Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Trách nhiệm của MNCs và biện pháp của nước xuất xứ đầu tư. Các chính sách đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc và Hàn Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.46 KB, 54 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN NHÓM
Trách nhiệm của MNCs và biện pháp của nước
xuất xứ đầu tư.
Các chính sách đầu tư ra nước ngoài của Trung
Quốc và Hàn Quốc
1
Lời mở đầu
Một trong những động lực quan trọng thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa và
tăng trưởng của nền kinh tế Thế giới là Các công ty đa quốc gia (MNCs). Hiện
nay, hoạt động của khoảng trên 60.000 MNCs (công ty mẹ) thông qua trên
500.000 chi nhánh (công ty con) trên khắp các châu lục đã và đang thực hiện
phần lớn hoạt động đầu tư nước ngoài và trao đổi thương mại toàn cầu.
Mặt khác, MNCs cũng thực hiện chủ yếu các hoạt động nghiên cứu và phát
triển (R&D), chuyển giao công nghệ giữa các nước. Những hoạt động này đã tạo
được nhiều việc làm, góp phần quan trọng vào phát triển nguồn nhân lực và tăng
cường hội nhập giữa các nền văn hóa thế giới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tầm
ảnh hưởng cũng như trách nhiệm của các MNCs và biện pháp của các nước đi
đầu tư đối với sự phát triển nền kinh tế thế giới như thế nào là rất quan trọng.
Bố cục của bài thảo luận gồm 3 Chương:
Chương 1: Sơ lược về MNCs và trách nhiệm của các MNCs
Chương 2: Biện pháp của các nước đi đầu tư (Home states mesures)
Chương 3: Chính sách đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc và Trung Quốc
2
Chương 1. SƠ LƯỢC VỀ MNCs VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC
MNCs
1.1. Khái niệm MNCs
1.1.1. Khái niệm
MNCs là viết tắt của từ Multinational corporations là các công ty đa quốc
gia, là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai


quốc gia trở lên. Công ty đa quốc gia có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan
hệ quốc tế và nền kinh tế quốc gia.
1.1.2. Các loại hình công ty đa quốc gia
Các công ty đa quốc gia có thể xếp vào ba nhóm lớn theo cấu trúc các
phương tiện sản xuất:
Có 3 loại hình - MNCs theo chiều ngang: sản xuất các sản phẩm cùng loại
hoặc tương tự ở các quốc gia khác nhau (Vd: Mc Donalds)
- MNCs theo chiều dọc: có các cơ sở sản xuất ở một số nước
nào đó, sản xuất ra sản phẩm là đầu vào cho sản xuất của nó ở một số nước khác
(VD: Adidas, )
- MNCs đa chiều: có cơ sở sản xuất ở các nước khác nhau mà
chúng hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc (VD: Microshoft…)
1.1.3. Sự phát triển và tầm ảnh hưởng của các MNCs đối với sự phát triển
kinh tế thế giới
Các công ty đa quốc gia gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất lớn
TBCN. Trong thời kỳ đầu cạnh tranh tự do của CNTB, mục đích lợi nhuận và
phát triển sản xuất đã làm tăng y/cầu về thị trường nguyên liệu, thị trường lao
động, thị trường hàng hóa và thị trường tài chính. Các y/cầu đó đã thúc đẩy việc
tăng cường khai thác và mở rộng hoạt động kinh doanh sang nước khác. Ngoài
ra, sự cạnh tranh quyết liệt cũng hướng nhiều công ty trong nước đi tìm lợi nhuận
sang thị trường bên ngoài.
3
Các MNC thực sự hình thành và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ chủ nghĩa
đế quốc. Trong thời kỳ này, quá trình tích tụ tư bản, tập trung sản xuất, sự kết hợp
giữa tài chính và giới công thương dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn
sản xuất-kinh doanh lớn theo xu hướng độc quyền. Sự cạnh tranh tự do thời kỳ
đầu của CNTB với sự thôn tính “cá lớn nuốt cá bé” cũng tạo thêm điều kiện cho
sự hình thành các tổ chức kinh doanh độc quyền lớn.
Sự nổi lên của các công ty độc quyền và sự vươn mạnh ra thế giới con nhờ
sự kết hợp chặt chẽ giữa quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị của nhà nước

TBCN. Sau chiến tranh thế giới thứ II, sự phát triển của nền kinh tế thế giới, nhu
cầu tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế và sự hợp tác chính trị giữa các TBCN đã
tạo điều kiện cho sự phát triển tiếp tục của các MNCs, đặc biệt trong thế giới tư
bản. Nhiều MNC ra đời và phát triển mạnh mẽ thời kỳ này.
Sự phát triển của các MNC không chỉ ở sự nắm giữ các lĩnh vực kinh tế
trọng yếu, năng lực tài chính và khoa học kỹ thuật… mà còn ở sự mở rộng hoạt
động kinh doanh ra khắp thế giới tư bản. MNC ngày càng được coi là công cụ
phát triển, là sự tạo công ăn việc làm, là nguồn thuế thu, là sự khắc phục về vốn,
kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm làm ăn quốc tế. Bởi thế, các nước đều mở
cửa thị trường, khuyến khích FDI và thậm chí còn cạnh tranh với nhau trong việc
thu hút MNC. Nhờ đó các MNC đã bành trướng khá nhanh và mở rộng vai trò
trong trường quốc tế.
Thực tế, nhiều công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả ngân sách của
nhiều quốc gia. Các MNCs cũng là người nắm giữa hầu hết vốn đầu tư nước
ngoài. Các MNC thực hiện hơn 80% thương mại thế giới và chi phối hầu hết các
ngành công nghiệp và dịch vụ quan trọng của thế giới. Ngoài ra, nó còn nắm giữa
phần lớn công nghệ tiên tiến và quá trình chuyển giao công nghệ. Cho đến nay,
thế và lực của MNC vẫn tiếp tục phát triển với xu hướng sát nhập và thu nhận để
4
hình thành các tập đoàn lớn, nhất là trong những lĩnh vực kinh tế quan trọng như
truyền thông, ngân hàng tài chính, giao thông vận tải…
Bảng 1: 10 MNCs hàng đầu
STT MNC
Nước đầu

Doanh thu
(Tỷ USD)
2010 2011
1 General Electric Mỹ 139,716 130,470
2 Vodafone Group PLC Anh

