Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

giải pháp tăng cường hợp tác kinh tế việt nam thái lan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.94 KB, 64 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
DANH MỤC BẢNG 3
DANH MỤC HÌNH 3
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC
KINH TẾ VIỆT NAM – THÁI LAN 3
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM
THÁI LAN 20
2.1. CÁC HIỆP ĐỊNH HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – THÁI LAN 20
2.2. KHÁI QUÁT VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – THÁI
LAN TRƯỚC NĂM 1995 20
2.3. QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – THÁI LAN TỪ NĂM 1995
ĐẾN NAY 22
2.3.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Thái Lan 23
2.3.2. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Thái Lan 25
Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Thái Lan 25
2.3.3. Đánh giá về quan hệ thương mại Việt Nam – Thái Lan từ 1995 đến
nay 30
2.4. QUAN HỆ ĐẦU TƯ VIỆT NAM – THÁI LAN 35
2.4.1. Thái Lan đầu tư vào Việt Nam 35
2.4.2. Việt Nam đầu tư vào Thái Lan 41
2.4.3. Đánh giá chung về quan hệ đầu tư Việt Nam – Thái Lan 41
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM –
THÁI LAN 43
3.1. CÁC GIẢI PHÁP CHUNG ĐỂ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG
MẠI VÀ ĐẦU TƯ 43
3.1.1. Hoàn thiện hành lang pháp lý và cải cách thủ tục hành chính 43
3.1.2. Nâng cấp cơ sở hạ tầng 44
3.2. CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG
THÁI LAN 44


3.2.1. Phát triển các ngành hàng xuất khẩu chủ lực 44
3.2.2. Gắn nhập khẩu công nghệ với xuất khẩu 48
3.2.3. Đẩy mạnh công tác xúc tiến xuất khẩu 49
3.2.4. Phát triển nguồn nhân lực 50
3.2.5. Đẩy mạnh áp dụng thương mại điện tử trong kinh doanh 51
3.2.6. Nghiên cứu thị trường Thái Lan 52
3.3. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ TỪ THÁI LAN
53
KẾT LUẬN 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
PHỤ LỤC 2
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Tốc độ tăng trưởng GDP của Thái Lan qua các năm
Bảng 2.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Thái Lan thời kỳ 1972
– 1979
Bảng 2.2. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Thái Lan thời kỳ 1986 –
1990
Bảng 2.3. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Thái Lan thời kỳ 1995 –
2011
Bảng 2.4. Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Thái Lan
Bảng 2.5. Các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Thái Lan
Bảng 2.6. Đầu tư trực tiếp của Thái Lan vào Việt Nam giai đoạn 1995 – 1999
Bảng 2.7. Đầu tư trực tiếp của Thái Lan vào Việt Nam giai đoạn 2004 – 2010
DANH MỤC HÌNH
Biểu đồ 1.1. Tốc độ tăng trưởng của Thái Lan qua các năm
Biểu đồ 1.2. Cơ cấu kinh tế theo ngành của Thái Lan
Biểu đồ 1.3. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Thái Lan 2008 - 2010
Biểu đồ 2.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Thái Lan giai đoạn
1995 – 2011
Biểu đồ 2.2. So sánh FDI của Thái Lan vào Việt Nam và FDI của các quốc gia

khác vào Việt Nam giai đoạn 1998 – 09/2007
Biểu đồ 2.3. So sánh FDI của Thái Lan vào Việt Nam và FDI của các quốc gia
khác vào Việt Nam năm 2008
Biểu đồ 2.4. Tỷ trọng nguồn vốn FDI của Thái Lan trong tổng nguồn vốn FDI
đầu tư vào Việt Nam giai đoạn 1990 - 2010

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và
đang là xu thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế đó, từ
năm 1986 đến nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội
nhập kinh tế quốc tế với phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối
ngoại. Trên cơ sở đó, quan hệ láng giềng với các nước trong khu vực, trong đó
có Thái Lan, luôn được coi là mối quan tâm hàng đầu của Việt Nam.
Thực tế Việt Nam và Thái Lan đã thiết lập quan hệ ngoại giao từ rất sớm
nhưng phải đến khi Việt Nam gia nhập vào ASEAN thì quan hệ ngoại giao, đặc
biệt là quan hệ kinh tế giữa hai nước mới bắt đầu phát triển mạnh mẽ. Mặc dù
vậy, mối quan hệ này được đánh giá là còn khá khiêm tốn so với tiềm năng sẵn
có của nó. Nếu được khai thác một cách có hiếu quả thì mối quan hệ này hứa
hẹn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho cả hai bên.
Xuất phát từ thực tế trên, em chọn đề tài “ Giải pháp tăng cường hợp tác
kinh tế Việt Nam – Thái Lan” để làm chuyên đề tốt nghiệp của mình nhằm đi
sâu tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn nữa về mối quan hệ Việt Nam – Thái Lan từ
đó đề xuất những giải pháp tăng cường hơn nữa mối quan hệ này.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là quan hệ thương mại và đầu tư của
Việt Nam và Thái Lan.
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề: về mặt không gian, chuyên đề tập
trung vào mối quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai quốc gia là Việt Nam và
Thái Lan; về mặt thời gian là giai đoạn từ sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN

năm 1995 cho đến nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử làm phương pháp luận. Đồng thời, phương pháp thống kê, phương pháp phân
tích tổng hợp cũng được sử dụng để luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn.
4. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài lời mở đầu, lời kết, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo thì
chuyên đề gồm có ba phần như sau:
Chương 1. Tầm quan trọng của việc tăng cường hợp tác kinh tế
Việt Nam – Thái Lan
Chương 2. Thực trạng quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam – Thái Lan
Chương 3. Các giải pháp tăng cường hợp tác kinh tế Việt Nam – Thái
Lan
CHƯƠNG 1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC TĂNG CƯỜNG
HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – THÁI LAN
1.1. TỔNG QUAN VỀ THÁI LAN
1.1.1. Vị trí địa lý
Thái Lan là một quốc gia nằm ở vùng Đông Nam Á, phía Bắc giáp Lào và
Myanma, phía Đông giáp Lào và Campuchia, phía Nam giáp vịnh Thái Lan và
Malaysia, phía Tây giáp Myanma và biển Andaman. Lãnh hải Thái Lan phía
Đông Nam giáp với lãnh hải Việt Nam ở vịnh Thái Lan, phía Tây Nam giáp với
lãnh hải Indonesia và Ấn Độ ở biển Andaman.
Thái Lan có diện tích 513.000 km
2
(tương đương diện tích Việt Nam cộng
với Lào) lớn thứ 51 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á sau
Indonesia và Myanma. (Nguồn: />world-factbook/geos/th.html)
Thái Lan là mái nhà chung của một số vùng địa lý khác nhau, tương ứng
với các vùng kinh tế. Phía Bắc có địa hình đồi núi, với điểm cao nhất (2.576 m)
là Doi Inthanon. Phía Đông Bắc là Cao nguyên Khorat có biên giới tự nhiên, về

