Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn láng hạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 72 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, sự đa dạng hoá các hoạt động Ngân hàng,
đặc biệt là việc chuyển mạnh sang hoạt động cung cấp dịch vụ trung gian
thanh toán-lĩnh vực được coi là Ýt rủi ro-là một xu thế ngày càng trở nên rõ
nét. Tuy vậy tín dụng vẫn đang là hình thức kinh doanh chủ yếu, chiếm tỷ
trọng lớn trong kinh doanh ngân hàng. Nhìn chung, hoạt động tín dụng vẫn
chiếm tới 70%-80% tổng tài sản và nó tạo ra cũng tới 70%-80% lợi nhuận
cho ngân hàng. Chính vì thế, chất lượng tín dụng ảnh hưởng mang tính quyết
định tới hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đối với hệ thống ngân hàng việt
nam, điều này càng rõ hơn.
Hoạt động tín dụng, như bản thân từ ngữ nói lên, là hoạt động cho
thuê vốn dùa trên cơ sở lòng tin lẫn nhau, nhưng rõ ràng tính hiệu quả của
đồng vốn phụ thuộc rất nhiều vào người vay: đó là khả năng kinh doanh,
điều kiện thị trường và cả ý muốn trả nợ của họ. Vì thế hoạt động tín dụng
hàm chứa rất nhiều rủi ro, nó tạo nên mức độ rủi ro lớn nhất cho ngân hàng,
măc dù bản thân hoạt động ngân hàng cũng là lĩnh vực hàm chứa nhiều rủi ro
nhất trong tất cả các lĩnh vực kinh doanh. Hàng loạt các vụ sụp đổ tín dụng
những năm qua như Tamexco, EPCO -Minh Phụng gây chấn động cả hệ
thống ngân hàng Việt Nam là những bằng chứng xác thực nhất.
Như thế từ vai trò và rủi ro của tín dụng trong kinh doanh tiền tệ, vấn
đề đặt ra cho các ngân hàng là làm sao phòng ngõa và phân tán giảm thiểu
rủi ro. Mét trong những biện pháp cơ bản và hiệu quả nhất là thẩm định có
hiệu quả các dự án xin vay. Thẩm định tín dụng là bước đầu tiên và quan
trọng nhất để đảm bảo rằng khoản cho vay đạt được ba tiêu chí cơ bản: lợi
nhuận - an toàn- lành mạnh. Muốn như vậy, đòi hỏi các cán bộ tín dụng phải
tuân thủ theo mét quy trình nghiêm ngặt, khoa học và linh động.
Qua thời gian 3 tháng thực tập tại NHNo &PTNT Láng Hạ, tôi thấy
vấn đề thẩm định đem lại cho tôi nhiều điều đáng quan tâm tìm hiểu. Với sự
hướng dẫn nhiệt tình của GS-TS Cao Cự Bội và các cán bộ tại chi nhánh
Láng Hạ, tôi đã hoàn thành đề tài "Một số giải pháp nâng cao chất lượng
thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông


thôn Láng Hạ". Đề tài có kết cấu như sau:
* Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng và thẩm định dự án đầu
tư.
* Chương 2: Công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ.
* Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu
tư tại NHNo & PTNT Láng Hạ.
Những quan điểm về thẩm định tín dụng vẫn đang được thảo luận và
hoàn thiện. Vì thế tôi hy vọng rằng đề tài tôi thực hiện sẽ là một nét chấm
phá trong qua trình tư duy về vấn đề này. Do thời gian ngắn và kiến thức
còn hạn chế, bài viết không tránh khỏi sự thiếu sót, tôi rất mong được sự
đóng góp của mọi người.
Chương I
Những vấn đề cơ bản về tín dụng
và thẩm định dự án đầu tư.
1.1. Tín dụng trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
1.1.1. Tín dụng trong nền kinh tế thị trường
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, con người bước từ sản xuât
giản đơn tự cung tự cấp sang nền sản xuất hàng hoá với mục đích trao đổi.
Sự chuyên môn hoá sản xuất, một mặt là kết quả và cũng tạo nên trao đổi,
mặt khác nảy sinh tình trạng khi thiếu, khi thừa nguồn lực cho hoạt động sản
xuất kinh doanh, từ đó dẫn đến nhu cầu vay mượn lẫn nhau giữa các chủ thể
trong xã hội. Tín dụng hình thành. Đặc biệt từ khi có sự xuất hiện của tiền tệ,
tín dụng càng mở rộng và phát triển nhanh hơn. Vậy tín dụng là gì?. Có
nhiều cách định nghĩa về tín dụng, nhưng nhìn chung, ta có thể hiểu như sau:
"Tín dụng là mối quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển nhượng tạm thời
một lượng giá trị (hình thái tiền tệ hay hiện vật) từ người sở hữu sang người
sử dụng trong một thời gian nhất định, để sau đó thu hồi về một lượng giá trị
nhiều hơn lượng giá trị ban đầu theo sự thoả thuận giữa hai bên ".
Trong nền kinh tế thị trường, sự chuyên môn hoá sản xuất diễn ra sâu

sắc, sự vận động trong chu kỳ sản xuất kinh doanh ngày càng nhanh tróng.
Do sự tách biệt tương đối giữa sản xuất và tiêu thụ, giữa ngành này và ngành
khác đã làm mâu thuẫn giữa thừa vốn và thiếu vốn càng lớn. Chính vì thế tín
dụng phát triển là điều kiện giải quyết mâu thuẫn này. Tín dụng góp phần
đẩy nhanh chu trình luân chuyển vốn, thông suốt hoạt động kinh doanh, và
xét trên bình diện toàn xã hội thì nó giúp cho việc phân phối và sử dụng các
nguồn lực được hiệu quả tối ưu hơn. Quan hệ tín dụng được biểu hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau như sau:
- Quan hệ tín dụng thương mại giữa các doanh nghiệp với nhau như
bán chịu hàng hoá, phát hành các thương phiếu.
- Quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp với các chủ thể khác qua phát
hành trái phiếu và bán hàng trả góp.
- Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và chủ thể khác.
- Quan hệ tín dụng nhà nước giữa một bên là nhà nước và môt bên là
các chủ thể khác trong xã hội qua hình thức phát hành tín phiếu, trái phiếu
1.1.2. Tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là
Ngân hàng-tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ- với một bên là các cá nhân và
tổ chức trong xã hội, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là chủ nợ vừa là
con nợ.Tín dụng Ngân hàng là một đặc trưng quan trọng trong nền kinh tế
tiền tệ, nó khắc phục được nhược điểm của tín dụng thương mại, đó là mới
chỉ bó buộc trong quan hệ giữa các doanh nghiệp làm ăn với nhau.Tín dụng
Ngân hàng giải quyết được yêu cầu tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi trong
toàn xã hội và cho vay với khối lượng và thời hạn khác nhau.Để đạt được
điều này, Ngân hàng tham gia quan hệ tín dụng dưới hai tư cách. Với mục
tiêu tập trung nguồn vốn, Ngân hàng đóng vai trò là người huy động và vay
vốn qua các kỹ thuật chuyên môn. Với vai trò là người có vốn, Ngân hàng
thực hiện hành vi gọi là cho vay. Tuy nhiên do tính chất phức tạp của hoạt
động cho vay nên khi nói tới tín dụng Ngân hàng, người ta thường đề cập tới
vấn đề cho vay hơn là nhắc tới hoạt động huy động.

