LỜI MỞ ĐẦU
Đối với các nước đang phát triển, vốn có vai trò đặc biệt quan trọng và cần thiết
để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội khác. Xuất phát từ nhu cầu thực tế đó,
viện trợ ODA ra đời nhằm giúp các nước nghèo giải quyết tình trạng thiếu vốn.
Nguồn vốn này chủ yếu được đầu tư vào những lĩnh vực giữ vai trò đầu tàu của
nền kinh tế, từ đó kéo theo sự phát triển mạnh của các ngành khác. Trên thực tế
vai trò của ODA hết sức quan trọng. Có thể minh chứng điều đó qua thực tế ở
Châu Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhờ vào nguồn vốn viện trợ của Mỹ
mà EU đạt được sự tăng trưởng ngoạn mục, trở về thời thịnh vượng như trước
chiến tranh, thậm chí còn phát triển hơn trước. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng là
hai nước nhận được nhiều viện trợ của Mỹ. Kết quả sau một thời gian nhất định,
Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế sau Mỹ; còn Hàn Quốc cũng vươn lên
thuộc nhóm các nước công nghiệp mới – NICs.
Trong quá trình đổi mới, tình trạng thiếu vốn cho phát triển đã được giải quyết
một phần đáng kể khi Việt Nam bắt đầu nhận viện trợ ODA từ năm 1993. Đây
là nguồn vốn bổ sung quan trọng: trung bình đóng góp 11% tổng vốn đầu tư cho
toàn xã hội, trong giai đoạn 2006-2010. Các nước và vùng lãnh thổ như Trung
Quốc, Đài Loan nhờ vào nguồn vốn ODA và việc sử dụng có hiệu quả nguồn
vốn này đã tạo ra một nền kinh tế phát triển cao và ngày nay bắt đầu trở thành
nước cung cấp viện trợ cho các nước khác. Ngoài ra, viện trợ ODA cũng đóng
góp một phần tỷ lệ đáng kể vào tăng trưởng GDP của các nước đang phát triển,
bình quân 1-2%/năm.
Như vậy, có thể thấy viện trợ ODA sẽ giúp giải quyết phần nào “cơn khát vốn”
này và mang lại luồng sinh khí mới cho các nước đang phát triển và sẽ làm
“thay da đổi thịt” cho nhiều nền kinh tế nếu ODA được sử dụng một cách hiệu
1
1
quả. Ngày nay vốn ODA có xu hướng ngày càng phát triển và mở rộng về quy
mô .
CHƯƠNG I – TỔNG QUAN VỀ ODA
1. Khái niệm ODA
Theo Bách khoa toàn thư điện tử wikipedia.org:
“ODA là viết tắt của cụm từ Official Development Assistance: nghĩa là Hỗ trợ
phát triển chính thức, là một hình thức đầu tư nước ngoài.
− Hỗ trợ: bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không
lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài
− Phát triển: vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển
kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư
− Chính thức: vì nó thường là cho Nhà nước vay.”
Theo Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, ban
hành kèm theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006:
“ODA là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính Phủ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Nhà tài trợ là Chính phủ nước ngoài,
các tổ chức tài trợ song phương và các tổ chức liên quốc gia hoặc liên chính
phủ.”
Như vậy, về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần thu nhập quốc gia từ
các nước phát triển sang các nước đang và chậm phát triển. Mục tiêu chính là
giúp các nước kém và đang phát triển đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao
phúc lợi xã hội.
2. Phân loại ODA
2.1. Theo phương thức hoàn trả
− Viện trợ không hoàn lại (1)
2
2
Bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận không phải hoàn lại) để bên
nhận thực hiện các chương trình, dự án theo sự thoả thuận trước giữa các
bên.
Viện trợ không hoàn lại thường được thực hiện dưới các dạng:
• Hỗ trợ kỹ thuật.
• Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
− Viện trợ có hoàn lại (2)
Nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền (tuỳ theo một quy mô và
mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời gian trả nợ thích hợp.
Những điều kiện ưu đãi thường là:
• Lãi suất thấp (tuỳ thuộc vào mục tiêu vay và nước vay).
• Thời hạn vay nợ dài (từ 20 - 30 năm)
• Có thời gian ân hạn (từ 10 - 12 năm)
− ODA cho vay hỗn hợp (3)
Là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không hoàn lại và một phần
tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ chức Hợp tác kinh tế và
phát triển.
2.2. Theo nguồn cung ODA
− ODA song phương (1) là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến
nước kia thông qua hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ.
− ODA đa phương (2) là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF,
WB ) hay tổ chức khu vực (ADB, EU, ) hoặc của một Chính phủ của
một nước dành cho Chính phủ của một nước nào đó, nhưng có thể được
thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như UNDP (Chương trình
phát triển Liên hiệp quốc), UNICEF (quĩ nhi đồng Liên Hiệp quốc)
2.3. Theo mục tiêu sử dụng
− Hỗ trợ cán cân thanh toán (1): Gồm các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ
ngân sách của Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng:
• Chuyển giao trực tiếp cho nước nhận ODA
• Hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hoá)
− Tín dụng thương nghiệp (2): Tương tự như viện trợ hàng hoá nhưng có
kèm theo điều kiện ràng buộc.
3
3
• Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án): Nước viện trợ và nước
nhận viện trợ kế hiệp định cho một mục đích tổng quát mà không cần
xác định tính chính xác khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào.
