MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể khẳng định rằng, mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” đó là khát vọng của mọi người dân Việt Nam. Song, để đạt
được mục tiêu đó đòi hỏi trong xã hội phải luôn có sự đồng thuận, sự thống
nhất cả về nhận thức lẫn hành động. Kiên định, khẳng định chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành
động của Đảng và nhân dân ta, là cơ sở lý luận và phương pháp luận để từ đó
đề ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân và quy luật phát triển của lịch sử. Quan điểm về mâu thuẫn của chủ
nghĩa Mác - Lênin giúp chúng ta nhận thức được nguồn gốc và động lực của sự
phát triển, mà điều cốt yếu là nhận thức đúng đắn, phân tích, phản ánh quá trình
đấu tranh, giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng tùy vào những điều kiện
cụ thể nhất định.
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, Do đó, trong công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay tất yếu gặp nhiều mâu thuẫn trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội,. Trước những yêu cầu mới của thời đại, nhiệm vụ
đặt ra cho chúng ta là phải nắm bắt và giải quyết tốt những mâu thuẫn nhằm tạo
động lực cho sự phát triển. Bởi những mâu thuẫn đó đang ảnh hưởng không nhỏ
đến sự phát triển chung của đất nước. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập là quy luật cơ bản và là hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Việc
nhận thức đúng đắn, khoa học về quy luật này là cơ sở quan trọng để lựa chọn
các phương pháp giải quyết mâu thuẫn một cách có hiệu quả, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thúc đẩy
sự phát triển của đất nước.
Công nghiệp hóa theo hướng hiện đại mở ra một giai đoạn phát triển mới
với những bước đột phá nhằm chuyển một nền kinh tế từ nông nghiệp lạc hậu
1
sang nền kinh tế công nghiệp hiện đại, góp phần tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu nảy
sinh nhiều mâu thuẫn – mâu thuẫn giữa cung và cầu về nguồn nhân lực; mâu
thuẫn giữa nhu cầu phát triển bề vững và bảo vệ môi trường sinh thái; mâu thuẫn
giữa năng lực nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ với nhu cầu
hiện đại hóa trong các ngành kinh tế Những mâu thuẫn đó cần phải được giải
quyết bởi nó là thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam nói chung, với
Quảng Bình nói riêng.
Để sớm bắt kịp nền kinh tế chung của Việt Nam, đòi hỏi Quảng Bình phải
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Song, hiện nay Quảng Bình vẫn
đang là một tỉnh nghèo, kinh tế - xã hội chậm phát triển nên việc đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đang gặp không ít khó khăn, bởi lẽ, trong quá trình phát
triển Quảng Bình vẫn còn tồn tại nhiều mâu thuẫn cần phải giải quyết kịp thời.
Xác định đúng các mâu thuẫn để từ đó đề ra những giải pháp thích hợp
nhằm giải quyết mâu thuẫn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa có ý
nghĩa vô cùng quan trọng, là yêu cầu khách quan của cả nước nói chung và
Quảng Bình nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng đó nên chúng tôi chọn đề tài “Quy luật
mâu thuẫn và sự vận dụng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh
Quảng Bình hiện nay” để viết luận văn thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (dưới đây gọi tắt là
quy luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, giúp chúng ta hiểu
được nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển của sự vật và hiện
tượng. Vì vậy, quy luật mâu thuẫn luôn được các nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu ở những góc độ khác nhau và đã có những thành tựu nhất định. Có thể kể ra
một số công trình nghiên cứu quy luật mâu thuẫn như:
2
“Về mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và cách giải quyết trên con
đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”của GS.TS Phạm
Ngọc Quang (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001). Tác giả đã xác định mâu
thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội, từ
đó xác định những giải pháp nhằm giải quyết có hiệu qủa chúng để đưa đất nước
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn
trong công trình “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, lý luận và thực
tiễn” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002) đã phân tích tính tất yếu, khách
quan của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Các tác giả
nhấn mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt nam là một quá trình
giải quyết những mâu thuẫn không ngừng nảy sinh để vượt qua thách thức và
chớp lấy cơ hội.