3 Ford Motor Company Mỹ 197,55 204,39
4
British Petroleum Co.
Plc
Anh 294,89 358,87
5 General Motors Mỹ 135,59 150,28
6
Royal Dutch/Shell
Group
UK/Hà Lan 365,21 449,32
7
Toyota Motor
Corporation
Nhật Bản 202.33 202.75
8 Total Fina Elf Pháp
9 France Telecom Pháp
10
Exxon Mobile
Corporation
Mỹ
Nguồn: Annual Income Statement,
/>Nhìn vào bảng có thể thấy các tập đoàn đa quốc gia MNCs chủ yếu tập trung
vào các ngành công nghiệp sản xuất công nghiệp nặng và truyền thông. Và cũng
theo số liệu từ bảng trên có thể nhận thấy được tổng doanh thu của các MNCs đạt
được khổng lồ. Chỉ đơn giản so với GDP của Việt Nam năm 2010 đạt 102.2 tỷ
USD và năm 2011 đạt khoảng 110 tỷ USD (Nguồn: ) ta
có thể thấy được mức độ ảnh hưởng cũng như sự bành trướng của các MNCs như
thế nào. Theo số liệu thống kê quốc tế cho thấy, các công ty MNC chiếm tới
5
25% giá trị của nền sản xuất toàn cầu, 65% kim ngạch thương mại quốc tế, 90%

công nghệ cao và 70% đầu tư nước ngoài.
Tổng giá trị tài sản của 500 công ty lớn nhất thế giới năm 1997 là 34.187 tỷ
USD. Như vậy, quy mô trung bình của một công ty mẹ trong số này là hơn 66 tỷ
USD. Theo số liệu của tạp chí Fortune, các công ty MNC hoạt động chủ yếu
trong 44 nhóm ngành kinh tế - kỹ thuật. Quy mô trung bình của công ty mẹ trong
các ngành này rất khác nhau, chẳng hạn, trong ngành ngân hàng (thương mại và
tiết kiệm) là 248 tỷ USD, công nghiệp ô tô là 47 tỷ USD, điện tử và thiết bị điện
là 38,4 tỷ USD, viễn thông là 39,5 tỷ USD. Chính vì mức độ bành trướng của các
MNCs đối với sự phát triển kinh tế của các quốc gia và sự phát triển kinh tế toàn
cầu nên việc nghiên cứu, xem xét trách nhiệm của các MNCs là vô cùng quan
trọng.
1.2. Trách nhiệm của các MNCs
Không giống như bộ luật cũ, những kỳ vọng ngày một gia tăng, đặc biệt là ở
các nước phát triển và các tổ chức phi chính phủ (NGOs), mà nước sở tại của các
tập đoàn đa quốc gia (MNCs) đang cố gắng kiểm soát các hoạt động của họ ở
nước ngoài. Các biện pháp sử dụng không chỉ là những biện pháp thúc đẩy dòng
đầu tư ra nước ngoài vào các nước đang phát triển, mà còn tìm kiếm những biện
pháp để đảm bảo hoạt động của các MNCs không có ảnh hưởng tiêu cực nào tới
sự phát triển của các nước chủ nhà. Chương này sẽ tập trung vào nghiên cứu các
biện pháp này. Lý do căn bản đó là các nước phát triển phải có trách nhiệm kiểm
soát hoạt động của cộng đồng quốc tế và thực tế kiểm soát hợp pháp những hành
vi của các MNCs ở nước ngoài. Về nguyên tắc thì hoạt động của các MNCs thậm
chí mang lại rất nhiều lợi nhuận cho nền kinh tế nước đầu tư. Nhưng cũng có
tranh cãi cho rằng phận sự của nước đầu tư là phải nhận thức được những khoản
lợi nhuận này là không vững chắc bởi nó gây tổn hại tới các quốc gia khác và ảnh
6
hưởng tới lợi ích của cộng đồng quốc tế nói chung. Bộ luật trước kia mới chỉ tập
trung bảo vệ hoạt động đầu tư nước ngoài thông qua các cuộc can thiệp ngoại
giao của nước đầu tư. Tuy nhiên, theo quan điểm tiến bộ ngày nay cho rằng nước
đầu tư cũng cần phải có trách nhiệm cũng như quyền lợi trong các vấn đề liên

quan tới đầu tư nước ngoài trong đó các nước đầu tư được yêu cầu phải đảm bảo
các MNCs của họ đang hoạt động theo đúng các tiêu chuẩn đề ra trong đó có yêu
cầu trách nhiệm phải giải thích.
Có những thay đổi quan trọng này là bởi rất nhiều nhân tố. Đầu tiên là, cộng
đồng quốc tế nhấn mạnh việc đảm bảo các nước nghèo trên thế giới đang trong
quá trình phát triển kinh tế. Các công cụ được hình thành bởi các nước phát triển
về bảo hộ đầu tư được coi là tiền đề trên quan điểm cho rằng các dòng đầu tư sẽ
thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Vấn đề phát triển kinh tế là vấn đề được nhấn
mạnh trong tất cả các Hiệp ước đầu tư và các biện pháp đầu tư. Điều đó đã được
chứng minh trong các tài liệu gần đây về vấn đề đầu tư mà trong đó cộng đồng
quốc tế nhấn mạnh tới chính sách, Vòng đàm phán Doha lần họp thứ 3 của WTO,
phát biểu rằng cân nhắc trong việc chọn lựa công cụ đầu tư sẽ tạo ra con số phát
triển. Chuẩn mực mà các chỉ tiêu được đánh giá căn cứ theo liệu sự phát triển
kinh tế có được thúc đẩy hiệu quả hay không thông qua việc xem xét các chỉ tiêu
cụ thể. Theo đó, cần lưu ý rằng một vài nước đang phát triển cũng nhấn mạnh
việc, nếu như WTO có các công cụ về đầu tư, thì nó cũng cần phải có các quy tắc
liên quan tới biện pháp của nước đầu tư để kiểm soát hoạt động của họ liệu có
gây hại tới sự phát triển của nước chủ nhà hay không.
Thứ hai, có một tổ chức mới – đó là tổ chức phi chính phủ - đang nỗ lực
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thay đổi tư tưởng bảo hộ các MNCs sang tư
tưởng cho rằng các tập đoàn này phải có trách nhiệm tạo ra mối quan hệ hợp tác
tốt. Tầm quan trọng của NGOs đã được thể hiện thông qua việc họ có khả năng
tập trung mọi quan tâm quốc tế vào Hiệp định thỏa thuận đa biên về đầu tư. Cho
7
tới nay họ vẫn luôn tham gia tích cực vào cuộc tranh luận về việc liệu có nên đưa
quy định WTO về đầu tư. Những hoạt động của NGOs cũng đã tạo ra một cuộc
tranh chấp đáng chú ý về vấn đề công nhận trách nhiệm của các tập đoàn mẹ
trong hoạt động đối với các công ty con của nó ở nước chủ nhà.
Thứ 3, một vấn đề phát sinh trong hoàn cảnh này đó là bộ luật đa biên về đầu
tư nước ngoài. Vấn đề đặt ra đó là liệu một bộ luật hoàn chỉnh đưa ra có đáp ứng