• Viện trợ dự án: Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện
ODA. Điều kiện được nhận viện trợ dự án là "phải có dự án cụ thể, chi
tiết về các hạng mục sẽ sử dụng ODA"
3. Đặc điểm của ODA
Một khoản tài trợ được coi là ODA nếu đáp ứng đầy đủ 3 điều kiện sau:
- Được các tổ chức chính thức hoặc đại diện các tổ chức chính thức cung cấp
Tổ chức chính thức bao gồm các nhà nước mà đại diện là Chính phủ, các tổ
chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia, và các tổ chức phi chính phủ hoạt động
không vì mục tiêu lợi nhuận. Gắn với nguồn cung cấp, người ta chia ODA thành
hai dạng, ODA song phương và ODA đa phương:
• ODA song phương: Chủ yếu do các nước là thành viên của DAC cung
cấp. Hiện nay Uỷ ban này có 22 quốc gia, hàng năm viện trợ một lượng
ODA chiếm tỷ trọng khoảng 85% của toàn thế giới. Năm 2006, các nước
DAC viện trợ 103 tỷ USD và năm 2007: 102 tỷ USD. Dự kiến trong ngắn
hạn và trung hạn, lượng ODA do các quốc gia này cung cấp tiếp tục tăng.
• ODA đa phương: Do các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, Liên
minh châu Âu, các Tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB, Ngân
hàng phát triển châu Phi, Quỹ viện trợ của OPEC, Quỹ Cô oét và các Tổ
chức phi chính phủ cung cấp.
- Mục tiêu chính là giúp các nước đang phát triển phát triển kinh tế, nâng
cao phúc lợi xã hội
Các lĩnh vực được ưu tiên sử dụng vốn ODA bao gồm: Xoá đói, giảm nghèo,
nông nghiệp và phát triển nông thôn; cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật như giao
4
4
thông vận tải, thông tin liên lạc, năng lượng; cơ sở hạ tầng xã hội như giáo dục,
y tế, bảo vệ môi trường; các vấn đề xã hội như tạo việc làm, phòng chống dịch
bệnh, phòng chống các tệ nạn xã hội; cải cách hành chính, tư pháp, tăng cường
năng lực của cơ quan quản lý nhà nước, cải cách thể chế…
- Thành tố hỗ trợ (Grant element - GE) phải đạt ít nhất 25%
Thành tố hỗ trợ, còn được gọi là yếu tố không hoàn lại là một chỉ số biểu hiện
tính “ưu đãi” của ODA so với các khoản vay thương mại theo điều kiện thị
trường. Thành tố hỗ trợ càng cao càng thuận lợi cho nước tiếp nhận. Chỉ tiêu
này được xác định dựa trên tổ hợp các yếu tố đầu vào: Lãi suất, thời gian ân hạn,
thời hạn cho vay, số lần trả nợ trong năm, và tỷ lệ chiết khấu.
Công thức xác định như sau:
%100).
)(
)1(
1
)1(
1
1).(
/
1(
aGaMd
dd
d
ar
GE
aMaG
−
+
−
+
−−=
Trong đó:
• GE: Yếu tố không hoàn lại.
• r: Tỷ lệ lãi suất hàng năm.
• a: Số lần trả nợ trong năm (theo điều kiện của bên tài trợ).
• d: Tỷ lệ chiết khấu của mỗi kỳ:
• d’: Tỷ lệ chiết khấu của cả năm (theo thông báo của OECD hoặc các thoả
thuận của bên tài trợ).
• G: thời gian ân hạn.
• M: Thời hạn cho vay.
CHƯƠNG II – SỰ BIẾN ĐỘNG VÀ
XU HƯỚNG ODA TRÊN THẾ GIỚI
Viện trợ ODA trên thế giới chủ yếu do các nước thuộc tổ chức OECD và các
định chế tài chính quốc tế như WB, IMF tiến hành.
5
5
Hiện nay, có 22 quốc gia thuộc tổ chức OECD cam kết thường xuyên cung cấp
ODA (còn được gọi là các nước OECD/DAC), đó là: Áo, Australia, Bỉ, Canada,
Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ai-len, Italia, Nhật Bản, Lúc-xăm-
bua, Hà Lan, Niu Di-lân, Na Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Thuỵ
Sĩ, Anh và Mỹ. Vốn ODA do các quốc gia này cung cấp được gọi là ODA song
phương và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng vốn ODA của thế giới.
Bên cạnh các nước OECD/DAC là nhà tài trợ song phương chính, các quốc gia
OECD không thuộc nhóm DAC (Cộng hoà Séc, Hungari, Ai-xơ-len, Hàn Quốc,
Ba Lan, Cộng hoà Slôvakia, Thổ Nhĩ Kỳ) và các nước đang phát triển có trình
độ phát triển cao (Cô-oét, Ả Rập Xê-út, Đài Loan…) cũng tiến hành viện trợ
ODA.
Bên cạnh các hoạt động tài trợ song phương, các định chế tài chính quốc tế và
các tổ chức quốc tế, như các cơ quan của liên hợp quốc, Ngân hàng thế giới,
Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Phát triển châu Á, Ngân hàng Phát triển châu
Phi, Ngân hàng Phát triển liên châu Mỹ,… tiến hành các khoản tài trợ ODA đa
phương.
Tuy nhiên, trong phạm vi phần này, người viết chỉ đề cập ODA song phương và
đa phương cung cấp bởi các nước DAC.
1. Sự biến động chung về quy mô ODA qua các năm
1.1. ODA song phương (Bilateral ODA)
Biểu đồ 1:
Nguồn: OECD, />6
6
Từ Biểu đồ 1, chúng ta có thể thấy được sự biến động của xu hướng ODA song
phương trong suốt 50 năm từ 1960-2010.
− Từ năm 1960-1990, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ các nước DAC
cho các nước đang phát triển tăng tương đối đều. Trong khi đó, tỷ lệ phần
trăm ODA trong thu nhập quốc dân (GNI) của các nước DAC - một mục
tiêu để đánh giá nguồn tài trợ - đã giảm trong giai đoạn từ năm 1960-
1970, và sau đó dao động từ 0,27% và 0,36% trong gần 20 năm.
− Từ những năm 1990, ODA giảm cả về giá trị thực và giá trị danh nghĩa do
những ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đầu
những năm 1990 tác động vào nền kinh tế thế giới. Trong khoảng thời
gian từ năm 1993-1997, dòng ODA giảm 16%. Trong khi đó, phần trăm
ODA trong GNP đã giảm mạnh từ 0,33% (1992) xuống mức thấp kỷ lục
0,22% (1997).