phía đông là sông Mekong - đây là vùng trồng nhiều sắn nhất của Thái Lan do
khí hậu và đất đai phù hợp với cây sắn. Trung tâm của đất nước chủ yếu là vùng
đồng bằng sông Chao Phraya đổ ra vịnh Thái Lan. Miền Nam là eo đất Kra mở
rộng dần về phía bán đảo Mã Lai.
1.1.2. Khí hậu
Thái Lan có khí hậu nhiệt đới gió mùa và có 4 mùa rõ rệt: mùa khô kéo
dài từ tháng 1 đến tháng 2, mùa nóng từ tháng 3 đến tháng 5, mùa mưa từ tháng
6 đến tháng 10, mùa mát từ tháng 11 đến tháng 12. Trong đó mưa nhiều nhất
(90%) xảy ra vào mùa mưa. Nhiệt độ trung bình của thời tiết Thái Lan cao hơn
Việt Nam, nhiệt độ thường từ 32 độ C vào tháng 12 và lên tới 35 độ C vào tháng
4 hàng năm.
1.1.3. Dân cư
Thái Lan có dân số khoảng 69,1 triệu người (ước tính 2011 theo WB).
Tốc độ tăng dân số ước tính năm 2011 là 0,5%.
Khoảng 89% dân số là dân tộc Thái, còn lại là các dân tộc khác. Trong đó,
gần 94,7% người dân Thái Lan theo đạo Phật (tỷ lệ cao nhất thế giới), người Hồi
giáo chiếm 4,6% và các tôn giáo khác chiếm 0,7% dân số.
Tiếng Thái là ngôn ngữ chính ở Thái Lan, ngoài ra Tiếng Anh là ngôn
ngữ thứ hai được giảng dạy rất rộng rãi. Ở Thái Lan, tỷ lệ nam giới biết chữ là
94,9%; tỷ lệ này ở nữ giới là 90,5%. Tuổi thọ trung bình là 71,24 ở nam và
76,08 ở nữ (ước tính năm 2011 theo WB).
1.1.4. Văn hóa
Văn hóa Thái Lan chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng đạo Phật - tôn
giáo chính thức ở đất nước này và từ nền sản xuất phụ thuộc vào nguồn nước.
Có thể thấy rõ hai điểm trên qua các ngày lễ hội. Trong văn hóa ứng xử, người
Thái tỏ rõ sự sùng đạo, tôn kính hoàng gia và trọng thứ bậc cũng như tuổi tác.
Vương quốc Thái Lan - đất nước của những ngôi đền biểu trưng cho nền
văn hoá nông nghiệp – Phật giáo. Thái Lan có biên giới tiếp giáp với bốn nước
trong đó phía Nam là Malaysia, phía Tây là Myanmar, hướng Đông Bắc là Lào,
và phía Đông Nam giáp với Campuchia. Chính vì vậy Thái Lan là nước có điều

kiện tiếp xúc với nhiều nền văn hoá khác nhau trong cùng khu vực Đông Nam
Á, hơn nữa với bản tính thân thiện của người dân, Thái Lan được mệnh danh là
“Đất nước của những nụ cười”.
1.1.5. Hành chính
Thái Lan được chia làm 76 tỉnh, trong đó có 2 thành phố trực thuộc trung
ương: Bangkok và Pattaya. Do có phân cấp hành chính tương đương cấp tỉnh,
Bangkok thường được xem là tỉnh thứ 76 của Thái Lan. Các tỉnh được chia
thành các huyện hoặc quận. Các huyện được chia thành các xã, trong khi các
quận được chia thành các phường. Các xã được chia thành các thôn. Các đô thị
của Thái Lan gồm ba cấp: thành phố, thị xã và thị trấn. Nhiều thành phố và thị
xã đồng thời là tỉnh lỵ. Tuy nhiên một tỉnh có thể có tới hai thành phố và vài thị
xã.
1.1.6. Chính trị
Thái Lan là nước có thể chế quân chủ lập hiến. Nguyên thủ quốc gia là
nhà Vua – người được coi là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Về danh nghĩa
nhà Vua là người đứng đầu nhà nước, Tổng Tư lệnh quân đội và là người bảo
trợ Phật giáo. Theo Hiến pháp ngày 24 tháng 8 năm 2007, Quốc hội Thái Lan là
Quốc hội lưỡng viện. Hạ viện (cơ quan lập pháp) gồm 480 ghế và Thượng viện
gồm 150 ghế. Chính phủ bao gồm 36 thành viên gồm 3 Phó Thủ tướng, 21 Bộ
trưởng và 11 Thứ trưởng. Ngoài ra còn có một số Ủy ban của Chính phủ được
lập ra để phối hợp thực hiện các chính sách chung. Từ khi lật đổ chế độ quân
chủ chuyên chế năm 1932, Thái Lan đã có 17 hiến pháp và sửa đổi. Trong suốt
quá trình đó, chính phủ liên tiếp chuyển đổi qua lại từ chế độ độc tài quân sự
sang chế độ dân chủ, nhưng tất cả các chính phủ đều thừa nhận triều đại cha
truyền con nối như lãnh đạo tối cao của dân tộc. Hiện nay thủ tướng Thái Lan là
bà Yingluck Shinawatra.
1.1.7. Chính sách đối ngoại
Trong lịch sử lập quốc của mình, Thái Lan từng là một nước lớn theo chủ
nghĩa Đại Thái, lấn át các quốc gia láng giềng khi có thể, nhưng Thái Lan luôn
có chính sách ngoại giao khéo léo đối với các cường quốc Tây Âu và Nhật Bản

trong thời cận và hiện đại. Thái Lan luôn biết tận dụng vị thế địa lí để làm trái
độn giữa các cường quốc. Nhờ thế Thái Lan đã tránh được các cuộc xâm lược và
được hưởng thời gian độc lập, hòa bình tương đối lâu dài trong thời kỳ đế quốc
thực dân xâm chiếm thuộc địa và trong Thế chiến thứ hai.
Thái Lan đã kí hiệp ước hữu nghị và thương mại với Anh năm 1826 và
với Mỹ năm 1833, Hiệp ước trao đổi biên giới các tỉnh phía Bắc Malaysia hiện
tại năm 1909, nhờ đó thoát khỏi ách thuộc địa của các nước đế quốc lúc bấy giờ
đang tranh giành nhau vùng Đông Nam Á. Thái Lan cũng đã kí hiệp định phân
định biên giới sông Mekong với Pháp và tránh né xung đột với thực dân Pháp
vào cuối thế kỷ 19.
Trong Thế chiến thứ hai, Thái Lan là đồng minh lỏng lẻo của Nhật Bản,
cho Nhật đi qua đất Thái tiến đánh Malaysia, Myanmar. Lợi dụng thế suy yếu
của nước Pháp (bị Đức quốc xã xâm chiếm) và sức mạnh hải quân khá hiện đại
Thái Lan đã gây chiến với Pháp để tranh giành lãnh thổ Đông Dương. Sau khi bị
hải quân Pháp bất ngờ tiến công đánh bại cùng với sự suy yếu của quân đội phát
xít Nhật vào cuối thế chiến, Thái Lan làm đảo chính vào ngày ngày 1 tháng 8
năm 1944 và ngay lập tức chuyển nước Thái từ một đồng minh lỏng lẻo của
Nhật trong một đêm trở thành đồng minh của Mỹ và tiếp tục giữ được độc lập và
hòa bình.
Sau thế chiến, Thái Lan bị đối xử như một quốc gia đối địch bởi Anh và
Pháp, mặc dù Mỹ đã can thiệp để giảm nhẹ các điều khoản trừng phạt Thái Lan.
Thái Lan không bị lực lượng Đồng Minh chiếm đóng, nhưng phải trả lại các
lãnh thổ mà họ đã chiếm đóng trong thời gian chiến tranh cho Anh và Pháp.
Thời kỳ hậu chiến cũng là thời kỳ Thái Lan thắt chặt quan hệ với Hoa Kỳ, như
để bảo trợ Thái Lan khỏi nguy cơ chủ nghĩa cộng sản lan truyền từ các quốc gia
lân bang.
Lực lượng du kích cộng sản ở Thái Lan hoạt động tích cực trong khoảng
thập niên 1960 cho tới năm 1987 nhưng chưa bao giờ là một mối de dọa nghiêm
trọng cho chính quyền, tại thời kỳ đỉnh điểm họ đã có đến 12 ngàn du kích quân
trong hàng ngũ.

