Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tín ngưỡng đối với dân tộc mường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.82 KB, 21 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài .
Dân tộc Mường cũng như tất cả các dân tộc khác sống và tồn tại trên
lãnh thổ nước ta, ngoài những nhu cầu sống tất yếu (cơm, áo…) thì dân tộc
Mường còn luôn luôn tồn tại một vấn đề đó là : Làm thế nào để có một đời
sống văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc mà không “bế quan toả cảng”. Đó
là một vấn đề lớn đang đặt ra cho dân tộc Mường trong giai đoạn phát triển
hiện nay. Thời buổi kinh tế thị trường thời buổi của vi tính và công nghệ
sinh học.
- Tín ngưỡng là một phần nhỏ của Tôn giáo, nó như được nâng nui
chăm sóc qua tiến trình phát triển của lịch sử. Để hiểu được đời sống văn
hoá nói chung (văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần) thì cần hiểu rằng
ngoài văn hoá vật chất của dân tộc Mường thì còn tồn tại song song là văn
hoá tinh thần (tôn giáo, tín ngưỡng, thờ cúng…) do vấn đề tín ngưỡng là
một vấn đề tinh thần mà nó tồn tại ở trong mỗi con người. Mà tín ngưỡng
thường là vấn đề xuất phát từ xã hội với những hiện tượng tự nhiên.
- Mặt khác vấn đề tín ngưỡng là một vấn đề bức xúc của các dân tộc
nước ta nói chung và của dân tộc Mường nói riêng, cũng chính như Đảng
và Nhà nước ta đã nhận định rằng vấn đề dân tộc là một vấn đề cực kì quan
trọng của nước ta trong giai đoạn phát triển tiến lên xã hội chủ nghĩa.
- Tín ngưỡng dân gian là một trong các loại tín ngưỡng khá phổ biến
của dân tộc Mường, với những đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của nó trong công
cuộc đưa đất nước ta ngày một đi lên hoà nhập với các nước trên thế giới.
Mà vấn đề tín ngưỡng là vấn đề nổi lên trên cả trpng lĩnh vực kế tiếp truyền
thống thờ cúng các thành hoàng làng và tổ tiên với ý nghĩa cần cho một
cuộc sống yên vui, mùa màng tươi tốt, bội thu Hơn nữa tín ngưỡng dân
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gian là một tín ngưỡng được du nhập từ tự nhiên. Nhưng do quá trình
phát triển của các hình thức kinh tế - xã hội và sự phát triển của khoa học,


kĩ thuật, đối lập với các thành tựu đó thì nó cũng nảy sinh hàng loạt các vấn
đề về văn hoá mang tính chất phi thực tế. Để giải quyết được các vấn đề
khó khăn này và phát huy được tính tích cực của tín ngưỡng dân tộc thì vấn
đề đặt ra là rất khó khăn và mang tính cấp thiết. Sống còn cho vấn đề dân
tộc và phát triển của đất nước.
-Mặt khác khi em chọn đề tài này tức là muốn dựa trên cơ sở khoa
học đã có và nhận thức được trong quá trình học trong nhà trường và xã hội
để đưa ra các cách, các phương pháp, phương hướng để giải quyết vấn đề
này.
Có thể nói rằng tín ngưỡng là một vấn đề hết sức hấp dẫn, vì tín
ngưỡng là một phần của đời sống xã hội mang đậm chất chính trị, để nâng
cao nhận thức chính trị trong các dân tộc thiểu số ở vùng cao, thì trước hết
phải quan tâm đến vấn đề tín ngưỡng. Vì vậy cũng như các vấn đề khác thì
tín ngưỡng của dân tộc Mường là một vấn đề cần quan tâm để gìn giữ và
bảo tồn các giá trị văn hoá, mà đó là mục tiêu cho sự phát triển một ý thức,
một xã hội.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
-Do đây là một bài nghiên cứu khoa học với nội dung, thời lượng
còn hạn chế, nên ở đây em đi tìm hiểu vấn đề tín ngưỡng để giải quyết một
số vấn đề cơ bản sau :
+ Do tình hình chính trị trên thế giới ngày càng phức tạp, như đã
hình thành các tổ chức khủng bố, các loại hình chuyên nghiên cứu và tìm
cách chống phá các nước XHCN như : CIA,và các tổ chức bí mật khác…
Nhưng đặc biệt hơn cả đó hình thức dùng các truyền đơn, tuyên truyền
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bằng miệng của các tổ chức này cho nhân dân ta chống phá nhà nước mà
đặc biệt là đối với các dân tộc thiểu số, do ít có hiểu biết,ít có cơ hội tiếp
cận với các điều kiện kĩ thuật hiện đại…. vì vậy chúng dùng nhiều chính
sách làm ngu dân, dụ dỗ nhân dân ta chống phá lại nhà nước ta. Đó là một