Trong kinh doanh Ngân hàng, hiện nay hoạt động tín dụng chiếm tỉ
trọng lớn, từ 70%-80% tổng tài sản và nó cũng là lĩnh vực đem lại nhiều lợi
nhuận nhất. Các hình thức tín dụng Ngân hàng rất đa dạng như cho vay, bảo
lãnh, cầm cố, cho thuê tài chính.v.v, trong đó cho vay là hoạt động cơ bản.
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau có thể phân biệt thành nhiều dạng như:
cho vay có bảo đảm và cho vay không có bảo đảm; cho vay sản xuất và cho
vay tiêu dùng; cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn.v.v
1.1.3. Rủi ro tín dụng:
Ngân hàng là doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trong lĩnh vưc tiền tệ.
Nó có quan hệ với hầu hết các thành phần kinh tế và các cá nhân trong xã
hội, nó đóng cả 2 vai trò : huy động và cho vay. Chính vì thế hoạt động kinh
doanh Ngân hàng là hết sức rủi ro. Rủi ro của Ngân hàng phần lớn xuất phát
từ rủi ro của các chủ thể khác có quan hệ, hay nói cách khác, các chủ thể đã
"chuyển" rủi ro về phía Ngân hàng. Chịu tác động từ 2 phía, người gửi và
người vay, nên có rất nhiều loại hình rủi ro trong kinh doanh tiền tệ, tuy
nhiên có thể khái quát 4 loại chính: rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro
tỉ giá hối đoái và rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng là rủi ro do không thu hồi được hoặc thu hồi không
đúng hạn, không đầy đủ lãi và vốn vay. Đây là loại rủi ro thường xảy ra nhất
và tạo ra nhiều khó khăn nhất cho hoạt động ngân hàng vì các khoản cho
vay chiếm tỉ trọng lớn trong tổng tài sản của ngân hàng. Do đặc trưng của
hoạt động tín dụng là cho vay trên cơ sở lòng tin nên bất cứ một sự biến
động nào ảnh hưởng tới năng lực trả nợ của người vay đều vi phạm nguyên
tắc trên và dẫn tới rủi ro; các ngân hàng hầu như không thể tránh khỏi mà chỉ
có thể nỗ lực quản lý và phân tán rủi ro. Về nguyên nhân gây nên rủi ro, có
thể kể tới một số nguyên nhân phổ biến sau:
+ Nguyên nhân chung:
- Do thiên tai, địch hoạ, chiến tranh
-Do những biến động bất lợi về kinh tế xã hội ảnh hưởng ngoài
dự đoán đối với người vay vốn dẫn đến suy yếu khả năng trả nợ.

+ Nguyên nhân chủ quan về phía Ngân hàng :
- Đánh giá không sát tình hình sản xuất kinh doanh của người
vay, quản lý không tốt vốn vay và khả năng trả nợ của khách hàng.
- Đánh giá không đúng, đầy đủ các bảo đảm tín dụng.
+ Nguyên nhân về phía khách hàng.
- Khách hàng gặp rủi ro trong kinh doanh dẫn đến không trả
được nợ.
- Khách hàng chủ định lừa đảo Ngân hàng
Trong những nguyên nhân trên, Ngân hàng không thể kiểm soát
nguyên nhân chung, nhưng với nguyên nhân từ phía khách hàng và Ngân
hàng, thì hoàn toàn có thể dự báo hoặc hạn chế phân tán rủi ro thông qua
việc quản lý tín dụng chặt chẽ. Và một trong số các hoạt động đó là tiến hành
tốt công tác thẩm định tín dụng các dự án vayvốn đầu tư.
*
* *
Tóm lại, tín dụng là một hoạt động cơ bản và chủ yếu của bất cứ ngân
hàng nào trong giai đoạn hiện nay. Nó đã và đang là mảng mang lại nhiều lợi
nhuận nhất cho Ngân hàng. Song nó cũng đã là nguyên nhân chủ yếu nhất
mang lại rủi ro cho Ngân hàng, mà rủi ro Êy dẫn tới thất thoát tài sản và
thậm chí cả sự sụp đổ kinh doanh. Chính vì thế quản lý tín dụng và rủi ro tín
dụng là những hoạt động hết sức quan trọng của tất cả các Ngân hàng.
1.2. Thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng.
1.2.1. Khái niệm về thẩm định dự án đầu tư.
Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn và tạo mới,
mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng
trưởng về số lượng, cải tiến về chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó
trong một khoảng thời gian nhất định. Dự án đầu tư có thể được xem xét
dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng dưới con mắt của nhà Ngân hàng, người
sẽ bỏ vốn đầu tư, thì khía cạnh lợi nhuận và khả năng tài chính, khả năng
hoàn vốn luôn được quan tâm hàng đầu. Để đánh giá các khía cạnh này,

Ngân hàng phải tiến hành một loạt các hoạt động mà ta gọi là thẩm định,
nhằm tới mục đích cuối cùng là trả lời được câu hỏi "Có nên cho vay hay
không ?". Các hoạt động thẩm định về cơ bản là giống nhau giữa các Ngân
hàng, tuy nhiên một số Ngân hàng nhấn mạnh vào hoạt động này, trong khi
đó một số khác lại nhấn mạnh hoạt động khác. Nói chung chóng bao gồm
việc thu thập thông tin có ý nghĩa đối với việc đánh giá tín dụng, phân tích
các thông tin thu thập được để trợ giúp quyết định tín dụng, lưu trữ các thông
tin xử lý để sử dụng trong tương lai. Như vậy có thể định nghĩa thẩm định dự
án đầu tư như sau:
"Thẩm định dự án đầu tư là việc thu thập và phân tích một cách khách
quan toàn diện những thông tin ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án
để phục vụ quyết định đầu tư, cho phép đầu tư hay quyết định tài trợ".
Như vậy, theo tác giả, thẩm định dự án đầu tư dưới con mắt của nhà
Ngân hàng, phải bao gồm cả hoạt động thu thập và phân tích thông tin, đánh
giá tính khả thi theo quan điểm của người cho vay.
1.2.2. Ý nghiã của công tác thẩm định dự án đầu tư:
Như trên đã đề cập, hoạt động tín dụng hàm chứa rất nhiều rủi ro, vì
thế đứng trước một dự án vay vốn, Ngân hàng phải đảm bảo được rằng đây
không phải là một cuộc đầu tư mà rủi ro không tương xứng với lợi nhuận.
Thẩm định dự án vay vốn sẽ giúp bảo vệ những dự án có triển vọng, loại trừ
những dự án tồi, đảm bảo cho việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Thẩm
định chính xác giúp Ngân hàng tránh được hai thất bại:
+ Mét là, nếu dự án vay vốn khả thi mà ngân hàng không cho vay thì
sẽ mất cơ hội tìm kiếm lợi nhuận, mất khách hàng tốt.
+ Hai là, nếu dự án vay vốn tồi mà ngân hàng vẫn đầu tư thì sẽ xảy ra
rủi ro mất vốn, thua lỗ, mất an toàn trong kinh doanh.
Ngoài ra thông qua thẩm định dự án, Ngân hàng sẽ tìm được lời giải
thích chính xác vì sao chấp nhận cho vay và vì sao không. Từ đó giúp cho
việc giải đáp thắc mắc của chủ dự án và là phương thức giữ khách hàng có
hiệu quả.