“Mâu thuẫn - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Nguyễn Tấn
Hùng (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005) làm rõ nội dung cơ bản về mâu
thuẫn, đồng thời chỉ ra một số mâu thuẫn quan trọng và phương pháp giải quyết
mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đề tài luận văn thạc sĩ có các công trình nghiên cứu như: Nguyễn Thái
Sơn (2002) “Quy luật mâu thuẫn trong lịch sử triết học và sự vận dụng vào công
tác tuyên truyền ở Thừa Thiên Huế”; Nguyễn Thị Hiền (2008) “Lý luận về mâu
thuẫn và sự vận dụng của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai đoạn 1930-1945”;
Nguyễn Thị Kim Oanh (2008) “Vấn đề giải quyết mâu thuẫn trong cách mạng
miền Nam giai đoạn 1954-1975”. Trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử
và chủ nghĩa duy vật biện chứng, các tác giả đã khái quát và vận dụng quy luật
mâu thuẫn để giải quyết một số vấn đề trong thực tiễn xã hội.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết được đăng trên các tạp chí Triết học cũng
liên quan đến đề tài: “Phát triển vì con người trong quan niệm của Mác và sự
3
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu phát triển con người ở
nước ta hiện nay” Đặng Hữu Toàn (Số 1, 2-1997); “Bảo vệ môi trường trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” Bùi Văn Dũng (Số 3,
6-1997); “Giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện tốt việc kết hợp giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta” Nguyễn Tấn Hùng (Số 5, 10-
1999); “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện
nay - một số mâu thuẫn và hướng giải quyết” Lê Ngọc Triết (Số 4, 7-2001); “Để
góp phần giải quyết mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta hiện nay” Nguyễn Văn Vinh
(Số 4, 4-2002); “Sự kết hợp các mặt đối lập trong giải quyết mâu thuẫn xã hội”
Trần Thành (Số 1, 1-2004); “Công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay nhìn từ
giác độ mâu thuẫn của quá trình phát triển” Phạm Ngọc Quang (Số 10, 10-
2005); “Nghệ thuật giải quyết mâu thuẫn xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh và
sự vận dụng của Đảng ta” Trần Đắc Hiến (Số 5, 5-2006);…
Những công trình trên đều có giá trị khoa học cả về mặt lý luận lẫn thực
tiễn; các tác giả đã nghiên cứu vấn đề ở nhiều phương diện và khía cạnh khác
nhau. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào vận dụng
quy luật mâu thuẫn nhằm soi sáng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh
Quảng Bình.
Trên cở sở kế thừa những thành tựu của các công trình nghiên cứu nói
trên, khái quát thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Quảng Bình, chúng tôi
chọn đề tài “Quy luật mâu thuẫn và sự vận dụng trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Bình hiện nay” làm luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn: Làm rõ mâu thuẫn trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của tỉnh Quảng Bình từ đó đưa ra các giải pháp để tỉnh Quảng
Bình bắt kịp với nhịp độ phát triển chung của cả nước, góp phần thực hiện mục
tiêu “phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại”.
4
Nhiệm vụ của luận văn:
- Phân tích cơ sở lý luận chung về mâu thuẫn;
- Chỉ ra những mâu thuẫn đang gặp phải trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Quảng Bình, trên cơ sở đó đề ra một số kiến nghị và giải
pháp phù hợp nhằm thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Quảng
Bình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quan niệm về mâu
thuẫn và giải quyết mâu thuẫn trong triết học Mác - Lênin, vận dụng lý luận để
làm rõ những mâu thuẫn trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Quảng
Bình và đưa ra các giải pháp phù hợp.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn; vận dụng để thúc đẩy quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở lý luận: Thực hiện trên cơ sở các nguyên lý, quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về mâu thuẫn, giải quyết mâu thuẫn; các quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Phương pháp nghiên cứu trong luận văn là phương pháp biện chứng duy
vật. Trong đó sử dụng các phương pháp chủ yếu như logic - lịch sử, phân tích -
tổng hợp, đối chiếu - so sánh và các phương pháp điều tra thực tế.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn sẽ làm rõ quy luật mâu thuẫn và sự vận dụng trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Bình hiện nay, thông qua đó chỉ rõ
và đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết những mâu thuẫn trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Quảng Bình. Luận văn sẽ làm tài liệu tham khảo cho
những ai quan tâm đến vấn đề này.