được không chỉ mọi quyền lợi trong việc bảo hộ đầu tư nước ngoài cái mà các
nước đầu tư đang muốn bảo vệ mà còn bao gồm cả trách nhiệm và nghĩa vụ đối
với các dòng vốn liên quan hay không. Do đó, những chuyển biến trong khu vực
này đã tạo ra gia tăng tiến bộ theo hướng công nhận quyền xét xử của các tòa án
nước đầu tư đối với hoạt động của các con ở nước ngoài. Không giống như các
vấn đề đã từng tranh luận trước đó mà không tính đến trách nhiệm của các MNCs
hay trách nhiệm của các nước chủ nhà để đảm bảo rằng bản thân họ phải chịu
trách nhiệm cho những hành vi vi phạm liên quan tới các hành vi trong các lĩnh
vực như nhân quyền hay môi trường.
Theo đó, có một loạt các trách nhiệm đối với các MNCs cũng như đối với
các nước sở tại. Các nghĩa vụ này được nêu trong phần đầu của Chương. Sau đó
sẽ xem xét phạm vi quyền hạn của các nước sở tại đòi hỏi các MNCs thực hiện
nghĩa vụ này và phạm vi mà các nghĩa vụ này kiểm soát được nó.
1.1.1. Các nghĩa vụ của các tập đoàn đa quốc gia
Trong khi bộ luật quốc tế công nhận tài sản của các tập đoàn đa quốc gia
được có thể được bảo vệ thông qua các Hiệp ước đầu tư và thông qua bộ luật
quốc tế thông thường, có rất ít chuyển biến theo hướng công nhận nghĩa vụ của
các MNCs, các nước chủ nhà và cộng đồng mà tập đoàn này đang hoạt động.
Hình dung rằng nếu những tập đoàn đa quốc gia này không có tư cách pháp lý
trong bộ luật quốc tế thì coi như đó là một lý do cho cho rằng bộ luật này không
phát triển, dù rằng nó không ngăn được sự phát triển của quyền đòi hỏi giải quyết
8
tranh chấp theo đúng các điều ước. Lý do cho sự vắng mặt của nghĩa vụ có thể là
các đối tượng có nghĩa vụ cần thiết là những vấn đề liên quan đến tình hình phát
triển trong thời gian gần đây trong bộ luật quốc tế. Ví dụ như, định mức trong
khu vực nguy hại môi trường (khu vực liên quan đặc biệt trong bối cảnh này)
hình thành trong thời gian tương đối gần đây trong bộ luật quốc tế. Cũng như vậy
đối với các định nghĩa về trách nhiệm tập đoàn đa quốc gia về xâm hại nhân
quyền, các quy tắc quốc tế về hối lộ cũng trên đà phát triển chậm. Có thể biện
minh cho quan điểm cho rằng tiến độ phát triển chậm chạp này gây ra bởi một

phần phản đối việc thừa nhận trách nhiệm của các tập đoàn đa quốc gia, điều đó
đã làm trì hoãn các quy tắc ràng buộc thông qua việc xây dựng một hành lang
pháp lý.
Nhận diện khu vực hoạt động trong đó các nghĩa vụ của tập đoàn đa quốc
gia phát sinh hầu hết được thực hiện thông qua các văn kiện quốc tế. Bởi vì có
nhiều những quan điểm khác nhau về việc liệu những trách nhiệm này có nên
được thực thi để chống lại các tập đoàn đa quốc gia hay không, cho nên đã có rất
nhiều văn kiện bị loại bỏ, và một vài văn kiện còn lại được đưa vào hành lang
pháp lý mềm. Những tổ chức có quan điểm giống nhau thì đưa ra các luật đa
phương về bảo hộ đầu tư tạo nên các quyền của MNC với nội dung là kêu gọi các
luật tự nguyện trong quản lý của MNC. Các nước đang phát triển, mặt khác, liên
tục kêu gọi việc công nhận trách nhiệm của các MNC. Quan điểm của họ đã được
thiết lập vững chắc trong một thời gian, trong đó tồn tại một thái độ chống lại
nhất định đối với MNC, và họ đã thực hiện hàng loạt các nghiên cứu về hoạt
động của MNC ở các nước đang phát triển thông qua các tổ chức quốc tế và các
cơ quan khác. Những mối lo ngại này phần lớn đã được nói rõ trong những năm
1970 và đầu những năm 1980, và đã được kết hợp với khuyenh hướng chung
giữa các nước phát triển để tìm cách thay đổi bộ luật quốc tế trong lĩnh vực này
thông qua “Trật tự kinh tế thế giới mới”. Ủy ban liên hiệp quốc tế của TNC
9
(UNCTC) được coi là công cụ trong phần lớn các vấn đề nghiên cứu, và đã nỗ
lực thiết lập một Bộ luật ràng buộc hành vi của các TNC. Nhưng bởi vì sự chia rẽ
giữa các nước thành viên, nên bộ luật này mới chỉ dừng lại dưới dạng dự thảo.
Mặc dù không đi tới thành công cuối cùng, nhưng bộ luật dư thảo này cũng
xác định được khu vực mà hoạt động của MNC có thể tạo ra các tác động có hại
tới các nước chủ nhà. Chủ yếu nhấn mạnh tới các vấn đề phát triển. Việc sử dụng
các thực tiễn hạn chế kinh doanh và các thực tiễn khác đã thu hút mối quan tâm
đáng kể. Việc tham gia vào các tranh chấp chính trị địa phương và các hoạt động
khác nhằm thu được lợi ích nhóm của các doanh nghiệp nước ngoài cũng là một
vấn đề được giải quyết. Việc chống hối lộ và các hoạt động mua chuộc đút lót

khác cũng được chủ trương ủng hộ. Đã có các cuộc hội thảo nhằm bảo vệ người
tiêu dùng và bảo vệ môi trường. Từ giữa những năm 1980 trở đi, cùng với sự suy
giảm về việc chống lại đầu tư nước ngoài, các nỗ lực nhằm soạn thảo bộ luật đã
bị bỏ lại và công cụ được sử dụng sau đó đã nhấn mạnh việc bảo hộ đầu tư hơn là
kiểm soát các hoạt động của MNC. Làn sóng tự do hóa kinh tế trong những năm
1990 đã làm đẩy nhanh xu hướng này. Và theo đó việc thảo ra bộ luật nhằm kiểm
soát các MNC dường như đã chững lại và vấn đề này cần thiết phải được kêu gọi
trở lại. Trong suốt thời kỳ này đã xuất hiện một loạt các quy định mềm, như là
chấp thuận quy định không can thiệp vào chính trị trong nước, nhưng không được
quá cứng nhắc, chỉ ngoại trừ vấn đề hối lộ.
Trong suốt thời kỳ này, xảy ra đáng kể những sự cố có tác động bất lợi của
nhà đầu tư nước ngoài vào nước chủ nhà. Trong số những sự cố đó, đáng kể nhất
phải kể tới thảm họa tại Bhopal, Ấn Độ, việc rò rỉ khí ga tại một nhà máy thuộc
Tập đoàn Carbide, một MNC của Mỹ, đã dẫn tới một thảm họa lớn. Mà cho tới
nay hàng ngàn người chịu ảnh hưởng vẫn không được đền bù thiệt hại. Những sự
cố khác liên quan đến việc giảm giá trị môi trường và những xâm hại về nhân
10
quyền đã được đưa ra ánh sáng và đã tạo lên một làn sóng quan tâm tới vấn đề
cần phải có một bộ luật quy định trách nhiệm của các MNC.
Việc theo đuổi mạnh mẽ mối lo ngại các hoạt động có hại của các MNC ở
các nước đang phát triển đã không xảy ra không phải là dành cho sự phát triển
của các tổ chức phi chính phủ NGOs liên quan tới quyền con người, môi trường
và sự phát triển với tư cách là tổ chức hoạt động trên trường quốc tế. Trên thực tế
với sự phát triển nổi bật của các NGOs, cũng như các mục tiêu của họ, các tập
đoàn đa quốc gia, có khả năng ảnh hưởng tới một loạt sự kiện liên quan tới lĩnh
vực bộ luật quốc tế. Hầu hết các nghĩa vụ được tạo ra đòi hỏi hành động của nước
đầu tư của MNCs hoặc tòa án của họ, dựa vào đó, có thể cân nhắc các biện pháp
của nước chủ nhà và trách nhiệm của họ. Việc xây dựng quy định trách nhiệm
của MNCs không chỉ là biện pháp của riêng nước đầu tư, mà trách nhiệm này
được thực thi thông qua các tòa án của nước đầu tư, thì hoàn toàn công bằng khi

