Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

ìm hiểu nghệ thuật sử dụng điển cố trong QTTMT của Nguyễn Trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.72 KB, 89 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC

Lời mở đầu 1
I. Phần mở đầu 2
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Lịch sử vấn đề 3
4. Phạm vi tư liệu 4
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Kết cấu báo cáo 5
II. Phần nội dung 6
1. Nghệ thuật sử dụng điển cố - một đặc trưng 6
1.1. Khái niệm 6
1.2. Các loại điển cố thường gặp 7
1.3. Nguồn gốc điển cố 8
1.4. Ý nghĩa của việc sử dụng điển cố 8
2. Nghệ thuật sử dụng điển cố của Nguyễn Trãi 9
2.1. Khảo sát điển cố trong QTTMT 9
2.2. Nghệ thuật sử dụng điển cố trong QTTMT 13
III. Phần kết luận 19
IV. Tài liệu tham khảo 23
V. Phụ lục 24
1. Bảng thống kê 24
2. Bảng biểu tổng kết 29
3. Các bức thư trích dẫn 30

LỜI MỞ ĐẦU
Được đề cao với nhiều danh hiệu: nhà quân sự tài ba, nhà văn, nhà
thơ lỗi lạc, danh nhân văn hoá thế giới… Nguyễn Trãi đã có nhiều đóng góp
to lớn cho lịch sử Việt nam. Trong cuộc đời hoạt động chính trị của mình


ông đã để lại nhiều di văn có giá trị trên nhiều lĩnh vực. Để tìm hiểu về
những đóng góp của ông cũng như mong muốn tìm hiểu về con người lịch
sử này mà người đời sau đã có nhiều công trình nghiên cứu công phu về
ông. Các công trình đó được nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực như: quân sự,
chính trị, văn hoá, ngoại giao, địa lí … Thừa hưởng thành tựu của người đi
trước để lại cùng với những tìm tòi của mình, tôi xin đưa ra một bài viết về
việc “Tìm hiểu nghệ thuật sử dụng điển cố trong QTTMT của Nguyễn
Trãi”. Đây là đề tài rất ít được nghiên cứu. Thông qua đó nhằm tìm hiểu về
đặc điểm, phong cách hành văn của Nguyễn Trãi qua tác phẩm này nói
riêng và cách lập luận văn chính luận cũng như văn phong ngoại giao của
ông nói chung.
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2
Nguyễn Trãi (1380-1442) là một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà
ngoại giao kiệt xuất trong lịch sử trung đại Việt Nam. Không những thế ông
còn là một nhà tư tưởng, bậc danh nhân văn hoá thế giới đã để lại một khối
lượng trước tác đồ sộ, đáng khâm phục. Trong đó tác phẩm “
 (QTTMT) chiếm một vị trí quan trọng. Bởi tác phẩm không chỉ
phản ánh được lịch sử của một giai đoạn xã hội quan trọng mà còn chứa
trong đó nhiều nội dung tư tưởng, nghệ thuật tiến bộ khác. Đi vào nghiên
cứu chính là khám phá ra những giá trị quý báu mà tác phẩm đem
lại. Có lẽ vì những lý do đó mà có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu
về tác phẩm này. Nó được khai thác trên nhiều lĩnh vực như: lĩnh vực tư
tưởng, văn hoá, sử học, văn bản học…  là một tập thư từ do
Nguyễn Trãi thay mặt cho Lê Lợi soạn thảo để trao đổi với tướng lĩnh nhà
Minh. Do đó nó là văn bản rất đặc biệt. Để truyền tải những thông tin quan
trọng đó, Nguyễn Trãi đã sử dụng hình thức viết thư. Đây là một hình thức
hết sức đặc biệt, có thể xem xét trên nhiều phương diện. Nhưng trong phạm
vi một báo cáo, tôi xin đi vào một khía cạnh đó là nghệ thuật sử dụng điển

cố của Nguyễn Trãi qua "QTTMT". Sử dụng điển cố là một đặc trưng thi
pháp của văn học trung đại, nhưng điển cố được sử dụng nhiều, linh hoạt,
đặc sắc do một nhà chính trị kiệt xuất làm thì QTTMT được nâng lên trở
thành một nghệ thuật độc đáo. Đây chính là điểm hấp dẫn lôi cuốn tôi đi
vào nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định vị trí và vai trò của điển cố đối với mục đích chung mà
Nguyễn Trãi đặt ra cho các bức thư. Mục đích chung ấy là thông qua các
bức thư, Nguyễn Trãi phân tích lẽ đúng sai hợp lí, hợp tình làm cho quân
Minh phải bại ý ý chí xâm lược. Đây chính là chiến thuật “Tâm công” (đánh
bằng tấm lòng nhân nghĩa).
Trong mục đích chung ấy, việc dùng điển cố khôn khéo và hiệu quả
đóng vai trò:
- Khiến cho câu văn Nguyễn Trãi sử dụng trở nên thâm thuý, uyên bác
hơn.
- Điển cố không chỉ là phương thức mà còn trở thành công cụ sắc bén
cho lí luận “tâm công” của Nguyễn Trãi.
3
- Điển cố giống như những hạt kim cương mấu chốt cho các câu chữ
khác bám vào trở thành câu văn chiến luận hoàn chỉnh.
- Nghệ thuật sử dụng điển cố giúp cho mục đích cũng như nội dung của
tác phẩm được nổi bật hơn. Qua đó thấy được tâm tư, tình cảm của tác giả.
Qua nét nghệ thuật này rút ra được đặc điểm, phong cách văn chính luận
trong tác phẩm “QTTMT” nói riêng và trong văn chính luận của Nguyễn
Trẫi nói chung.
3. Lịch sử vấn đề
Từ trước đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về "QTTMT" trên
nhiều phương diện khác nhau. Trên mỗi phương diện nghiên cứu đều có
nhưng giá trị nhất định.
Trên lĩnh vực sử học có: “Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc”

(Phạm Văn Đồng), “Thời đại Nguyễn Trãi trên bình diện quốc tế” (Văn
Tạo).
Trên lĩnh vực tư tưởng có: “tư tưởng của Nguyễn Trãi” (Nguyễn Thiên
Thụ), “Nguyễn Trãi và Nho Giáo”(Trần Đình Hượu), “vài nét tư tưởng của
Nguyễn Trãi qua văn thơ ông”(Trần Thanh Mại).
Trên lĩnh vực văn hoá: “Nguyễn Trãi và nền văn hiến Đại Việt” (Võ
Nguyên Giáp), “Nguyễn Trãi trên tiến trình văn hiến nước nhà” (Lê Văn
Lan)…
Trên lĩnh vực văn bản học như nghiên cứu, sưu tầm của Trần khắc
Kiệm sau đó là Dương bá Cung, Trần Văn Giáp, Nguyễn Văn Nguyên
Ngoài ra còn nghiên cứu trên nhiều phương diện khác như: Ngoại giao,
ngôn ngữ, địa lí …
Nói riêng về "QTTMT" trong tác phẩm mang tính tổng hợp như
“Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm” (Nguyễn Hữu Sơn) đã nghiên cứu các
vấn đề như: “Nguyễn Trãi- nhà văn chính luận kiệt xuất” (Bùi Duy Tân),
“Tính chiến đấu của tập "QTTMT"” (Đỗ Văn Hỷ), “Bút pháp "QTTMT"”
(Đinh gia Khánh), “QTTMT đỉnh cao của dòng văn học luận chiến ngoại
giao chống xâm lược” (Nguyễn Huệ Chi), “Tìm hiểu phương pháp lập luận
của Nguyễn Trãi trong QTTMT” (Đặng Thị Hảo), “QTTMT tập văn chiến
đấu có ý nghĩa lịch sử quan trọng ở thế kỷ XV” (Bùi Văn Nguyên). Có thể
nói hầu như chưa có một tác phẩm nào nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực
4
nghệ thuật trong văn phong chính luận của QTTMT. Do đó tìm hiểu “nghệ
thuật sử dụng điển cố trong "QTTMT"” là một hướng đi tương đối còn khó
khăn. Trên cơ sở tiếp thu thành quả nghiên cứu của những người đi trước,
bài viết nhằm tìm hiểu thêm về văn phong ngoại giao, cách lập luận trong
văn chính luận của Nguyễn Trãi trong "QTTMT" nói riêng và trong văn
chính luận của ông nói chung. Với trình độ sinh viên năm thứ ba, hướng đi
này cũng là bước tập dượt giúp tôi đi vào nghiên cứu.
4. Phạm vi tư liệu:

Cũng như các tác phẩm khác của Nguyễn Trãi, trong "QTTMT" cũng
chịu chung số phận tru di như ông. Do đó để lưu truyền đến ngày nay không
tránh khỏi thất tán, mất mát. Từ khi ra đời đến nay "QTTMT" đã được
nhiều học giả nổi tiếng như Trần Khắc Kiệm, Dương Bá Cung, Trần Văn
Giáp… thu thập, biên soạn. Mỗi công trình đều có những giá trị riêng. Song
đối với một trước tác Hán Nôm, đặc biệt là tác phẩm có quá trình lưu truyền
lâu dài và phức tạp như di văn của Nguyễn Trãi thì phạm vi tư liệu cần phải
căn cứ vào văn bản gần với nguyên bản nhất. Đó là vấn đề thuộc về nguồn
gốc văn bản.
Căn cứ vào bản in Phúc Khê, gần đây nhà nghiên cứu Hán Nôm
Nguyễn Văn Nguyên đã dày công nghiên cứu về “ vấn đề văn bản học của
QTTM”. Đây được coi là tác phẩm khảo dị văn bản đầy đủ và chu đáo,
đáng tin tưởng. Sự sắp xếp lại của ông về cơ bản phù hợp với cách mô tả
của Lê Quý Đôn, Ngô Thế Vinh tức bao gồm 62 văn kiện. Như vậy phạm vi
tư liệu căn cứ vào 62 bức thư, bao gồm 40 văn kiện trong “Ức Trai di tập”,
hai văn bản do Dương Bá Cung sưu tầm và 20 trong 23 văn kiện do Trần
Văn Giáp bổ sung. Thứ tự sắp xếp được in trong cuốn “Những vấn đề văn
bản học Quân Trung Từ Mệnh Tập của Nguyễn Trãi” tác giả Nguyễn Văn
Nguyên. NXB Văn học Viện nghiên cứu Hán Nôm. Hà Nội 1998.
5. Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp nhiều phương pháp: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, thực
chứng…
6. Kết cấu niên luận
Gồm 5 phần chính:
5
I. Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Lịch sử vấn đề
4. Phạm vi tư liệu

5. Phương pháp nghiêm cứu
6. Kết cấu niên luận
II. Phần nội dung:
1. Nghệ thuật sử dụng điển cố- một đặc trưng thi pháp của văn học
trung đại.
1.1. Khái niệm điển cố
1.2. Các loại điển cố thường gặp
1.3. Ý nghĩa của việc sử dụng điển cố
2. Nghệ thuật sử dụng điển cố của Nguyễn Trãi qua "QTTMT" .
2.1. Khảo sát hệ thống điển cố trong "QTTMT"
2.2. Nghệ thuật sử dụng điển cố trong văn ngoại giao của Nguyễn
Trãi.
III. Phần kết luận:
IV. Phụ lục:
1. Bảng biểu thống kê.
2. Bảng tổng kết
3. Các bức thư trích dẫn.
V. Tài liệu tham khảo
6
II. PHẦN NỘI DUNG
Trước khi vào phần nội dung cũng cần phải nói thêm, những vấn đề
liên quan đến khái niệm, lý luận báo cáo có sự tham khảo trong cuốn “Điển
cố và nghệ thuật sử dụng điển cố” của Đoàn Ánh Loan.
1. Nghệ thuật sử dụng điển cố- một đặc trưng thi pháp của văn học
Trung đại:
Điển cố là một trong những thủ pháp nghệ thuật đặc thù được sử dụng
trong văn học cổ Việt Nam. Thời trung đại do quan niệm sáng tác chịu
nhiều ảnh hưỏng của Nho giáo, văn học được sáng tác với mục đích chính
trị và giáo huấn về cách cư xử trong cuộc sống nên lời văn, lời thơ đều có
âm hưởng trang trọng để tránh dung tục tầm thường. Để có mỗi từ, mỗi câu

không chỉ hay mà còn súc tích theo cách nói ít hiểu nhiều của người xưa thì
nhiều qui định nguyên tắc trở thành chuẩn mực cho phương pháp và thủ
pháp sáng tác. Từ sau khi Thẩm Ước (Thời Nam Bắc Triều) đặt ra những
qui tắc đầu tiên cho các thể thơ thì sau đó nhiều nhà thơ trên cơ sở đó thêm
thắt những qui định mới. Lâu dần những qui định ấy trở thành thuần mẫu.
Người đời sau dựa vào khuân mẫu ấy mà dùng thì gọi là dụng điển cố. Việc
sử dụng điển cố được xem là tiêu chuẩn, thước đo đánh giá hiệu quả và mức
độ thành công của bài thơ, bài văn. Một trong thói quen của người Trung
Hoa là sử dụng điển cố, có khi lấy thước đo dung lượng điển cố sử dụng để
đánh giá khả năng sáng tác. Văn học cổ nước ta thời bấy giờ chịu ảnh
hưởng sáng tác của Trung Quốc tuy không hoàn toàn nhưng những qui định
và tiêu chuẩn đặt ra là cần thiết. Việc dùng điển cố khéo léo, về mặt nào đó
sẽ nâng cao tính “bác học” của tác phẩm. Góp phần tạo hiệu quả cho sức
mạnh của câu văn, câu thơ. Điển cố không chỉ là biện pháp tu từ mà còn là
dạng thức độc đáo để thể hiện tâm tư, tình cảm, cũng như xây dựng hình
tượng nghệ thuật. Vì vậy để hiểu một tác phẩm văn học cổ thì không thể
không chú ý đến vai trò và ý nghĩa của việc sử dụng điển cố trong đó.
1.1. Khái niệm về điển cố:
Từ “điển cố” phát hiện sớm nhất được thấy trong “Hậu Hán thư”, thiên
“Đông Bình Tân Vương Thương truyện”.
7
Để có cái nhìn tổng quát ta đi vào tìm hiểu các cách định nghĩa về điển
cố trong văn học trung đại Việt Nam:
Theo Đào Duy Anh “điển cố ” là những truyện chép ở sách vở xưa
(Đào Duy Anh. “”. NXB Khoa học xã hội. 2004).
Theo Từ điển Việt Hán có ghi về điển cố như sau: 此? 此? 此 â 此 此
此 (Thử sự kiến vu điển cố) điển cố có nghĩa là truyện ấy có ở điển cũ. (G.S
Đinh Gia Khánh hiệu đính. “”. NXB Giáo Dục. 2002).
Theo Tầm nguyên từ điển điển là việc cũ. Điển cố tức là truyện xưa
(Bửu Kế, Vĩnh Cao. “”. NXB Thuận Hoá. 2000).