5
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, bảng, biểu và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn còn có 2 chương, 6 tiết.
6
CHƯƠNG 1
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH
GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP (QUY LUẬT MÂU THUẪN)
1.1. Vấn đề mâu thuẫn trong triết học trước Mác
1.1.1 Một số quan niệm về mâu thuẫn trong triết học Phương Đông
Khi bàn về mâu thuẫn và quy luật mâu thuẫn chúng ta không thể không đề
cập đến tư tưởng triết học của người Trung Hoa. Đây là tư tưởng triết học có vị
trí quan trọng và ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội lúc bấy giờ.
Triết học Trung Hoa hình thành và phát triển từ rất sớm. Do đặc điểm tự
nhiên phức tạp và xã hội Trung Hoa có nhiều biến động lớn, sự chuyển giao giữa
hai hình thái xã hội từ nô lệ sang phong kiến (Xuân Thu - Chiến Quốc) và sự
phát triển kinh tế kéo theo tầng lớp dân tự do xuất hiện, đặc biệt là sự ra đời của
các thành thị tự do, phồn vinh và những thành quả đạt được trên lĩnh vực khoa
học tự nhiên là nguồn động lực quan trọng cho sự phát triển có tính chất đột biến
của tư tưởng thời kỳ này. Chính trong thời kỳ này hàng loạt các vấn đề xã hội đã
được đặt ra và từ đây đã hình thành nên các trường phái triết học khá phong phú,
hoàn chỉnh, mở đầu cho lịch sử tư tưởng Trung Hoa.
Một trong những phạm trù quan trọng trong tư tưởng triết học Trung Hoa
là thuyết Âm Dương. Đây là trào lưu tư tưởng triết học giải thích căn nguyên và
cơ cấu của vũ trụ với quan điểm duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự
phát, lấy tự nhiên để giải thích các hiện tượng của tự nhiên, đồng thời cũng là
học thuyết chủ đạo, nền tảng, lâu đời nhất, huyền bí nhất và cũng được ứng dụng
nhiều nhất trong thế giới quan Phương Đông. Học thuyết này được các trường
phái triết học kế thừa và phát triển khá rõ nét ở thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
Học thuyết Âm Dương cho rằng, mọi vật tồn tại và phát triển được là do
hai khí Âm - Dương vận động mà tạo thành, nó tồn tại vĩnh hằng trong vũ trụ và
trong vạn vật để cho vạn vật sinh tồn kế tiếp nhau. Âm - Dương là hai mặt thống
7
nhất, là cơ sở, điều kiện tồn tại, chuyển hóa lẫn nhau không thể tách rời, nó được
gắn kết với nhau bằng hình thức cái nọ gắn kết trong cái kia nhưng cũng là hai
yếu tố đối lập của cùng một sự vật hiện tượng như: Quân tử - tiểu nhân, mạnh -
yếu, nhiều - ít, thông minh - ngu dốt, sáng - tối, thiện - ác, thịnh - suy, nam -
nữ… “Dương” là phạm trù đối lập với “Âm” và ngược lại. Dù đối lập nhưng
chúng không loại trừ nhau một cách tuyệt đối. Âm – Dương tồn tại, bao trùm
trong bất cứ lĩnh vực nào của đời sống xã hội. Là phát minh đầu tiên của người
Trung Hoa khi khám phá vũ trụ, nó vừa vô hình, vừa hữu hình, vừa là năng lực
vô tận của vũ trụ và cũng là nền tảng để nuôi sống vạn vật trên trái đất này. Như
vậy Âm - Dương vừa tương khắc, vừa tương sinh. Như nước với lửa, nước dùng
để dập lửa nhưng nước lại phải nhờ lửa để hóa thành hơi, giúp ích cho sự sống
và cho thiên nhiên.