− Viện trợ thực tế sau đó bắt đầu tăng nhanh trong giai đoạn 1997-2005, sau
đó giảm xuống trong năm 2006 và 2007.
− Dựa vào biểu đồ trên, ODA ròng tăng 59 tỷ USD năm 1997 lên 107,1 tỷ
USD vào năm 2005. Tỷ lệ ODA trên GNI của các nước tài trợ đã tăng lên
0,33% so với mức 0,26% năm 2004 và đạt mức cao nhất kể từ năm 1992.
Tuy nhiên, sau khi đạt đỉnh điểm vào năm 2005, ODA ròng đã giảm
xuống còn 104,4 tỷ USD vào năm 2006 và tiếp tục giảm xuống 103,7 tỷ
USD năm 2007. Xét về tỷ trọng, ODA giảm 4,5% trong năm 2006 và
giảm 8,4% trong năm 2007. Sự sụt giảm này chủ yếu là do sự kết thúc
thời gian dài gia tăng viện trợ nợ từ năm 2002.
− Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm gần đây, dòng ODA tiếp
tục tăng từ năm 2008. Dòng ODA đạt mức cao nhất 128,7 tỷ USD năm
7
7
2010 tăng 6,5% so với năm 2009. Đây là mức ODA thực tế đạt kỷ lục từ
trước tới nay, vượt cả khối lượng ODA cung cấp trong năm 2005 khi mức
viện trợ nợ tăng bất thường. Tỷ lệ ODA ròng trong tổng thu nhập quốc
dân (GNI) đạt 0,32%, tương đương năm 2005 và cao nhất trong các năm
từ 1992 tới nay. Tuy nhiên sự gia tăng này còn cách xa so với mục tiêu
0.7% vào năm 2015.
Dự báo khối lượng viện trợ trong những năm tới
Dựa vào việc khảo sát các kế hoạch chi tiêu sắp tới của các nhà tài trợ, OECD
dự báo khối lượng viện trợ theo chương trình quốc gia (CPA) toàn cầu sẽ tăng
thực với tốc độ 2% từ năm 2011-2013, so với tốc độ tăng trung bình 8% trong
ba năm qua. Riêng đối với viện trợ song phương của các nước thuộc DAC, tốc
độ tăng được dự báo sẽ thấp hơn, ở mức 1,3% mỗi năm. Mức giảm mạnh nhất là
CPA dành cho châu Phi, được dự báo tăng với tốc độ trung bình hàng năm là
1% trong giai đoạn 2011-2013 so với tốc độ tăng 13% hàng năm trong ba năm
trước.
1.2. ODA đa phương (Multilateral ODA)
Biểu đổ 2:
8
8
Nguồn: 2010 DAC Report on Multilateral Aid
Biểu đồ 3:
Đơn vị: Tỷ USD
Nguồn: OECD, 2010 DAC Report on Multilateral Aid
9
9
Biểu đồ trên cho chúng ta thấy tổng ODA cung cấp bởi các nước thành viên
DAC trong 2 thập kỷ qua. Trong khi ODA song phương sụt giảm trong giai
đoạn 1991-1997 thì ODA đa phương khá ổn định. Trong vòng 20 năm, ODA đa
phương đã tăng thêm khoảng 50%, từ 23 tỷ USD năm 1989 lên 35 tỷ USD năm
2008 (xét theo giá cả và tỷ giá năm 2008).
Năm 2008, tỷ lệ ODA đa phương chiếm 28% tổng ODA. Trong suốt giai đoạn,
tỷ lệ ODA đa phương trong tổng giá trị ODA tương đối ổn định, dao động trong
khoảng từ 27% - 33%, không kể đến cứu trợ nợ. Tuy nhiên, tỷ lệ viện trợ từ các
nước thành viên DAC chuyển thông qua hệ thống đa phương rất khác nhau. Nếu
không xét đến sự đóng góp của EU (thực tế tăng nhanh hơn các thành phần còn
lại của ODA đa phương), tỷ lệ ODA đa phương giảm nhẹ trong 20 năm qua, từ
22% năm 1989 xuống còn 20% năm 2008.
2. Cơ cấu ODA
2.1. Cơ cấu ODA theo nước tài trợ
Năm 2010, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) ròng do các thành viên của
Ủy ban Viện trợ Phát triển (DAC) thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD) cung cấp đạt 128,7 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009. Đây là mức
ODA thực tế đạt kỷ lục từ trước tới nay, vượt cả khối lượng ODA cung cấp
trong năm 2005 khi mức viện trợ xóa nợ tăng bất thường. Tỷ lệ ODA ròng trong
tổng thu nhập quốc dân (GNI) đạt 0,32%, tương đương năm 2005 và cao nhất
trong các năm từ 1992 tới nay.
Biểu đồ 4:
Đơn vị: Tỷ USD
-Tổng ODA ròng 2009: 119,78 tỷ USD
-Tổng ODA ròng 2010: 128,73 tỷ USD
Nguồn: & />10
10
Năm 2010, nước cung cấp ODA lớn nhất bao gồm Mỹ, Anh, Pháp, Đức và Nhật
Bản. Các quốc gia Đan Mạch, Lúcxămbua, Hà Lan, Na Uy và Thụy Điển tiếp
tục vượt mục tiêu của Liên hiệp quốc về cung cấp ODA là 0,7% GNI. Các nước
có mức tăng ODA thực tế lớn nhất trong năm 2010 so với năm 2009 là
Australia, Bỉ, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Bồ Đào Nha và Anh.