mô tả những trách nhiệm này chẳng hạn như liên quan đến một biện pháp của
nước sở tại. Và điều cần thiết là xác định những trách nhiệm này.
1.1.2. Trách nhiệm không can thiệp vào các chính sách quốc nội
Đây là nghĩa vụ xuất phát từ e ngại hoạt động của các MNC tại nước chủ
nhà, trách nhiệm này đảm bảo chính phủ hay các tập đoàn có lợi cho hoạt động
kinh doanh nước ngoài vẫn giữ vững được quyền lực. Thông thường, trách nhiệm
của các MNC là thay mặt cho nước đầu tư đảm bảo về một chính phủ mở rộng,
hoặc nước đầu tư khuyến khích can thiệp để đảm bảo những chính phủ được lựa
chọn là chính phủ khuyến khích kinh doanh. Một ví dụ minh họa tiêu biểu đó là
cuộc lật đổ chính quyền Allende của Chi lê, lựa chọn chính quyền dân chủ, bởi
một cuộc đảo chính được vạch sẵn, đó là được coi là cáo buộc, mà thực chất là
bởi những tập đoàn nước ngoài với những hỗ trợ ngầm từ chính phủ nước ngoài.
(Đây là cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính quyền cánh tả, do tướng Pinochet thực
hiện. Ông đã lãnh đạo phe quân đội để nắm chính quyền, bằng cuộc đảo chín, ông
11
đã lật đổ tổng thống phe xã hội Allende để thành lập chính quyền quân đội với sự
hậu thuẫn của Hoa Kỳ).
Do vậy cho đến nay, đã có rất nhiều chính sách đưa ra lệnh cấm can thiệp
của các MNC vào trong các chính sách của nước chủ nhà. Những phát biểu có
chứa chính sách thường ở trong bộ luật mềm. Tuy nhiên, vấn đề phát sinh trong
bộ luật hiện đại đó là liệu có những trách nhiệm được quy định trực tiếp hơn
trong trường hợp có sự tham gia của các MNC hay cán bộ nước sở tại vào trong
cuộc đảo chính hoặc là mang đến những thay đổi trong chính phủ của nước chủ
nhà hay không. Những thay đổi này có thể mang lợi cho hoạt động của các MNC
hoặc mang lợi cho chính sách và mục tiêu của nước sở tại. Sự chuyển dịch theo
hướng quy định trách nhiệm của cá nhân trực tiếp đối với cán bộ ở MNC như vậy
là chưa được khám phá hết. Cho dù những trách nhiệm trực tiếp này của các nước
sở tại đảm bảo rằng không có bất cứ sự thay đổi chế độ nào có hiệu lực thì vẫn có
những vấn đề phát sinh và gây tranh luận.
MNC, hoạt động đặc biệt trong lĩnh vực khai thác mỏ, thường bắt gặp tình

huống tuyên bố ly khai được khẳng định thông qua bạo lực. Trong tình huống
này, cuộc nội chiến có thể bùng lên. Xu hướng này khiến cho các tập đoàn nước
ngoài đứng về phía nhà nước, vì lợi ích của nó cũng đang bị ràng buộc đối lập với
cuộc ly khai và việc hỗ trợ nhà nước đã được ký kết trong bản thỏa thuận. Bởi kết
quả của các cuộc chiến tranh ly khai trong nỗ lực của nhà nước nhằm đè bẹp kẻ
ly khai, nên thường xuyên xảy ra các hành vi vi phạm pháp luật nhân đạo. Kết
quả này có thể liên quan đến cáo buộc đồng lõa của MNC trong các hành vi vi
phạm. Những nạn nhân theo đó có thể đưa ra các tuyên bố chống lại MNC của
nước sở tại đối với các hành vi vi phạm. Những khiếu nại được đưa tới Tổ chức
giải quyết khiếu nại của người nước ngoài ở Hoa Kỳ liên quan đến các cuộc
chiến trinh ly khai được coi là nền tảng hoặc là có liên quan đến những bất ổn
12
chính trị mà trong đó các MNC cùng với chính phủ ngầm hiểu là có tham gia
trong quá trình đàn áp.
1.1.3. Trách nhiệm liên quan đến quyền con người
Có nhiều tài liệu đề cập tới nghĩa vụ của MNC là phải tuân thủ theo các quy
chuẩn nhân quyền trong quá trình hoạt động tại nước chủ nhà. Có một sự thay đổi
rõ ràng đi từ vị trí cũ mà từ việc bảo vệ MNC khỏi trách nhiệm đối với hành vi vi
phạm quyền con người tới một vị trí mà công nhận trách nhiệm thông qua việc
tạo ra các nghĩa vụ đối với quyền con người của nhân dân của nước chủ nhà.
Nghĩa vụ đó bao gồm nghĩa vụ không được phép hỗ trợ một chế độ nào có vi
phạm nhân quyền của nước chủ nhà, đặc biệt là trong hoàn cảnh lạm dụng việc
làm nhằm thu lợi ích cho các nhà đầu tu nước ngoài. Hoạt động trong lĩnh vực
này của Tổ chức Lao đọng quốc tế đã có hiệu lực thông qua soạn thảo văn bản
các công cụ giải quyết vấn đề liên quan đến biện pháp bảo vệ toàn bộ người lao
động khỏi sự lạm dụng của các MNC.
Là không vững chắc nếu các MNC chỉ tìm kiếm quyền chống lại các nước
chủ nhà để có thể trốn tránh nghĩa vụ theo pháp luật quốc tế đối với nước chủ nhà
hay đối với con người. Sự phát triển nhanh chóng của bộ luật đã đưa cách nhìn
nhận những ngụy biện nhằm trốn tránh nghĩa vụ của các MNCs mà không ảnh

hưởng đến quyền lợi của họ. Nhưng cần cảnh giác rằng việc NGOs tham gia vào
đánh giá hành vi của MNC sẽ lại tạo ra những thay đổi như trong quá khứ. Điểm
tiến triển nhất trong vấn đề này đó là áp đặt trách nhiệm lên các MNC về vi phạm
nhân quyền ở nước ngoài được quy định trong pháp luật của nước đầu tư. Mặc dù
trên thực tế trên các văn bản của Liên Hiệp Quốc được phát hành trên cơ sở chính
là tìm kiếm một thỏa hiệp ngoại giao, các cuộc kiện tụng và áp lực chính trị sẽ tạo
ra một bộ luật theo hướng thiết lập các nguyên tắc về trách nhiệm của các hãng
đối với hành vi vi phạm nhân quyền và các tiêu chuẩn môi trường của các MNC.
13
Rất có thể trong bộ luật của Mỹ sẽ đưa ra những biện pháp nhằm áp đặt
trách nhiệm trực tiếp bởi vì luôn tồn tại đạo luật đòi bồi thường của người nước
ngoài, một quy chế cũ trong đó giải quyết bất cứ một hành động nào được cho là
sai phạm dân sự trong bộ luật quốc tế cũng có thể đối mặt với tòa án. Đã có một
sự bùng nổ của vụ kiện chống lại các MNC trên cơ sở của luật này. Mặc dù cho
đến này vẫn chưa ai thành công, song tòa án Mỹ vẫn chưa chính thức từ chối
quyền phán xét mà các hành vi khiếu nại là xuyên biên giới. Yêu cầu cho việc
miễn trừ chủ quyền sẽ bảo vệ các nước chủ nhà khỏi những hành vi đồng lõa
trong vi phạm nhân quyền, nhưng các MNC có hành vi đồng lõa với các quốc gia
có thể đã tồn tại các hành vi vi phạm nhân quyền trong tòa án Mỹ. Một loạt các
trường hợp cho thấy kết quả như vậy. Nó có thể chỉ là để đối phó với các trường
hợp quan trọng trong chương này, mặc dù nó đã được xem xét đầy đủ trong các
tài liệu mở rộng và đã đi đến kết quả của vụ kiện tụng.
Điển hình là vụ kiện tụng liên quan đến Tập đoàn dầu khí Doe v.Unocal. Ở
đây, các cáo buộc dành cho một công ty có tiếng, Unocal, một MNC của Mỹ, đã
từng tham gia tích cực hay tiêu cực trong các cuộc tra tấn, lao động cưỡng bức và
giết những người thổ dân bằng quân đội Miến điện thông qua một đường ống dẫn
khí mà Unocal xây dựng cho chính phủ Miến điện. Chính phủ Miến điện đã có
thể lấy cớ miễn trừ chủ quyền. Từ đó tập trung chuyển sang trách nhiệm của các
MNC là một thành phần tham gia trong hoạt động bị cáo buộc. Đây là một giả
thuyết đằng sau vụ kiện tụng trong nhiều trường hợp khác.(Hồi đầu những năm