Như vậy thẩm định tín dụng là khâu quan trọng trong quy trình cho
vay của Ngân hàng. Và để đảm bảo công tác này mang lại đầy đủ ý nghĩa
của nó, yêu cầu :
- Công tác thẩm định phải bám sát chủ trương đường lối phát triển
kinh tế của Nhà nước, của chính quyền địa phương theo từng thời kỳ.
- Phải dùa trên chính sách tín dụng của Ngân hàng ; chính sách khách
hàng, hướng đầu tư, cơ cấu đầu tư.v.v.
- Phải được tổ chức theo mét quy trình chặt chẽ, khoa học và linh
động.
- Kết quả thẩm định phải toàn diện, chính xác, khách quan và kịp thời.
1.2.3. Chất lượng công tác thẩm định:
Khi thực hiện phân tích dự án, người ta có thể nhìn nó dưới nhiều góc
độ khác nhau. Do đó, đánh giá chất lượng công tác thẩm định cùng tuỳ thuộc
vào những góc độ Êy.
- Về phía cơ quan Nhà nước; chất lượng thẩm định dự án đầu tư thể
hiện ở việc chọn được dự án có lợi cho các bên tham gia, đóng góp vào sự
phát triển của nền kinh tế và không vi phạm, các quy định về bảo vệ môi
trường.
- Về phía chủ đầu tư: chất lượng thẩm định dự án đầu tư là giúp họ
lùa chọn được phương án đầu tư tốt nhất, mang lại hiệu quả cao nhất.
- Về phía nhà tài trợ: chất lượng thẩm định dự án đầu tư là lùa chọn
được dự án có tính hiệu quả tài chính cao, có khả năng hoàn trả vốn đúng
thời hạn, đánh giá đúng thực chất kết quả của dự án.
Ngân hàng với vai trò là một nhà tài trợ, rõ ràng sẽ đánh giá cao
các khía cạnh tài chính, lợi nhuận, năng lực trả nợ của dự án. Tuy nhiên để
đạt tới mục tiêu đảm bảo khoản cho vay có đủ 3 yếu tè : lợi nhuận-an toàn-
lành mạnh, đòi hỏi Ngân hàng không thể đánh giá phiến diện dự án. Nên
quan niệm về chất lượng thẩm định không còn bó hẹp ở lĩnh vực tài chính
như trước đây mà đã mở rộng hơn nhiều. Và một trong những nguyên nhân
là do các yếu tố tài chính và phi tài chính ngày càng trở lên ràng buộc chặt

chẽ với nhau. Chính vì thế, công tác thẩm định dự án đầu tư càng ngày càng
trở lên phức tạp, yêu cầu ngày càng cao năng lực và kinh nghiệm của cán bộ
thẩm định.
Thẩm định dự án vay vốn là việc đánh giá hồ sơ xin vay để ra quyết
định có cho vay hay không. Như vậy cán bộ thẩm định cần làm những công
việc cụ thể gì? làm thế nào để đánh giá được dự án và đưa ra được các kết
luận? Đó là những câu hỏi sẽ được giải quyết ở phần tiếp theo.
1.2.4. Nội dung công tác thẩm định
1.2.4.1. Những nguồn thông tin để thẩm định.
Mét trong những hoạt động của công tác thẩm định là thu thập thông
tin về khách hàng và dự án vay vốn . Chất lượng thông tin thu thập là yếu tố
quan trọng ảnh hưởng tới việc đánh giá và kết luận sau này. Có nhiều nguồn
thông tin để cán bộ thẩm định khai thác, sau đây là một số nguồn cơ bản.
+) Phỏng vấn người xin vay:
Qua phỏng vấn người xin vay, cán bộ tín dụng sẽ biết được lý do vay
và yêu cầu xin vay có đáp ứng được chính sách tín dụng của Ngân hàng hay
không. Những thông tin ban đầu về lịch sử phát triển của ngành nghề kinh
doanh, kiến thức, kinh nghiệm của đội ngò cán bộ chủ chốt, bản chất của sản
phẩm của dự án, nguồn nguyên liệu, ưu thế cạnh tranh, khả năng thị
trường.v.v, cũng có thể thu thập được. Ngoài ra, có thể thu được những nhận
xét nào đó về tính thật thà, ý muốn trả nợ của người vay để xem xét có cần
thiết có vật bảo đảm hay không. Tóm lại phỏng vấn người xin vay sẽ cung
cấp cho cán bộ tín dụng các thông tin có tính phác thảo, kiểm tra về người
vay vốn và dự án vay vốn.
+) Sổ sách của Ngân hàng :
Những thông tin lưu trữ qua sổ sách ngân hàng có thể cung cấp thông
tin tín dụng, nếu người vay đã từng có quan hệ với ngân hàng. Những số liệu
về việc chi trả các khoản vay trước đây, số dư tài khoản tiết kiệm, số dư tài
khoản tiền gửi.v.v có thể cho biết tính cách của người vay, tình hình tài
chính hay triển vọng kinh doanh của họ. Ngay cả với các khách hàng chưa

từng quan hệ với ngân hàng, hồ sơ tập trung còng cho biết một số thông tin
nào đó.
+) Điều tra nơi hoạt động kinh doanh của người vay.
Các doanh nghiệp xin vay phải cho phép nhân viên tín dụng tham
quan nơi kinh doanh của họ. Thông qua việc này, nhân viên tín dụng có thể
biết được một số thông tin về mức độ phát triển của một doanh nghiệp, về
trình độ quản lý tổ chức nhân sự. Mức độ nhén nhịp hay đình trệ, sự gọn
gàng và trật tự hay lộn xộn và xáo trộn trong sản xuất kinh doanh, tình hình
hàng tồn kho, tình trạng thiết bị sản xuất, vật thế chấp.v.v, là những thông tin
phản ánh khá sát thực thực trạng doanh nghiệp và tương lai dự án xin vay mà
một cán bộ tín dụng có năng lực phải thu thập được. Tuy vậy cần lưu ý rằng
rất có thể những thông tin đó không chính xác do doanh nghiệp đã cố tình
"tô vẽ" hình ảnh của mình trước khi nhân viên tín dụng đến điều tra.
+) Các báo cáo tài chính.
Trong hồ sơ xin vay vốn, bất cứ người xin vay nào cũng phải cung cấp
cho Ngân hàng các báo cáo tài chính, đặc biệt là những dự án có số lượng
xin vay lớn, thời gian dài. Ngay cả những dự án nhỏ, người xin vay vẫn phải
cung cấp số liệu về tài sản, những khoản nợ, vốn tự có và các thông tin
khác phản ánh tình hình tài chính của họ. Rõ ràng là những thông tin thu
được từ các báo cáo tài chính là vô cùng quan trọng trong công tác thẩm
định. Tuy vậy cũng cần phải thấy là, những thông tin đó phản ánh các kết
quả của quá khứ và có thể nói lên điều gì đó trong xu thế tương lai những
hoàn toàn không quyết định tương lai. Vì thế, khi sử dụng những thông tin
này, không được coi là căn cứ duy nhất để ra quyết định tín dụng.
+) Mét số nguồn thông tin khác:
Ở mét số nước phát triển, có các tổ chức chuyên thu thập và bán thông
tin về các doanh nghiệp, hoặc có các cơ quan được quyền quản lý và cung
cấp miễn phí thông tin. Ở nước ta, có trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của
NHNN. Đây là một trong những nguồn mà ngân hàng cần khai thác để phục
vụ dự án.