Bảng 1:
TỶ LỆ ODA/GNI CỦA CÁC NƯỚC TÀI TRỢ LÀ THÀNH VIÊN DAC
NĂM 2009-2010
Nước
ODA/GNI (%)
Nước
ODA/GNI (%)
2009 2010 2009 2010
Australia 0,29 0,32 Hàn Quốc 0,1 0,12
Áo 0,3 0,32 Luxembourg 1,04 1,09
Bỉ 0,55 0,64 Hà Lan 0,82 0,81
Canada 0,3 0,33 Niu Di lân 0,28 0,26
Đan Mạch 0,88 0,9 Na Uy 1,06 1,1
Phần Lan 0,54 0,55 Bồ Đào Nha 0,23 0,29
Pháp 0,47 0,5 Tây Ban Nha 0,46 0,43
Đức 0,35 0,38 Thụy Điển 1,12 0,97
Hi Lạp 0,19 0,17 Thụy Sĩ 0,45 0,41
Ai Len 0,54 0,53 Anh 0,52 0,56
Italy 0,16 0,15 Mỹ 0,21 0,21
Nhật 0,18 0,2
Nguồn: & />Mỹ tiếp tục trở thành nước tài trợ lớn nhất với mức giải ngân ODA ròng đạt 30,2
tỉ USD, tăng 3,5% so với năm 2009. Đây là mức ODA thực lớn nhất mà một
nước cung cấp từ trước tới nay, trừ năm 2005 khi viện trợ xóa nợ của Mỹ cho
Irắc tăng cao bất thường. Tỷ lệ ODA/GNI mà Mỹ cung cấp vẫn không đổi và
duy trì ở mức 0,21%. ODA song phương của Mỹ dành cho các nước kém phát
triển (LDCs) tăng lên mức kỷ lục 9,4 tỉ USD, tăng 16,2% so với năm trước.
Phần lớn mức tăng này là do Mỹ tăng cường cứu trợ cho Haiti khi nước này chịu
11
11
sự tàn phá của trận động đất xảy ra vào năm 2010 (viện trợ cho Haiti tăng 241%
lên 1,1 tỉ USD năm 2010). Trong số các nước ngoài LDCs, viện trợ cho
Pakixtan tăng mạnh nhất (tăng 126% lên 1,4 tỉ USD) do mức giải ngân ở nhiều
lĩnh vực tăng.
ODA cung cấp từ 15 nước EU là thành viên của DAC năm 2010 đạt 70,2 tỉ USD
(tăng 6,7% so với năm 2009), chiếm 54% tổng ODA ròng do DAC cung cấp.
Lượng ODA này cũng chiếm 0,46% GNI của các nước EU thuộc DAC. Tỷ lệ
này cao hơn nhiều so với mức ODA/GNI trung bình của cả khối DAC là 0,32%.
Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức thuộc EU dành cho các nước đang phát
triển và các tổ chức đa phương tăng 0,8% lên 13 tỉ USD.
ODA của Nhật Bản đạt 11 tỉ USD năm 2010, tăng 11,8% so với năm trước. Tỷ
lệ ODA/GNI của Nhật Bản tăng từ 0,18% năm 2009 lên 0,20% năm 2010. Mức
tăng này chủ yếu do viện trợ không hoàn lại song phương dành cho LDCs tăng
và đóng góp lớn cho Ngân hàng thế giới (WB).
Đối chiếu với cam kết năm 2005
Năm 2005, tại Hội nghị thượng đỉnh G8 diễn ra tại Gleneagles, Scotland và các
diễn đàn khác, các nước tài trợ đã có những cam kết cụ thể về việc tăng lượng
vốn ODA, theo đó ODA do các nước DAC cung cấp sẽ tăng từ khoảng 80 tỉ
USD lên gần 130 tỉ USD (tính theo giá cố định năm 2004).
Năm 2005, 15 nước EU thuộc DAC cũng đã cam kết đạt mục tiêu ODA cung
cấp là 0,51% GNI vào năm 2010. Cho đến nay, những nước đã vượt qua mục
tiêu cam kết gồm: Bỉ (0,64%), Đan Mạch (0,90%), Phần Lan (0,55%), Ailen
(0,53%), Lúcxămbua (1,09%), Hà Lan (0,81%), Thụy Điển (0,97%) và Anh
(0,56%). Pháp gần đạt mục tiêu cam kết với tỷ lệ ODA/GNI đạt 0,50%. Trong
khi đó, các nước không đạt được mục tiêu cam kết gồm Áo (0,32%), Đức
12
12
(0,38%), Hy Lạp (0,17%), Italia (0,15%), Bồ Đào Nha (0,29%) và Tây Ban Nha
(0,43%).
Những nước thành viên DAC khác cũng đã đạt được nhiều mục tiêu cam kết về
viện trợ. Mỹ đã cam kết tăng gấp đôi viện trợ cho khu vực Cận Xahara châu Phi
trong giai đoạn 2004-2010 và đã đạt được mục tiêu này vào năm 2009, sớm một
năm so với cam kết. Canađa đã cam kết tăng gấp đối Quỹ viện trợ quốc tế so với
năm 2001 và cũng đạt được mục tiêu này. Na Uy đã vượt được mục tiêu cam kết
duy trì tỷ lệ ODA/GNI ở mức 1%, và Thụy Sĩ cũng đạt mục tiêu cam kết về tỷ lệ
ODA/GDN ở mức 0,41%.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh G8 tại Gleneagles năm 2005, Nhật Bản đã cam kết
tăng viện trợ trong giai đoạn từ 2005-2009 và cũng đã đạt được mục tiêu này
theo báo cáo năm ngoái. ODA năm 2010 của Nhật Bản cũng tăng mạnh. Niu
Dilân đặt mục tiêu tăng vốn ODA lên 600 triệu đôla Niu Dilân vào năm 2012-
2013 và có nhiều khả năng đạt được mục tiêu này.
Năm 2005, Hàn Quốc chưa phải là thành viên của DAC và không đưa ra cam
kết về tăng vốn ODA. Tuy nhiên, từ năm 2005, viện trợ của Hàn Quốc đã tăng
lên với mức tăng thực là 56%.