Gần đây, Thái Lan trở thành một thành viên tích cực trong Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đặc biệt là sau khi chế độ dân chủ được tái lập
sau năm 1992.
Chính sách ngoại giao khôn khéo mềm dẻo của Thái được gọi là "ngoại
giao cây sậy”.
1.1.8. Các tổ chức quốc tế mà Thái Lan tham gia
Thái Lan hiện là thành viên của các tổ chức quốc tế như: Ngân hàng phát
triển Châu Á - ADB, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương -
APEC, Diễn đàn khu vực ASEAN - ARF, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á -
ASEAN, Sáng kiến vùng Vịnh Bengal về hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật đa khu
vực - BIMSTEC, Ngân hàng thanh toán quốc tế - BIS, Hội nghị cấp cao về Hợp
tác và Xây dựng niềm tin tại châu Á - CICA, Hội nghị cấp cao Đông Á - EAS,
Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên hiệp quốc - FAO, G-77, Cơ quan năng
lượng nguyên tử quốc tế - IAEA, Ngân hàng quốc tế tái thiết và phát triển -
IBRD, Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế - ICAO, Phòng thương mại quốc
tế - ICC, Hội phát triển quốc tế - IDA, Tổ chức lao động quốc tế - ILO, Quỹ tiền
tệ quốc tế - IMF, Tổ chức hàng hải quốc tế - IMO, Tổ chức cảnh sát chống tội
phạm quốc tế - Interpol, Cơ quan bảo lãnh đầu tư đa phương - MIGA, PCA,
Liên hiệp quốc – UN, Hội nghị Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển -
UNCTAD, Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc - UNESCO,
Tổ chức y tế thế giới - WHO, Tổ chức thương mại thế giới - WTO…
1.1.9. Kinh tế
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống. Bắt đầu từ năm
1960 Thái Lan thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội lần thứ nhất. Trong
thập niên 1970 Thái Lan thực hiện chính sách "hướng về xuất khẩu", ASEAN,
Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu là thị trường xuất khẩu chính của Thái Lan. Ngành
công nghiệp và dịch vụ đã dần dần đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và
vai trò của nông nghiệp giảm dần.
Hiện nay, Thái Lan là một nước công nghiệp mới. Sau khi đạt tốc độ tăng
trưởng thuộc loại cao nhất thế giới từ 1985 đến 1995, với tốc độ tăng trưởng

trung bình 9% mỗi năm, sức ép lên việc duy trì đồng baht tại Thái Lan tăng lên,
dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, lan rộng ra toàn khu vực Đông
Á, bắt buộc chính phủ phải thả nổi tiền tệ.
Năm 1999, Thái Lan bắt đầu có dấu hiệu phục hồi với tốc độ tăng trưởng
kinh tế là 4,4%; năm 2000 là 4,8%, phần lớn từ những mặt hàng xuất khẩu
chính. Sự tăng trưởng bị rơi vào tình trạng trì trệ (tăng trưởng 2,2%) do ảnh
hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2001, nhưng phục hồi lại vào năm
sau, nhờ sự phát triển mạnh của Trung Quốc và những chương trình khác nhau
nhằm khuyến khích phát triển kinh tế trong nước của thủ tướng Thaksin
Shinawatra, thường được gọi bằng tên "Thaksinomics". Tốc độ tăng trưởng kinh
tế năm 2002 đạt 5,3% , đến năm 2003 và 2004 đã cao hơn mức 6%. Dự trữ
ngoại tệ ở mức cao hơn nhiều so với giai đoạn khủng hoảng năm 1997.
Năm 2008 nền kinh tế Thái Lan lại rơi vào khủng hoảng với tỉ lệ tăng
trưởng sụt giảm xuống còn 2,5% và đến 2009 là -2,2%. Nguyên nhân chủ yếu
do nhu cầu tiêu thụ của các thị trường bên ngoài suy giảm và tình hình chính trị
bất ổn ở trong nước.
Mặc dù khủng hoảng kinh tế trầm trọng nhưng với những gói kích cầu
kinh tế kịp thời của chính phủ, kinh tế Thái Lan lại từng bước phục hồi và tăng
trưởng. Đặc biệt trong năm 2010, kinh tế Thái Lan tăng trưởng cao nhất đạt
7,8% khi chính phủ bắt đầu điều hành đất nước. Năm 2010, số người thất nghiệp
giảm đáng kể. Xuất khẩu 2010 đạt 191,3 tỷ USD, tăng 39,4 tỷ USD so với mức
151,9 tỷ USD của năm 2008.
Du lịch Thái Lan cũng đạt được thành tích ngoài mong đợi. Mặc dù
khủng hoảng chính trị ngày càng sâu sắc, có những lúc lượng khách du lịch
nước ngoài vào Thái Lan giảm một cách đáng “lo ngại”, chính phủ phải điều
chỉnh chỉ tiêu thu hút khách du lịch nước ngoài, nhưng trong năm 2010, du lịch
đã tăng so với năm 2009. Thị trường chứng khoán cũng có bước tiến ngoạn mục
theo đà tăng của kinh tế.
Các chính sách kinh tế của chính phủ tác động tích cực đến người nông
dân, chiếm số đông. Mặt hàng nông sản chủ yếu như gạo, ngô, sắn, cao su và

dầu cọ đều tăng giá, tăng thu nhập cho người nông dân, nâng cao đời sống của
họ. Ngoài ra, chính phủ Thái Lan còn ban hành các chính sách phúc lợi xã hội
như học không mất tiền, trợ giúp người cao tuổi, bảo hiểm y tế…
Tuy nhiên, trận lụt lịch sử năm 2011 cùng với bức tranh ảm đạm của kinh
tế toàn thế giới đã ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ nền kinh tế Thái Lan, khiến
cho tốc độ tăng trưởng GDP của nước này bị sụt giảm nghiêm trọng chỉ còn hơn
1% cho cả năm 2011.
(Nguồn: WB data - />qterm=thailand&language=&format)
Bảng 1.1. Tốc độ tăng trưởng GDP của Thái Lan qua các năm
Năm Chỉ số tăng trưởng GDP (%)
1997 -1,4
1998 -10,5
1999 4,4
2000 4,8
2001 2,2
2002 5,3
2003 7,1
2004 6,3
2005 4,6
2006 5,1
2007 5,0
2008 2,5
2009 -2.3
2010 7,8
2011 1,5
(Nguồn: WB data - />qterm=thailand&language=&format)
Biểu đồ 1.1. Tốc độ tăng trưởng của Thái Lan qua các năm (%)
(nguồn: />Các ngành kinh tế trọng điểm của Thái Lan:
(Nguồn: Hồ sơ thị trường Thái Lan – Cục xúc tiến thương mại, Phòng
nghiên cứu và phát triển thị trường)