90 của thế kỷ XX, Tổ chức Bảo vệ nhân quyền Earth Rights International đã thay
14 nông dân Myanmar đệ đơn kiện Tập đoàn Unocal của Mỹ lên Tòa án
California. Cụ thể là họ tố cáo sự dính líu của lãnh đạo tập đoàn này với những
tội ác chống lại dân thường khi bảo vệ đường ống dẫn dầu của Unocal. Bên
nguyên đơn khẳng định là Tập đoàn Unocal của Mỹ đã dùng mọi thủ đoạn để giải
tỏa khu dân cư nằm trên khu vực có đường ống dẫn dầu đi qua, kể cả đe dọa, đốt
14
nhà, thậm chí giết người. Giới lãnh đạo Unocal thì quả quyết là không có liên hệ
nào tới những thảm kịch tại Myanmar. Về sau, chính quyền B.Cliton đã áp dụng
biện pháp cấm vận kinh tế đối với Myanmar, đồng thời kêu gọi các công ty Mỹ
từ bỏ kinh doanh tại đất nước này. Do lo ngại mất hết tiền bạc và phương tiện đầu
tư tại đây, Unocal vẫn tiếp tục tìm cách trụ lại, bất chấp những lời khuyên của
chính phủ. Chính sự bướng bỉnh này đã khiến Unocal phải trả giá đắt khi tòa án
Los Angeles quyết định thụ lý vụ vi phạm nhân quyền của Tập đoàn Unocal.
Năm 2000, òa án đã ra phán quyết đầu tiên khẳng định Unocal có phạm tội, cho
dù không ra quyết định truy tố các quan chức hàng đầu của tập đoàn này. Hai
năm sau, Ủy ban xem xét đơn kháng án đã khẳng định: đã có đủ bằng chứng để
truy tố hình sự với các quan chức Unoca Đến thời điểm này, hầu hết mọi người
đều cho rằng Unocal sẽ thua trong vụ kiện này. Các quan chức Tập đoàn Unocal
đã quyết định sẽ “giải quyết hậu quả” bên ngoài tòa án. Sau khi nhận được một
khoản tiền đền bù với số lượng không được tiết lộ, các nông dân Myanmar đã rút
lại đơn kiện của mình). Trong tất cả các trường hợp này, theo đạo luật đòi bồi
thường của người nước ngoài, các tòa án cho rằng có cơ sở cho thẩm quyền xét
xử, mặc dù không ai trong số họ đi vào để thụ lý trách nhiệm. Trách nhiệm liên
quan của công ty mẹ trong tất cả những tình huống này đó là công ty mẹ phải tiến
hành kiểm soát quản lý và theo đó quy trách nhiệm cho hành vi của mỗi một công
ty con tại nước chủ nhà. Sự tồn tại của công ty mẹ trong phạm vi thẩm quyền của
tòa án Mỹ cho phép thực hiện các phán xét cá nhân bởi các tòa án của Tổng công
ty mẹ. Đạo luật đòi bồi thường của người nước ngoài giúp cho việc thiết lập
quyền được xét xử nhưng nó không phải là điều kiện tiên quyết để theo đuổi các

chiến lược đằng sau vụ kiện tụng như vậy. Cấu trúc của các tập đoàn và tầm kiểm
soát của nó là rất quan trọng cho việc xét xử. Biện minh được đưa ra bởi thực tế
là lợi ích công ty mẹ từ những hành động xấu của các công ty con ở nước chủ nhà
và phải gánh trách nhiệm cho những hành động xấu này.
15
Có hàng loạt các vụ kiện khác liên quan đến sự kết hợp của các MNC với
những tội ác trong quá khứ, do vậy mà xu hướng tất yếu là là quy định trách
nhiệm của các MNC. Do đó, các khiếu nại của những người đòi bồi thường ở Do
Thái chống lại IBM và các tập đoàn khác được dựa trên những cáo buộc rằng các
công ty này đã giúp chính phủ Đức Quốc xã thông qua công nghệ trang trí nội
thất và các hình thức hỗ trợ khác trong suốt thời gian xảy ra nạn tàn sát người Do
Thái vào thời Hitler của Đức. Nhiều tập đoàn khác như các Ngân hàng được
hưởng lợi rất nhiều trong thời kỳ tàn sát người Do Thái và cũng chịu ảnh hưởng
của những cáo buộc đó. Các cuộc kiện tụng đang được thực hiện theo nhiều cách
khác nhau trong mỗi trường hợp sẽ kết hợp lại với nhau để đảm bảo rằng sẽ phải
có một cuộc xét xử và trách nhiệm pháp lý đối với các công ty mẹ liên quan đến
nhân quyền được cam kết ở các nước khác. Nếu hàng loạt những vụ kiện này đều
thành lập quyền đòi hỏi được xét xử chung về các hành vi vi phạm nhân quyền
như là tra tấn và nạn diệt chủng thì việc các công ty chấp nhận quyền đòi hỏi này
sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Sự phát triển này không bị hạn chế bởi Mỹ. Pháp luật ở Anh cũng đã công
nhận quyền đòi xét xử đối với các công ty mẹ liên quan đến vụ việc một người
công nhân bị nhiễm bệnh liện quan đến sợi a mi ăng trong quá trình vận hành ở
công ty con tại Rhodesian. Ở Úc cũng có quyết định tương tự trong việc công
nhận trách nhiệm của công ty mẹ. Luật kiện tụng ở Hà Lan cũng dường như dần
công nhận trách nhiệm này. Sự phát triển của bộ luật này dường như không phải
chỉ phụ thuộc vào sự tồn tại của pháp luật như là Đạo luật đòi bồi thường của
người nước ngoài mà còn dựa vào nhu cầu đòi hỏi sự kiểm soát các hoạt động
của công ty con thông qua các công ty mẹ và dựa vào trách nhiệm đạo đức của
các công ty mẹ không thực hiện đầy đủ quyền kiểm soát công ty con.