Nhìn chung các cuốn từ điển đều hiểu điển cố là việc sử dụng tích xưa để
ứng với việc nay. ở đây tôi tham khảo cách định nghĩa điển cố theo cuốn
“Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố” của Đoàn Ánh Loan. Đây là công
trình nghiên cứu công phu và cẩn thận về điển cố. Theo “Việt Nam văn học
sử yếu”, Dương Quảng Hàm định nghĩa: “Điển (nghĩa đen là việc cũ) là
một chữ hay một câu có ám chỉ đến một việc cũ, một tích xưa khiến cho
người đọc sách phải nhớ đến việc ấy, sự tích mới hiểu ý nghĩ và cái lý thú
của câu văn”. Dùng điển chữ Nho gọi là “dụng điển” hoặc “sử sự” (sai
khiến việc) ý nói sai khiến việc đời xưa cho nó có thể ứng dụng vào bài văn
của mình.
Điển cố có thể ám chỉ đến sự việc thật được chép từ sử, truyện hoặc
những câu chuyện hoang đường được chép từ truyện cổ tích, ngụ ngôn, có
khi là một vài chữ từ câu văn, câu thơ cổ.
Có thể nói ngắn gọn điển cố là những từ ngữ chuyện xưa, tích cũ, về tư
tưởng, hình tượng trong sách xưa được tác giả dùng làm phương tiện để
diễn đạt ý tưởng một cách ngắn gọn, hàm súc.
1.2. Các loại điển cố thường gặp:
Từ hay nhóm từ được lấy ra từ những câu truyện trong kinh, sử, truyện,
các sách ngoại thư… về các nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử, địa danh,
những quan niệm trong cuộc sống.
Từ hay nhóm từ mượn ý, lời từ câu thơ hoặc bài thơ của người đi trước
hay được trích từ thành ngữ, tục ngữ, ca dao có tích truyện được lưu truyền
hoặc đã nổi tiếng.
8
1.3 Nguồn gốc điển cố trong văn học Trung đại:
Nhìn tổng thể, điển cố trong văn học cổ nước ta được hình thành từ thư
tịch cổ Trung Hoa, phân loại thành Kinh, Sử, Tử, Tập, Thơ văn và hý khúc.
Điển cố từ Kinh bộ gồm Kinh thư, Kinh Xuân Thu, Luận ngữ.
Điển cố từ Sử bộ: là kho sách ghi chép câu chuyện về cuộc đời nhân
vật và sự kiện lịch sử, gồm: sử ký, Hán thư, Hậu Hán thư, Tam Quốc Chí,

Tấn thi… dùng để so sánh, chứng minh.
Điển cố từ Tử bộ: Tử bộ là pho sách của bách gia, chư tử: Nho gia,
Đạo gia, Phật gia, Binh gia, Pháp gia…
Điển cố từ Tập bộ: là cách sách về thơ văn, phê bình thơ văn và từ khúc
Điển cố từ thơ ca: thường sử dụng từ hay nhóm từ, mượn ý, lời từ câu
thơ hoặc bài thơ của người trước.
Điển cố lấy từ văn học cổ Việt Nam: so với nguồn điển cố thì điển cố
lấy từ văn học nước nhà không nhiều vẫn được khai thác sinh động. Thường
mang nội dung về các chiến trận oanh liệt, những sự kiện lịch sử nổi bật và
các nhân vật lịch sử quan trọng.
Điển cố lấy từ văn học dân gian: loại này có phạm vi rộng được dùng
nhiều nhất là điển có nội dung về thân phận, tình duyên, sinh hoạt trong
cuộc sống…
1.4. Ý nghĩa của việc sử dụng điển cố:
Đặc điểm của điển cố là dùng biểu tượng biểu trưng, diễn đạt phong
phú các lĩnh vực của cuộc sống, được nhiều người gọt giũa thành cố định.
Điển cố hàm chứa nội dung và ý nghĩa sâu sắc nhưng được thể hiện hết sức
cô đọng, mang tính khái quát, gợi ra nhiều liên tưởng, mang tính hình
tượng, đa dạng, linh động. Hình thức của nó phụ thuộc vào sự vận dụng đa
dạng của mỗi người. Người biết sử dụng điển cố, kết hợp được các đặc
điểm và tính chất của nó sẽ đem lại giá trị hiệu quả cho câu văn mình, làm
nâng cao tính “bác học” của tác phẩm và trình độ uyên bác của tác giả. Trên
tạp chí văn học số 1.1997 Nguyễn Thuý Hồng có viết “sử dụng điển cố Hán
học là biện pháp “mỹ từ” có tính đặc thù và thể hiện khuynh hướng điển
nhã trong thao tác lựa chọn ngôn từ của các thi sĩ trung đại”. Hay như
Nguyễn Ngọc San trong “tìm hiểu giá trị và cấu trúc của điển cố trong tác
phẩm Nôm” có nhấn mạnh vào ý nghĩa của điển cố, bao gồm: ý nghĩa hiện
9
thực, ý nghĩ biểu trưng và ý nghĩa giá trị phong cách của điển cố. Khi
những ý nghĩa này được vận dụng hiệu quả sẽ làm cho bài văn diễn đạt

được ý tình sâu kín và tinh tế.
Bên cạnh những ý nghĩ tích cực của việc vận dụng điển cố thì còn có
trường hợp nếu dùng quá cầu kỳ, lạm dụng sẽ dẫn đến bị sáo mòn, rối rắm.
2. Nghệ thuật sử dụng điển cố Nguyễn Trãi qua "QTTMT"
Nguyễn Trãi là một tác gia tiêu biểu và nằm trong hệ thống các tác giả
thời trung Đại, cũng giống như trào lưu văn học lúc bấy giờ, việc sử dụng
điển cố trong văn chương đối với Nguyễn Trãi trở thành một phương tiện
đắc lực và hiệu quả, giúp cho câu văn đạt giá trị nhất định. Bằng chứng là
trong hầu hết các tác phẩm của ông đặc biệt là mảng văn thơ viết bằng chư
Hán, việc sử dụng điển cố đã ăn sâu vào câu chữ trở thành lối phong cách
riêng. Để nhận thấy cụ thể tôi đi vào khảo sát hệ thống điển cố trong
 bằng phương pháp thống kê và phân loại là chủ yếu.
2.1 Khảo sát hệ thống điển cố có trong QTTMT:
Căn cứ vào nguồn gốc, cách sử dụng, cách hiểu, mục đích dùng tôi phân
loại như sau:
Căn cứ vào cách phân loại điển cố theo nguồn gốc trong cuốn 
 !"#$ của Đoàn Ánh Loan, có thể chia điển cố
thành 5 loại nguồn gốc: Truyện- Sử bộ; Kinh bộ; Về sách Binh pháp; Thi ca
cổ và Văn học dân gian.
Bên cạnh việc dựa vào các phân loại cơ bản này tôi còn đưa ra một số
các cách phân loại khác căn cứ vào các sử dụng điển cố, cách hiểu và mục
đích sử dụng. Gồm các phân loại như sau:
- Phân loại theo cách sử dụng:
Ngoài những chú thích của các học giả như Nguyễn Văn Nguyên, Mai
Quốc Liên… tôi nhận thấy còn rất nhiều bức thư chưa được chú thích. Đó
là các bức Nguyễn Trãi thường mở đầu bằng câu: %&', (, 
') … ở các bức thư như bức số5: *+%, #//
01 (Kể đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy trí dũng làm vốn).
Hay bức số 6 có viết: *+#$01233043#53
04#5 (Kể đạo làm tướng không có đâu là không hiểm không có đâu là dễ

