng Pháp. Theo điều 94 của Luật, hàng năm Bộ trưởng Bộ
Quốc tịch và Nhập cư Canada (CIC) phải báo cáo trước Quốc hội về hoạt động xuất nhập
cảnh và đưa ra các sáng kiến cho hoạt động này. Báo cáo tập trung vào việc thống kê
dòng người nhập cư thường trú và tạm trú trong năm trước đó. Đồng thời báo cáo cũng
phân tích về tác động của Luật này và dự kiến cho hoạt động nhập cư năm tiếp theo.
12




12
“Báo cáo thường niên trình Quốc hội Canada về vấn đề Nhập cư”, Citizenship and
Immigration Canada<
[15/12/2012].

×