chính sách cực kì nguy hiểm mà bọn phản động dùng để chống phá nước
ta, đó là một trong những mục tiêu mà báo cáo khoa học này muốn tìm
hướng giải quyết.
+ Do quá trình nhận thức chính trị của nhân dân ta còn yếu, lại cộng
với sự du nhập hàng loạt các loại văn hoá mới với hai chiều hướng (tích
cực và tiêu cực). Để tiếp tục gìn giữ bản sắc và phát huy hơn nữa các bản
sắc dân tộc đã có và tiếp thu các loại văn hoá có tính tích cực cho dân tộc
mình. Mặt khác đó cũng là quá trình nhận thức - tín ngưỡng trải qua quá
trình phát triển của xã hội Việt Nam nói riêng và xã hội thế giới nói chung
thì nó đã phát huy được những gì ?, vai trò của nó ra sao đối với sự phát
triển của kinh tế - xã hội, ý nghĩa của việc đóng góp đó, các phương thức -
loại hình tác động. Nhưng cũng phải hiểu rằng nó cũng còn tồn tại những
mặt chưa tốt, mà qua đây cần vạch ra, chỉ rõ để tìm biện pháp khắc phục
dần, đưa đến một kết quả tối ưu.
+Tìm hiểu về vấn đề này chính để làm sáng tỏ các nguồn gốc tín
ngưỡng, tại sao lại có loại tín ngưỡng ấy ? tín ngưỡng ấy nó được tiến hành
như thế nào… Nó có tác động gì đối với đời sống của các dân tộc thiểu số
ở vùng sâu vùng sa, cụ thể là dân tộc Mường.
+ Mặt khác tìm hiểu về vấn đề này để khẳng định vị trí của dân tộc
Mường so với các dân tộc khác, thông qua hình thức so sánh là “Tín
ngưỡng dân gian”.
+ Mục đích cuối cùng của báo cáo khoa học là để nâng cao đời sống
tinh thần cho đồng bào dân tộc miền núi và từ đó củng cố đời sống tinh
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thần, đưa con người đi đúng quỹ đạo của mình và làm sao để mình - cá
nhân mỗi con người có thể đóng góp vai trò của mình trong sự nghiệp tiến
lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
 Đó là một số mục tiêu mà báo cáo khoa học này sẽ giải quyết, tuy
nó còn hạn chế nhưng do có tính chất thời lượng, nên mới dừng lại ở đó.

3. nhiệm vụ của đề tài:
* Báo cáo này như một lời cảnh báo, trước hết là đối với từng cá nhân cao
hơn nữa là đối với Đảng và nhà nước hãy chú ý hơn tới đời sống của dân
tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu vùng sa,đặc biệt là dân tộc Mường với
đời sống hết sức khó khăn không chỉ về vật chất mà cả về tinh thần, đặc
biệt còn suất hiện nhiều hiện tượng mê tín dị đoan, ngây nhiều tổn thất
trước hết là cho dân tộc Mường,sau đó ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.
* Nó còn như một ngọn cờ để cảnh báo nhân dân ta về tinh thần cảnh giác
đối với các thế lực phản đông bên trong và các lực lượng đối lập bên ngoài
đang tìm cách tiêu diệt các nước XHCN trong đó có Việt Nam, mà nổi trội
là chiến lược"Diễn biến hoà bình" của mỹ muốn thôn tính cả thế giới.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tín ngưỡng dân gian - hai loại tín ngưỡng cơ bản nhất của dân tộc Mường
là tục thờ thần và tổ tiên.
Dựa trên kết quả đã chứng minh (của các nhà khoa học ở trên) thì ta
có thể khẳng định rằng. Mọi tín ngưỡng đều là kết quả của sự đúc kết các
mối quan hệ của người với hiện thực khách quan của họ. Chính những đặc
điểm của điều kiện tự nhiên và xã hội là cơ sở để hình thành nên các loại
tín ngưỡng… Như ở thời kỳ sơ khai, khi mà cuộc sống của con người rất
gần gũi với vạn vật của tự nhiên, con người thường xuyên trực tiếp phải đối
phó với thiên nhiên, vì vậy thiên nhiên là đối tượng nhận thức của chính
họ. Và mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, được coi là mối quan hệ
thứ yếu, chi phối ảnh hưởng đến mọi quan hệ xã hội khác. Khi dùng tên các
loại động vật đặt tên cho các loài thị tộc cổ xưa, cùng với sự thờ cúng các
loại động - thực vật (tổ tiên) là yếu tố chi phối đời sống có tính định hướng
của môi trường tự nhiên. Với đời sống xã hội của người cổ xưa.
Bước vào thời tiền sử, khi loài người chuyển từ săn bắn, hái lượm
sang chăn nuôi, trồng trọt thì môi trường tự nhiên vẫn là yếu tố quyết định,
ảnh hưởng đến các quan hệ của người, với môi trường tự nhiên quy định

môi trường nông nghiệp (chăn nuôi, trồng trọt) và do đó nó định hướng
cách ứng xử cho các cư dân làm náyinh những tín ngưỡng đặc thù cho từng
vùng từng dân tộc.
-Do đất nước ta nằm trên bán đảo Đông Dương, vớiđịa hình nhỏ,
hẹp, nhưng nó dài, đặc biệt là đường bờ biển rất dài trên 3000 Km
2
, có tính
chất đặc thù của một bán đảo, cộng với khí hậu gió mùa, ấm,… từ đó tạo ra
một môi trường Việt Nam rất đặc biệt, rất phù hợp cho việc phát triển các
loại sinh vật riêng biệt. Do vậy khi nông nghiệp nước ta ra đời, từ săn bắt
hái lượm thì trồng trọt đã được phổ biến trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam.
Rất nhiều dữ liệu của ngành khảo cổ học cho thấy từ xa xưa, cư dân Việt
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nam đã biết thuần hoá các loài động vật khác nhau để phục vụ cho cuộc
sống của mình, những viên đá cuội được ghè đẽo hai mặt, cộng với mài để
tạo rìu, búa, chày… Việt Nam (đất nướcvn) nói chùng thì là minh chứng
khá rõ nét cho nên rau, củ, quả trên lãnh thổ này. Nhưng đặc biệt hơn là
được xuất phát trử cái nôi của dân tộc Mường với truyền thuyết dân gian.
Mặt khác do phát hiện được vỏ chấu ở các bình gồm (gò num) thì đã khẳng
định rằng, ngoàiviệc thuần hoá các cây trồng khác thì con người đã thuần
hoá được cây lúa và trồng lúa được đẩy lên vị trí hàng đầu của nền nông
nghiệp. Ngoài ra còn có mối quan hệ hữu cơ của con người với thực vật
như các cây cho củ, quả, hạt, rễ… từ đó mà tạo ra mầm mống của cách ứng
xử, tức mầm mống của tín ngưỡng.
Sự tồn tại đến tận ngày nay của những câu chuyện huyền thoại giải
thích về sự hình thành vũ trụ (quắm tô mương, đẻ đất đẻ nước…) đặc biệt
là tục thờ tổ tiên, đất, nước, thành hoàng… ở trong các lễ hội thì ta dễ dàng
nhận thẩyằng người Việt Nam xưa đã sử dụng quan niệm hồn linh để diễn
tả các nhận thức của mình về hiện thực khách quan mà họ đang sống, xuất