Quan niệm về mâu thuẫn trong học thuyết Âm - Dương còn được thể hiện
sâu sắc trong Kinh Dịch, đó là quyển kinh cổ nhất, gồm 64 quẻ, mỗi quẻ được
cấu tạo bởi sáu hào Âm Dương, các hào Âm Dương được dùng để tượng trưng
cho hai khí căn bản trong vũ trụ. Và đây cũng là một công trình tư tưởng vĩ đại
của nhân dân Trung Hoa đối với lịch sử văn hóa nhân loại, dù còn ở trình độ sơ
khai, chất phác nhưng đã thể hiện được tư tưởng duy vật và biện chứng về tự
nhiên, về con người và xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ.
Trong Kinh Dịch thì bản nguyên của vũ trụ là thái cực, thái cực là nguyên
nhân đầu tiên, là lý của muôn vật: “Dịch có thái cực sinh ra lưỡng nghi, lưỡng
nghi sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh ra bát quái, bát quái sinh ra vạn vật”. Như
vậy, tác giả của Kinh Dịch đã quan niệm vũ trụ, vạn vật đều có bản thể động.
Trong thái cực, thiếu dương vận động đến thái dương thì trong lòng thái dương
lại nảy sinh thiếu âm, thiếu âm vận động đến thái âm thì trong lòng thái âm lại
nảy sinh thiếu dương. Cứ như thế, Âm Dương biến hoá liên tục, tạo thành vòng
biến hóa không bao giờ ngừng nghỉ. Vì thế, các nhà làm Dịch mới gọi tác phẩm
của mình là Kinh Dịch. Ở Kinh Dịch, Âm Dương được quan niệm là những mặt,
8
những hiện tượng đối lập tồn tại trong các hiện tượng tự nhiên, xã hội và khẳng
định vật nào cũng ôm chứa Âm Dương trong nó.
Theo Kinh Dịch, Âm - Dương là hai nguyên lý mâu thuẫn, có đặc tính
riêng biệt, khác hẳn nhau. Âm-Dương là hai mặt đối lập, chúng tồn tại ở hai thế
lực khác nhau nhưng không biệt lập mà thống nhất, bổ sung cho nhau. Hễ Âm
cực thì Dương sinh, Dương cực thì Âm sinh. Giữa Âm và Dương không có ranh
giới tuyệt đối. Trong mặt này có chứa đựng yếu tố của mặt kia, trong Dương lớn
có Âm nhỏ, trong Âm lớn có Dương nhỏ. Giữa Âm và Dương luôn thay đổi và
chuyển hóa cho nhau. Nếu Âm tăng thì Dương giảm, Dương tăng thì Âm giảm,
vì vậy mà Âm biến đổi thành Dương và Dương cũng có xu hướng biến đổi thành
Âm. Tính chất này là quy luật của vũ trụ quan, nhân sinh quan, là thuyết tương
đối của cuộc sống vạn vật và con người, nó giúp ta khám phá được mặt tốt, mặt
xấu khi xem xét một vấn đề nào đó, trên cơ sở đó tự điều chỉnh tư duy lý luận,
nhận thức đúng đắn về cuộc sống và tự hoàn thiện mình. Chính do sự tác động
qua lại giữa hai thế lực Âm - Dương mà sinh ra mọi sự vật hiện tượng trong thế
giới, và như vậy, hai mặt đối lập này tồn tại trong tất cả các sự vật hiện tượng từ
tư duy, xã hội và con người.
Âm Dương là khí chất, là năng lực để thúc đẩy quá trình hình thành vũ trụ
và vạn vật, mọi việc biến đổi chuyển hóa đều do hai khí này mà ra. Nó chính là
nguồn năng lượng vô cùng vô tận của vũ trụ và vạn vật. Bản chất của Âm Dương
là khí và hình. Kinh Dịch cũng cho rằng, chính Âm Dương đã sinh ra vạn vật
trong vũ trụ, khi Âm Dương ở dạng khí thì nó lưu hành khắp vũ trụ và trong vạn
vật, khi ở dạng hình thì Âm Dương cô đọng lại dưới dạng hình thể của muôn vật
muôn loài, khi Âm Dương cô đọng lại hết mức thì tạo thành vật chất, khi vật
chất tan loãng ra thì thành Âm Dương, trong bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng
có một thái cực đó là Âm - Dương. Vì vậy, quan niệm Âm Dương là quan niệm
đặc biệt trong Kinh Dịch, đã thể hiện tư tưởng duy vật và biện chứng về thế giới
tuy còn ở trình độ sơ khai, phiến diện nhưng phần nào đã lí giải được căn nguyên
9
quy luật phát triển của giới tự nhiên, là cơ sở để giải quyết một số mâu thuẫn và
vận dụng để giải quyết một số vấn đề trong xã hội.