Tuy nhiên, các MNCs sẽ phản đối mạnh mẽ đối với những nỗ lực áp đặt
trách nhiệm lên các công ty mẹ hay quyền xét xử đối với các MNCs. Các tòa án
16
cũng bị dao động và đã rút lại ý định áp đặt trách nhiệm pháp lý lên các MNCs
với lý do cần phải tìm kiếm quy định quyền hạn xét xử. Vấn đề được coi như là
không thuộc quyền xét xử trên cơ sở tìm kiếm thẩm quyền đối với các tập đoàn
trên cơ sở hiện đại chỉ có thể gây nguy hiểm cho chính sách đổi ngoại. Các công
ty lớn, được đề nghị, tìm sự trợ giúp từ phía nhà nước để kêu gọi những học
thuyết liên quan tới những người bị thuộc quyền xét xử thoát khỏi sự kiểm soát
chặt chẽ. Nhưng, chống lại sự phát triển là những người tìm cách mở rộng phạm
vi của quyền lực pháp lý toàn cầu về vi phạm nhân quyền như tra tấn, hãm hiếp
hàng loạt và diệt chủng. Nơi mà xuất hiện sự cấu kết của các MNC để thực hiện
tội ác, uy tín sẽ bị mất bởi các tòa án đặt lợi ích quốc gia lên trên nhu cầu thiết
yếu phải thiết lập trách nhiệm đối với các đối tượng vi phạm. Một xu hướng
chung trong lĩnh vực luật hình sự quốc tế cũng có thể ảnh hưởng đến khu vực này
trong tương lai.
Do vậy có một hành lang pháp lý mềm liên quan đến trách nhiệm nghĩa vụ
của các MNC đối với quyền con người. Nhưng, hành lang pháp lý này đã không
được nhìn nhận một cách chính thức và dường như những tiến bộ này mới chỉ
được thực hiện theo hướng đối phó để giải quyết vấn đề. Do đó cần thiết thiết lập
một bộ luật hiệu quả đủ sức đối phó với những vấn đề phát sinh thích hợp. Và
việc tạo ra bộ luật này sẽ được làm theo hướng này.
1.1.4. Trách nhiệm trong các vi phạm tiêu chuẩn môi trường
Các xu hướng trong bảo vệ nhân quyền đã được thực hiện song song trong
khu vực bảo vệ môi trường. Và một lần nữa, sự tồn tại của hành lang pháp lý
mềm lại trở nên cần thiết. Như đối với các trường hợp của quyền con người, nó
cũng là khu vực mà trong đó các tổ chức phi chính phủ NGOs hoạt động tích cực
và đã tìm ra cách để tạo ra chiến lược đảm bảo rằng các công ty mẹ phải có trách
nhiệm đối với nước chủ nhà. Vụ kiện Bhopal về việc rò rỉ khí gas tại nhà máy
Union Carbide ở Bhopal, Ấn Độ, đã bị thất bại, nhưng, kể từ đó, đã có những tiến

17
triển trong các học thuyết mà liên kết cùng với các vụ kiện đã chỉ ra rằng có một
xu hướng phát triển theo hướng công nhận trách nhiệm của các công ty con trong
việc gây tổn hại tới môi trường. Cơ sở từ chối của các tòa án trong vụ kiện
Bhopal chống lại công ty mẹ đó là một loạt các học thuyết “thụ lý vụ kiện gặp
nhiều bất tiện” mà chính nó đã trải qua những thay đổi để thích nghi với tương lai
và đã được sử dụng trong tình hình ở Bhopal. Trọng tâm của các tài liệu phần lớn
tập trung vào việc liệu việc kiểm soát của nước chủ nhà trên cơ sở môi trường có
thể được coi như là chiếm đoạt phần mà được đền bù hay không. Vấn đề này sẽ
được xem xét sau trong cuốn sách này. Ở giai đoạn này, câu hỏi đặt ra là liệu, giả
sử là chúng đang bị chiếm đoạt, thì sự tồn tại trách nhiệm của MNC đối với
những tổn hại môi trường có làm giảm số tiền bồi thường phải trả hay không hay
thậm chí yêu cầu bồi thường có vượt quá giá trị của phần chiếm đoạt phải thanh
toán hay không tại những nơi bị tổn hại nặng nề. Nếu tồn tại trách nhiệm đối với
môi trường, thì rõ ràng cả hai tình huống đều có thể xảy ra. Trước hết, đây là
những vấn đề được giải quyết bởi tòa án địa phương. Điều này đặt ra vấn đề là
liệu những phần môi trường bị lấy đi, ban đầu ít nhất là, nó là những vấn đề sẽ
được xem xét bởi tòa án. Trong trường hợp không có tài sản liên quan nào bị lấy
đi, thì vấn đề trách nhiệm của các MNC đối với tổn hại môi trường sẽ phát sinh.
Trong tình huống mà là một hiệp ước bảo vệ đầu tư, một xu hướng hiện đại
đã phát triển trong thực tế phân xử đó là xác định xem liệu cách thức đo lường
các nhà đầu tư nước ngoài có “công bằng và bình đẳng”. Khi áp dụng các tiêu
chuẩn đó, cần phải luôn luôn xem xét các hành vi của nhà đầu tư nước ngoài. Nếu
trong trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài gây nên tác động ô nhiễm môi
trường, thì cần phải có những biện pháp xác đáng để xác định 1 cách công bằng
thông qua can thiệp của nhà nước đối với hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài.
Sự công bằng là một khái niệm có lẽ là cả hai và phải được đánh giá một cách
minh bạch.
18
Chiến lược của các nhà đầu tư là phủ nhận hành lang pháp luật về môi

trường thông qua các điều khoản hạn chế trong hợp đồng nhằm kiểm soát các
hoạt động ví dụ như thời điểm nhập cảnh và không chấp nhận áp dụng những sửa
đổi mới đối với các tiêu chuẩn môi trường đầu tư. Các điều khoản hạn chế, là một
phần của hợp đồng, không phải là sự ràng buộc chủ quyền lập pháp của một nước
để mở rộng kiểm soát đối với đầu tư và đảm bảo rằng các tiêu chuẩn sau này
được áp dụng cho đầu tư. Trách nhiệm của nhà đầu tư đối với việc gây hại tới
môi trường không thể không quy định trong hợp đồng. Tuy nhiên, vấn đề hiện
nay là, mức đọ của nghĩa vụ của nước chủ nhà để đảm bảo rằng các MNC tại
nước đó thực hiện theo đúng tiêu chuẩn môi trường của luật pháp môi trường
quốc tế. Nhưng điểm gây tranh cãi ở đây đó là, trong trường hợp trong đó các tại
hại môi trường đang bị cấm bởi pháp luật của nước chủ nhà và cả luật pháp môi
trường quốc tế, thì liệu có phát sinh một phần nghĩa vụ của nước chủ nhà trong
việc đảm bảo rằng có thể tạo ra những phù hợp cho công ty đang đầu tư nước
ngoài. Tồn tại một trách nhiệm, mà theo đó trước khi đầu tư, cần đảm bảo rằng
các MNC không đầu tư ra nước ngoài. Nếu có, thì nhiệm vụ phát sinh là phải
đảm bảo rằng việc sử dụng chính xác các loại máy móc kỹ thuật hay cảnh báo
nước chủ nhà về khả năng gây hại đối với việc sử dụng công nghệ kỹ thuật đó.
Như lập luận dưới đây, một phần nghĩa vụ của nước đầu tư đó là phải đảm bảo sự
phù hợp của các doanh nghiệp đối với các tiêu chuẩn luật pháp quốc tế ở bất cứ
nơi nào xảy ra các ảnh hưởng có hại. Nước sở tại, thông qua sự liên kết giữa các
quốc gia, có khả năng kiểm soát và do đó nó có nghĩa vụ phải sử dụng quyền hạn
của mình để đảm bảo sự tuần thủ.
Một phần nhiệm vụ của tất cả các nước đó là đảm bảo việc tuân thủ các tiêu
chuẩn đươc quy định trong Điều ước quốc tế và trong bộ luật quốc tế liên quan
tới bảo vệ môi trường. Nước đầu tư của các MNC có quyền kiểm soát các công ty
19
này, đảm bảo rằng hoạt động của nó được thực hiện theo đúng tiêu chuẩn của bộ
luật quốc tế.
Cũng như trong vụ kiện nhân quyền, đã có một sự gia tăng các vụ kiện trước
các tòa án trong nước của nước sở tại về cáo buộc hành vi vi phạm tiêu chuẩn