• Công nghiệp:
Các ngành công nghiệp chính của Thái Lan là dệt và may mặc, chế biến
nông nghiệp, đồ uống, thuốc lá, xi măng, công nghiệp nhẹ như sản xuất đồ trang
sức và những thiết bị điện tử, máy tính và linh kiện, đồ gia dụng, nhựa, ô tô và
linh kiện. Thái Lan là nước đứng thứ hai thế giới về sản xuất tungsten (một kim
loại cứng màu xám dùng để chế tạo thép hợp kim và các sợi tóc trong bóng đèn
điện và là nước đứng thứ ba thế giới trong lĩnh vực sản xuất thiếc).
• Nông nghiệp:
Các nhà hoạch định chính sách Thái Lan lấy nông nghiệp là bệ phóng cho
nền kinh tế quốc dân, và không chỉ có thế, mục tiêu cốt lõi là tạo ưu đãi “tam
nông” để ổn định chính trị xã hội. Nhằm đảm bảo chất lượng cuộc sống của
người nông dân cũng như phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng bền
vững, bên cạnh những chính sách khuyến khích và hỗ trợ người nông dân nâng
cao tính cạnh tranh của nông sản trên thị trường thế giới thì vấn đề liên quan đến
“tính mềm” như đào tạo kĩ thuật, nâng cao nhận thức người nông dân được coi
trọng hướng đến. Nhờ những hướng đi đúng đắn trong đào tạo nguồn nhân lực
nên những vùng đất hoang, địa hình đồi núi dốc và cả những vùng khô cằn
không chỉ dành cho cây ngô, lúa nương mà nhiều loại cao sản đã được triển khai
và cho năng suất cao. Thái Lan được coi là “nồi cơm” của thế giới do luôn duy
trì được “ngôi vị số 1” toàn cầu về xuất khẩu gạo. Ngoài lúa gạo, Thái Lan còn
phát triển sản xuất nhiều loại cây có giá trị kinh tế cao như ngô, cao su và cả
những loại hoa, quả. Năm 2011, ngành nông nghiệp Thái Lan đã đóng góp
13,3% vào GDP và tạo việc làm cho 40,7% số người trong độ tuổi lao động.
• Du lịch:
(Nguồn: http:\\vi.wikipedia.org/wiki/kinh_te_thai_lan)
Nhắc đến Thái Lan không thể không nhắc tới ngành du lịch. Đây là một
ngành mũi nhọn của nền kinh tế Thái Lan. Ngành du lịch Thái Lan cất cánh khi
những người lính Mỹ bắt đầu đến đầy thập niên 1960 trong thời kỳ chiến tranh
Việt Nam. Thời kỳ này cũng trùng với việc gia tăng mạnh mẽ ngành du lịch
quốc tế nhờ việc tăng mức sống, nhiều người có thời gian rảnh rỗi hơn và cũng

nhờ tiến bộ công nghệ khiến người ta có thể du hành xa hơn, nhanh hơn và rẻ
hơn với máy bay Boeing 747 bay thương mại lần đầu vào năm 1970. Thái Lan là
một trong các quốc gia ở châu Á đã tận dụng được cơ hội này. Số lượng du
khách đã tăng từ 336.000 lượt khách quốc tế và 54.000 lính năm 1967 lên con số
14 triệu khách quốc tế đến Thái Lan năm 2007. Thời gian ở lại trung bình của
khách trong năm 2007 là 9,19 ngày, tạo ra khoảng 547.782 triệu baht Thái,
khoảng 11 tỷ Euro. Năm 2006, Thái Lan là quốc gia xếp thứ 18 về số lượng du
khách trong bảng xếp hạng World Tourism rankings với 13,9 triệu lượt khách.
Du lịch nội địa cũng tăng trưởng nhanh chóng trong thập kỷ qua. Doanh số từ du
lịch nội địa đã tăng từ 187.898 triệu baht năm 1998 lên 380.417 triệu baht
(khoảng 7,8 tỷ Euro) năm 2007. Du khách châu Á khi đến Thái Lan chủ yếu
thăm Bangkok và các địa danh văn hóa, lịch sử ở khu vực phụ cận. Du khách
phương Tây không chỉ tham quan Bangkok và các khu vực xung quanh mà còn
đến các bãi tắm và các đảo phía nam. Miền bắc là địa điểm chính cho hoạt động
trekking và du lịch mạo hiểm với các nhóm dân tộc thiểu số đa dạng, các vùng
núi rừng. Vùng nhận ít du khách hơn là Isan ở đông bắc. Để tạo điều kiện thuận
lợi cho du khách nước ngoài, chính phủ Thái Lan đã thiết lập bộ phận cảnh sát
du lịch riêng ở các khu vực du lịch lớn kèm theo số điện thoại khẩn cấp. Thái
Lan đã chịu cạnh tranh kể từ khi Lào, Campuchia và Việt Nam mở cửa cho du
lịch quốc tế vào thập niên 1980 và 1990. Các điểm đến như Angkor Wat, Luang
Prabang và Vịnh Hạ Long hiện đang cạnh tranh với vị trí độc quyền trước đây
của Thái Lan. Để đối phó với việc cạnh tranh này, Thái Lan đang tích cực
hướng tới thị trường du khách chơi gôn, du lịch kết hợp chữa bệnh. Khoảng 2
triệu du khách nước ngoài đã thăm Thái Lan với mục đích chữa bệnh năm 2009,
tăng hơn 3 lần so với con số tương tự năm 2002. Năm 2010, do ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế toàn cầu và cuộc biểu tình của phe Áo đỏ, lượng du khách
đến Thái Lan giảm 10%, chỉ đạt 12,7 – 14,1 triệu lượt.
• Cơ cấu GDP theo ngành:
Biểu đồ 1.2 dưới đây sẽ cho thấy: về cơ cấu kinh tế theo ngành, dịch vụ
luôn chiếm tỷ lệ đóng góp lớn nhất trong GDP Thái Lan, tiếp theo là đến công

nghiệp rồi cuối cùng mới đến nông nghiệp.
Biểu đồ 1.2. Cơ cấu kinh tế theo ngành của Thái Lan
(Đơn vị: %)
(Nguồn: Báo cáo tổng quan về kinh tế Thái Lan 2010 của ngân hàng
Thái Lan - The Siam Commercial Bank)
Thương mại:
Biểu đồ 1.3. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Thái Lan 2008 - 2010
(Đơn vị: tỷ euro)
(Nguồn: Báo cáo tổng quan về kinh tế Thái Lan 2010 của ngân hàng
Thái Lan- The Siam Commercial Bank)
Qua biểu đồ 1.3 ta có thể thấy nền kinh tế Thái Lan phụ thuộc tương đối
nhiều vào ngoại thương. Cán cân thương mại nhìn chung ở trạng thái xuất siêu.
Các sản phẩm xuất khẩu chính bao gồm gạo, nông sản, hàng dệt may,
giầy dép, hải sản, cao su, nữ trang, ô tô, máy tính và thiết bị điện. Thái Lan đứng
đầu thế giới về xuất khẩu gạo, mỗi năm xuất khẩu 6,5 triệu tấn gạo tinh chế. Lúa
là loại cây lương thực chính được trồng tại Thái Lan, với 55% đất đai trồng trọt
được được sử dụng để trồng lúa. Đất có thể canh tác được của Thái Lan cũng
chiếm tỷ lệ lớn, 27,25% của toàn bộ khu vực sông Mekong.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Thái Lan là các nước công nghiệp phát
triển: Mỹ, Canada, EU, Nhật Bản (giống như đa phần các nước ASEAN khác).
Mậu dịch trong khối ASEAN cũng gia tăng đáng kể trong những năm gần đây
chủ yếu nhờ vào chính sách miễn thuế trong khu vực mậu dịch tự do. Sở Xúc
tiến Xuất khẩu Thái Lan đặt mục tiêu đưa thị phần trong khu vực này lên tỉ trọng
40% trong tổng lượng xuất khẩu cúa Thái Lan. Những thị trường mới đang được
nhắm đến là các nước Đông Dương, các nước Trung Đông, Châu Phi, Châu Mỹ
La tinh, Đông Âu, Nam Á và Trung Quốc. Trung Quốc là thị trường tăng trưởng
lớn nhất cho xuất khẩu của Thái Lan những năm gần đây. Sở Xúc tiến xuất khẩu
Thái Lan chi ra khoảng 1 tỉ bạt mỗi năm để giới thiệu những sản phẩm của Thái
trên thị trường thế giới, cụ thể là các thị trường phi truyền thống. Để mở rộng thị
trường xuất khẩu, nhà nừớc đã theo đuổi những thỏa thuận mậu dịch tự do song