Sự đối lập giữa Âm và Dương phần nào đã thể hiện những mâu thuẫn cơ
bản trong sự vật, hiện tượng. Sự đối lập đó còn được thể hiện ở chỗ: Dương
thăng mà Âm giáng. Thăng có nghĩa là đi lên, trưởng thành tốt đẹp, giống như
khi ta đốt lửa thì ngọn lửa lúc nào cũng có xu hướng bốc lên cao khỏi mặt đất,
điều này giải thích cho sự tạo thành “Trời”. Giáng là từ trên đi xuống, là yếu đi.
Âm giáng nghĩa là khí âm luôn đi từ trên xuống dưới, như nước thì luôn chảy từ
trên cao xuống thấp, tính chất này thể hiện sự hình thành “Đất”. Hai khí Âm -
Dương gắn kết, hội tụ với nhau như Trời với Đất, tạo ra năng lực nuôi sống con
người và vạn vật.
Cùng với thuyết Âm Dương, thuyết Ngũ Hành cũng là thuyết quan trọng
trong tư tưởng triết học Trung Hoa, sự xuất hiện của thuyết Ngũ Hành đã đánh
dấu bước tiến trong tư duy khoa học của người Trung Hoa. Ngũ Hành thể hiện
khả năng biến đổi, tương tác của sự vật, hiện tượng và dùng để giải thích sự sinh
trưởng của vạn vật trong vũ trụ. Nó thể hiện thông qua tính năng của năm loại
vật chất: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Các yếu tố vật chất đó không ở trạng thái
tĩnh mà động, không phải cô lập với nhau mà lại có quan hệ biện chứng với
nhau, cái này chuyển hóa thành cái kia theo chu trình có tính tuần hoàn hay qua
các quy luật của ngũ hành.
Ngũ hành tương sinh: sinh có nghĩa là tương tác, nuôi dưỡng, giúp đỡ.
Giữa các hành trong ngũ hành đều có quan hệ nuôi dưỡng lẫn nhau, giúp đỡ lẫn
nhau cùng phát sinh và phát triển. Quan hệ tương sinh của ngũ hành là Thổ sinh
Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ,…đó là chu
trình bất diệt.
Ngoài quan hệ tương sinh còn có quan hệ tương khắc. "Khắc" có nghĩa là
chế ước, ngăn trở, hủy diệt. Quá trình ngũ hành tương khắc là Thổ khắc Thủy,
10
Thủy khắc Hỏa, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ,…đây cũng là
chu trình bất diệt.
Dù chưa có cơ sở khoa học của quá trình tương sinh và quá trình tương
khắc nhưng quan niệm duy vật hồn nhiên này đã tồn tại như một cơ sở để
khẳng định vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, rằng thế giới vật chất đa
dạng phong phú không tách rời quá trình tương sinh và tương khắc của ngũ
hành! Theo tư tưởng của “Ngũ hành”: nếu chỉ có tương sinh mà không có
tương khắc thì không thể giữ gìn được thăng bằng, có tương khắc mà không có
tương sinh thì vạn vạt không thể có sự sinh hóa. Vì vậy, tương sinh, tương khắc
là hai điều kiện không thể thiếu được để duy trì thăng bằng tương đối của hết
thảy mọi sự vật.