môi trường. Trong đó vụ kiện Bhopal đã thất bại bởi quy định nghiêm ngặt của
học thuyết “bất tiện trong thụ lý vụ kiện”. Nhưng, với xu hướng mới dựa trên
những giáo lý ứng dụng tự do trong thẩm quyền khác nhau, thì hoàn toàn có thể
áp đặt trách nhiệm vào công ty mẹ đối với nhưng hư tổn môi trường mà nó gây ra
đối với nước chủ nhà. Những xu hướng này sẽ được thúc đẩy nhanh, dẫn đến việc
thành lập nên một bộ nguyên tắc quy định trách nhiệm của công ty mẹ đối với
những tổn hại tới môi trường gây ra bởi các công ty con.
1.1.5. Trách nhiệm thúc đẩy phát triển kinh tế
Ngày nay bộ luật quốc tế về phát triển đang thực sự sống dậy. Trong suốt
thời kỳ Tân tự do của những năm 1990s, Bộ luật này vẫn còn lúng túng trong vấn
đề giải quyết tăng trưởng trong lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, cho đến nay cùng với
sự thoái lui của chủ nghĩa Tân tự do đã tạo ra một làn sóng ý tưởng cho việc phát
triển các nước nghèo. Những phát triển của vòng đàm phán Doha đã cho thấy sự
trở lại của việc thúc đẩy phát triển kinh tế với tiền đề về tự do hóa và thành lập ra
WTO nhằm xem xét lại cơ sở của các quy tắc thương mại quốc tế ra đời trước đó
sao cho phù hợp với sự phát triển của các nước kém phát triển. Mối quan tâm này
sẽ càng trở nên có trọng lượng khi mà có sự xuất hiện của Luật pháp quốc tế cho
sự phát triển kinh tế và xem xét các nguyên tắc hiện hành của Luật pháp quốc tế
vì sự phát triển kinh tế và phát triển các lĩnh vực khác. Việc khớp nối các mục
tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc cũng yêu cầu chuyển dịch theo
hướng phát triển, và bằng chứng là sự đồng thuận quốc tế về việc cần thiết đảm
bảo xóa đói giảm nghèo và tăng cường phát triển kinh tế.
20
Các công cụ đầu tư hiện nay trên tiền đề giả định rằng các việc đầu tư nước
ngoài sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các quốc gia mà nguồn đầu tư chảy
vào. Tất cả các điều ước song phương và điều ước quốc tế về đầu tư đều hàm ý
rằng hiệu quả phát triển kinh tế là kết quả của các dòng vốn đầu tư. Cũng có thể
được hiểu rằng các MNC khi đầu tư vào nước chủ nhà cần phải thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, hoặc ít nhất, không được có những hành vi cản trở sự phát triển kinh
tế. Nếu có bằng chứng nào cho thấy MNC đang có hành động cản trở sự phát

triển kinh tế, thì lý giải theo luật bảo hộ đầu tư sẽ không được áp dụng đối với
việc đầu tư và do đó việc đầu tư sẽ không được bảo hộ nữa. Theo đó, tất cả các
công cụ đầu tư nhấn mạnh rằng phát triển kinh tế là mục tiêu của đầu tư nước
ngoài. Kết quả là, một phần trách nhiệm ngầm của nước đầu tư đó là phải đảm
bảo doanh nghiệp của họ, khi đầu tư vào lãnh thổ của đối tác, thì không được
phép có những hoạt động gây tổn hại đến sự phát triển kinh tế của nước chủ nhà.
Ngoài ra nó còn bao gồm cả việc tránh những hoạt động kinh doanh giảm sút và
những hoạt động tham nhũng. Quan điểm này được thể hiện trong nguyên tắc
một công dân kinh doanh tốt.
Điều này đã nhận được sự tán thành của cả hội đồng trọng tài cho rằng việc
thành lập các hiệp ước đầu tư không chỉ bảo vệ đầu tư mà còn thúc đẩy sự phát
triển kinh tế của nước chủ nhà. Tiền đề cho các Điều ước đầu tư chính là mục
tiêu phát triển kinh tế của nước chủ nhà thông qua đầu tư nước ngoài. Do đó, nếu
các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động theo hướng hạn chế sự phát triển của nước
chủ nhà, thì nó sẽ mất đi sự bảo vệ của Hiệp ước đầu tư. Một nhóm khác của Hội
đồng trọng tài đã nhấn mạnh rằng thực tế hầu hết các Hiệp ước đều chứa đựng
quan điểm bảo vệ đầu tư nước ngoài cùng với các điều khoản bảo vệ liên quan
đến luật pháp và quy định của nước chủ nhà. Hầu hết những quy định này là quy
định về quyền con người và lĩnh vực môi trường. Điều này có nghĩa là bất cứ một
MNC nào vượt quá phạm vi cho phép của điều luật liên quan tới nhân quyền và
21
môi trường sẽ không được bảo vệ bởi Hiệp ước đầu tư. Một quan điểm mạnh mẽ
hơn tuyên bố rằng, ngay cả những nơi mà ở đó luật pháp và quy định của nước
chủ nhà không rõ ràng cũng như là hạn chế bảo hộ đầu tư, chẳng hạn như là hành
động hạn chế này sẽ được xem xét trong quy định của Hiệp ước về đầu tư nước
ngoài để bất cứ một MNC nào vượt quá phạm vi cho phép của Luật pháp và quy
định của nước chủ nhà sẽ tự động mất đi quyền được bảo hộ bởi Hiệp ước đầu tư.
22
Chương 2. BIỆN PHÁP CỦA NƯỚC ĐI ĐẦU TƯ (HOME STATES
MEASURES)