phương với mục đích đẩy mạnh các hoạt động mua bán. Những nước nằm trong
mục tiêu bao gồm Bahrain, Ấn Độ, Trung Quốc, Nga, Úc và Mỹ.
Tỷ trọng xuất khẩu của Thái Lan nhìn chung biến động theo hướng giảm
dần tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng thô ít qua chế biến và tăng nhanh tỷ trọng
hàng công nghiệp chế biến trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong ngành hàng
công nghiệp chế biến thì: thực hiện giảm dần tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu
những sản phẩm có hàm lượng lao động cao, mà nâng dần tỷ trọng xuất khẩu
hàng hóa cao cấp có hàm lượng tư bản và công nghệ cao như sản phẩm của
ngành hóa chất, chế tạo máy móc thiết bị.
Mặt hàng nhập khẩu chính của Thái Lan là nguyên liệu thô, hàng tiêu
dùng, khí đốt, các nhà cung cấp chính là Nhật Bản, Trung Quốc, Malaysia, Mỹ,
Singapore, Hàn Quốc.
Đầu tư:
(Nguồn: Hồ sơ thị trường Thái Lan – Cục xúc tiến thương mại, Phòng
nghiên cứu và phát triển thị trường)
• Môi trường đầu tư:
Trong cuộc chạy đua quyết liệt nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong khu vực Đông Á, ngay sau khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu Á, Thái
Lan đã thay đổi những chính sách của mình để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn
hơn so với các nước trong khu vực. Cụ thể: nâng mức sở hữu nước ngoài lên
49% đối với các dự án thông thường, 100% đối với các dự án có trên 80% sản
phẩm xuất khẩu. Ngoài ra, đối tác nước ngoài còn được phép điều chỉnh tỷ lệ sở
hữu lên trên 51% trong trường hợp đối tác Thái Lan gặp khó khăn về tài chính.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính Thái Lan hủy bỏ quy định phải có 30% sản phẩm
xuất khẩu trở lên mới được hưởng miễn giảm thuế trong các ngành công nghiệp
chế tạo.
Đầu năm 2007, Thái Lan thực hiện gia tăng kiểm soát tiền tệ và hạn chế
đầu tư nước ngoài. Chính quyền Thái Lan đã chủ trương sửa đổi Luật Doanh
nghiệp nước ngoài (01/2007), áp đặt những hạn chế mới về đầu tư. Theo đó,
buộc các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư có cổ phần lớn tại Thái Lan phải

nhanh chóng tìm kiếm đối tác mới để chia sẻ cố phần đang nắm giữ tại các công
ty Thái xuống thấp hơn 50%. Hạn chế này đã gây hoảng loạng cho các nhà đầu
tư trong và ngoài nước. Ngay sau khi Thái Lan công bố hạn chế mới này, chỉ số
chứng khoán SET index của Thái đã giảm tới 2,4%. Riêng đồng bath giảm
0,8%. Đây là đòn giáng mạnh vào lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài tại
Thái Lan kể từ sau khi Chính phủ mới do quân đội ủng hộ lên nắm quyền. Ngoài
ra, sau khi Ngân hàng Trung ương Thái lan ban bố quyết định phong tỏa 30%
giá trị các tài khoản bằng ngoại tệ vào cuối năm 2006 thì giá cổ phiểu trên thị
trường chứng khoán nước này giảm 15% - mức giảm kỉ lục của một phiên giao
dịch trong vòng 31 năm lịch sử chứng khoán Thái Lan, thiệt hại của thị trường
chứng khoán lên đến 23 tỷ USD chỉ trong 1 ngày.
• Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Thái Lan:
Thái Lan là nước thành công nhất trong khối ASEAN về thu hút đầu tư
FDI, bình quân hàng năm thu hút được trên 6,5 tỷ USD vốn FDI (cao hơn mức
kỷ lục của Malaysia và Singapore).
Một số ngành hàng được xem là có cơ hội đầu tư tốt tại Thái Lan bao
gồm:
+ Thực phẩm bán lẻ
+ Dịch vụ phục vụ nhu cầu ăn uống
+ Sản phẩm nông nghiệp
+ Hàng hóa dùng trong sản xuất
+ Sản phẩm công nghệ
+ Dịch vụ phục vụ giáo dục và đào tạo
+ Hàng tiêu dùng như quần áo, thời trang, mỹ phẩm
+ Ngành xây dựng
+ Máy móc tự động

Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore, Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu dẫn
đầu các nước và vũng lãnh thổ đầu tư vào Thái Lan. Năm 2010, số vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài của Thái Lan đạt 8,3 tỷ USD nâng tổng số vốn FDI (tính

đến hết 31/12/2010) vào quốc gia này lên mức 117,9 tỷ USD. Đến năm 2011,
tổng số vốn đầu tư vào Thái Lan đã lên đến 119,5 tỷ USD.
Thái Lan cũng đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài, chủ yếu là đầu tư vào các
nước ASEAN, trong đó có Việt Nam. Các lĩnh vực đầu tư chính là sản xuất vi
mạch điện tử, sản phẩm hóa chất, hàng tiêu dùng Tổng số vốn Thái Lan đang
đầu tư ra nước ngoài (tính đến 12/2011) đạt 29,79 tỷ USD.
Các chỉ số kinh tế cơ bản:
(Số liệu ước tính 2011. Nguồn: />world-factbook/geos/th.html)
- GDP ngang giá sức mua: 601,4 tỷ USD
- GDP theo tỷ giá thực: 345,6 tỷ USD
- Tăng trưởng GDP: 0,1%
- GDP bình quân đầu người: 9.700 USD
- GDP phân bổ theo ngành: Nông nghiệp – 13,3%; Công nghiệp – 34%;
Dịch vụ - 52,7%
- Lực lượng lao động: 39,62 triệu người
- Lực lượng lao động phân bổ theo ngành: Nông nghiệp – 40,7%; Công
nghiệp – 13,2%; Dịch vụ - 46,1%
- Tỷ lệ thất nghiệp: 0,7%
- Thu chi ngân sách: Thu 62,21 tỷ USD, chi 74,99 tỷ USD
- Tỷ lệ lạm phát: 3,8%
- Tăng trưởng sản xuất công nghiệp: 4,3%
- Kim ngạch xuất khẩu: 244,4 tỷ USD
- Kim ngạch nhập khẩu: 214,6 tỷ USD
- Dự trữ ngoại tệ và vàng: 175,1 tỷ USD
- Tổng số vốn đầu tư nước ngoài hiện có tại Thái Lan (tính đến
12/2011): 119,5 tỷ USD
- Tổng số vốn Thái Lan đầu tư ra nước ngoài (tính đến 12/2011): 29,79
tỷ USD
1.2. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA VIỆT NAM TRONG VIỆC
TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC KINH TẾ VỚI THÁI LAN