phát từ quan niệm hồn linh, khi nông nghiệp trồng lúa trở thành phương
thức kinh tế chính, bao trùm các lĩnh vực khác, thì tín ngưỡng của cư dân
Việt Nam, được dựa trên sự nhận thức từ cây lúa và quá trình trồng và
chăm bón ; mặt khác người nông dân Việt Nam xưa quan niệm rằng, mỗi
cây lúa có một hồn lúa trú ngụ ở trong đó. Hồn làm cây lúa tốt tươi đâm
bông, trổ hạt.
Hồn chính là sự sống của cây lúa, hồn rời khỏi nó thì nó sẽ hết, vì thế
người ta phải luôn vỗ về, nâng niu để luôn giữ hồn ở lại để cầu mong cho
cây lúa tốt, được mùa, bội thu. Vào mùa gặt lúa người dân thiểu số thường
làm những cái lều nhỏ để gọi thần lúa về đó trú ngụ (một mua chuộc”
thường trên các thửa ruộng thiêng là những thửa ruộng reo đầu tiên và gặt
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sau cùng. Đấy là nơi mà người ta dồn thần lúa về nên khi gặt lúa phải rất
cẩn thận vì đây không phải là một thần riêng mà có nhiều thần lúa. Nếu sơ
ý làm phật ý thì sẽ làm cho thần lúa bỏ đi, hạt lúa ở ruộng thiêng được cất
giữ tử tế và làm giống cho năm sau. Khi bước vào vụ trồng lúa mới, người
ta lại chọn trong số lúa thiêng to, mẩy, rước quanh đồng để hồn lúa ở
những cây ấy bay ra “nhập” vào những cây mạ mới cấy, với hi vọng làm
cho chúng nảy m,ầm và phát triển nhanh và cho họ những hạt thóc to khoẻ.
Rõ ràng các hành động trên đều bắt nguồn từ tục thờ mẹ lúa của dân
tộc Mường, tục khấn của lúa… Những quan niệm như vậy (quan niệm cây
lúa có hồn) được coi là tín ngưỡng hồn linh, từ đó mà nó đã dẫn đến một hệ
thống chỉ dần liên quan đến cách chăm sóc cây lúa. Đó là những ma thuật
cầu cho mùa màng tốt tươi, cầu cho mưa thuận, gió hoà (thường được
thông qua các lễ hội nông nghiệp. Chính các ma thuật về cầu mùa màng là
hệ quả của tín ngưỡng chính là sự thực hành của tín ngưỡng hồn linh trong
vạn vặt tự nhiên.
Mặc dù có một chút học hỏi, tiếp kiến văn hoá nhưng phải nói rằng,
tín ngưỡng của dân tộc Mường là một tín ngưỡng mang đậm bản sắc riêng

biệt với những hình thức thờ cúng rất đặc biệt, riêng biệt mà làm cho chúng
ta không thể nào không chú ý đến. Ngoài ra khi nhắc đến tín ngưỡng dân
gian thì tự đặt ra câu hỏi rằng, các hình thái tín ngưỡng của dân tộc Mường
ra sao ? hình thức nào là hình thức đặc trưng, nổi trội, riêng biệt cho dân
tộc Mường ?…
-Để hiểu rõ thêm về vấn đề này thì em liệt kê một số loại tín ngưỡng
của dân tộc Mường và từ cơ số của thực tế mà có thể chọn ra được hai tín
ngưỡng đặc trưng.
+ Tín ngưỡng hồn lúa.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Tín ngưỡng thờ thần núi - Đức thành tản viên.
+ Tín ngưỡng thờ thổ công
+ Tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp
+ Tín ngưỡng thờ tổ tiên
+ Tín ngưỡng thờ thần chàng vàng
+ Tín ngưỡng thờ thành hoàng làng
+ Tín ngưỡng thờ táo quân (vua bếp)
+ Tín ngưỡng thờ vua khú
+ Tín ngưỡng thờ mạ mụ
+ Tín ngưỡng thờ phật
+ Tín ngưỡng thờ thần tự nhiên
+ Tín ngưỡng thờ bà chúa thác.
 Trong các loại tín ngưỡng này thì em chỉ đi sâu vào hai tín
ngưỡng cơ bản : Tín ngưỡng thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ thành hoàng làng là
hai tín ngưỡng đặc trưng và còn giữ được nhiều nét riêng biệt.
1. Tiền đề ra đời và diễn trình phát triển của hai loại tín ngưỡng trên.
-Tục thờ htành hoàng làng vốn là của Trung Quốc, nhưng do có ý
nghĩa là vị thần bảo hộ thành và hào, do quá trình sinh sống nó dần du nhập
vào Việt Nam vào nưhngx năm Bắc thuộc và đến thế kỷ XIV trở về sau