Tại Hội nghị thượng đỉnh G8 tại Gleneagles, các nước tài trợ cũng dự tính tăng
tổng ODA cho châu Phi thêm 25 tỉ USD. Tuy nhiên, những ước tính sơ bộ cho
thấy châu Phi chỉ nhận được thêm 11 tỉ USD. Nguyên nhân chính dẫn đến tình
trạng này là do một số nước cung cấp phần lớn viện trợ của mình cho châu Phi
đạt kết quả yếu kém.
Để đảm bảo các mục tiêu và cam kết viện trợ trong tương lai trở nên rõ ràng,
hiện thực và khả thi hơn, gần đây DAC đã phê chuẩn một bản Khuyến nghị về
Thông lệ cam kết tốt. Bản Khuyến nghị này được đưa ra nhằm giúp tất cả các
13
13
nước tài trợ cải thiện việc thực hiện cam kết của mình và nâng cao tính minh
bạch và trách nhiệm giải trình.
2.2. Cơ cấu ODA theo nước nhận tài trợ
Đối tượng nhận ODA là chính phủ các nước đang và kém phát triển. Chính phủ
đứng ra tiếp nhận ODA, nhận nợ với các nhà tài trợ như một khoản nợ quốc gia
và là người chịu trách nhiệm với các khoản nợ này. ODA được tính vào thu
ngân sách, do đó việc sử dụng nguồn ODA cho một dự án cụ thể sẽ được coi là
việc sử dụng vốn ngân sách.
Theo báo cáo mới nhất của OECD, trong số 163 quốc gia và vùng lãnh thổ tiếp
nhận vốn ODA:
Bảng 2:
TOP 20 NƯỚC NHẬN ODA NHIỀU NHẤT THẾ GIỚI NĂM 2009
Quốc gia ODA Quốc gia ODA
1.Afghanistan 6,1 11.Sudan 2,3
2.Ethiopia 3,8 12.Mozambique 2
3.Việt Nam 3,7 13.Uganda 1,8
4.Palestin 3 14.Kenya 1,8
5.Tanzania 2,9 15.Nigeria 1,7
6.Iraq 2,8 16.Ghana 1,6
7.Pakistan 2,7 17.Thổ Nhĩ Kỳ 1,4
8.India 2,4 18.Zambia 1,3
9.Bờ Biển Ngà 2,4 19.Bangladesh 1,2
10.Congo 2,3 20.Trung Quốc 1,1
Đơn vị: Tỷ USD
Nguồn: OECD, />Theo bảng số liệu. Afghanistan chính là nước nhận được nhiều ODA nhất (6,1
triệu USD), theo sau là Ethiopia (3,8 triệu USD) và Việt Nam (3,74 triệu USD).
So với năm 2008, lượng vốn ODA dành cho Afghanistan đã tăng rất mạnh,
25%, nó chủ yếu đến từ Mỹ và Nhật. Ngoài mục đích hỗ trợ cho quá trình tái
thiết đất nước tại Afghanistan, Mỹ và Nhật đều muốn khẳng định tầm ảnh hưởng
14
14
của mình tại đây bởi họ biết rằng, Afghanistan vẫn luôn là tâm điểm của các
cuộc chiến tranh có sự tham gia của Mỹ và cũng là nước nắm giữ trữ lượng dầu
mỏ rất lớn.
Trong Top 20 nước nhận ODA nhiều nhất trên thế giới, có tới hơn một nửa
trong số này là các nước đến từ châu Phi. Mục đích chính các nước này sử dụng
ODA, đó là tập trung vào chương trình xóa đói giảm nghèo. Với nguồn viện trờ
từ nhiều nhà tài trợ, đặc biệt là World Bank, tỷ lệ đói nghèo tại các nước này
giảm từ 56% năm 1992 xuống còn 35% năm 2000. Đồng thời, tốc độ tăng
trưởng GDP cũng tăng từ 3,1% (1990) lên 7,2% (2000).
Trung Quốc cũng là một trong những nước thu hút và sử dụng ODA hiệu quả.
Trong vòng 20 năm, đất nước này đã huy động mọi nguồn lực, quyết tâm xóa
đói giảm nghèo. Kết quả, tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm từ 34% (1985) xuống
còn 18% (1998).
Những năm qua, Việt Nam cũng đã đạt đước những bước tiến đáng kể trong
việc thu hút ODA. Tỷ lệ hộ nghèo tại Việt Nam giảm mạnh, từ 58% (1993)
xuống còn 14,8% (2007). Nền kinh tế Việt Nam cũng có những bước tiến mạnh
mẽ, từ một nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị
trường tự do cạnh tranh. Mặc dù vẫn còn đó những bất cập, song với những nỗ
lực của mình, Việt Nam vẫn tạo được niềm tin lớn đối với các nhà tài trợ ODA
lớn. Các khoản cam kết viện trợ dành cho nước ta vẫn có xu hướng tăng đều đặn
hằng năm.
Trong số 163 nước tiếp nhận vốn ODA trên thế giới, châu Phi có 56 quốc gia,
châu Mỹ: 38, châu Á: 41, châu Âu: 11 và châu Đại Dương: 17.
Biểu đồ 5:
15
15
Đơn vị: Tỷ USD
Nguồn: />x=2&y=6&f=3:51,4:1,1:1,5:3,7:1&q=3:51+4:1+1:1+5:3+7:1+2:262,240,241,24
2,243,244,245,246,249,248,247,250,251,231+6:2002,2003,2004,2005,2006,200
7,2008,2009
Dựa vào biểu đồ trên, ta có thể thấy quy mô nguồn vốn ODA hỗ trợ cho các
quốc gia đang phát triển trên thế giới có xu hướng tăng mạnh qua từng năm.
Trong 7 năm (2002-2009), tổng vốn ODA đã tăng gấp đôi từ 62 tỷ lên tới 125 tỷ
USD.