1.2.1. Thuận lợi của Việt Nam trong việc tăng cường hợp tác kinh tế
với Thái Lan
Thứ nhất, về điều kiện tự nhiên, cả Việt Nam và Thái Lan đều nằm trong
khu vực Đông Nam Á và có những vị trí địa lý hết sức thuận lợi đồng thời lại ở
gần nhau (về đường bộ chỉ bị ngăn cách bởi nước Lào và Campuchia, đường
biển có một phần lãnh hải tiếp giáp nhau). Đây là một điều kiện rất thuận lợi cho
giao thông qua lại, thông thương giữa hai nước cả bằng đường biển, đường bộ
và đường hàng không. Đặc biệt là trong xu thế hội nhập của nền kinh tế khu vực
và thế giới như hiện nay thì vị trí địa lý sẽ trở thành một nguồn lực, định ra
hướng phát triển có lợi trong phân công lao động toàn thế giới và xác định các
mối quan hệ song phương và đa phương của một quốc gia. Do vậy đây là yếu tố
thuận lợi xét trong mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Thái Lan.
Thứ hai, ngoài vị trí địa lý, Thái Lan và Việt Nam còn có những nét hết
sức tương đồng về khí hậu, đất đai, tài nguyên. Cả hai nước đều có khí hậu nóng
ấm, đất đai phì nhiêu màu mỡ phù hợp với việc phát triển nông nghiệp, đặc biệt
là các cây nhiệt đới. Khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều cũng rất thuận lợi cho trồng
trọt. Đất đai chứa nhiều khoáng sản với trữ lượng lớn như: dầu mỏ, thiếc,
than là những nguồn tài nguyên hết sức quý báu. Chính vì thế mà Thái Lan và
Việt Nam đều có xuất phát điểm là những nền nông nghiệp lúa nước. Ngày nay
sản phẩm nông nghiệp của hai nước khá tương đồng, đặc biệt Thái Lan và Việt
Nam lần lượt giữ các vị trí thứ nhất và thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo. Xét
trên khía cạnh tích cực thì những yếu tố kể trên có thể coi là thuận lợi cho mối
quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước vì Việt Nam có thể học hỏi
những kinh nghiệm phát triển nông nghiệp thành công của Thái Lan. Mặt khác,
hai nước có rât nhiều tiềm năng trong việc hợp tác trên những lĩnh vực, mặt
hàng mà hai nước đều có thế mạnh.
Thứ ba, về văn hóa xã hội và con người, Việt Nam và Thái Lan có rất
nhiều nét tương đồng về văn hóa tín ngưỡng và phong tục tập quán. Điển hình là
Phật giáo và tục thờ cúng tổ tiên đều rất phổ biến ở hai quốc gia này. Một nền
văn hoá khá giống nhau thì việc thiết lập các mối quan hệ hợp tác giữa các

thương nhân, các nhà đầu tư hai nước cũng trở nên thuận lợi và dễ dàng hơn.
Thứ tư, Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển, có nhiều tiềm năng
và lợi thế để khai thác. Thêm vào đó, chúng ta còn có một chế độ chính trị và xã
hội ổn định đã tập hợp được sức mạnh của toàn dân tộc, tạo ra môi trường vĩ mô
ổn định và thuận lợi thu hút được các nhà đầu tư Thái Lan.
Thứ năm, một trong những lợi thế khác của Việt Nam là dân số đông, cơ
cấu dân số trẻ, truyền thống lao động cần cù. Điều này một mặt khiến cho Việt
Nam trở thành một thị trường có sức tiêu thụ lớn, mặt khác là nguồn cung cấp
lao động dồi dào, giá rẻ. Tất cả đã tạo nên sức hấp dẫn của Việt Nam với các
nhà đầu tư và thương nhân Thái Lan.
Thứ sáu, quốc tế hóa đời sống kinh tế là xu thế khách quan mang tính
quy luật đối với mọi quốc gia. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế do sự phát
triển của lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế quy định. Phân công lao
động quốc tế tất yếu dẫn đến sự chuyên môn hoá, hợp tác hoá quốc tế. Giữa các
nước hình thành sự phụ thuộc lẫn nhau, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác để cùng
phát triển. Sự phụ thuộc này không đồng nghĩa với sự lệ thuộc một chiều, trái
lại, nó gắn với độc lập chủ quyền trong một chỉnh thể thống nhất, đồng thời là
điều kiện để phát triển và ổn định kinh tế - chính trị của mỗi nước. Bản thân
phân công lao động quốc tế là sự phủ định quan điểm tự cấp tự túc và chính sách
khép kín nền kinh tế. Mỗi quốc gia phải mở cửa ra thị trường thế giới, chủ động
tham gia phân công lao động quốc tế, tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực
để có khuôn khổ phù hợp cho sự phát triển. Quá trình quốc tế hoá tiếp tục diễn
ra với quy mô ngày càng lớn và tốc độ ngày càng cao trong tất cả lĩnh vực của
đời sống kinh tế thế giới như: trao đổi thương mại, tổ chức sản xuất, nghiên cứu
khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo Điều đó làm cho nền kinh tế thế giới trở
thành một chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là một chủ thể, giữa
chúng có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Cũng như Thái Lan, Việt Nam nhận
thức được xu hướng này nên đã tích cực tham gia các tổ chức khu vực cũng như
thế giới, thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế
quốc tế. Quan hệ Việt Nam và Thái Lan cũng không nằm ngoài xu hướng này.

Hiện nay cả hai nước cùng theo đuổi chính sách tự do hóa thương mại, tích cực
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam và Thái Lan hiện cùng là thành
viên của nhiều tổ chức khu vực và thế giới như ASEAN, APEC, WTO Điều
này tạo ra nhiều thuận lợi cho quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước phát
triển.
1.2.2. Khó khăn của Việt Nam trong việc tăng cường hợp tác kinh tế
với Thái Lan
Thứ nhất, Việt Nam và Thái Lan có rất nhiều điểm tương đồng về tiềm
năng, điều kiện phát triển kinh tế như vị trí, đất đai, khí hậu. Đây vừa là thuận
lợi (như đã trình bày ở phần thuận lợi) những cũng vừa là khó khăn cho mối
quan hệ kinh tế thương mại hai nước. Lý do là vì từ những nét tương đồng về
điều kiện, tiềm năng phát triển đã khiến cho cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của hai
nước trở nên tương đối giống nhau Các mặt hàng mà Thái Lan có ưu thế xuất
khẩu mạnh ra bên ngoài như nông sản chế biến, điện tử, da giày cũng là những
mặt hàng Việt Nam đang có ưu thế. Do đó cạnh tranh giành giật thị trường giữa
hai nước là rất quyết liệt. Việt Nam đang tận dụng cao độ giá lao động rẻ trong
khi Thái Lan với trình độ công nghệ cao hơn, chất lượng mẫu mã, kiểu dáng tốt
hơn đang gián tiếp loại trừ, triệt tiêu lẫn nhau trên các thị trường và theo đó,
Trung Quốc sẽ giành được những ngách thị trường khu vực và quốc tế mà cả hai
nước cùng đánh mất.
Thứ hai, mặc dù có thể nói Việt Nam đi sau Thái Lan nhiều năm phát
triển kinh tế nhưng trình độ kỹ thuật của hai nước chưa có sự khác biệt rõ rệt.
Trong mối quan hệ với Thái Lan, chúng ta không tiếp thu được các công nghệ
nguồn, các kỹ thuật hiện đại tiên tiến như với các nước công nghiệp phát triển.
Các dự án đầu tư của Thái Lan có qui mô nhỏ, trình độ công nghệ trung bình.
Đây là vấn đề khách quan của các nền kinh tế đang phát triển và về nguyên tắc,
các công ty xuyên quốc gia của họ thường chỉ chuyển giao những công nghệ ít
tiên tiến hơn và không trọn gói. Vì vậy, Việt Nam chưa tận dụng được mấy công
nghệ từ Thái Lan khi tiếp nhận các dự án đầu tư để phát huy lợi thế so sánh của
mình.