Khi đánh giá một dự án, cán bộ tín dụng còn cần phải tìm hiểu về thị
trường mà doanh nghiệp tham gia, nguồn nguyên vật liệu sử dụng mạng lưới
phân phối sản phẩm.v.v. Ngoài ra cán bộ tín dụng còn phải thu thập các
thông tin về tình hình kinh tế xã hội, khả năng phát triển kinh tế, mức độ ổn
định xã hội Những thông tin này có thể được khai thác từ nhiều nguồn,
nhưng việc xử lý thông tin đó không phải đơn giản, nó yêu cầu người thẩm
định phải "trở thành" nhà nghiên cứu thị trường nhà dự đoán kinh tế. Vì vậy
có thể thấy, công việc thẩm định dự án vay vốn là hết sức khó khăn phức tạp.
Tóm lại, việc thu thập thông tin là một phần quan trọng trong công tác
thẩm định tín dụng. Vì thế các Ngân hàng luôn phải làm tốt việc lùa chọn
nguồn thông tin. Tuỳ vào tính chất của doanh nghiệp vay vốn, dự án vay vốn
lớn hay nhỏ, hình thức kinh doanh, loại sản phẩm dự định kinh doanh cũng
như tiềm năng phát triển của nó mà tiến hành lùa chọn nguồn thông tin phù
hợp với khả năng và chi phí tài chính bỏ ra.
1.2.4.2. Nội dung công tác thẩm định.
Thẩm định dự án vay vốn bao giê cũng gồm hai công việc chính là
kiểm tra đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính uy tín
của doanh nghiệp vay vốn và đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án dùa
trên quan điểm của ngân hàng. Cán bộ thẩm định sẽ không làm lại công việc
tính toán số liệu của người xin vay mà đi sâu vào tìm hiểu các thông tin đánh
giá doanh nghiệp, kiểm tra tính chính xác, đầy đủ lành mạnh của số liệu,
đánh giá chúng theo những tiêu thức quy định. Việc này có thể tiến hành dùa
trên hình thức đặt câu hỏi đối với những điểm nghi vấn nhằm yêu cầu sự giải
trình thêm ở phía người vay. Trên cơ sở các cuộc thảo luận Êy mà đi đến kết
luận cuối cùng.
1.2.4.2.1. Thẩm định doanh nghiệp vay vốn.
a) Thẩm định một số yếu tố mang tính chất định tính.
Có mét số yếu tố không được thể hiện trên các số liệu nhưng có ảnh
hưởng tới sự thành bại của dự án vay vốn cũng như mức độ rủi ro, tính an
toàn lành mạnh của khoản cho vay đòi hỏi cán bộ thẩm định phải quan tâm

đánh giá đầy đủ. Ở nội dung này, tuỳ thuộc vào khối lượng và thời hạn vốn
vay mà có thể đánh giá tỉ mỉ, sơ bộ hoặc bỏ qua một vài nội dung nào đó.
+ Đánh giá năng lực pháp lý của doanh nghiệp xin vay
Cán bộ tín dụng phải nắm rõ hình thức doanh nghiệp, tư cách pháp lý,
ngành nghề đăng ký kinh doanh, trụ sở, nơi giao dịch, những cá nhân đại
diện hay chịu trách nhiệm pháp lý cho doanh nghiệp. Qua điều tra năng lực
pháp lý, cán bộ tín dụng sẽ biết được đầu tư vào ngành nghề được cho phép
không , trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp với các khoản nợ như thế nào.
Khi xem xét cho vay, cũng nên nắm vững điều lệ và luật địa phương để
khẳng định được người nào có quyền thay mặt cho doanh nghiệp vay.
+ Uy tín của doanh nghiệp vay vốn.
Khái niệm uy tín có liên quan tới hoạt động cấp tín dụng, không chỉ
hàm ý uy tín về chất lượng sản phẩm hay sự tôn trọng các hợp đồng của
doanh nghiệp, tính sẵn lòng trả nợ mà còn mang ý nghĩa phản ánh tính kiên
quyết thực hiện tốt cả các điều khoản hợp đồng giao ước. Uy tín quan trọng
nhất trong tín dụng chính là tính thật thà và liêm chính của người xin vay. Rõ
ràng hồ sơ quá khứ của người xin vay trong việc thực hiện các hợp đồng là
tư liệu quan trọng đánh giá uy tín của họ. Tuy nhiên cần phải thấy rằng uy
tín được đánh giá thường trên cơ sở phán đoán chứ không thể hiện trên cơ sở
các thông tin số liệu đầy đủ và ngay cả các số liệu Êy cũng chỉ là hình ảnh
của quá khứ chứ không phải hoàn toàn ảnh hưởng tới tương lai. Điều đó nói
lên rằng quyết định tín dụng phải dùa trên kết quả tổng hợp từ nhiều mặt chứ
không chỉ đánh giá phiến diện một khía cạnh nào đó.
+ Đánh giá năng lực quản lý.
Đối với mỗi khoản cho vay, việc được hoàn trả từ lợi nhuận có thể coi
là tương đối chắc chắn. Việc tạo ra lợi nhuận đối với một doanh nghiệp lại
tuỳ thuộc vào tất cả các yếu tố ảnh hưởng tới lượng hàng bán, giá bán , giá
thành và chi phí. Trong các yếu tố này, người ta thường coi trọng chất lượng
quản lý, nhiều người coi nó là yếu tố chính để cấp tín dụng hay không. Khi
đánh giá yếu tố quản lý, thường xem xét khả năng của ban điều hành trong

việc thu hót nhân viên, nguyên liệu và quỹ vốn, tạo thời cơ và tận dụng thời
cơ, khả năng điều chỉnh kịp thời kế hoạch kinh doanh.v.v. Trong quá trình
thẩm định, cán bộ tín dụng phải đánh giá về mặt này tuy rằng đây là công
việc rất khó, đặc biệt là với những ban điều hành chưa làm việc lâu năm. Tuy
nhiên việc đánh giá là rất quan trọng.
+ Đánh giá các quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp.
Quyền sở hữu tài sản được coi là một trong những tiêu chuẩn tín dụng.
Thứ nhất muốn có sức cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp phải có máy
móc thiết bị, phương tiện, địa điểm.v.v. Chính các tài sản hay vốn chủ sở
hữu là một tiêu chuẩn đo lường sức mạnh tài chính của doanh nghiệp và
cũng thể hiện tính thận trọng, tài tháo vát của chủ doanh nghiệp. Thứ hai, các
quyền sở hữu tài sản có thể một phần hay toàn bộ là vật thế chấp cho khoản
vay và như vậy, khẳng định rằng khoản vay sẽ được hoàn trả nếu như khả
năng kiếm lời của người vay không đủ để thu hồi. Tuy nhiên khi đánh giá
các quyền sở hữu tài sản với tư cách là vật thế chấp, một nguyên lý không
nên vi phạm là tránh cho vay chỉ dùa vào sự đầy đủ của tài sản thế chấp. Một
khoản cho vay được đánh giá là thành công nếu nó tạo ra được lợi nhuận cho
ngân hàng và sự phát triển kinh doanh cho doanh nghiệp chứ không phải chỉ
là khả năng thu hồi được. Hơn nữa, trong trường hợp phải sử dụng tài sản thế
chấp để thu nợ, việc phát mại chúng thường tốn thời gian, chi phí và vướng
mắc nhiều thủ tục pháp luật. Chính vì thế, trong quá trình thẩm định chỉ nên
coi tài sản thế chấp là một yếu tố cần tính đến khi quyết định tín dông chứ
không phải là yếu tố mang tính quyết định.
+ Đánh giá các điều kiện kinh tế :
Có mét số yếu tố ngoài tầm kiểm soát của người vay và người cho vay
nhưng lại có thể ảnh hưởng mạnh tới tính khả thi của dự án vay vốn. Đó là
các điều kiện kinh tế chung như khả năng phát triển của một ngành, khuynh
hướng tiêu dùng của dân chúng, tình hình ổn định chính trị xã hội, mức độ
tăng trưởng hoặc suy thoái kinh tế.v.v. Những điều kiện này có thể biến một dự
án khả thi thành một dự án tồi tệ, có thể phá háng uy tín năng lực của doanh