Những năm gần đây, vốn ODA song phương và đa phương vẫn được ưu tiên
dành cho châu Phi và châu Á. Viện trợ dành cho châu Phi đạt mức 47 tỉ USD
năm 2009, tăng 7,6% so với năm 2008, trong đó 42,3 tỉ USD được dành cho khu
vực Nam Xahara. Trong khi đó, lượng ODA tại châu Á đạt 38,6 tỷ USD năm
2009, tập trung chủ yếu tại khu vực Nam Trung Á (18,5 tỷ USD) và Trung cận
Đông (10,8 tỷ USD).
Lâu nay, viện trợ vẫn là vấn đề nhức nhối đối với các nước đang và kém phát
triển tại 2 châu lục này. Các chương trình viện trợ phát triển trên thực tế đã
mang lại không ít quyền lợi cho các nhà tài trợ và đôi khi nước nhận viện trợ
còn bị thiệt thòi nếu như không sử dụng một cách hiệu quả các khoản viện trợ
này. Vì đói nghèo, châu Phi buộc phải nhận nhiều viện trợ và cũng phải lệ thuộc
quá nhiều vào sự can thiệp từ bên ngoài.
2.3. Cơ cấu ODA theo lĩnh vực
Biểu đồ 6:
Nguồn: />16
16
Từ biểu đồ trên ta có thể thấy, cơ cấu ODA theo lĩnh vực trong giai đoạn 2005 -
2009 có sự thay đổi theo từng năm.
− Trong đó, cơ cấu ODA các lĩnh vực xác định (sector allocable) bao gồm:
Cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội, kinh tế; lĩnh vực sản xuất và các hoạt
động đa lĩnh vực khác chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu ODA và đang có xu
hướng tăng. Tỉ trọng ODA trong các lĩnh vực này đã tăng từ 59,2% năm
2005 lên 77,14% năm 2009; tức là chiếm tới hơn 75% tổng ODA năm
2009.
• Trong đó, ODA dành cho cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội bao gồm
giáo dục, y tế, dân số, nước sạch, chính quyền và tổ chức xã hội…
chiếm tỉ trọng cao nhất và tiếp tục gia tăng. Trong vòng 5 năm từ
2005-2009, ODA dành cho lĩnh vực này đã tăng 23,53 tỷ USD, tức
tăng 8,83%. Năm 2009, ODA cho cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội
chiếm tới 42,93% tổng ODA thế giới. Các lĩnh vực được chú trọng
trong đó là giáo dục, y tế và viện trợ cho chính quyền và xã hội công
dân.
Biểu đồ 7:
Nguồn: EFA Global monitoring report 2011
Giáo dục: ODA dành cho giáo dục có sự gia tăng trong những
năm gần đây, trong khi đó tỉ trọng ODA dành cho lĩnh vực này
trong tổng viện trợ có sự biến động theo từng năm. Tuy nhiên,
viện trợ dành cho giáo dục cơ bản đang bắt đầu có xu hướng giảm.
Viện trợ giành cho giáo dục đã tăng gần thêm khoảng 50% tức
4,64 tỷ USD từ năm 2005-2009. Trong khi đó, viện trợ dành cho
giáo dục cơ bản tăng chậm hơn rất nhiều, cao nhất vào năm 2008
(3,8 tỷ USD) và sau đó có giảm nhẹ vào năm 2009 (3,58 tỷ USD).
Sự sụt giảm của viện trợ dành cho giáo dục cơ bản trong một năm
không thể coi như dấu hiệu của xu hướng mới, tuy nhiên nó củng
17
17
cố những lo ngại về hỗ trợ phát triển giáo dục: Sự thu hẹp viện trợ
của các nhà tài trợ lớn, khối lượng viện trợ thấp gắn liền với giáo
dục cơ bản và tạo nên khoảng cách viện trợ tài chính. Sự thu hẹp
về các nhà tài trợ được thể hiện bởi, trong các năm 2008-2009,
62% ODA dành cho giáo dục cơ bản đến từ 6 nhà tài trợ lớn nhất
(EC, Hiệp hội phát triển quốc tế IDA, Hà Lan, Na Uy, Anh và
Mỹ).
Y tế: ODA giành cho y tế tăng đều trong giai đoạn từ 2005-2009.
Từ năm 2005-2009, ODA giành cho y tế đã tăng 3,17 tỷ USD. Tỷ
lệ ODA dành cho y tế sau khi giảm xuống 4,71% năm 2007, đã
tăng lên 5,68% năm 2008 và không thay đổi vào năm 2009.
Viện trợ ODA cho y tế chủ yếu dành cho các hoạt động chăm sóc
sức khỏe ở các nước đang và chậm phát triển, cùng với việc hình
thành các quỹ toàn cầu nhằm đẩy lùi bệnh AIDS, lao và sốt rét.
Trong đó, khu vực phía nam sa mạc Sahara là khu vực nhận được
viện trợ lớn nhất, chiếm 40% tổng viện trợ dành cho y tế năm
2009, tiếp đó là châu Á với 29%.
Viện trợ cho chính quyền và xã hội công dân (civil society): Viện
trợ ODA giành cho lĩnh vực này có sự gia tăng rất lớn trong thời
gian gần đây. So với năm 2003, ODA dành cho chính quyền và xã
hội công dân bao gồm cả các hoạt động xung đột, gìn giữ hòa
bình… đã tăng hơn 2 lần và luôn giữ ở mức cao.
• ODA dành cho cơ sở hạ tầng và dịch vụ kinh tế cũng có xu hướng liên
tục tăng trong giai đoạn này. Tỉ trọng ODA cho lĩnh vực này tăng từ
12,63% lên 16,96% trong 5 năm và đứng thứ 2 sau ODA dành cho cơ
sở hạ tầng và dịch vụ xã hội. Xét về giá trị thực, viện trợ về kinh tế đã
tăng 10,3 tỷ USD tương đương 66,88%. Trong đó, phải kể đến viện
trợ dành cho lĩnh vực vận tải và tích lũy tăng 73,97% đạt mức 12,7 tỷ
USD và lĩnh vực tài chính ngân hàng tăng 158,8% lên mức 4,4 tỷ
USD.