đâu là không dễ), ngoài ra Nguyễn Trãi còn sử dụng ý ở trong các sách
10
Binh pháp như ở các bức thư số 7, 33… Tôi xếp vào mục 6!7
. Gồm có 7 câu.Và tất cả những câu mở đầu có viết8 9-:2;
2<… như câu: = 0 04  (Làm nhà
bên đường ba nămkhông xong) (bức 16)… Tôi xếp vào mục điển cố có
nguồn gốc từ văn học dân gian. Gồm có 15 câu. Như vậyphần phân loại
theo cách sử dụng gồm 19 điển (Văn học dân gian và về sách Binh pháp),
chiếm 17,27%. Còn lại tôi vẫn tuân theo cách phân chia của Đoàn Ánh
Loan, phần này có 91 điển, chiếm 82,83%.
- Phân loại điển cố theo cách hiểu:
Hiểu điển cố theo nghĩa rộng và hiểu điển cố theo nghĩa hẹp. Nghĩa
hẹp: bao gồm những điển cố dùng văn, thi liệu có 50 điển cố , chiếm
45,45%. Nghĩa rộng: bao gồm những điển cố thêm cả việc mượn những từ
hay nhóm từ lấy ra từ những câu truyện trong Kinh, Sử… có 60 điển cố ,
chiếm 54,54%.
- Phân loại điển cố theo mục đích sử dụng: chia lam 12 loại cơ bản.
+ Ca ngợi những vị vua hiền, các triều đại thịnh trị trong lịch sử Trung
Quốc, có 4 điển cố , chiếm 3,63%.
+ Kéo dài thời gian hoà hoãn bằng việcnói về nỗi oan ức của ta và
mong được chuộc lỗi, có 5 điển cố , chiếm 4,54%.
+ Trách nhiệm của kẻ làm Thiên tử có 13 Điển cố, chiếm 11,82%.
+ Khuyên tướng lĩnh nhà Minh, phân tích lẽ đúng sai, việc thất đắc có
18 điển cố, chiếm 16,36%.
+ Khiêu chiến, cảnh cáo có 4 Điển cố, chiếm 3,64%.
+ Tố cáo tội ác, vạch trần bộ mặt xâm lược của quân Minh có 18 Điển
cố, chiếm 16,36%.
+ Nói về chữ tín và chữ thành có 7 Điển cố, chiếm 6,36%.
+ Khó khăn của địch có 10 Điển cố, chiếm 9,69%.
+ Khuyên dụ lính hàng có 16 Điển cố, chiếm 14,54%.

+ Việc làm chính nghĩa và trách nhiệm của quân ta có 7 Điển cố,
chiếm 6,36%.
+ Đạo đức của người quân tử, Thánh nhân có 5 Điển cố, chiếm
4,54%.
+ Bàn hoà ước có 3 Điển cố, chiếm 2,72%.
11
Theo thứ tự sắp xếp của Nguyễn văn Nguyên với 62 bức thư với bản
chữ. Kết quả khảo sát có được như sau:
Về mức độ bức thư có điển cố thống kê cho thấy có bức có, có bức
không. Tức là không phải tất cả các bức thư đều có điển cố. Nhưng số
không có là rất ít, đó là 13 bức: 10, 11, 12, 18, 19, 24, 39, 47, 48, 55, 59,60,
62 chiếm 20,9% trong tổng số 62 bức thư. Còn lại 49 bức thư có điển cố,
chiếm79,1%.
Đối với những bức có điển cố, có bức có nhiều, có bức có ít điển cố. Ít
nhất là một điển cố có ở 19 bức thư: 3, 4, 6, 13, 14, 16, 20, 21, 22, 23, 25,
27, 29, 30, 38, 46, 49, 57, 58 chiếm 30,6%. Những bức thư sử dụng nhiều
điển cố, từ bốn đến năm hoặc hơn thế như các bức thư 8, 26, 31, 32, 34, 35,
36… Nhiều nhất là ở bức thư số 33 có 11 điển cố.
Những bức không dùng điển cố cố thường là những bức chứa nội dung
ngắn như để thông báo, như thông báo về việc con cháu nhà Trần dâng biểu
cầu phong cùng sứ giả đi sang Trung Quốc (bức 10); Thông báo về việc sửa
chữa cầu đường đã xong cho các vị Hình đại nhân và các vị Đả Công,
Lương Công (bức12); Báo cho Vương Thông việc quân ta dời đến bên
thành Bắc Giang để tiện cho việc hoà ước (bức 18)… Còn những bức sử
dụng nhiều điển cố thường nhằm mục đích liệt kê tội ác của giặc (44, 52…),
phân tích lẽ đúng sai (31, 36…), dẫn về nhânvật thiện ác trong lịch sử
Trung Quốc (26, 33 ) v.v… Về số lượng sử dụng 78 điển cố, kể cả những
bức sử dụng lặp thì có 110 lần sử dụng điển cố có nghĩa là một số điển cố
được sử dụng nhiều lần ở các bức thư khác nhau như dùng điển: để chỉ sự
hèn nhát của giặc, Nguyễn Trãi sử dụng điển cố “Cân quắc chi nhục” (nhục

khăn yếm) vốn là mượn chữ “cân quắc ” là đồ trang sức của đàn bà trong
sách Tấn thư kể về truyện Gia Cát Lượng mang quân đi đánh Nguỵy, khiêu
khích nhiều mà Tư Mã Ý không chịu ra đánh. Lượng bèn mang đến cho y
đồ dùng khăn yếm để làm nhục,ý thì có ở các bức 7, 33; điển <#-
> có ở các bức 8, 26, 28; điển nói về chữ ? xuất hiện trong các bức 15,
17, 22, 23; điển %&<-@<- có ở tới 6 bức thư:
31, 40, 52, 53, 56,… Ngay cả trong một bức thư, một điển cố cũng có thể
được dùng lặp lại như điển 67AB6 AB1C là hai nhân vật sử tài
12
giỏi lại biết thời thế để nhằm thức tỉnh Thái đô đốc, điển này có ở bức 36
dùng lại hai lần…
Về nguồn gốc trích dẫn điển cố:
Điển cố có nguồn gốc từ Truyện, Sử bộ:
Kể về sự kiện hoặc nhân vật lịch sử, một triều đại lịch sử. Đây là loại
chiếm số lượng cao nhất so với các điển cố có nguồn gốc khác với 60 lần
(54,54%). Sau đó là điển có nguồn gốc từ Kinh bộ mà chủ yếu lấy trong
sách Mạnh Tử, Trung Dung, Luận Ngữ, Kinh thi với 26 lần (23,63%).
Nguồn gốc từ văn học dân gian cũng khá phong phú như thành ngữ, tục
ngữ, phương ngôn với 15 lần (13,64%). Mượn ý hoặc cả câu thơ cổ với 2
lần (1,82%). Rút từ sách Binh pháp với 7 lần (1,82%).
Các điển có nguồn gốc từ Kinh- Sử truyện- Thơ ca- Binh pháp chủ yếu
là lấy trong sách Trung Quốc, ở giai đoạn chưa được Việt hoá. Còn điển có
nguồn gốc từ văn học dân gian có cả của Trung Quốc cả của nước Nam
nhưng nguồn gốc sâu xa vẫn bắt nguồn từ vùng Hoa Hạ này Tuy nhiên nó
đã được việt hoá nhiều lâu ngày sử dụng thành khẩu ngữ mà người ta không
phân biệt được rõ ràng từng câu đâu là của người phương Bắc đâu là của
người phương Nam.
Về phân loại theo cách sử dụng: Những điển cố sử dụng thi, văn liệu
và các điển tích (thông qua từ nhóm từ được lấy ra từ các câu truyển trong
Kinh, Sử…về các nhân vật sử, các triều đại…) gần tương đương nhau. Điều