Như vậy, thuyết Âm Dương, Ngũ Hành là hai trong nhiều trường phái
triết học Trung Hoa thời Cổ đại bàn về hai mặt đối lập của mâu thuẫn. Theo đó,
hai mặt đối lập không tách rời mà luôn hòa quyện, xâm nhập lẫn nhau, là khởi
nguyên sinh thành, biến hóa của vũ trụ và vạn vật trên Trái đất này. Thuyết Âm
Dương, Ngũ Hành đã giải thích sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng,
tuy còn mang tính sơ khai, chất phác, nhưng là một đóng góp lớn lao vào kho
tàng tri thức triết học, là cơ sở để chống lại các quan niệm duy tâm thần bí khi lý
giải về con người và vạn vật.
Lão Tử (còn gọi là Lão Đam, khoảng thế kỷ VI - V T.CN), nhà triết học
lớn của Trung Quốc thời Cổ đại, cũng đã đề cập đến khái niệm Âm Dương. Ông
không chỉ tìm hiểu quy luật biến hóa của Âm Dương mà còn khẳng định mỗi sự
vật đều chứa thuộc tính mâu thuẫn, đó là Âm Dương.
Lão Tử được Hêghen đánh giá “là đại biểu tinh thần của thế giới cổ đại
Phương Đông” [25, tr.419]. Là người tiếp nhận tư tưởng của Dương Chu, Âm
Dương Ngũ hành và phép biện chứng của Kinh Dịch để sáng lập ra trường phái
triết học Đạo gia. Trong hệ thống triết học của Lão Tử, học thuyết về “Đạo” có
một vị trí cực kì quan trọng. Nó là nền tảng chi phối xuyên suốt các vấn đề trong
11
triết học của ông và hầu hết các quan điểm về vũ trụ, nhân sinh của người Trung
Hoa cổ đại. Ông đã đưa ra nhiều tư tưởng có giá trị, trong đó tư tưởng mâu thuẫn
biện chứng đã đạt đến trình độ sâu sắc và trở thành vấn đề cốt lõi trong phép
biện chứng của ông. Toàn bộ những quan niệm về mâu thuẫn được ông trình bày
khá vẹn toàn trong học thuyết về “Đạo”.
Lão Tử cho rằng, khởi nguyên và động lực của vạn vật trong vũ trụ đó
chính là do sự chi phối của “Đạo”. Đạo không phải là một sự vật hiện hữu cụ
thể, nhưng nó tồn tại trong tất cả mọi sự vật, không bao giờ mất đi, nó là cái
nguyên sơ tự nhiên, mộc mạc, là bản nguyên, sáng tạo ra vạn vật, vạn vật sinh ra
theo trình tự “đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh ra vạn vật”, “vạn
vật đều cõng âm mà ôm dương, điều hòa bằng khí trùng hư” [24, tr.13]. Tư
tưởng về phép biện chứng của Lão Tử đã chỉ rõ con đường vận động, biến đổi
của vạn vật trong thế giới khách quan thông qua hai quy luật của “Đạo”, là luật
“quân bình” và luật “phản phục”. Trong Kinh Dịch, luật “phản phục” được
tượng trưng bằng quẻ Phục. Quẻ này gồm năm hào Âm ở trên và một hào Dương
ở dưới. Khi khí âm đã phát triển đến cực điểm thì một hào dương xuất hiện ở
dưới, nghĩa là khí dương bắt đầu sinh trở lại. Do đó mà quẻ có tên là Phục (trở
lại). Luật phản phục dùng để chỉ sự quay trở lại phương hướng cũ sau khi sự
vật, hiện tượng đã phát triển đến cực điểm. Như vậy, muốn cho một vật nào đó
suy tàn thì trước hết hãy làm cho nó hưng thịnh lên đến điểm tận cùng nó sẽ
chuyển sang mặt đối lập tức là suy tàn. Quân bình ở đây là quân bình âm dương,
quân bình đề giữ cho vạn vật cân bằng theo lẽ tự nhiên, không có cái gì thái quá
mà cũng không có cái gì bất cập. Phần lớn tư tưởng của Lão Tử là lấy đạo quân
bình làm căn bản. Luật bình quân và phản phục thể hiện sự mâu thuẫn, phản ánh
khuynh hướng trái ngược trong chính quá trình sinh tồn và phát triển của vũ trụ.