Thứ ba, bên cạnh những tiềm lực phát triển khách quan được thiên nhiên
ưu đãi như vị trí, đất đai, khí hậu, tài nguyên và nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ
thì những tiềm lực chủ quan chúng ta lại còn nhiều yếu kém. Đó là chất lượng
nguồn nhân lực chưa cao, thiếu đội ngũ công nhân lành nghề, trình độ của cán
bộ quản lý còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, là một nền kinh tế đang trong giai
đoạn đầu của quá trình đổi mới, phát triển, chúng ta chưa xây dựng được một
hành lang pháp lý, một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định để tạo nên môi trường
hấp dẫn các nhà đầu tư. Cơ sở hạ tầng dịch vụ hiện có vẫn ở dưới mức trung
bình của các nước đang phát triển, không đáp ứng được cho nhu cầu phát triển
hiện tại. Trong các doanh nghiệp, trình độ thiết bị máy móc và công nghệ vẫn
còn ở tình trạng lạc hậu, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp, số lượng
rất ít ỏi, lạc hậu, lại thuộc nhiều thế hệ và pha trộn của nhiều nước, chắp vá
không đồng bộ.
Các nguồn lực sẵn có chưa được Việt Nam khai thác một cách có hiệu
quả đã gây ra tình trạng lãng phí, thậm chí là đang có nguy cơ cạn kiệt dần khiến
chúng ta mất đi các lợi thế cạnh tranh. Nguồn lực đất đai, tài nguyên sau nhiều
năm chú trọng tăng trưởng phát triển theo chiều rộng, thu hút đầu tư tràn lan và
ồ ạt đã bị suy giảm rất nhanh. Cho đến nay kim ngạch xuất khẩu vẫn chủ yếu là
xuất khẩu sản phẩm thô, dự án đầu tư tuy nhiều nhưng hiệu quả chưa cao.
Nguồn lực con người tuy dồi dào nhưng trình độ tiếp thu khoa học công nghệ,
trình độ quản lý và tác phong làm việc công nghiệp vẫn còn rất hạn chế. Vấn đề
thiếu hụt lao động chất lượng cao đang là một thách thức đối với phát triển kinh
tế của Việt Nam.
Chính những yếu kém tồn tại của nền kinh tế Việt Nam đã và đang trở
thành những khó khăn cho việc tăng cường hội nhập kinh tế nói chung, trong
việc phát triển quan hệ với Thái Lan nói riêng.
Thứ tư, bức tranh ảm đạm chung của nền kinh tế thế giới cùng với hậu
quả nặng nề của trận lụt mà đất nước Thái Lan đã phải hứng chịu trong năm vừa
qua có thể nói là đã tạo thêm khó khăn cho việc phát triển mạnh mẽ mối quan hệ
kinh tế thương mại của hai nước trong giai đoạn hiện nay.

Tóm lại, Việt Nam và Thái Lan đều là hai nước có nền kinh tế năng động,
có nhiều điều kiện thuận lợi trong phát triển kinh tế nhưng nội tại mỗi nước vẫn
còn tồn tại những hạn chế riêng. Điều đó tạo nên những thuận lợi và khó khăn
cho hai nước trong việc phát triển quan hệ hợp tác kinh tế thương mại. Bên cạnh
đó, những nét tương đồng giữa hai quốc gia này cũng một mặt vừa tạo nên sự
cạnh tranh đối trọng trong phát triển kinh tế, một mặt vừa tạo ra những cơ hội
hợp tác hết sức to lớn giữa hai nước.
1.3. VAI TRÒ CỦA VIỆC TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC KINH TẾ VỚI THÁI LAN
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
Thứ nhất, việc Việt Nam tăng cường hợp tác với Thái Lan đem lại cho
Việt Nam những nguồn lợi về kinh tế: tăng kim ngạch xuất khẩu, đầu tư, từ đó
tạo ra thu nhập quốc dân, tạo ra việc làm cho người lao động, thúc đẩy sản xuất
trong nước phát triển. Nhất là khi những thị trường lớn, thị trường truyền thống
của Việt Nam như EU, Nhật Bản đang gặp rất nhiều khó khăn thì việc tăng
cường hợp tác, quan hệ với các nước trong khu vực nói chung, với Thái Lan nói
riêng lại càng trở nên quan trọng hơn, giúp chúng ta đa dạng hóa quan hệ kinh tế
đối ngoại, giảm thiểu rủi ro và sự phụ thuộc vào một số thị trường nhất định.
Bên cạnh việc tăng cường trao đổi hàng hóa giữa hai nước thì mối quan
hệ hợp tác Việt Nam - Thái Lan còn mở ra cơ hội cho mỗi nước tiếp cận, tăng
cường trao đổi hàng hóa với các thị trường thứ ba khác nữa. Ví dụ thông qua
Thái Lan, hàng hóa Việt Nam khi xuất khẩu sang Thái Lan sẽ có cơ hội tiếp cận
với không chỉ người tiêu dùng Thái Lan mà là người tiêu dùng trên toàn thế giới,
nhất là khi Thái Lan lại là đất nước du lịch nổi tiếng.
Thứ hai, Thái Lan là một trong những nhân tố quyết định cho sự hình
thành tổ chức ASEAN. Thái Lan bao giờ cũng là nước đứng ra đóng vai trò
trung gian, hoà giải như xung đột giữa Malaysia và Philippines; giữa Malaysia
và Indonesia; giữa Malaysia và Singapore… Với vai trò là Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao Thái Lan, tiến sĩ Thanat Khoman đã đưa ra sáng kiến và soạn thảo Tuyên
bố thành lập Hiệp hội Đông Nam Á vì sự phát triển khu vực (SEAARC). Tài
liệu này sau trở thành cơ sở của Tuyên bố Băng Băngkok – văn kiện chính thành

lập ASEAN (ngày 08/08/1967). Khi ASEAN được ra đời vào tháng 08/1967,
Thái Lan tham gia vào tất cả các hoạt động của khối với tư cách thành viên,
nhưng có vai trò quan trọng trên phương diện chính trị và quân sự. Chính Thái
Lan đã đạt được thoả thuận với Philippines để giải tán khối SEATO. Thái Lan
cũng có vai trò trong ASEAN với “vấn đề Campuchia” (1979 – 1989). Vai trò
của Thái Lan trong ASEAN trên phương diện kinh tế cũng không kém phần
quan trọng, với vị trí trung tâm lục địa Đông Nam Á, Thái Lan như là một trạm
trung chuyển, một cửa ngỏ để tiến vào các nền kinh tế mới nổi khu vực hạ
nguồn sông Mê Kông rộng lớn, trong khi vị trí của nó với Liên hiệp các nước
Đông Nam Á (ASEAN) giúp dễ dàng tiếp cận với khu vực được xem như thị
trường kinh tế đang phát triển lớn nhất hiện nay. Ở cấp độ khu vực và trong
khuôn khổ AFTA, Thái Lan là nước tích cực cổ vũ cho việc đảm bảo tiến trình
AFTA được thực hiện đúng hạn. Có thể nói, Thái Lan là một trong những nước
có vai trò rất lớn cho sự tồn tại và phát triển của ASEAN. Thậm chí có những
thời kỳ Thái Lan hầu như quyết định và chi phối mọi hoạt động của ASEAN,
đặc biệt là trong chính sách đối ngoại.
Với vai trò là một thành viên chủ chốt, một trong những nền kinh tế lớn
của khu vực ASEAN như vậy thì Thái Lan có một vị thế nhất định, có một tiếng
nói nhất định trong diễn đàn khu vực. Việc tăng cường hợp tác với Thái Lan sẽ
giúp chúng ta tranh thủ được sự ủng hộ của nước bạn trong các diễn đàn khu
vực và trên cả các diễn đàn quốc tế.
Thứ ba, qua phần trình bày tổng quan về Thái Lan ở trên, có thể dễ dàng
nhận thấy rằng Việt Nam và Thái Lan có tiềm năng và điều kiện phát triển rất
giống nhau. Ngoài ra, mô hình phát triển ngoại thương của Thái Lan cũng được
xem là mô hình gần gũi nhất với Việt Nam (bên cạnh mô hình của Malaysia) và
nước bạn lại đi trước chúng ta cả thập kỉ về phát triển kinh tế. Mối quan hệ hợp
tác với Thái Lan vì thế sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho Việt Nam trong việc học hỏi
các kinh nghiệm phát triển, “mở cửa” của Thái Lan cũng như rút ra được bài học
kinh nghiệm từ những thất bại và khủng hoảng mà Thái Lan đã gặp phải. Bên
cạnh đó, việc hợp tác mở ra nhiều triển vọng để Việt Nam và Thái Lan phát triển