này chứng tỏ việc hiểu và sử dụng điển cố của Nguyễn Trãi đối với cả hai
loại này là rất hài hòa.
Về phân loại theo mục đích sử dụng điển cố theo thống kê ta thấy:
Những Điển cố nói về việc tố cáo tội ác của giặc, vạch trần bộ mặt xâm
lược của địch (16,36%), khuyên tướng lĩnh nhà Minh (16,36%), khuyên dụ
lính hàng (14,54%), trách nhiệm của Thiên tử (11,82%), khó khăn của giặc
chiếm số lượng cao hơn cả. Điều này phù hợp chứng tỏ việc sử dụng Điển
cố là nhắm đúng mục đích đề ra, nhằm chỉ rõ bộ mặt thật của quân nhà
Minh thực chất là quân xâm lược, chỉ cho chúng lẽ đúng sai việc mất còn để
chúng tự nhận sai về mình, cùng với những khó khăn chúng mắc phải sẽ
nhanh chóng bị thất bại, từ đó khiến quân địch phải lung lay về tinh thần lần
13
lượt đi tới chỗ thất bại. Đây cũng chính là thuật tâm công (đánh bằng tấm
lòng) của Nguyễn Trãi.
Về tính chất của những điển cố có nguồn gốc Hán Việt thường tương
đối dễ hiểu và phổ biến. Đối với những Nho sĩ xưa phải thông thạo Kinh sử
thì khi đọc những bức thư này có lẽ không khó khăn gì. Mà mục đích chính
Nguyễn Trãi hướng tới là tướng soái nhà Minh “D2% (bức
46) thì việc hiểu điển cố là điều nắm trong lòng bàn tay.
Về mức độ trọn vẹn khi dẫn điển đa số là trích dẫn không hoàn toàn
thường mượn ý, hình ảnh, tên đất, tên người, tên triều đại… sau đó gợi mở
ra ý nghĩa cần dùng. Khi trích dẫn trọn vẹn, thường gặp ở điển có nguồn
gốc từ Kinh bộ hay văn học dân gian.
2.2 Nghệ thuật sử dụng điển cố trong văn ngoại giao của Nguyễn
Trãi:
Xét trong 62 bức thư mà có đến 110 lần xuất hiện điển cố, tức là bình
quân mỗi bức gồm hai điển cố, nếu không kể đến 15 bức không xuất hiện
điển cố thì bình quân mỗi bức khoảng gần 3 điển cố. Cùng với 78 điển cố
khác nhau thuộc năm nhóm nguồn gốc, có thể nói nguồn điển cố mà
Nguyễn Trãi dùng rất phong phú, từ văn học dân gian đến cả kinh, sử. Điều

đó nói nên Nguyễn Trãi là người rất am tường, vốn văn hoá uyên bác, khả
năng vận dụng khéo léo, biết nhấn mạnh, xoáy sâu khiến quân giậc không
thể coi thường. Hơn nữa đó là những tích để lại của chính cha ông họ,
những câu truyện trong lịch sử nước họ. Khi bọn Phương Chính bị ta tiến
công chúng vì sợ mà không ra đánh Nguyễn Trãi đã chỉ thẳng vào mặt
chúng: “Nhĩ nãi bế thành cố thủ, chính như nhất lão ẩu, hà da? Ngô khủng
nhữ đẳng bất miễn cân quắc chi nhục hĩ” (Thế mà ngươi vẫn cứ đóng cửa
thành bền giữ như mụ già thế cớ làm sao? Ta e bọn ngươi không khỏi cái
nhục khăn yếm vậy). Dùng truyện khi Gia Cát Lượng khiêu chiến với Tư
Mã Ý ở sông Vị Thuỷ để làm nhục y ghi trong sách Tấn Thư qua đó gián
tiếp khiêu khích bọn Phương Chính (bức 7). Như thế Nguyễn Trãi trước đã
rất khôn khéo vừa là tỏ ý ýtôn trọng lịch sử Trung Quốc nhưng sâu xa hơn
là lấy chính những tuyên ngôn, những chiến tích mà bọn giặc Minh tỏ ra
nhân nghĩa mà kì thực chúng đã dẫm nát lên chính những lời nhân nghĩa đó
của cha ông mình. Còn khi bọn chúng lớn tiếng hô khẩu hiệu “phù Trần diệt
14
Hồ” thì ngay sau đó Nguyễn Trãi đưa hàng loạt dẫn chứng để bẻ gẫy luận
điệu gian trá của giặc đồng thời vạch trần bản chất xâm lược của chúng.
Trong thư “Lại thử trả lời Phương Chính” Nguyễn Trãi viết: “Nhĩ quốc vãn
nhân Hồ thị thất đạo, giả dĩ điếu phạt vi danh, tế kì bạo lệ chi thực, xâm
đoạt ngã cương thổ ngư liệp ngã sinh dân” (nước mày nhân dịp họ Hồ lỗi
đạo mượn tiếng điếu dân phạt tội kì thực làm việc bạo tàn, lấn cướp đất
nước ta, bóc lột nhân dân ta). Đồng thời tỏ thái độ cương quyết, dùng lí lẽ
vững chắc, điển cố xác đáng để bọn chúng tự nhận lỗi về mình. Trong
“Biểu cầu phong” Nguyễn Trãi lên giọng: “Hựu dĩ Hán chi ư Hung Nô,
Đường chi ư Cao Ly vi ngôn, đại nhân khởi bất kiến Vũ Đế chi chiếu khí
Luân Đài, Thái Tông chi ban sư Tân Thị” (Tất như Hán Võ lấy việc bỏ
Luân Đài mà nhận lỗi, Đường Thái Tông lấy việc đánh Cao Ly mà ăn năn).
Đây chính là cái mà Nguyễn Trãi gọi là nghệ thuật “tâm công” (đánh bằng
tâm) đã mang lại hiệu quả cho lập luận của ông, vừa ra đòn “gậy ông đập

lưng ông” lại vừa khiến chúng tâm phục khẩu phục. Về mảng này ngòi bút
Nguyễn Trãi tỏ ra mạnh mẽ, sắc sảo đầy thuyết phục.
Xét về nguồn gốc thì kinh, sử truyện có 87 lần xuất hiện tương đương
với 85%. Có hiện tượng này là do Nguyễn Trãi vận dụng được ý nghĩa nội
tại của nhóm nguồn gốc. Đó là những lời giáo huấn, hay từ kinh nghiệm
và trí tuệ của bậc thánh nhân từ lâu đã trở thành tấm gương, chân lí để đối
chiếu với việc làm của người đời sau. Đưa ra lời chỉ giáo của cha ông mình
thì quân Minh sao có thể chối cãi? Nhờ thế mà điển cố Nguyễn Trãi sử
dụng càng mang tính thuyết phục, nó giống như chỗ dựa vững chắc để lập
luận của ông thêm phần đanh thép lại thấu tình đạt lí.
Bằng vốn điển cố đó Nguyễn Trãi đã bố trí một cách linh hoạt khiến
câu văn không bị cứng nhắc, sáo rỗng. Ở giai đoạn đầu cuộc kháng chiến
khi tương quan so sánh lực lượng nghiêng về bên giặc Nguyễn Trãi đã khôn
khéo giữ thế hoà mà liên lạc với chúng dưới hình thức trá hàng vừa nêu nỗi
oan khuất của mình, nỗi khốn khó của dân chúng đồng thời nêu lên tội ác
của giặc. Trong bức thư thứ nhất gửi cho giặc, Nguyễn Trãi thể hiện sự tài
tình của mình trong lập luận, sử dụng điển cố xác đáng, uyển chuyển không
chỉ phù hợp với nội dung bức thư mà còn nêu bật mục đích, ý tưởng của
mình: “Nhiên tinh vệ vô từ điền hải chi lao, oan khốc bất cố tử sinh chi
15
báo” (song chim tinh vệ lấp biển há quản gian lao, kẻ oan ức trả thù cũng
liều sống thác). Khi nghĩa quân giữ được thế tấn công, vây hãm thành Nghệ
An nhưng địch vẫn chưa đầu hàng, Nguyễn Trãi viết “Lại thư cho Phương
Chính” khiêu khích để địch ra ngoài giao chiến: “Ngô khủng nhữ đẳng bất
miễn cân quắc chi nhục hĩ” (ta e là bọn mày không thoát khỏi nhục khăn
yếm) lời lẽ tưởng như đơn giản ngẫm kĩ mới thấy thâm thuý.
Đồng thời với việc lên án, tố cáo tội ác của giặc, Nguyễn Trãi tiếp tục
sử dụng điển cố làm minh chứng cho lập luận của mình. Trong thư gửi Liễu
Thăng Nguyễn Trãi dẫn ra một câu tục ngữ dùng hình ảnh con ong cái bọ,
chỉ là thứ côn trùng, sâu bọ cũng có vũ khí sinh tồn của nó, từ đó nói về ý