nghiệp. Do đó đòi hỏi cán bộ thẩm định lúc này phải "trở thành" nhà dự báo
kinh tế. Với những món cho vay có kỳ hạn càng dài thì việc dự báo kinh tế
càng trở lên quan trọng bởi có nhiều khả năng xảy ra rủi ro trước khi mãn vay
đáo hạn. Tuy vậy, cũng như một số yêu cầu đánh giá định tính đã xét, việc đánh
giá các điều kiện kinh tế là khó khăn đối với cán bộ thẩm định bởi nó đòi hỏi
trình độ rất cao ở họ và điều này đôi khi không mang tính hiện thực.
b) Thẩm định tài chính doanh nghiệp và tình hình sản xuất kinh
doanh.
Trong phần này, dùa trên số liệu thống kê, các báo cáo tài chính quyết
toán của doanh nghiệp (ít nhất là 3 năm gần nhất và của các quí gần đây
nhất), cán bộ thẩm định phải thực hiện các phân tích để đưa ra những nhận
xét về tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh
nghiệp .Về cơ bản, phải xem xét được các mặt sau:
+ Sản xuất kinh doanh có ổn định không ? Lợi nhuận, phân phối lợi
nhuận ra sao? Doanh thu, doanh số bán, kiểm soát chi phí ?.
+ Tình hình cơ cấu vốn và sử dụng vốn.
+ Các chỉ tiêu hoạt động sử dụng vốn
+ Khả năng thanh toán và kiểm soát nợ vay?
Tóm lại là cán bộ thẩm định phải nắm chắc bức tranh thực về tình hình
tài chính doanh nghiệp. Đây sẽ là cơ sở, theo nhiều nhà kinh tế, là quan trọng
nhất để quyết định cho vay hay không. Tuy nhiên không nên hiểu là khi đánh
giá xấu về tài chính thì sẽ không cho vay và ngược lại bởi tình hình tài chính
trong quá khứ đôi khi bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh kinh tế khách quan hay
thời gian hoạt động của doanh nghiệp ( những doanh nghiệp mới đi vào hợp
đồng có thể bị lỗ trong một vài năm đầu). Chuẩn mực để đánh giá các chỉ
tiêu tài chính của doanh nghiệp là chỉ tiêu trung bình ngành. Khi chưa có các
chỉ tiêu trung bình ngành thì dùng chỉ tiêu quy ước hoặc so sánh với những
doanh nghiệp cùng loại hoạt động có hiệu quả, có tình hình tài chính vững
chắc.
* Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán:

Nhóm chỉ tiêu này phản ánh khả năng của doanh nghiệp trong việc
trang trải các mãn nợ. Người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
Hệ sè thanh toán Tài sản lưu động
ngắn hạn Nợ ngắn hạn
Đây là thước đo khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, nó cho biết mức độ
của các khoản nợ ngắn hạn có thể được trang trải bằng các tài sản có thể
chuyển thành tiền trong giai đoạn đương thời hạn món nợ đó. Hệ số này nếu
nhỏ hơn 1 thì tình hình thanh toán nói chung là khó khăn đối với doanh
nghiệp. Nếu lớn hơn 1 thì khả năng thanh toán là tương đối tốt, tuy nhiên nếu
quá cao thì cũng không phải là tốt vì khi đó sẽ có một lượng giá trị tài sản
lưu động tồn giữ quá mức không tham gia hoạt động sinh lợi . Đa số các
Ngân hàng chấp nhận hệ số này từ 1 đến 2.
=
Hệ sè thanh toán
nhanh
=
Vốn bằng tiền + Các khoản phải thu ngắn
hạn và có khả năng thu
Nợ ngắn hạn + các khoản phải trả
Hệ số này phản ánh việc thanh toán các khoản nợ sắp đến hạn mà
không cần bán các tài sản dự trữ. Nói chung hệ số này lớn hơn 0,5 là tốt
nhưng cũng không lên quá cao vì thể hiện lượng tiền trong két quá nhiều, sử
dụng vốn chưa hiệu quả.
Hệ sè thanh toán tức thời
=
Vốn bằng tiền
Nợ tới hạn
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp trong việc
chi trả ngay những khoản nợ tới hạn. Cũng như các hệ số trên, hệ số này lớn
hơn 1 là đảm bảo khả năng thanh toán nợ đến hạn, nếu nhỏ hơn 1 thì doanh

nghiệp sẽ phát sinh nợ quá hạn.
Khả năng thanh
toán nợ cuối cùng
+
=
Tài sản
lưu động
=
+
Tài sản
thiếu chê
xử lý
=
+
Chênh lệch tỉ giá
và chỉ số giá chưa
xử lý
Nợ ngắn hạn + các khoản phải trả
Hệ sè này phản ánh khả năng thực sự của doanh nghiệp trong việc
dùng tài sản lưu động trang trải công nợ ngắn hạn. Nếu hệ số nhỏ hơn 1 thì
tình hình doanh nghiệp là rất xấu.
* Nhóm chỉ tiêu kết cấu tài chính:
Nhóm chỉ tiêu này đánh giá mức độ tham gia của doanh nghiệp vào tài
trợ cho tài sản của mình, do đó chúng cũng phản ánh mức độ rủi ro khi Ngân
hàng tham gia tài trợ doanh nghiệp. Thường sử dụng một số chỉ tiêu sau:
Hệ số nợ
=
=
Nợ phải trả
Tổng tài sản

Chỉ tiêu này đo lường mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh
nghiệp. Đối với ngân hàng, hệ số này càng thấp thì càng an toàn, món nợ
của ngân hàng sẽ được bảo đảm hơn.
Một chỉ số tương đương cũng hay được dùng là:
Hệ số tự tài trợ
=
=
Vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
Hệ số này đo lường mức độ tham gia của doanh nghiệp vào tổng tài
trợ. Hệ số càng cao, mức độ an toàn đối với ngân hàng càng cao. Tuy nhiên
mức độ của hệ số này sẽ không giống nhau giữa các ngành. Ở mét số ngành
yêu cầu hệ số này cao, nhưng ở một số ngành khác, chẳng hạn ngành xây
dựng, lại yêu cầu mức thấp hơn.
Hệ số nợ dài hạn =
Tổng nợ dài hạn
Tổng nguồn vốn
Nếu hệ số này cao phản ánh doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều chủ
nợ, có cấu trúc vốn phức tạp. Khi sử dụng chỉ tiêu này cần kết hợp so sánh
nợ dài hạn được tài trợ cho loại hình tài sản nào để có được kết luận hợp lý.
Khả năng thanh toán lãi
vay
=
Lợi nhuận trước thuế + lãi vay
Lãi vay
Chỉ tiêu này được ngân hàng quan tâm như chỉ tiêu về khả năng thanh
toán vì nó phản ánh khả năng trả lãi vay. Nó dùa trên quan điểm cho rằng
nếu lãi vay không thể trả được thì độ rủi ro không trả được gốc là rất lớn.
* Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động.
Nhóm chỉ tiêu này cho phép ta đánh giá mức độ hiệu quả của doanh

nghiệp trong việc khai thác, sử dụng số vốn đang có.
Vòng quay hàng tồn kho =
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho
Chỉ tiêu này đang lường mức độ hợp lý của tài sản dự trữ (hàng
tồn kho). Hàng tồn kho được dự trữ với mục đích đảm bảo tính liên tục trong
sản xuất kinh doanh và đáp ứng nhu cầu thị trường. Mức hợp lý sẽ được
đánh giá trong quan hệ so sánh với giá vốn hàng bán trong kỳ (có thể thay
bằng doanh thu trong kỳ). Đối với nhà ngân hàng, hệ số này càng cao thì
càng tốt bởi phản ánh sự luân chuyển nhanh của hàng tồn kho. Nếu ngược lại
việc kinh doanh có thể bị cho là xấu, tốc độ luân chuyển chậm, thu hồi vốn
sẽ bị kéo dài.
Kỳ thu tiền bình quân
=
Các khoản phải thu
Doanh thu bình quân ngày
Chỉ tiêu này phản ánh thời gian cần thiết để thu hồi các khoản phải
thu, nó nói lên mức độ của doanh nghiệp bị chiếm dụng (ứ đọng trong khâu
thanh toán), và như vậy cũng ảnh hưởng tới khả năng thu hồi vốn của ngân
hàng. Do đó chỉ tiêu này càng thấp sẽ được ngân hàng đánh giá cao.
Hiệu suất sử dụng TSCĐ
=
Doanh thu thuần
TSCĐ (giá trị còn lại)
Hiệu quả sử dụng TSLĐ
=
Doanh thu thuần
(Vòng quay vốn lưu động) TSLĐ
Các chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn cố định hay vốn lưu động
thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng cao thì doanh nghiệp