ngự trị trên điện thờ của các đình chùa Việt Nam. Nhưng thành hoàng ở
Việt Nam lại có những nét khác với thành hoàng ở Trung Quốc, phần lớn là
các vị thần có công với nước có nghãi với dân tục thờ thành hoàng nó đã du
nhập vào dân tộc Mường ngay sau đó. Thể hiện qua sử thi “đẻ đất đẻ nước”
phản ánh rất nhiều các vị thần chi phối đời sống tâm linh của dân tộc
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mường như : Cây si, chim Ây cái ứa, lang đá cầm, mụ dạ dầu vua dịt
dàng… Nhưng các vị thần hiện diện trên đền, miếu thờ trong cộng đồng
làng xóm Mường thì không nhiều. Với các tư liệu thu thập được ở vùng
Mường Hoà Bình cho biết người Mường xã Định ghiáo, huyện tân lạc thờ
ông Keo Heng - người anh hùng sáng tạo văn hoá đã tìm ra cây thuốc bất tử
của dân Mường và thờ ông ải lý, ải lo là người Thái có công đến giúp
người Mường bi khai con mương là dẫn nước từ suối kun tưới cho cánh
đồng nóng cho cum khang tạo khảng mở. Khi làm lễ dân Mường dân
hương hồn ông ải Lý, ải Lo một mâm cỗ có một con vịt luộc với hàm ý
tưởng nhớ con người thích sống gần môi trường nước. Người Mường xã tu
Lý, huyện Đà Bắc làm một ngôi đền ở làng công thờ cụ tổ Sa Quý Đa,
người đã đem dân Mường từ Mộc Châu về khai thác đất đai vùng Tu Lý.
Người Mường ở thị xã Thịnh Lang, thị xã Hoà Bình có đình thờ ba vị thành
hoàng “tương truyền là ba cho con nhà họ Đinh có công xây dựng bản
Mường và giúp vua chống giặc giữ nước và bị hy sinh
(1)
. ở đình Xác Bái,
xã Yên Bông, huyện Lạc Thuỷ, người Mường thờ vua Đinh Tiên Hoàng,
hội được tổ chức vào ngày 13 tháng 11 âm lịch, rứơc kiệu, đi đầu đám rước
là trai đình vác cờ, cắm lêu đầu những cán cờ là những bông lau, để tưởng
nhớ và truyền lại sự kiện vua kéo cờ bông lau kéo quân đi dẹp loạn 12 sứ
quân thống nhất sơn hà. Người Mường ở xã Lũng vân, huyện Tân Lạc lập
đền thờ ông bà người Thái chồng là Hà Công Lý, vợ là Hà Thị Liên ở gò

chằng Khương đã có công đầu tiên khai phá vùng đất Mường chậm. Vào
thời kỳ lúa đứng cái, người Mường chậm về gò chằng khương cúng tế ông
bà, văn tế nhất thiết phải bằng tiếng Thái. Mặt khác theo một nhà khoa học
nước ngoài Pierregrossin thì ở làng Khênh thuộc Kim Bôi, người Mường
có miếu thờ một đôi tình nhân người làng Hạ Bì, chàng là Bồng Hương,
(1)
Trích “Nghi lễ ruộng đồng” cổ truyền của người Mường xã Thịnh Lang in trong
văn nghệ H Sà ơn Bình - Sở VHTT H Sà ơn Bình số 2/1991.
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
còn cô gái là nàng ớm yêu nhau nhưng cha mẹ hai bên không cho lấy nhau,
nên cả hai đã cùng nhau tự tới
(2)
. ở Đền Trung Báo, xã Cao Thắng, huyện
Kim Bôi thờ thành hoàng làng, tương truyền là 3 vị quận công người
Mường nhưng chưa rõ thời nào ở xã Cao Phong thuộc Mường Thàng,
huyện Kỳ Sơn có một khu đất đẹp gọi là vườn hoa núi cói, tương truyền ở
đây Trưởng lý vi hành (quan lang mường thàng) đã lấy một công chúa thời
lý và sinh sống tại đó. Họ mất đi thì dân làng lập đền thờ làm thành hoàng.
Hơn nữa họ còn hư cấu thành thiên tình sử truyện thơ vườn hoa núi cối. ở
nhiều vùng Kim Bôi, Lạc Sơn, Lương Sơn- Hoà Bình xuất hiện đình thờ,
miếu thờ với tên gọi là “Thành hoàng bản thổ”, vị thần có công khai phá
đất đai, đồng ruộng cho người Mường sở tại.
Còn ở Xuân Đài, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ ngày nay tương
truyền rằng Đức Tản Viên sau khi đánh thắng giặc ở phía Tây Bắc (Lào)
thì đã về đây và cho quân nghỉ chân ở đây- giữa ruộng đồng. Vì vậy nhân
dân Mường ở đây đã lập đền thờ đức Tản Viên ử xã Xuân Đài, huyện
Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Kèm theo còn có các hoạt động lễ hội được tổ
chức vào ngày 10 tháng giêng (âm lịch), thường được tổ chức ở giữa cánh
đồng từ 11h30  13h30 trưa, trong lễ hội dứt khoát phải mổ trâu, đi kèm