chí quyết tâm chống kẻ thù xâm lược của dân tộc ta: “sái do hữu độc, huống
ngã nhất quốc chi nhân, kỳ trung khởi vô mưu kế dũng lược chi sĩ” (con
ong cái bọ còn có nọc độc huống chi trong cả nước tôi há lại không có
người nào mưu trí hay sao? Các ông chớ có thấy nước tôi ít người mà coi
thường) (Bức thư số 54).
Với phương pháp dùng thủ pháp đối, Nguyễn Trãi đưa ra điển cố để
đối lập giữa luận điệu xảo trá “hưng diệt kế tuyệt”(trấn hưng nước đã diệt
nối dòng đã mất) của địch với tấm lòng “điếu dân phạt tội”(thương dân
đánh kẻ có tội) của nghĩa quân, qua đó khẳng định cuộc khởi nghĩa của ta là
chính nghĩa còn của quân Minh là vô đạo, phi nghĩa. Đây là một khẳng định
rất có ý nghĩa vì có chính nghĩa thì mới khiến người dân tin. Dân tin thì dân
ắt sẽ theo về, có dân thì như nắm được gốc trong tay, như thế lo gì chính
nghĩa không thắng hung tàn. Chẳng phải chính thánh nhân xưa đã dạy
“phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ” (lật thuyền mới biết sức dân như nước) hay
sao? Trong bức thư số 31 Nguyễn Trãi cũng đưa ra sáu điều tất thua cho
quân Minh trong đó có lí do mất lòng tin ở dân chúng là vậy. Đứng trên lập
trường của người chiến thắng Nguyễn Trãi còn khẳng định quân ta không
chỉ chính nghĩa mà còn có lòng khoan hồng. Đây là đức tính quí báu mang
tính truyền thống của dân tộc nay được nghĩa quân kế thừa và sử dụng lời
dạy ấy rất đúng chỗ. Truyền thống “thương người như thể thương ta” của
dân tộc một lần nữa được thi hành cho tàn quân Minh. Phải nói rằng
Nguyễn Trãi thật là cao tay mới có thể viết được những lời lẽ đanh thép như
thế. Bằng chiến thắng vang dội, tuy đổ nhiều xương máu nhưng lịch sử đã
16
chứng minh rằng “đại nghĩa” sẽ thắng “hung tàn”. Chẳng thế mà khi kết
thúc chiến tranh, ta đã không làm như nhà Hán, nhà Đường đánh cả kẻ chạy
đi lẫn kẻ chạy về, trái lại ta dải thảm hoa, sắm sửa thuyền bè cho quân Minh
về nước khiến chúng cảm động. Trước khi về nước Vương Thông còn qua
chào từ biệt Lê Lợi. Nghệ thuật “tâm công” thế là đã đến chỗ tột đỉnh của
nó.

Trong gới hạn bài viết nên chúng tôi không thể lấy dẫn chứng được
hết các điển cố, với số lượng 78 điển cố như vậy có thể nói điển cố trong
tay Nguyễn Trãi thật là phong phú lại được sử dung rất linh hoạt và công
phu. Một cách ý thức Nguyễn Trãi đã khiến chúng thành phương tiện sắc
bén cho lập luận cuả mình.
So sánh giữa các loại điển cố Nguyễn Trãi dùng, như ta đã thống kê
trên cho thấy nguồn gốc lấy từ kinh sử và về binh pháp là nhiều hơn cả còn
điển lấy từ tục ngữ, phương ngôn chiếm rất nhỏ. Đó chính là điều chú trọng
của Nguyễn Trãi. Bởi lẽ để đánh thắng được kẻ thù không gì bằng hiểu thấu
đáo kẻ thù. Từ việc xác định rõ đối tượng hướng tới chủ yếu là tướng soái
nhà Minh. Về mặt khách quan mà nói họ là những người mà Nguyễn Trãi
đã khẳng định “từng đọc Thi, Thư” chứ không phải những kẻ tầm thường.
Như vậy lấy Thi, lấy Thư ra trả lời, Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định trí
tuệ của dân tộc mình mà còn nhằm mục đích rất rõ ràng, mục đích “thực
dụng”- dùng chính ngôn ngữ huênh hoang, đắc thắng của kẻ thù làm vũ khí
trang bị cho lí luận của ta. Trong “Bình Ngô đại cáo” Nguyễn Trãi cũng sử
dụng khá nhiều điển về kinh, sử để trợ giúp cho lí lẽ của mình. Dẫn câu
“dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa
ta cũng nguyện làm” trích câu nói của Mã Viện trong Hậu Hán thư để nói
lên ý chí quyết tâm đánh giặc của ta. Có thể nói “Bình Ngô đại cáo” cũng
như "QTTMT" nói riêng và mảng văn chính luận của Nguyễn Trãi nói
chung có một nét phong cách khá độc đáo, trong đó yếu tố điển cố được sử
dụng với mục đích chính trị, mục đích “thực dụng” đóng một phần quan
trọng.
Trong sáng tác thời kì văn học trung đại, điển cố được xem như là
phương thức đặc biệt để xây dựng câu văn, câu thơ. Tuy nhiên việc đưa
điển cố với mục đích sử dụng lại khác nhau. Điển cố có khi giúp câu văn
17
hình ảnh thêm sinh động, tránh sự trần trụi, khô khan, có khi để bộc lộ chí
hướng, diễn tả cái gọi là “ý tại ngôn ngoại”, hay có khi là tỏ sự uyên bác,

quí phái… Còn một loại mà Nguyễn Trãi dùng làm mục đích chính cho lối
văn chính luận của mình. Bên cạnh yếu tố tích cực vốn có mà điển cố mang
lại Nguyễn Trãi đã khéo léo lôi kéo nó vào mục đích của mình. Một mục
đích rất “thực dụng”, đó là dùng điển cố làm ví dụ hay làm chứng cớ xác
thực cho lập luận. Không dẫn dắt dài dòng hay liệt kê một cách chi tiết mà
lợi dụng những tích cũ, những câu nói trong kinh điển đưa ra một vài điểm
cũng đủ làm ví dụ dẫn chứng giúp cho lập luận có cơ sở vững chắc, xác
đáng, rõ ràng. Để vạch trần tội ác của giặc, Nguyễn Trãi hoặc là đưa ra ví
dụ trực tiếp hoặc dùng biện pháp đối lập… từ đó để đối chiếu, so sánh với
việc làm của chúng. Như là lúc thì dẫn chứng về tính hiếu đại của Hán
Đường, lúc lại dẫn về gương điếu dân phạt tội của Thang Vũ. Từ đó đưa ra
hai mặt của một vấn đề: vạch trần bộ mặt xâm lược của giặc đồng thời cho
thấy bọn chúng là kẻ đã bất chấp trà đạp lên đạo đức do chính cha ông
chúng đề ra. Đó là mục đích chính do hiệu quả điển cố mang lại, tuy nhiên
cũng không thể loại bỏ những yếu tố khác đã khiến câu văn mang tính sinh
động, lời lẽ sâu sắc, nâng cao tính bác học cho tác phẩm.
Như vậy, trên nền chung về cách sử dụng điển cố trong văn học cổ
nước ta thì Nguyễn Trãi đã dành cho mình một hướng đi riêng. Phải nói
thêm rằng việc sử dụng điển cố của Nguyễn Trãi đạt tới một trình độ điêu
luyện, sắc xảo, không hề xáo rỗng, hay khô khan mà ngược lại nó htrở
thành thứ công cụ đắc lực cho lập luận của tác giả. Điều đó sở dĩ có được
bên cạnh chủ ý của tác giả còn do hoàn cảnh khách quan tác động. Khi giao
thiệp thư từ với quân Minh căn cứ vào từng hoàn cảnh, tuỳ đối tượng nhất
định mà tác giả lúc dùng lời lẽ mềm mỏng, lúc thì cương quyết, rắn rỏi…
Nhưng dù trong lúc yếu thế hay thắng thế, Nguyễn Trãi luôn đứng trên lập
trường lấy tư tưởng nhân nghĩa làm nòng cốt, đồng thời dùng thuật “tâm
công” đánh bằng tấm lòng, lôi kéo thuyết phục đối phương nhằm kết thúc
chiến tranh ít đổ máu nhất và luôn đặt quyền lợi của người dân lên hàng
đầu. Xuất phát từ lí do hoàn cảnh, Nguyễn Trãi đã lựa chọn cho mình
phương thức viết riêng, trong đó cách dùng điển cố với mục đích có thể nói