hoạt động càng hiệu quả.
* Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời.
Các chỉ tiêu này phản ánh tổng hợp hiệu quả sản xuất kinh doanh
doanh nghiệp trên cơ sở so sánh lợi nhuận với nhiều chỉ tiêu khác như doanh
thu, tài sản, vốn chủ sở hữu
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm =
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu thì tạo được bao nhiêu lợi
nhuận, tức là đồng thời phản ánh mức độ kiểm soát chi phí của doanh
nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ doanh nghiệp kiểm soát chi phí
càng tốt.
Doanh lợi vốn tự có
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn tự có
Hệ sè sinh lợi tổng tài sản
=
LNST+ lãi vay
Tổng tài sản
Tổng tài sản được hình thành từ chủ sở hữu và vốn vay nên thu nhập
từ sản xuất kinh doanh sẽ dùng trả lãi vay một phần và tạo lên thu nhập cho
chủ sở hữu. Vì thế chỉ tiêu này phản ánh tổng hợp sức sinh lợi của tài sản
xem một đồng tài sản thì tạo ra bao nhiêu đồng cho cả doanh nghiệp và
người cho vay.
Trên đây là 4 nhóm chỉ tiêu tài chính cơ bản đề phản tích tình hình tài
chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Thông qua công
việc này, ngân hàng sẽ hiểu được toàn cảnh về khía cạnh tài chínhdoanh
nghiệp, từ đó có một trong những cơ sở quan trọng để ra quyết định cho vay
hay không.

1.2.4.2.2. Thẩm định dự án vay vốn.
a) Kiểm tra tính đầy đủ, hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ dự án.
* Giai đoạn xin xét dutyệt vay vốn:
Ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp đệ trình những văn bản, giấy tờ liên
quan tới dự án và sự hoạt động của nó:
- Đơn xin vay
- Luận chứng kinh tế kỹ thuật hoặc phương án sản xuất kinh doanh.
- Giải trình hiệu quả kinh tế dự án vay vốn.
- Văn bản quyết định đầu tư hoặc giấy phép đầu tư.
- Văn bản phê duyệt thiết kế kỹ thuật (với những dự án sản xuất)
- Các hợp đồng kinh tế ký kết giữa chủ đầu tư và bên liên quan.
- Hợp đồng giao nhận thầu (nếu có thiết kế xây lắp).
- Hợp đồng nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu (nếu dự án có nhập)
- Hợp đồng bảo hiểm công trình, lịch trả nợ
Tóm lại, ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp đệ trình đầy đủ các văn bản
giấy tờ liên quan tới dự án đầu tư nhằm kiểm tra tính đầy đủ, hợp lý, hợp lệ
của nó. Sau khi chứng minh được điều này, ngân hàng tiến hành xem xét
những khía cạnh sau, trong đó sẽ đặc biệt quan tâm tới nội dung kinh tế, tài
chính của dự án.
b. Thẩm định phương diện thị trường.
Khi đánh giá về phương diện thị trường, có hai nội dung chính cần
quan tâm là: quan hệ cung cầu hàng hoá được sản xuất hoặc kinh doanh
trong dự án vay vốn và khả năng cạnh tranh của dự án.
Về quan hệ cung cầu hàng hoá.
- Nghiên cứu yếu tố cầu đối với loại sản phẩm doanh nghiệp chuẩn bị
đưa vào thị trường ở trong nước và ngoài nước (tuỳ vào mục tiêu thị trường
của từng dự án). Ngoài ra phải xem xét cả các nhu cầu với sản phẩm cùng
loại và sản phẩm thay thế để từ đó có những nhận định sát thực về nhu cầu
thị trường trong tương lai và định vị được vị trí sản phẩm của doanh nghiệp.
- Tìm hiểu mức cung trên thị trường: tổng lượng cung đã đáp ứng

được bao nhiêu phần trăm lượng cầu. Có bao nhiêu nhà phân phối sản phẩm,
các lợi thế, yếu thế của họ. Các hình thức phân phối của họ như thế nào, khả
năng mở rộng hay thu hẹp phân phối sản phẩm của họ.
- Tình hình cạnh tranh trên thị trường : giá cả hàng hoá trên thị trường
có phù hợp với doanh nghiệp hay không ? có nhà phân phối nào chiến ưu thế
rõ rệt hoặc có khả năng định giá thị trường hay không ? Ngoài ra nên kết hợp
với phân tích về thị trường đầu vào để đánh giá chính xác mức độ cạnh
tranh.
Qua phân tích quan hệ cung cầu hàng hoá và các nhà phân phối sản
phẩm cùng loại, ta tiến hành kết hợp để phân tích khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường này:
- Tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp những năm qua, kinh
nghiệm của doanh nghiệp trong mối quan hệ với thị trường về những sản
phẩm mà nó cung cấp. Từ đó nhận xét nếu doanh nghiệp tham gia vào thị
trường mới này thì có thuận lợi, khó khăn gì về quan hệ khách hàng, mạng
lưới phân phối tiêu thụ, khả năng thu thập thông tin, nguồn nguyên liệu đầu
vào
- Các hợp đồng tiêu thụ hay bao tiêu sản phẩm về số lượng, giá cả
chủng loại, phương thức thanh toán. Các văn bản giao dịch, đàm phán liên
quan tới sản phẩm mà dự án sản xuất hoặc kinh doanh.
Như vậy cán bộ thẩm định khi nghiên cứu khía cạnh này cần chỉ ra
được tính khả thi (hay không) khi doanh nghiệp tham gia vào thị trường này
trong hiện tại và tương lai.
c. Thẩm định về phương diện kỹ thuật.
Đối với những dự án kinh doanh, yếu tố kỹ thuật ở đây không quá
quan trọng. Chủ yếu ta xem xét về phương diện vận tải, kho quầy giao dịch,
dụng cụ bán hàng. Trong mục này, ta chó ý nhiều hơn tới các dự án trung và
dài hạn có tính chất xây dựng sản xuất và đòi hỏi có luận chứng kỹ thuật.
Do vậy, về mặt lý thuyết, thường tập trung vào các mặt sau:
* Thẩm định quy mô dự án:

- Quy mô, công suất sự án có phù hợp với khả năng tiêu thụ của thị
trường hay không?
- Quy mô, công suất dự án có phù hợp về khả năng tài chính, khả năng
cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, khả năng quản lý doanh nghiệp hay
không.
* Thẩm định trang thiết bị, công nghệ.
Đối với những dự án sản xuất, dây chuyền, trang thiết bị, công nghệ là
những yếu tố mang tính chất sống còn bởi nó sẽ quyết định nhất tới năng
suất và chất lượng sản phẩm. Để đánh giá dây chuyền công nghệ, trang thiết
bị, người ta đưa ra một số nhận xét về:
- Công nghệ sản xuất đã được lùa chọn có phù hợp không, đã được
qua kiểm chứng thực tế tại thị trường nào chưa.
- Các hợp đồng chuyển giao công nghệ và mua bán thiết bị phải rõ
ràng chặt chẽ về nội dung, chú trọng trách nhiệm các bên về vấn đề vận hành
thử, bảo hành, đào tạo nhân viên nhằm hạn chế rủi ro.
- Những khía cạnh kỹ thuật như mức tiêu hao nguyên nhiên liệu, công
suất, bảo dưỡng, sửa chữa , tính đồng bộ và tính hiện đại của dây chuyền
trong mối tương quan với phương thức chuyển giao và giá cả.
Nhìn chung, xem xét công nghệ và thiết bị của dự án đòi hỏi những am
hiểu về máy móc, các thông số kỹ thuật ,là những mặt mà cán bộ thẩm định
còn nhiều hạn chế bởi không phải chuyên ngành của mình. Trong thực tế, các
ngân hàng thường kết hợp cùng các đơn vị kỹ thuật để kiểm tra về vấn đề này.
* Thẩm định việc cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào
khác.
Nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào là không thể thiếu cho việc vận
hành dự án. Dự án sẽ bị đình trệ nếu việc cung ứng đầu vào gặp khó khăn
hoặc không liên tục theo kế hoạch, Do đó, khi thẩm định vấn đề này, ngân
hàng cần phải xem xét:
- Tổng nhu cầu hàng năm về nguyên nhiên vật liệu trong mối quan hệ
với mức tiêu hao thực tế (theo các chỉ tiêu thiết kế máy móc).