với nó là các hoạt động ca hát, với nhiều quần áo Mường cộng với chiêng,
kèn, trống… Ngoài ra thường gọi đây là lễ khai hạ (Khánh hạ) dứt khoát
phải có lễ này song thì nhân dân mới bắt đầu được làm lụng mọi việc (lên
rừng, cấy lúa, xây nhà, cất mả…), lập các đền thờ với ý nghĩa cầu cho mùa
màng tươi tốt, bội thu, cầu cho mưa thuận gió hoà…
Cũng ở đây trong khoảng từ tháng 1 đến tháng 7 (mỗi một tháng một
lần)có lễ cầu thành hoàng, thường là mỗi xóm đều có thành hoàng riêng;
tháng 1 và tháng 6 thường được gọi là tháng phán tước (mở đầu), còn tháng
(2)
xem :Tính Mường Ho Bình - Pgierregressin - Nxb Lao à động - Sở VHTT Ho à
Bình, H Nà ội 1994, trang 99.
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2 và tháng 7 thì mới là ngày cúng - thờ chính của nhân dân Mường ở đây ở
đây thì cầu giảm bớt sâu bọ, lúa tốt tưới, thờ người có công khai phá ruộng
nương. Tiếp trong một năm đó vào khoảng tháng 10 (âm lịch) thì dân tộc
Mường ở đây tổ chức “lễ cơm mới” các thổ tù, thổ lang sẽ huy động lực
lượng là nhân dân đi gặt lúa (ở ruộng công của làng) thường mỗi làng có
một ruộng riêng sau đó jang về nhà thổ tù, thổ lang và đập sát vỏ và sau đó
đốt để làm cốm thờ thành hoàng có công với việc trồng và chăm sóc lúa
nước. Còn ở các gia đình sau khi đã ăn cơm mới của làng song thì về nhà
mình cũng phải tổ chức lễ cơm mới tại nhà ; phải mổ lợn (10 - 30 kg), gà,
vịt để cúng tổ tiên. Lễ hội này diễn ra khoảng từ 2 - 7 ngày thì kết thúc.
Ngoài lễ hội thờ Đức Tản Viên thì cón có lễ hội cầu (thờ) thái gia đại
Vương, tương truyền rằng ông này đi đánh giặc ở Lào về đến quãng sống
Bứa (nay thuộc xã Mỹ Thuận, huyện Thanh Sơn) thì ông ta bị quân giặc
chém thành 3 phần, nhưng vẫn cưỡi được ngựa, sau đó gặp một người phụ
nữ đi úp cá ở bờ sông và hỏi “Bà ơi cho tôi hỏi, liệu một người bị chém
thành 3 phần liệu có thể sống được không?” và bà trả lời rằng “Chặt thành
3 phần thì sống làm sao được”. Sau đó người ông đã rời nhau và dơi thành

3 khúc trôi ở trên sông.
+ Khúc đầu : trôi về Văn Lang (nay thuộc Võ miếu, huyện Thanh
Sơn) người dân Mường ở đây đã lập đền Võ ở cửa sông để thờ ông. Ngoài
ra 3 năm ở đây còn tổ chức lễ hội một lần, cầu cho mùa màng xanh tốt, gia
đình ấm no, hạnh phúc.
+ Khúc giữa : trôi về tới cuối Xuân Đài (nay thuộc xã Minh Đài,
huyện Thanh Sơn) người dân Mường ở đây đã lập miếu thờ và lấy tên là
(miếu gốc Đa), thường được thờ vào các ngày lễ tết.
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Khúc cuối : trôi và mắc vào một hòn đảo, nay thuộc xã Quang
Húc, tỉnh Phú Thọ, ở đây và lập đền thờ Thái Gia đại Vương và thường
được dân Mường ở đây hương ứng rất mạnh mẽ.
 Có thể nói rằng tín ngưỡng dân gian của dân tộc Mường cực kì là
đặc sắc và chứa biết bao điều tiềm ẩn, mà ở đề tài này do có hạn nên mới
chỉ giải quyết được phần nào.
2. Tín ngưỡng thờ tổ tiên và quá trình ảnh hưởng của loại tín ngưỡng
này đối với cuộc sống hiện nay.
Cũng như người Kinh chúng ta, thì tín ngưỡng tổ tiên của dân tộc
Mường đã in dậm trong tâm thức người Mường từ rất lâu rồi. Người
Mường quan niệm người chết thể xác hoá thân vào vũ trụ (trời đất), nhưng
linh hồn vẫn tồn tại nhớ về nơi ở cũ. Vì vậy bổn phận của người sống phải
phụng sự linh hồn no đủ để linh hồn phù trợ cho người sống yên ổn, khoẻ
mạnh, làm ăn phát đạt.
Trong ngôi nhà người Mường bàn thờ tổ tiên thường được đặt ở
vóng gian giữa nhà. Người con trưởng phải thờ cúng tổ tiên 5 đời (ngũ đại).
Mỗi đời thể hiện bằng một bát hương xếp theo hàng ngang. Người con thứ
chỉ lập một bát nhang thờ trực tiếp bố mẹ sinh ra minh, khác với người
Kinh (con gái đã về nhà chồng thì không được lập bàn thờ thờ cha mẹ đẻ),
người phụ nữ Mường sau khi đã về nhà chồng cha mẹ chồng qua đời không