là rất “thực dụng” đã góp phần đắc lực cho luận điệu của mình. Và quả thực
18
đó là một lựa chọn khôn ngoan, bằng chứng là bọn giặc Minh cứng đầu cuối
cùng đã tâm phục, khẩu phục. Kẻ về đến nước mà vẫn “tim đập chân run”,
kẻ thì ân cần đến chào vị tướng Lê Lợi trước khi rút về nước… Như thế
trong phong cách viết văn chính luận của tác giả, nghệ thuật sử dụng điển
cố quả thực đã đem lại cả giá trị nội dung và nghệ thuật cao. Ở QTTMT,
Nguyễn Trãi đã sử dụng phương pháp lập luận chặt chẽ, bao gồm cả cách
chọn lọc từ ngữ và kết cấu tác phẩm. Đó chính là hình thức nghệ thuật quan
trọng làm nên sức thuyết phục cho các bức thư. Kết cấu theo hình thức quy
phạm: mở đầu, phần thân và kết luận. Đặc biệt xen lẫn giữa các đoạn trong
bức thư tác giả thường luận điểm dưới dạng nguyên lí. Cơ sở của các luận
điểm đó từ những khái niệm đạo đức Nho giáo đã được hai bên công nhận,
những chân lí khách quan rút ra từ thực tế cuộc sống, những vấn đề như
chữ “thời” trong các sách Binh pháp đề cập đến và người dụng binh đều
thấu hiểu. Mỗi bức thư đều mang tính chiến đấu rõ ràng: giương cao tính
chính nghĩa, có biện pháp chiến đấu thích đáng, giảm tàn sát. Nguyễn Trãi
quả đã khéo léo sử dụng ngòi bút thần kì của mình viết thành hệ thống văn
địch vận, vừa đậm đà khí phách dân tộc vừa đầy đủ tính chất hùng biện
đứng trên lập trường của người chiến thắng. Trong đó phải kể đến sức mạnh
của việc sử dụng điển cố, nói một cách hình ảnh thì việc sử dụng điển cố có
khi đan cài có khi xuất hiện dồn dập như những viên kim cương lấp lánh mà
các câu chữ khác bấu víu vào tạo ra thứ vũ khí sắc bén đâm thủng những
luận điệu gian trá của kẻ địch. Và có thể nói thứ văn địch vận này thực sự
đã hỗ trợ đắc lực cho mặt trận quân sự và nó có sức mạnh bằng nhiều sư
đoàn tinh nhuệ. Quả nhiên, bằng việc kết hợp giữa vũ khí quân sự và vũ khí
ngoai giao đã khiến kẻ thù bị đánh bại cả về lực và trí. Kết thúc bọn vương
Thông phải ra dự lễ ăn thề,rút quân về nước.
19
III. PHẦN KẾT LUẬN

Như vậy có thể khẳng định một lần nữa, điển cố chính là một thủ pháp
nghệ thuật đặc thù mà giá trị nó đem lại thật to lớn. Văn học cổ nói chung
và đọc "QTTMT" nói riêng thì vấn đề điển cố hết sức được chú trọng. Điển
cố chính là chìa khoá để cảm thụ và thẩm định tác phẩm. Việc sử dụng một
cách thuần thục, linh hoạt các điển cố, Nguyễn Trãi đã biến nó thành một
phương tiện sắc bén, là chỗ dựa cho lý luận của tác giả. Những bức thư
được mệnh danh có giá trị như “mười vạn quân” (Phạm Văn Đồng) ấy
được nâng cao hơn, mang giá trị hơn rất nhiều phần quan trọng phải kể đến
nghệ thuật sử dụng điển cố của Nguyễn Trãi. Sau khi cuộc chiến tranh kết
thúc thắng lợi, những bức thư của Nguyễn Trãi viết trong thời gian ngoại
giao với giặc Minh được coi là Quốc thư, là minh chứng quan trọng để lập
nên triều đại Lê. Cũng chính bởi tầm cỡ lớn lao và ý nghĩa lịch sử như vậy
mà ngay cả khi bị thảm hoạ tru di các thư tịch di văn của Nguyễn Trãi bị
triều đình tiêu huỷ. Chỉ cho tới khi Lê Thánh Tông minh oan (1467 đã hạ
chỉ sưu tầm, thu thập) và cũng phải nhờ công lao của những người yêu mến
tài năng của Nguyễn Trãi lắm thì đến nay chúng ta mới còn được thưởng
thức nhưng di văn của ông. Những tác phẩm đó không chỉ mang giá trị hiện
thực mà còn giúp ta hiểu thêm về những giá trị đặc sắc nhất trong đó bao
gồm cả phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của vị quân sư lỗi lạc
này.
Để làm nên một nhà văn chính trị kiệt xuất như Nguyễn Trãi, phong
cách độc đáo là yếu tố không thể thiếu. Tính chiến đấu là nét đặc thù của
văn chính luận dân tộc ta. Nhưng chiến đấu ngoan cường, trực diện, tập
trung, thường xuyên và có hiệu quả như Nguyễn Trãi phải xuất phát từ trí
tuệ nhạy bén, tình cảm chân thành và nhất là từ ý thức dùng văn chương
làm vũ khí “mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao”( Phạm Văn Đồng) thì
chỉ có thể tìm sớm nhất trong văn chính luận của Nguyễn Trãi. Một trong
yếu tố làm nên “cái hay” của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở bút pháp
hùng biện. Đặc biệt trong “QTTMT" khi viết thư cho kẻ địch thì phải tự
hiểu mình để giữ vững tư thế mà cũng phải rất hiểu kẻ địch để đánh cho

trúng. Tuỳ từng đối tượng, tuỳ từng diễn biến mà công kích hay nhún
20
nhường… lại phải tìm lời lẽ thích hợp để kẻ địch hiểu được và hướng chúng
theo hành động của ta. Ở điểm này việc lựa chọn điển cố xác đáng của
Nguyễn Trãi là rất khôn khéo và sáng suốt. Việc vận dụng tinh vi đó có cơ
sở vững chắc từ nhận thức của Trung Quốc cũng như tìm hiểu về đất nước,
kết hợp với tình cảm chân thành và ý chí gan thép của tác giả. Cùng với các
phương pháp tu từ khác như liệt kê, chứng minh, phân tích… giọng điệu
biến hóa lúc lên giọng lúc xuống giọng… thì điển cố cũng góp phần tạo nên
phong cách cho bút pháp viết văn chính luận của Nguyễn Trãi.
Để làm nên phong cách thì mỗi tác giả sẽ chọn cho mình hướng đi
riêng, độc đáo và được sử dụng trong hầu hết các tác phẩm của mình. Tuy
nhiên phong cách trong mỗi tác phẩm không đơn thuần là việc lặp lại mà có
sự đổi mới, nhưng đọc trong đó ta vẫn có thể nhận ra đó là tác giả đó chứ
không thể là tác giả khác. Nếu tác giả nào không tìm cho mình một phong
cách riêng thì không thể tồn tại được. Một tác gia lớn thì phong cách được
thể hiện rất đậm nét.
Trước Nguyễn Trãi đã có văn chính luận, nhưng để trở thành nhà văn
chính luận thì chỉ Ức Trai là riêng có. Văn chính luận của Nguyễn Trãi có
số lượng khá lớn như: QTTMT, Bình Ngô đại cáo, chiếu, biểu viết dưới
triều Lê… Trong mỗi một tác phẩm đều mang đậm phong cách viết văn
chính luận đặc thù của ông. Thông qua việc tìm hiểu tác phẩm QTTMT ta
cũng có thể nhận thấy được hơi thở và tiếng nói chung của ông trong đó.
Văn chính luận thường bàn đến những vấn đề chính trị, xã hội có tầm
cỡ Quốc gia. Do đề cập đến những vấn đề lớn của đất nước nên nó thường
phát triển mạnh trong những thời kì mà văn chính luận nổi lên hàng đầu của
hiện thực lịch sử. Trong văn chính luận, tính chất và cảm hứng dân tộc nổi
bật nhất. Bên cạnh nét chung đương thời, văn chính luận của Nguyễn Trãi
còn mang phong cách riêng.
Trước hết đó là tính chiến đấu xuất phát từ ý thức tự giác dùng văn