- Kế hoạch, phương tiện dự trữ nguyên vật liệu mang tính thời vụ
nhằm đảm bảo tính liên tục của sản xuất.
- Kế hoạch lùa chọn các nhà cung ứng đầu vào. Tiêu chuẩn, chất
lượng yếu tố đầu vào của họ có đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp không.
- Với những dự án khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản, phải
kiểm tra tính đúng đắn của tài liệu thăm dò, điều tra, khảo sát, kiểm tra giấy
phép khai thác khoáng sản của cấp có thẩm quyền để đảm bảo dự án là hợp
pháp và hoạt động được lâu dài.
* Thẩm định về lùa chọn địa điểm xây dựng dự án.
- Về lùa chọn địa điểm xây dựng dự án đã đặt trong mối liên hệ về nơi
cung cấp nguyên vật liệu, nơi tiêu thụ sản phẩm, mức độ thuận tiện về giao
thông, thuận tiện cho sự đi lại của công nhân viên hay chưa ?
- Về mặt bằng xây dựng đã chú ý tới quy mô hiện tại và dự phòng
tương lai nhằm đạt yêu cầu về xử lý ô nhiễm, vệ sinh công cộng phòng cháy
chữa cháy hay chưa ?
- Địa điểm xây dựng phải tuân thủ các quy định của Nhà nước về quy
hoạch đất đai, kiến trúc xây dựng, phải tính toán đầy đủ các chi phí đền trù di
dân, giải phóng mặt bằng.
* Kiểm tra kế hoạch tiến độ thực hiện đầu tư.
Cán bộ thẩm định phải nắm vững các giai đoạn đầu tư, kế hoạch sử
dụng vốn, kế hoạch thu hồi vốn, kế hoạch nợ ngân hàng. Có thể tham gia
góp ý cho doanh nghiệp về cách thức đầu tư hợp lý từng bộ phận của dự án,
tránh thi công dàn trải làm phá vỡ kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm gây
khó khăn cho việc trả nợ.
d. Thẩm định phương diện tổ chức và quản lý dự án
Hiệu quả dự án đầu tư được quyết định ở khâu này; nhân tố con người
được phân công trong bộ máy điều hành doanh nghiệp cũng như dự án phải
được sắp xếp hợp lý thì sẽ giúp dự án hoạt động trôi chảy. Do đó, nên xem
xét những mặt sau:
- Mô hình tổ chức quản lý của dự án: đơn vị quản lý dự án là một bên

hay nhiều bên tham gia; quyền hạn, trách nhiệm và sự phối hợp giữa các bên
trong điều hành dự án.
- Xem xét năng lực hoạt động, uy tín các đơn vị tham gia thiết kế, thi
công, cung ứng thiết bị để đảm bảo dự án được thực hiện đúng tiến độ dự
kiến.
- Thẩm định khả năng chuyên môn, kinh nghiệm quản lý của đơn vị
điều hành dự án.
e. Thẩm định nội dung tài chính của dự án.
Dưới con mắt nhà ngân hàng, mét dự án thành công chỉ khi nó tạo ra
được lợi nhuận và đủ khả năng thanh toán các khoản nợ. Việc tài trợ cho một
dự án vay vốn chính là một hoạt động tín dụng, mà tiêu chí an toàn cho một
khoản tín dụng là nó được hoàn trả từ chính lợi nhuận và khấu hao của dự án
nó tài trợ. Vì thế đánh giá khía cạnh tài chính của dự án được xem là yếu tố
mang tính quyết định nhất tới việc ra quyết định đầu tư của ngân hàng.
Những đánh giá về thị trường, kỹ thuật, tổ chức quản lý là tiền đề và hỗ trợ
cho thẩm định tài chính. Sau đây là các nội dung chính cần đi sâu xem xét:
e
1
. Thẩm định việc tính toán tổng mức vốn đầu tư ban đầu.
Với những dự án trung và dài hạn, thường có liên quan tới xây dựng
hoặc mua sắm thiết bị. Do đó có thể chia vốn đầu tư ban đầu thành 3 loại :
vốn đầu tư xây lắp, vốn đầu tư thiết bị, vốn kiến thiết cơ bản khác:
- Vốn xây dựng cơ bản: ước tính trên cơ sở khối lượng công việc xây
lắp và giá xây lắp tổng hợp. Nội dung kiểm tra sẽ tập trung vào xem xét nhu
cầu xây dựng cơ bản có phù hợp với quy mô dự án không, dùa trên kinh
nghiệm hoặc tham khảo từ những dự án tương tự. Điều này để đảm bảo rằng
vốn cho vay chỉ được dùng vào bản thân dự án hoặc chủ doanh nghiệp không
cố tình giảm vốn đầu tư ban đầu nhằm tăng thêm tính khả thi cho dù án.
- Vốn mua sắm thiết bị: Căn cứ vào danh mục thiết bị, kiểm tra giá
mua và các chi phí kèm theo như vận chuyển, bảo quản theo quy định của

Nhà nước để tính toán chính xác số vốn bỏ ra. Với những thiết bị có kèm
theo việc chuyển giao công nghệ thì phải tính cả những chi phí như chuyển
giao, mua bí quyết kỹ thuật, đào tạo huấn luyện, thuê lắp đặt, vận hành chạy
thử
- Vốn kiến thiết cơ bản khác: Các khoản mục chi phí được tính vào
vốn đầu tư ban đầu theo quy định của Nhà nước.
Việc xác định chính xác vốn đầu tư ban đầu sẽ mang lại hai lợi Ých:
thứ nhất là giúp ngân hàng phòng ngõa doanh nghiệp lợi dụng vốn ngân
hàng vào dự án khác (khai quá cao vốn đâù tư ban đầu) hay cố ý tạo tính lợi
nhuận của dự án (khai giảm). Thứ hai, nã cho phép ngân hàng kiểm tra được
kế hoạch khấu hao trang thiết bị vì điều này liên quan tới lợi nhuận thực của
dự án và kế hoạch và nguồn thanh toán nợ.
Ngoài 3 loại trên, vốn đầu tư ban đầu còn bao gồm các loại hình sau,
yêu cầu cán bộ thẩm định phải kiểm tra chặt chẽ:
- Vốn lưu động ròng (nhu cầu vốn lưu động ban đầu): Đây là khoản
vốn bỏ ra để đảm bảo dự án có thể hoạt động bình thường sau khi hoàn thành
xây dựng. Tuỳ vào đặc điểm về chu kỳ sản xuất -tiêu thụ, chu kỳ cung ứng
vật tư, và kể cả nhu cầu dự trữ, tồn kho hợp lý mà cán bộ thẩm định đưa ra
nhận xét về tính hợp lý của vốn lưu động ròng.
- Chi phí thành lập: những loại không tính vào giá mua tài sản thiết bị,
xây dựng nhưng cần thiết cho dù án và nó được tính vào vốn đầu tư ban đầu
theo quy định chung.
- Chi phí lãi vay trong các dự án có thi công và đang ở giai đoạn xây
dựng, chưa đi vào sản xuất thì được tính vào vốn đầu tư ban đầu.
- Nhu cầu bổ sung vốn đầu tư hợp lý vào những năm tiếp theo.
Như vậy vốn đầu tư ban đầu cần được kiểm tra tính chính xác, đầy đủ,
hợp pháp, hợp lý để ngân hàng có kế hoạch giải ngân thích hợp, quản lý tốt
kế hoạch và nguồn trả nợ của dự án, đánh giá đúng khả năng tạo lợi nhuân.
e
2