có con trái thờ cúng thì nhà chồng cho phép họ lập một bàn thờ cha mẹ đẻ
ở nhà chồng ở của vóng khách, nhưng bàn thờ phải nhỏ hơn bàn thờ của
nhà chồng.
Người Mường ở Lương Sơn, Lạc Thuỷ, Yên Thuỷ là những nơưi
tiếp giáp người kinh có duy trì việc cúng giỗ tổ tiên (ông bà, cha mẹ). Nếu
người kinh lấy ngày chết của tổ tiên làm ngày giỗ thì người Mường lại
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khác. Họ lấy ngày người chết rời khỏi nhà đưa đi chôn (đưa ra đồng) làm
ngày giỗ chính. Họ cho rằng người chết con nằm ở nhà nghĩa là sợi dây
tình cảm giữa người sống và người chết trong gia đình chưa cắt lìa nhau.
Chỉ khi người chết được đào chôn sâu, chôn chặt ở dưới đất (người Mường
không có tục cải táng) thì người sống và người chết mới thực sự xa nhau.
Vì lẽ đó, trước năm 1945, ở nhiều vùng Mường có hư cha mẹ hoặc mẹ
chết, gia chủ quân quang tàn giỗ để ở trong nhà hàng năm đợi đến khi
chuẩn bị đầy đủ điều kiện vật chất mới gọi là thân tộc, dân làng đến làm ma
cho người chết và đưa người chết ra đồng, lúc ấy người chết mới thực sự
chết trong con mắt người sống.
Từ những tư liệu mà như Lê Thanh Hoa trong cuốn “tín ngưỡng dân
gian Việt Nam” cho rằng : Ngoài những tín ngưỡng như trên thì người
Mường Bi được biết nhiều hộ gia đình ở vùng này trong nhà lập hai nhà thờ
bên nội và bên ngoại. Một làm bàn thờ đặt gần cáng ngoài thờ tổ tiên bên
nội, còn một bàn thờ đặt gần vóng phía bên trong thờ tổ tiên họ ngoại.
Người Mường Bi không duy trì từ tục thờ cúng tổ tiên theo ngaỳ mất trong
năm mà thường lấy ngày lễ tết, ngày cơm mới, ngày làm vía, ngày cầu mát
cúng gọi tổ tiên. Việc cùng tồn tại trong ngôi nhà của người Mường hai bàn
thờ bên nội bên ngoại chứng tỏ trong xã hội phụ quyền của người Mường
trước đây chưa đủ mạnh để gạt bỏ mọi dấu tích ghi nhận vai trò của mầu
quyền trong đời sóng văn hoá của dân tộc Mường. Người Mường đã chọn
cho họ một lối ứng xử mềm dẻo để dung hoà hai thể đối lập này, tạo ra thế

lưỡng hợp ngay trong chính vị ngôi nhà có vai trò do người nam giới cai
quản.
Trong đời sống xã hội thì tín ngưỡng nó có ảnh hưởng khá sâu rộng,
tác động và vai trò của nó dần được phát huy, tín ngưỡng là gì mà có ma
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lực cuốn hút người ta và khiến người ta sùng tín mãnh liệt như vậy ? đó là
mộtcâu hỏi lớn đặt ra cho các nhà khoa học, và đang tìm cách giải đáp.
Từ thời nguyên thuỷ cho đến nay là có một khoảng thời gian dài
dằng dặc với những khác biệt về lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội… nhưng,
niềm tin của con người vẫn không mấy thay đổi đối với các lực lượng tự
nhiên và xã hội tồn tại xung quanh mình. Lúc đó do trình độ nhận thức thế
giới xung quanh còn lại hạn chế, nhất là trình độ khoa học kỹ thuật còn
thấp kém, con người Nguyên thuỷ đặt niềm tin và cầu mong sự phù hộ của
các lực lượng tự nhiên và xã hội là điều dễ hiểu. Nhưng đối với con người
hiện đại cộng với sự nhận thức khoa học kỹ thuật nhanh chóng, nhạy bén,
thậm chí ở một góc độ nào đấy có thể cải tạo và làm chủ được thiên nhiên
với nền khoa học hiện đại mà lại vẫn còn tin. Nếu không nói là ngày càng
tin tưởng hơn vào các thế lực siêu nhân quả là một vấn đề chưa dễ gì lý giải
được.
-Cho tới nay, đã có nhiều ngành khoa học cố gắng đi tìm con đường
giải đáp vấn đề đó, nhưng, những lời giải đáp đó vẫn chưa có sức thuyết
phục cao. Có ý kiến đứng về mặt chức năng để giải quyết vấn đề đó và có ý
kiến lại nhìn nhận từ góc độ bản chất của nó từ một nhậnthwcs luận và cho
rằng tín ngưỡng là sản phẩm của sự u mê, ngu dốt, là sự phản ánh méo mó,
hư ảo cái thế giới khách quan vào trong bộ não con người, thậm chí là thế
giới quan tiền khoa học, đối lập với khoa học. Nhưng những ý kiến đó cho
rằng, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, xã hội văn minh, những
niềm tin đó sẽ bị thu hẹp dần và đi tới chỗ diệt vong. Cách nhìn nhận như
vậy về tín ngưỡng không hoàn toàn sai, nhưng cũng không phải là đúng và

thiếu sức thuyết phục. Bởi vì, trong thực tế từ xưa nhiều người sùng tín tự
nhiên không phải họ ở trình độ thấp kém về nhận thức, thậm chí trong số
đó có người đang và đã tìm cách để khống chế tự nhiên, bắt tự nhiên phải
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tuân theo ý mình. Nhưng niềm tin củahọ ở các thế lực không phải vì thế mà
bị suy giảm, ví dụ như trường hợp sùng bái - thờ cúng Đức thánh Tản Viên
khá phổ biến nhưng nhiều khi cũng khó giải thích một số các hiện tượng
sayra trong đó.
Nhưng cái gì nó đều có tính chất hai mặt. Tuy nó cũng đạt được như
vậy nhưng nó cũng còn tồn tại những mặt đối lập, đó là sự lạnh nhạt dần đi
trong mối quan hệ giữa người với người về cơ chế thị trường tác động, chi
phối. Mặt khác, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tạo ra nhịp độ căng
thẳng trong cuộc sống xã hội, sự cô đơn vô định của con người bên cạnh
cái khối lượng vật chất đồ sộ so mình tạo ra… đặc biệt là trong lúcđang vận
động và tìm cách khống chế tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục vụ cho con
người, chúng ta đã gây ra nhiều hậu quả tại hại, nhất là việc huỷ hoại môi
trường sinh thái và phải hứng chịu nhiều đòn giáng trả của tự nhiên. Với
những tâm trạng vặ hứng chịu đó “Đôi khi người ta muốn quay về lĩnh vực
tâm linh, đi tìm niềm an ủi, tìm chỗ sướng gửi số phận mình ở một lực
lượng siêu nhân phi vật chất nào đó
(1)
. Tuy chưa hẳn họ đã hoàn toàn tin
tưởng vào các lực lượng đó.
-Thực trạng xã hội trên đây có thể chính là mảnh đất để tín ngưỡng
tồn tại, phát triển. Sự phát triển đó đã khiến một số người “Nói đến cơn sốt
tôn giáo trên phạm vi toàn cầu”
(2)
, cho dù còn nhiều ý kiến khác nhau về
vấn đề này, nhưng những hoạt động tôn giáo (tín ngưỡng) với sự sùng tín