mạnh những sản phẩm, lĩnh vực mà cả hai cùng có thế mạnh.
Như vậy có thể nói việc phát triển tăng cường quan hệ hợp tác với Thái
Lan nói chung, hợp tác về kinh tế nói riêng có một vai trò không nhỏ trong quá
trình phát triển kinh tế của Việt Nam.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT
NAM THÁI LAN
2.1. CÁC HIỆP ĐỊNH HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – THÁI LAN
Tính đến nay Việt Nam và Thái Lan đã ký một số hiệp định đặt nền móng
pháp lý cho sự hợp tác cùng có lợi. Có những hiệp định đã được ký rất sớm,
ngay sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, đó là Hiệp định thương mại,
hợp tác kinh tế và kỹ thuật, Hiệp định vận chuyển hàng không (01-1978). Mặc
dù thời kỳ đó quan hệ buôn bán chưa nhiều, song từ khi đường hàng không hai
nước được mở, việc giao lưu giữa hai nước cũng như giữa Việt Nam và thế giới
tăng nhanh.
Bước vào những năm cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90, hai nước lần lượt ký
hoặc sửa đổi bổ sung nhiều hiệp định quan trọng khác như Hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư (10 - 1989), Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và Hiệp
định tín dụng (12 - 1992), Hiệp định hợp tác du lịch (03 - 1994) và Nghị định
thư sửa đổi hiệp định thương mại, hợp tác kinh tế kỹ thuật ký trước đây (01 -
1992).
Bên cạnh đó cơ chế hợp tác và phối hợp cũng từng bước được hình thành:
Uỷ ban hỗn hợp về hợp tác kinh tế kỹ thuật (theo hiệp định cùng tên ký 09 –
1991); Uỷ ban về nghề cá và trật tự trên biển (12 - 1994). Bên dưới uỷ ban hỗn
hợp về hợp tác kinh tế kỹ thuật còn có các tiểu ban chuyên ngành đi sâu từng
lĩnh vực hợp tác như kỹ thuật dầu khí (JTC), khoa học kỹ thuật (1993), thương
mại tài chính (1995), giao thông vận tải (1996).
Bước sang thế kỷ 21, mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Thái Lan
càng được khẳng định thêm trong các văn bản như: Tuyên bố chung về khuôn
khổ hợp tác Việt Nam – Thái Lan trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI
(20/02/2004); Hiệp định khung về hợp tác kinh tế (21/02/2004); Tuyên bố chung

về Chiến lược chung về đối tác kinh tế (20/12/2006); Chiến lược Kinh tế chung
Việt Nam – Thái Lan (JSEP) (05/2009).
2.2. KHÁI QUÁT VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – THÁI LAN TRƯỚC
NĂM 1995
Trong thời kỳ Việt Nam thực hiện cơ chế kế hoạch hóa nền kinh tế tập
trung, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Thái Lan đã đạt được những thành
tựu nhất định. Trong thời kì đó Thái Lan đã là một trong những bạn hàng thuộc
thị trường khu vực II - khu vực ngoài hệ thống XHCN của Việt Nam. Tuy nhiên
trong giai đoạn này khối lượng trao đổi mậu dịch giữa hai nước không lớn và
không ổn định.
Theo bài viết “Quan hệ kinh tế Việt Nam – Thái Lan: 20 năm phát triển”
của tác giả Hà Huy Thành đăng trên Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 224 tháng
01/1997 thì nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan sang Việt Nam trung
bình chiếm dưới 2% tổng giá trị xuất khẩu hàng năm của Thái Lan và kim ngạch
hàng hóa mà Thái Lan nhập khẩu từ Việt Nam chỉ chiếm khoảng 0,07% tổng
kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan. Như vậy, bình quân trong giai đoạn này xuất
khẩu của Thái Lan sang Việt Nam đã vượt xa số Thái Lan nhập khẩu từ Việt
Nam. Từ 1977 hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Thái Lan phát triển
mạnh mẽ. Năm 1978 hai nước đã kí Hiệp định hợp tác thương mại, kinh tế và kỹ
thuật 11/01; Hiệp định vận chuyển hàng không 11/01. Bình quân trong 3 năm
1977 – 1979, kim ngạch xuất nhập khẩu của Thái Lan – Việt Nam tăng hơn 3
lần. Đó là kết quả của sự kiện thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa hai
nước năm 1976.
Bảng 2.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Thái Lan
thời kì 1972 - 1979
(Đơn vị: triệu USD)
Năm 1972 1973 1974 1975 1976 1977 1978 1979
Tổng kim
ngạch
XNK

5,7 14,7 5,5 3,0 1,61 9,91 9,96 17,9
(Nguồn: “Quan hệ kinh tế Việt Nam – Thái Lan: 20 năm phát triển” - Hà Huy
Thành - Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 224 tháng 1/1997)

Tuy nhiên trong thời kỳ 1980 – 1985, do tác động của nhiều yếu tố chính
trị, xã hội phức tạp (tình hình bất ổn định trong khu vực châu Á, Mỹ áp đặt
chính sách cấm vận chống Việt Nam) quan hệ thương mại giữa Việt Nam và
Thái Lan hầu như gián đoạn hoàn toàn.
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam (tháng 12 – 1986) đã
quyết định chính sách đổi mới toàn diện đất nước, trước hết là đổi mới kinh tế.
Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Việt Nam chủ trương đa phương hóa, đa dạng
hóa hoạt động đối ngoại, mở cửa rộng rãi với bên ngoài. Khẩu hiệu “Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nước, các dân tộc” trở thành phương châm hành
động của Đảng và chính phủ Việt Nam trong mọi hoạt động của quan hệ đối
ngoại, trong đó có kinh tế đối ngoại.
Đối với Thái Lan, thời kỳ những năm 1987 - 1988 là thời kỳ kinh tế phát
triển nhanh chóng, tăng trưởng GDP hàng năm đạt con số 10%. Kim ngạch xuất
khẩu tăng vọt. Xuất hiện một tình hình là Thái Lan cần kinh tế nguyên liệu để bổ
sung cho nguồn nguyên liệu trong nước đã bắt đầu thiếu hụt. Như vậy cả chính
sách đổi mới kinh tế của Việt Nam, cả thực trạng phát triển kinh tế của Thái Lan

×