- Thẩm định cơ cấu vốn và nguồn vốn:
- Cơ cấu vốn ở đây được hiểu là việc phân bổ tổng vốn đầu tư vào các
hoạt động xây dựng, mua sắm trang thiết bị, dự trữ.v.v., và chi cho hoạt động
sản xuất kinh doanh về điểm này, sẽ không có mẫu thống nhất cho tất cả các
ngành, cán bộ thẩm định buộc phải dùa vào kinh nghiệm, tham khảo những
dự án tương tự đã hoạt động để kiểm tra tính hợp lý của cơ cấu vốn. Ngoài ra
căn cứ vào tính chất, phạm vi hoạt động của dự án, tính toán chính xác cơ
cấu vốn nội tệ và ngoại tệ nhằm xác định được nguồn ngoại tệ tài trợ cho dù
án, xây dựng cơ sở quy đổi phục vụ tính toán hiệu quả đầu tư.
* Phân tích cơ cấu nguồn vốn và khả năng đảm bảo nguồn:
- Mét dự án có thể được tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau: vốn tự có,
vốn tài trợ từ chính phủ, vốn vay qua phát hành công cụ nợ, vốn vay ngân
hàng Vì tất cả nguồn này mới chỉ liệt kê trên giấy vì thế phải tính toán
chính xác để đánh giá khả năng thực tế về mức độ tham gia của từng nguồn.
- Đánh giá tỷ lệ nguồn vốn tự có trong tổng ngồn vốn đầu tư. Chỉ tiêu
này thường thay đổi tuỳ theo dự án thuộc ngành nào, doanh nghiệp vay vốn
có là khách hàng quen thuộc hay không, khả năng tài chính của họ ra sao.
Nhìn chung một dự án có mức an toàn chấp nhận được, theo nhiều ngân
hàng, khi doanh nghiệp chỉ phải huy động từ bên ngoài không qua 50% tổng
nguồn vốn.
- Đánh giá khả năng thực tế sử dụng các nguồn vốn: với nguồn tự có
phải xem xét năng lực tài chính của doanh nghiệp ở thời điểm hiện tại để
thấy được tính khả dụng của vốn này. Với vốn cấp từ ngân sách thì phải
nghiên cứu các cam kết bảo đảm của doanh nghiệp với Nhà nước, cam kết
tài trợ của các cấp với dự án. Với nguồn vốn vay thì phải phân loại từng chủ
nợ, ước đoán khả năng các chủ nợ sẽ cho vay, xác định lãi xuất phải trả, kế
hoạch trả nợ, ưu tiên trả nợ. Đây là vấn đề cần chú ý để tạo thuận lợi cho
việc thu nợ sau này.
e
3

- Thẩm định doanh thu và lợi nhuận dự kiến.
Trong mục này, vận dụng các kiến thức về kế toán và phân tích tài
chính, ngân hàng phải đánh giá tính chính xác, hợp lý của các con số mà
doanh nghiệp đưa ra:
+ Tính doanh thu dự kiến: nhận xét trên cơ sở liên hệ với các phân tích
thị trường và phân tích kỹ thuật.
+ Tính toán giá thành và chi phí sản xuất.
Trên cơ sở bảng tính giá thành đơn vị hay tổng chi phí sản xuất và các
giải trình của doanh nghiệp, đi sâu kiểm tra:
- Tính đầy đủ các yếu tố chi phí giá thành sản phẩm. Với các yếu tố
quan trọng thì phải xem xét tính hợp lý của các định mức mà doanh nghiệp
đưa ra.
- Kiểm tra cách tính và phân bổ chi phí vào giá thành sản phẩm, đảm
bảo rằng chúng hoàn toàn hợp lệ.
+ Trên cơ sở kiểm tra cách tính và phân bổ chi phí, cách tính doanh
thu dự kiến, ngân hàng thực hiện kiểm tra cách tính lợi nhuận hàng năm của
dự án.
e
4
- Đánh giá hiệu quả tài chính dự án.
Hiện nay có nhiều chỉ tiêu và cách đánh giá hiệu quả tài chính dự án
đầu tư. Dưới đây sẽ là một số chỉ tiêu và cách đánh giá phổ biến được các
ngân hàng sử dụng khi thẩm định khía cạnh tài chính.
* Đánh giá dự án bằng giá trị hiện tại:
Đây là cách đánh giá tính khả thi của dự án dùa trên các chỉ tiêu lãi
kép và giá trị kép, giá trị hiện tại ròng (lợi nhuận hiện tại ròng NPV), suất
doanh lợi nội bộ IRR. Các chỉ tiêu này tính trên nguyên tắc tiền có giá trị
thời gian.
+ Lãi kép và giá trị kép.
Lãi kép là lãi sinh lời qua các năm và lãi năm trước được gộp vào vốn

làm cơ sở tính lãi cho năm tiếp theo. Số tiền nhận được ở cuối mỗi năm bao
gồm tiền vốn và toàn bộ lãi xác định theo cách tính lãi kép được gọi là giá trị
kép.
Công thức tính :
Tn = V (1+i)
n
Trong đó:Tn là giá trị kép. Tn lµ gi¸ trÞ kÐp.
V là vốn đầu tư ban đầu
i là lãi suất năm
n là số năm đầu tư.
Thẩm định dự án qua việc đánh giá các chỉ tiêu lãi kép và giá trị kép
có ý nghĩa thực tiễn lớn, nó là mốc đánh giá hiệu quả tối thiểu mà người đầu
tư cần đạt được khi bỏ vốn đầu tư.
+ Giá trị hiện tại ròng NPV (Net Present Value)
Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng cho ta biết quy mô lợi nhuận thu được (đã
được quy về hiện tại) sau khi trừ đi mọi khoản chi phí và hoàn đủ vốn. Cơ sở
để tính giá trị ròng là lãi suất chiết khấu, nó được tính trên phương pháp giá
trị bình quân gia quyền của lãi suất vốn huy động và tỉ lệ sinh lời yêu cầu tối
thiểu của vốn chủ sở hữu.
Công thức tính NPV.
Trong đó:
- Ct : Vốn đầu tư thực hiện năm thứ t
- i : Lãi suất chiết khấu
- n : Thời gian hoạt động của dự án.
- Rt: Khoản thu hồi ròng năm thứ t
Rt bao gồm: lãi ròng + khấu hao - trả vốn vay. Riêng năm cuối Rt còn
gồm: thu hồi vốn lưu động ròng + Thu nhập ròng từ thanh lý tài sản của dự
án.
Như vậy, từ công thức tính NPV ta thấy:
- NPV >0 : dù án có lời

- NPV = 0: dự án hoà vốn
- NPV <0 : dù án bị lỗ
NPV càng lớn, dự án càng có lãi, và nếu có các dự án loại trừ thì chọn
dự án có NPV lớn hơn. Để tăng thêm hiệu quả đánh giá của phương pháp
này, người ta kết hợp thêm với tỉ lệ giá trị hiện tại ròng (NPVR). Công thức
tính:
NPVR
=
NPV
∑V
∑V : Tổng vốn đầu tư đã quy về thời điểm bắt đầu đầu tư.
Tỉ lệ này nói lên một đồng vốn bỏ ra hiện tại thì thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận hiện tại.
+ Tỉ suất thu hồi nội bộ IRR (Internal Rate of Return).
Tỉ suất thu hồi nội bộ là tỉ lệ chiết khấu mà tại đó NPV nhận giá trị 0.
Việc sử dụng IRR là để xác định tỉ lệ lãi suất chiết khấu tối đa mà dự án có

×