của con người vẫn còn giữ được nhiều giá trị trong xã hội loài người nói
chung của các dân tộc thiếuố và đặc biệt là của dân tộc Mường- Vì đó là
các chức năng xã hội cần thiết mà các chức năng xã hội khác không thể
thay thế được.
(1)
Trích trong sách : “Tôn giáo v à đời sống hiện đại” của Viện thông tin khoa học xã
hội (TTKHXH), H Nà ội 1997.
(2)
Viện thông tin khoa học kỹ thuật “Tôn giáo v à đời sống hiện đại, H Nà ội 1997.
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Vì vậy cùng với sự phát triển của xã hội, chúng ta vẫn chấp nhận sự
tồn tại thậm chí ngày càng phát triển của các hoạt động tín ngưỡng đặt
đúng vị trí của nó và cần thiết hiểu biết đúng đắn vai trò của nó trong xã
hội các dân tộc. Từ đó có thể hạn chế các tác động tiêu cực, phát huy các
mặt tích cực của nó nhằm xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại nhưng
đảm bảo sự phát triển hài hoà, cân đối cả về đời sống vật chất lẫn đời sống
tinh thần, đặc biệt là trong đời sống tâm linh. Chừng nào con người là con
người và có niêm tin vào tôn giáo, được thể hiện qua các loại tín ngưỡng cụ
thể còn tồn tại trên cõi trần thế này, thì con người vẫn mong nước sống
trong một xã hội công bằng, nhân ái ấm no hạnh phúc.
Đó là khát vọng muôn thuở của loài người, song họ lại bất lực, đành
tin vầocí “ảo ảnh” của thế giới khác, tin vào sự phù hộ độ trì của các lực
lượng siêu nhân. Song, những niềm tin tôn giáo đó nếu chưa đáp ứng một
cách hưảo khát vọng của họ thì chắc chắn nó sẽ không tồn tại đăỉng từ khi
loài người được sinh ra cho đến nay. Thực ra tín ngưỡng không chỉ là một
niềm tin tôn giáo mà còn là sự kiện lịch sử, một hiện tượng văn hoá, nó là
nhu cầu cần thiết và có ích cho đời sống con người.
Cho nên muốn hạn chế được tiêu cực và phát huy mặt tích cực của
tín ngưỡng thì phải có sự hiểu biết toàn diện, sâu sắc về tín ngưỡng và các

hạot động của nó, đồng thời phải nắm được vai trò, vị trí, lịch sử của những
tác động đó trong quá khứ và hiện tại, từ đó đề ra được con đường đúng,
đáp ứng được nguyện vọng của thế giới tâm linh, phù hợp với công cuộc
xây dựng đất nước.
3. ý nghĩa của tín ngưỡng đối với dân tộc Mường (kinh tế, chính trị,
xã hội…)
Như lời chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói : “Đảng ta có chính sách dân
tộc đúng đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
rất vẻ vang của dân tộc ta …. Phải đoàn kết chặt chẽ giữa các đồng bào
lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đớiongs hoà thuận,
ấm nó, xây dựng tổ quốc. Phải chấp hành đúng chính sách tôn trọng tự do
tín ngưỡng đối với tất cả các tôn giáo. ở những vùng tôn giáo có nhiều hợp
tác xã nông nghiệp phát triển khá tốt. Nhưng ở một vài nơi, vì có kẻ xấu
phản tuyên truyền cho nên một số xã viên thu nhập kém … nguyện vọng
của đồng bào giáo dân là “phần xác no ấm, phần hồn thong dong”. Muốn
được như thế thì phải ra sức củng cố hợp tác xã, phát triển sản xuất, tăng
thu nhập xã viên. Đồng thời phải đảm bảo tín ngưỡng tự do. Nhưng hoạt
động tôn giáo không được cản trở sản xuất của nhân dân, không được trái
với chính sách pháp luật của Nhà nước”
(1)
.
Đúng như vậy, tín ngưỡng và lễ hội là một cặp phạm trù mang tính
chất tương hỗ. Trong lễ hội bao giờ cũng chứa đựng tín ngưỡng, nhưng tín
ngưỡng không chri được thể hiện trong lễ hội. Có thể nói rằng đây là cặp
phạm trù không thể tách rới nhau, nhưng phạm vi biểu hiện không hề giống
nhau. Lễ hội chính là không gian xã hội để cho tín ngưỡng thể hiện, xét về
cấu trúc thì lễ hội là hình thức, còn tín ngưỡng là nội dung. Trong lễ hội thì
phần lễ chính là phần thể hiện tín ngưỡng của con người đối với hiện thực