18
18
− Ngoài ra, các hoạt động viện trợ ODA khác cũng có sự thay đổi lớn, đặc
biệt là viện trợ liên quan đến nợ. Năm 2005, viện trợ nợ đạt đỉnh điểm, ở
mức 26,05 tỷ USD, chiếm gần ¼ tổng ODA trong năm. Viện trợ nợ cao
bất thường trong năm đó cùng với hoạt động viện trợ nhân đạo dành cho
các nước chịu thiệt hại do Sóng thần ở Ấn Độ Dương tháng 12/2004 là 2
nguyên nhân chủ yếu làm viện trợ ODA năm 2005 tăng lên mức kỷ lục.
Trong năm này, nhóm các nước công nghiệp phát triển (G8) tuyên bố xóa
ngay tổng số nợ trị giá 40 tỷ USD cho 18 quốc gia nghèo nhất thế giới.
Trong đó, đặc biệt là hoạt động viện trợ cho Iraq và Nigeria. Nhóm các
nước Paris Club (gồm 19 nền kinh tế phát triển nhất) đã thống nhất xoá
khoản nợ lớn của Iraq và Nigeria. Năm 2005, các nước thành viên DAC
đã viện trợ nợ cho Iraq 13,9 tỷ USD và Nigeria 5,5 tỷ USD.
Từ năm 2007, viện trợ liên quan đến nợ giảm xuống và chỉ chiếm tỉ lệ dưới
10%; đến năm 2009, viện trợ nợ chỉ còn chiếm 1,8% trong tổng viện trợ ODA.
19
19
CHƯƠNG III – TÁC ĐỘNG CỦA ODA ĐỐI VỚI NƯỚC NHẬN
VIỆN TRỢ VÀ NHỮNG XU HƯỚNG ODA
1. Tác động của ODA đối với nước nhận viện trợ
1.1. Tác động tích cực
a. ODA là một nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với các nước đang và
chậm phát triển
Đối với các nước đang phát triển khoản viện trợ và cho vay theo điều kiện ODA
là nguồn tài chính quan trọng.
ODA là nguồn vốn bổ sung quan trọng giúp các nước nghèo đảm bảo chi đầu tư
phát triển, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Vốn ODA với đặc tính ưu
việt là thời hạn cho vay dài thường là 10-30 năm, lãi suất thấp khoảng từ 0,25%
đến 2%/năm. Chỉ có nguồn vốn lớn với điều kiện cho vay ưu đãi như vậy, Chính
phủ các nước đang phát triển mới có thể tập trung đầu tư cho các dự án xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như đường sá, điện, nước, thuỷ lợi và các hạ tầng xã
hội như giáo dục, y tế, văn hoá. Những cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội được xây
dựng mới hoặc cải tạo nhờ nguồn vốn ODA là điều kiện quan trọng thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển. Theo tính toán của các chuyên
gia của WB, đối với các nước đang phát triển có thể chế và chính sách tốt, khi
nguồn vốn ODA tăng lên 1% GDP thì tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng thêm
0,5%.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, nhiều nước ở Châu Á đã tranh thủ được nguồn
vốn ODA từ các nước giàu. Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, Đài Loan đã
nhận được viện trợ từ Hoa Kỳ tới 1,482 tỷ USD. Vốn viện trợ đã góp phần rất
đáng kể trong quá trình đi lên của Đài Loan. Năm 1945, ngay sau khi chiến
tranh thế giới thứ II kết thúc, Nhật Bản đã gặp rất nhiều khó khăn. Khi đó, Nhật
Bản đã nhận được sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, các nước khác trên thế giới, Quỹ nhi
20
20
đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) và các tổ chức khác của Liên Hợp Quốc bằng
thực phẩm, thuốc men, các dịch vụ y tế và một số hình thức trợ giúp khác.
ODA giúp các nước đang phát triển xoá đói, giảm nghèo. Xoá đói, giảm nghèo
là một trong những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài trợ quốc tế đưa ra khi hình
thành phương thức hỗ trợ phát triển chính thức. Mục tiêu này biểu hiện tính
nhân đạo của ODA. Nếu được sử dụng có hiệu quả, tăng ODA một lượng bằng
1% GDP sẽ làm giảm 1% nghèo khổ và giảm 0,9% tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh.
Và, nếu như các nước giàu tăng thêm 10 tỷ USD viện trợ hằng năm sẽ cứu được
25 triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo.
ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ có tác động tích cực đến đầu tư của tư nhân.
Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như nam
châm “hút” vốn đầu tư tư nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ. Đối
với những nước đang trong tiến trình cải cách thể chế, nguồn vốn ODA còn góp
phần củng cố niềm tin của khu vực tư nhân vào công cuộc đổi mới của Chính
phủ.
Theo báo cáo của WB, từ năm 1971 đến năm 1974, tại Philippin vốn chi phí cho
phát triển giao thông vận tải chiếm tới 50% tổng vốn dành cho xây dựng cơ bản
và 60% tổng vốn vay ODA được chi cho phát triển cơ sở hạ tầng. Nhiều công
trình hạ tầng kinh tế xã hội như sân bay, bến cảng, đường cao tốc, trường học,
bệnh viện, trung tâm nghiên cứu khoa học mang tầm cỡ quốc gia ở Thái Lan,
Singapore, Inđônêxia đã được xây dựng bằng nguồn vốn ODA của Nhật Bản,
Hoa Kỳ, WB, ADB và một số nhà tài trợ khác. Một số nước Nhật Bản, Hàn
Quốc trước đây cũng dựa vào nguồn ODA của Hoa Kỳ, WB, ADB để hiện đại
hóa hệ thống giao thông vận tải của mình.