chương phục vụ cho những mục đích chính trị, xã hội. Tiếp thu những quan
niệm văn học thời trước “văn dĩ chở đạo” phục vụ trực hoặc gián tiếp cho
những mục đích chính trị xã hội cao đẹp của dân tộc. Hơn nữa Nguyễn Trãi
lại là người trực tiếp sống và chiến đấu trong cuộc chiến tranh cứu nước lâu
dài và gian khổ nên ông đã thổi vào dòng văn học một tinh thần tự giác về
21
nhiệm vụ, sử dụng ngòi bút như một vũ khí. Do đó văn chính luận của ông
có nội dung yêu nước sâu sắc và có tính chiến đấu cao. “Bình Ngô đại cáo”
thì bừng bừng khí thế của những năm Bình Ngô, phục Quốc. “QTTMT” thì
được mệnh danh là “có sức mạnh như mười vạn quân” (Phạm Văn Đồng).
Ở đây ông đã dùng trí mưu để phân tích thời- thế- lực nhằm chứng minh ta
nhất định thắng địch nhất định thua. Nguyễn Trãi đã vận dụng đạo lí để lên
án vua quan triều Minh về tội ác xâm lược dối trá bạo tàn, “cùng binh độc
vũ”, “hiếu đại hỉ công”… Tuyên dương nghĩa quân về việc làm chính
nghĩa, trung thực, khoan hồng… Sức mạnh văn chính luận của Nguyễn Trãi
đó là chiến lược “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn lấy chí nhân để thay
cường bạo”. Từ nhu cầu “tâm công” và từ nhận thức về tính năng chiến đấu
của văn chương với tinh thần chiến đấu không mệt mỏi, kết hợp với mưu trí
hết sức linh hoạt, Nguyễn Trãi đã viết thư giáng cho địch những đòn tới tấp,
đánh cho chúng phải thua trên mặt tư tưởng, làm lung lay tinh thần chiến
đấu của quân giặc. Chiến đấu là đặc thù của văn chính luận, nhưng chiến
đáu ngoan cường, trực diện, tập trung có hiệu quả cao phải xuất phát từ trí
tuệ nhạy bén, tình cảm chân thành và nhất là ý thức dùng văn chương làm
vũ khí thì chỉ có thể tìm thấy sớm nhất trong văn chính luận của nguyễn
Trãi.
Văn chính luận của Nguyễn Trãi phản ánh trình độ cao của văn chính
luận dân tộc. Nguyễn Trãi viết văn chính luận với nhiều thể loại khác nhau,
bút pháp của tác giả cũng tùy theo yêu cầu của từng loại văn: thư, cáo,
chiếu, dụ… mà thay đổi. Đối tượng của văn chính luận là những vấn đề
chính trị xã hội. Cái hay của văn chính luận trước hết ở chỗ vấn đề tác giả

đặt ra và giải quyết nó như thế nào. Nguyễn Trãi đã đặt ra vấn đề độc lập
dân tộc, số phận nhân dân trong “Bình Ngô đại cáo”, vấn đề xây dựng một
đất nước thịnh trị lâu dài, hoà bình muôn thở trong chiếu dụ, và vấn đề “tâm
công” trong “QTTMT”… Bút pháp tài tình của tác giả ở chỗ đặt rõ vấn đề
và lí giải có sức thuyết phục. Tư tưởng của tác phẩm và tư tưởng của tác giả
bộc lộ qua phong cách biện luận, hoặc đối thoại, hoặc nói việc xưa chỉ việc
nay… tứ trong bài văn khi thì đối lập, khi thì dẫn dắt nhau, khi cật vấn khi
phản bác… nhằm lập đi lật lại vấn đề, xét soi mọi lẽ để chứng minh cho
quan điểm, lập luận của mình. Đặc biệt khi viết thư cho địch, bút pháp của
22
Nguyễn trãi tỏ ra điêu luyện, ông luôn tỏ ra là người thấu hiểu kẻ địch và
luôn đứng vững trên quan điểm lập trường vững chắc của mình.
Nét đặc sắc của bút pháp hùng biện của Nguyễn Trãi còn ở nhiều
phương diện khác như cách sử dụng biện pháp tu từ, kết hợp ngôn ngữ
chính luận với ngôn ngữ hình ảnh, tính lôgic v.v…
“QTTMT” nằm trong hệ thống văn chính luận của Nguyễn Trãi, do
đó nó mang đầy đủ phong cách văn chính luận của ông. Với giọng điệu
ngôn ngữ cách hành văn, cách sử dụng các biện pháp tu từ, dẫn dắt điển
cố… riêng có, “QTTMT” đứng có vị trí quan trọng trong hệ thống văn
chính luận cũng như trong toàn bộ sáng tác của ông. Nguyễn Trãi xứng
đáng là nhà văn chính luận kiệt xuất. Văn chính luận của Nguyễn Trãi có
giá trị mẫu mực là cột mốc đánh dấu sự phát triển của văn chính luận dân
tộc.
23
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Ánh Loan. E !"#$”. NXB
ĐHQG thành phố HCM. 2003.
2. Nguyễn Hữu Sơn. “9FG6 H”. NXBGD.
2000.
3. Nguyễn Văn Nguyên. “9:46I01DJ

9FG”. Viện Viễn Đông Bác Cổ NXB văn học viện nghiên cứu Hán
Nôm. 1998
4. Nhóm Mai Quốc Liên. “9FG. ”. NXB KHXH.1969
5. Tuấn Thành, Anh Vũ. “9FGH #%KLNXB
Văn học. 2002
24
BẢNG THỐNG KÊ ĐIỂN CỐ
Tên bức thư
Vị
trí
Tên điển cố
Mức độ
trọn vẹn
Nguồn gốc
Hoà
n
toà
n
Khô
ng
hoàn
toàn
Truy
ện,
Sử
Ki
nh
Bộ
Về
sách

Binh
Pháp
Thi
ca
cổ
Văn
học
dân
gian
1. Thỉnh
hàng thư
C
11
Tinh vệ vô từ điền
hải…
x x
C
13
Đặng Vũ dụ địch chi
tâm
x x
Hoàng Bá hoá dân
chi chính
2. Nghệ tổng
binh quang
C
1
vật bất đắc kỳ bình… x x
C
10

Kê Khang phụ tội,
Quan vũ cánh sinh
x x
C
4
Thượng ty hoài nhu x x
3. Dữ Thái
Giám
C
7
Dĩ thù trị thù… x x
Sơn Thọ thư
4. Dữ
Phương
C
1
Thiên chi cung, bất
vị…
x x
Chính thư
5. Hựu đáp C
5
Khởi uế dĩ tự xú x x
Phương
Chính thư
C
9
Nhân giả dĩ nhược
chế cường…
x x

6. Hựu đáp C
1
thiện dụng binh giả,
vô hiểm…
x x
Phương
Chính thư
7. Hựu dữ C
1
cổ chi vi tướng giả,
nhân nghĩa…
Phương C
7
Cân quắc chi nhục x x
25

×