Chủ đề của sự kiểm soát xuyên quốc gia đang là tâm điểm nghiên cứu của
luật pháp Mỹ, giống như việc kiểm soát hoạt động chủ yếu của Mỹ. Nó phù hợp
vì một lý do khác, đó là do mỹ có số lượng lớn nhà đầu tư cũng như sức mạnh
của các tập đoàn. Mặc dù ở các nước khác, ở những mức độ khác nhau, quyền lực
thi hành không phải ở bất cứ quốc gia nào cũng làm được như Mỹ. Hầu hết sự
kiểm soát của Mỹ đã mở rộng thông qua lập pháp hoặc tư pháp nhưng chịu sự tác
động quyền lực tài phán. Ở một vài khu vực khác, luật kiểm soát xuyên quốc gia
của nước mỹ đã ảnh hưởng bằng chính sách rõ ràng.
Có nhiều ví dụ điển hình bên ngoài thi hành án hình sự là trong phạm vi mà
nước Mỹ cho mình quyền thực thi luật chống độc quyền xuyên quốc gia. Trong
năm 1945, trường hợp của Alcoa Case “Thẩm phán Leamed Hand đã thay đổi
cách nhìn trước khi có ở đạo luật chống độc quyền Sherman Act mà chỉ áp dụng
trong phạm vi nước Mỹ ”, Ông ấy đã cảnh báo rằng có một âm mưu ngoài phạm
vi nước mỹ, không chỉ là hình thức xuất khẩu nhôm vào Mỹ với mức giá độc
quyền được áp dụng bởi Alcoa vẫn tiếp diễn sau khi hết thời hạn độc quyền hợp
pháp thông qua giấy phép độc quyền, đó là một hành vi vi phạm đạo luật
Sherman.
Nếu việc đó nằm dưới sự kiểm soát của Hoa kỳ, tòa án sẽ có quyền phán xét
nó, miễn là những âm mưu được phát hiện hoặc đã được dự báo tác động tới thị
trường Mỹ. Việc kiểm tra quyền lực pháp lý là thỏa đáng. Hiệu quả luật lệ được
thể hiện khi quyền lực pháp lý được tuân thủ bất cứ khi nào, mặc dù thực tế nó sẽ
làm cho Mỹ xung đột với một số quốc gia khác, và nhiều nước trong số đó đã ban
hành pháp luật để chống lại ảnh hưởng của nó. Điều đó không phải là cản trở,
Supreme Cout đã làm nóng vấn đề khi có những yêu cầu kiểm tra Alcoa ở
Hartford Fire Insurance v. California.
23
Biện pháp đó ảnh hưởng không tốt tới nước mỹ, nhưng với các nước khác
lại có tác động tốt. Nhưng họ chỉ ra rằng, cũng giống như Alcoa, là một công ty
mà mỹ đã thực hiện chiến lược thông qua chi nhánh tại Canada, Nó có thể kiểm
soát liên kết trong hoạt động của chúng thông qua thẩm quyền xuyên quốc gia, và

Mỹ đã khảng định rằng, không có sức mạnh nào có thể kiểm soát được các chi
nhánh của tập đoàn xuyên quốc gia của chúng.

Những khu vực mà thi hành luật xuyên quốc gia đang cố gắng thực thi các
biện pháp lập pháp và hành pháp. Chúng bao gồm pháp luật kiểm soát xuất khẩu,
ngăn chặn hoạt động cung cấp hàng hóa của công ty con cho các công ty mẹ của
Mỹ. Việc sử dụng sức mạnh đó là việc xây dựng đường dẫn khí đốt ở Siberia, và
sự không hài lòng của Liên Xô đã được Châu âu đồng thuận về cuộc xâm lược
Afghanistan. Tương tự như vậy, có nhiều chi nhánh ngân hàng của Mỹ tại Iran và
Libya bị đóng băng, Đạo luật Helms-Burton đã tìm cách ngăn chặn sự giao dịch
của công ty thứ ba với Cuba, và áp đặt biên pháp trừng phạt với các công ty
thương mại của Libya và Iran. Giả định rằng những tranh cãi của các thẩm phán
đã trở nên phổ biến trong luật của nước Mỹ. Với quyền hạn lớn như vậy, nó sẽ
không đáng tin cậy để lập luận rằng nước Mỹ có thể kiểm soát được các hoạt
động của các tập đoàn đa quốc gia trong sự phát triển của nước chủ nhà không
phải theo cách gây tổn hại cho sự phát triển hoặc môi trường đầu tư.
Sự thiếu sót trong những tiêu chuẩn quản trị công ty đã trở nên rõ ràng trong
thời gian gần đây trong nước Mỹ. Những vụ việc bê bối gần đây liên quan đến
báo cáo sai tài chính và gian lận thuế của các công ty có thấy sự nghiêm trọng
việc thiếu sót các tiêu chuẩn quản trị. Sự hoạt động như vậy ở một số quốc gia
đang phát triển có thể gây ra tổn hại cho sự phát triền của nền kinh tế. Lý do tồn
tại mà các tập đoàn đa quốc gia nước sở tại có thể kiểm soát được hoạt động ở
nước ngoài.Trong khi đó Mỹ và một số nước sở tại của các công ty đa quốc gia
24
đã đảm bảo được rất ít những công ty của chúng không gây tổn hại cho sự phát
triển của các quốc gia nghèo. Nhiều quốc gia đã lập luận rằng nước sở tại của các
tập đoàn đa quốc gia cần đảm bảo rằng công ty của chúng không làm tổn hại tới
sự phát triển của các nước chủ nhà.
Ở đây có vài cơ sở cho lập luận này. Ít nhất, có thể được lập luận rằng quyền
bảo hộ của các công ty là điều kiện mà các tập đoàn đa quốc gia thể hiện các cư

xử phù hợp với thông lệ quốc tế. về quyền hạn của công dân Mở rộng của lập
luận này là mỗi công dân của một nước có trách nhiệm, nghĩa vụ đảm bảo rằng
các công ty con của các tập đoàn đa quốc gia hoạt động một cách phù hợp với
mục tiêu phát triên của các nước chủ nhà. Nghĩa vụ này liên quan tới việc ngăn
chặn những công ty đa quốc gia rời khỏi nước sở tại để xây dựng các nghành
công nghiệp độc hại ở nước ngoài. Nếu họ thực sự thiết lập các nghành công
nghiệp độc hại như vậy sẽ luôn sẵn có công tác phòng chống và kiểm soát. Nếu
gây ra thiệt hại cho nước chủ nhà, thì cần có những luật định xác đáng và cung
cấp đủ thẩm quyền trong tiến trình thiết lập trách nhiệm công ty mẹ. Đây có thể
là vấn đề cần được nghiên cứu kỹ hơn.
2.1. Trách nhiệm nhà nước của các nước đi đầu tư khi thất bại trong việc
kiểm soát các công ty đa quốc gia
Mục này tìm cách thiết lập vấn đề khó đó là các công ty đa quốc gia của
một nước sở tại có trách nhiệm đảm bảo rằng các đoàn thể của công ty đó không
gây hại tới nước chủ nhà khi ở bên ngoài biên giới quốc gia. Trách nhiệm đó dễ
ràng hơn khi thiết lập ở trong các quốc gia đó, nhưng sự mở rộng ra nước ngoài
thì cần phải bàn bạc thêm. Dù sao, việc rút ra mục tiêu chinh sách, ít nhất vài
quốc gia tranh cãi rằng ở đó nên có trách nhiệm của nước chủ nhà để đảm bảo
rằng không có bất kỳ một sự sai phạm trong cách đối xử từ sự phát triển và các
mục tiêu của một nước chủ nhà đã đặt ra cho chính bản thân mình, đặc biệt là nếu
những mục tiêu đó phù hợp với các mục tiêu của cộng đồng quốc tế. Phần này
25

×