21
21
b. ODA giúp các nước nghèo tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ
hiện đại và phát triển nguồn nhân lực
ODA giúp các nước đang phát triển phát triển nguồn nhân lực. Các nhà tài trợ
ưu tiên đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực vì họ tin tưởng rằng việc phát triển
của một quốc gia quan hệ mật thiết với việc phát triển nguồn nhân lực. Một
lượng ODA lớn được các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận ưu tiên dành cho đầu
tư phát triển giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của lĩnh
vực này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc dạy và học của
các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, một lượng ODA khá lớn cũng được dành
cho các chương trình hỗ trợ y tế, đảm bảo sức khoẻ cộng đồng. Nhờ có sự tài trợ
của cộng đồng quốc tế, các nước đang phát triển đã gia tăng đáng kể chỉ số phát
triển con người của quốc gia mình.
Thêm vào đó, những lợi ích quan trọng mà ODA mang lại cho các nước nhận tài
trợ là công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và trình độ quản lý tiên
tiến. ODA được cấp cho các nước nhận tài trợ thông qua các hoạt động như:
Hợp tác kỹ thuật, huấn luyện, đào tạo nhằm đào tạo cán bộ chuyên môn để đóng
góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội của các nước có người được huấn luyện,
đào tạo, cử chuyên gia để chuyển giao hiểu biết, công nghệ cho các nước đang
phát triển thông qua định hướng, điều tra và nghiên cứu, góp ý, cung cấp thiết bị
và vật liệu độc lập cũng là một bộ phận của chương trình hợp tác kỹ thuật, hợp
tác kỹ thuật theo thể loại từng dự án.
c. ODA góp phần tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện để mở
rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang và chậm phát triển
Việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho
các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh
doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.
22
22
ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nước
đang và chậm phát triển, nó còn có tác dụng làm tăng khả năng thu hút vốn từ
nguồn FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước, góp phần
thực hiện thành công chiến lược hướng ngoại. Tất cả các nước theo đuổi chiến
lược hướng ngoại đều có nhịp độ tăng trưởng kinh tế rất nhanh và biến đổi cơ
cấu kinh tế trong nước mạnh mẽ trong một thời gian ngắn để chuyển từ nước
Nông - Công nghiệp thành những nước Công - Nông nghiệp hiện đại, có mức
thu nhập bình quân đầu người cao.
d. ODA hỗ trợ cán cân thanh toán
ODA là nguồn bổ sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế
của các nước đang phát triển. Thực tế cho thấy, đa phần các nước đang phát
triển rơi vào tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, gây bất lợi cho cán cân thanh
toán quốc tế của các quốc gia này. ODA, đặc biệt là các khoản trợ giúp của IMF
có chức năng làm lành mạnh hoá cán cân vãng lai cho các nước tiếp nhận, từ đó
ổn định đồng bản tệ.
e. ODA giúp các nước đang phát triển tăng cường năng lực thể chế
ODA giúp các nước đang phát triển tăng cường năng lực và thể chế thông qua
các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính
và xây dựng chính sách quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế.
1.2. Tác động tiêu cực
a. Từ phía nước viện trợ
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như
mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an
ninh, quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị Vì vậy, họ đều có chính
sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những
23
23
mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã
hội trong nước, khu vực và trên thế giới).
- Mục tiêu về kinh tế
Nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế, ODA được sử dụng như là một trong những
cầu nối để đưa ảnh hưởng của nước cung cấp tới các nước đang phát triển. ODA
được dùng để thiết lập các mối quan hệ ngoại giao, kinh tế với các nước tiếp
nhận. Mặt khác, trên một giác độ nhất định, các nước cung còn sử dụng ODA để
xuất khẩu tư bản, từ việc tạo ra các món nợ lớn dần cho đến việc các nước tiếp
nhận ODA phải sử dụng chuyên gia của họ, mua vật tư, thiết bị của họ với giá
đắt, thậm chí cả các điều kiện đấu thầu, giải ngân được đưa ra cũng là để làm
sao với lãi suất thấp, có ưu đãi nhưng mà họ vẫn đạt được các mục đích khác
nhau một cách hiệu quả nhất. Cụ thể là:
• Thứ nhất, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế
quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu
hàng hoá của nước tài trợ. Ví như Việt Nam, vào năm 2006 tới sẽ phải mở
cửa hơn nữa đối với mặt hàng ô tô của Mỹ và Nhật Bản.
• Thứ hai, nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị
trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu
cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho
phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao Ví
như Việt Nam đã phải cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào
ngành Bưu chính - Viễn thông.
• Thứ ba, một khi lợi ích của nước viện trợ không đảm bảo hay không thoả
mãn, họ thường tìm cách giảm mức cấp ODA xuống. Chính vì vậy, các
nước giàu thường lựa chọn đối tác để cung cấp ODA gắn với các mục tiêu
24
24
cần đạt của mình. Ví dụ, trên 50% tổng ODA của Mỹ hàng năm (trên 5 tỉ
USD) được cung cấp cho Isrel và Ai Cập (là các nước đồng minh chiến
lược của Mỹ).
• Thứ tư, nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo
cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không
hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo.
Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ
thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90%
(bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố
vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như
vậy trên thị trường lao động thế giới).
• Thứ năm, nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu
dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp
ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng
hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
• Thứ sáu, nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA
nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả
thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án
nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ
chuyên gia. Do đó, các dự án, chương trình mà nước viện trợ lựa chọn để
cung cấp vốn ODA có thể không phải là dự án quan trọng và tối ưu nhất
đối với nước tiếp nhận. Bởi lẽ, chi phí mua sắm thiết bị, công nghệ có thể
có giá trị rất lớn nhưng công suất sử dụng lại không cao hoặc phải bỏ ra
chi phí cao về dịch vụ đào tạo, chuyển giao công nghệ.
25
25