khách quan, còn hội là phần đời, phần tục.
Như một nhà văn hoá người Nga M.Bacchie đã từng nói “Thực chất
lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới nhiều hình thức lễ tế và trò diễn, đó
là cuộc sống lao động cư dân. Tuy nhiên bản thân cuộc sống không thể trở
thành lễ hội được nếu như chính nó không được thăng hoa liên kết và quy
tụ thành thế giới tâm linh, tư tưởng và các biểu tượng vượt lên trên thế giới
của những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới là cuộc sống.
(1)
Hồ Chí Minh - B i nói chuyà ện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác mặt trận, 8-
1962
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Cuộc sống thứ hai thoát li tạm thời thực tại hữu hiệu, đạt tới hiện
thực lý tưởng mà ở đó mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh siêu việtvà cao
cả”
(1)
. Từ đó mà theo em thì trong các lễ hội nó tồn tại một số loại ý nghĩa
mà thực chất là nội dung thể hiện tín ngưỡng của dân tộc Mường.
+ Giá trị cộng động - ý nghĩa cộng động : Lễ hội là một hoạt động
tín ngưỡng, mang tính tập thể cao của các dân tộc nói chung và của dân tộc
Mường nói riêng. Mặt khác nó được duy trì trên nền của tín ngưỡng, tôn
giáo của một dân tộc. Một tộc người. Nhìn trên lát cắt đồng đại về tín
ngưỡng của dân tộc Mường ở (Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ…) thì ta
thấy rằng từ xưa thì mọi người, mọi gia đình đều đóng góp lễ vật của mình
hoặc gia đình mình để dâng cho thần linh và qua quá trình thờ cúng với
một khoảng thời gian quy định, thì các lễ vật lại được chia cho mọi người
để lấy may với tư tưởng (được thần phù hộ). Tất cả những tục lệ đó của dân
tộc Mường đã tạo ra được giá trị cộng đồng- ý nghĩa cộng đồng của tín
ngưỡng của dân tộc Mường.
+ ý nghĩa giáo dục : Tín ngưỡng là hoạt động tinh thần để thể hiện

tình cảm của con người với thần thánh, tổ tiên để cầu mong mọi lực lượng
siêu nhân phù hộ cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, nghề nghiệp
phát đạt, con người khoẻ mạnh bình an. Qua các hình thức của một lễ hội
thì nó bao giờ cũng hàm chứa nhắc nhở mọi thành viên của mọi tộc người
hay một nhỏ người hãy luôn luôn giữ lấy cái đạo lí của ông cha về tinh thần
lạc quan và yêu lao động… và từ đó nó giúp con người nhận ra được các
trách nhiệm của mình và không ngừng cố gắng, đặc biệt là tầng lớp thanh
niên.
+ ý nghĩa văn hoá tâm linh

: Có thể nói rằng để đáp ứng được đời
sống văn hoá tâm linh của dân tộc Mường, thì trong quá trình lao
(
1)
M.Bactrie, sáng tác của Rabơle cổ v phà ục hưng, Nxb Khoa học, Matxcơva, 1990
(bảng tiếng Nga).
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
động, sáng tạo, để đáp ứng cho những nhu cầu trong cuộc sống và
dần làm tăng đời sống chung của dân tộc Mường nói riêng. Để tạo ra
giá trị văn hoá vào thế giới tâm linh, thế giới hữu hình thì con người
đã phải trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử và không ít trường
hợp con người phải bó tay (đầu hàng) trước sức mạnh của tự nhiên
mà phải nhờ đến sự phù hộ che chở của tổ tiên, dòng tộc, thành
hoàng các vị thần linh khác trong cuộc sống và trong sản xuất… Họ
cầu mong thần linh phù họ cho cuộc sống bình an, cây trồng bội thu,
có thành công trong nghê nghiệp, đi rừng thu được nhiều chiến lợi
phẩm. Đúng vậy chỉ thông qua lễ hội, các hoạt động tâm linh khác thì
mới làm thoá mòn được đời sống tinh thần của nhân dân ta. Qua
nhiều hoạt động khác nhau thì hoạt động, các tín ngưỡng của dân tộc

Mường ngày càng được nhiều người biết đến (Du lịch).
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Kết luận
Sự đa dạng của các tín ngưỡng của dân tộc Mường không phải do bất
kỳ một ý muốn chủ quan nào. Nó là một thực tế khách quan của lịch sử
phát triển đa dạng các loại hình, phương thức tín ngưỡng. Mặt khác ngoài
những mặt còn tồn tại thì tín ngưỡng của dân tộc Mường nó cũng đóng một
vai trò khá lớn đối với tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam và nó làm cho đời
sống tinh thần của nhân dân ta thêm sâu sắc và rất riêng biệt so với các
quốc gia khác trên thế giới, nó còn góp phần làm thay đổi bộ mặt của nền
văn hoá nước ta ở một thời kỳ và đến nay cũng vậy tín ngưỡng của dân tộc
Mường đã đóng góp vào vấn đề “xây dựng một nền văn hoá đậm đà bản
sắc dân tộc” (Nghị quyết đại hội VIV).
Có thể hiểu rằng tín ngưỡng như là một yếu tố nội sinh của vấn đề
văn hoá “to đùng, to đoàng”, thì phải có một tín ngưỡng đúng đắn thì mới
có một nền văn hoá đậm đà mang đầy phong cách dân tộc mà chỉ cần nhìn
qua, nghe qua đã nhận ra ngày dó là của ai, do ai làm ra, nguồn gốc như thế
nào. Một cái không kém đó là hình thức của các lễ hội đó là cái phần hồn
của tín ngưỡng, nhưng do một số người trục lợi thường gắn vấn đề hủ tục
như : các hoạt động lên đồng, gọi hồn, mưa địa điểm… để dầu mai một đi
cấc tín ngưỡng. Hơn thế có ý nghĩa quyết định là các chính sách về dân tộc,
đặc biệt ở các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa ở những nơi địa đầu tổ
quốc còn gặp rất nhiều khó khăn cả về vật chất và tinh thần. Đó là một vấn
đề cần quan tâm hơn nữa của các nhà điều hành Đảng và Nhà nước cùng
với sự giúp đỡ của các cán bộ chuyên môn, để đưa vấn đề này dần đi vào
thành một lề nếp hàng năm, đưa tín ngưỡng dân tộc Mường ngày càng trở
nên trong sáng, không bị bóng đen của mê tín dị đoan che phủ./.
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Tín ngưỡng đối với dân tộc Mường(19 trang)
21

×