Theo Lão Tử, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều luôn
vận động và biến đổi không ngừng, mỗi sự vật là thể thống nhất giữa hai mặt đối
lập, chúng đối lập nhưng lại liên hệ, ràng buộc, là điều kiện tồn tại của nhau,
12
trong cái này đã có cái kia. Song, Lão Tử mới chỉ thấy được sự gắn bó, xâm
nhập, chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập là chủ yếu, mà chưa thấy được
mặt đấu tranh của chúng; ông coi đấu tranh là mặt thứ yếu. Đây cũng chính là
hạn chế trong phép biện chứng của Lão Tử, vì ông không chủ trương giải quyết
mâu thuẫn bằng hình thức đấu tranh, mà nhấn mạnh sự hài hòa, sự thống nhất
giữa các mặt đối lập; coi trọng tính đồng nhất, coi việc điều hòa mâu thuẫn là
cách thức giải quyết mọi vấn đề nảy sinh trong cuộc sống.
Như vậy, tư tưởng biện chứng của Lão Tử đã vẽ nên một bức tranh sinh
động về hiện thực, phản ánh được phần nào bản chất của thế giới khách quan.
Dù trong cách lí giải đã mang yếu tố duy vật và biện chứng nhưng về căn bản nó
vẫn mang tính ngây thơ, chất phác. Ông chỉ thấy được sự chuyển hóa giữa các
mặt đối lập như là một vòng tuần hoàn, là sự chuyển hóa vòng quanh nhưng
không có bước nhảy vọt, không thấy được sự phát triển về chất của sự vật. Dù
vậy nhưng tư tưởng triết học của Lão Tử vẫn là một cống hiến vĩ đại, có ảnh
hưởng to lớn đến thế giới quan triết học, nó như cái bóng bao trùm và dẫn dắt
quá trình tư tưởng của triết học Trung Hoa. Bên cạnh nền triết học Trung Quốc,
Ấn Độ còn có một nền triết học cổ xưa, rực rỡ, phong phú và có vị trí quan trọng
trong lịch sử tư tưởng của Châu Á.
Triết học Ấn Độ ra đời sớm và chứa đựng nhiều tư tưởng sâu sắc về
thế giới, là một trong những cái nôi triết học lâu đời và tương đối đặc biệt của
nhân loại. Do tính chất khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên, cũng như sự phân
biệt hết sức nghiệt ngã và khắt khe của chế độ chiếm hữu nô lệ mang nặng
tính chất gia trưởng của xã hội Ấn Độ cổ đại. Vì thế, trong lòng xã hội đã nảy
sinh những mâu thuẫn giữa các tầng lớp, các giai cấp xã hội với những lợi ích
và những địa vị xã hội đối lập nhau, khiến cho cuộc sống người dân Ấn Độ
trở nên vô cùng cực khổ. Cũng như những nền triết học khác, triết học Ấn Độ
cũng đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề, trong đó, mâu thuẫn đã trở thành
vấn đề nổi lên hàng đầu.
13
Triết học Ấn Độ đã đề cập đến mâu thuẫn của mọi sự vật, hiện tượng
trong vũ trụ, thừa nhận vạn vật trong vũ trụ là sự thống nhất giữa các mặt đối
lập, chúng vừa đứng im vừa vận động, vừa trong trạng thái cân bằng, ổn định,
vừa trong trạng thái không cân bằng, không ổn định, vừa bất biến, lại vừa trong
trạng thái biến đổi không ngừng.
Trong triết học Ấn Độ, triết học Phật giáo được xem là một trong những
trường phái triết học lớn. Triết học Phật giáo thể hiện tính duy vật và biện chứng
sâu sắc, cho rằng, ngay trong nhận thức của con người cũng đã sinh ra những
mâu thuẫn và đây là yếu tố làm cho con người khổ. Trong Phật giáo, con người
và vạn vật vốn là vô ngã. Vô ngã là không có cái tôi bất biến, từ đây triết học
Phật giáo đưa ra nguyên lý về mối liên hệ nhất định: Không có cái nào là biệt lập
tuyệt đối so với tồn tại khác, tất cả đều hòa đồng nhau, vậy nên không có cái gì
là của ta. Vô thường là nói đến sự biến đổi không ngừng của vạn vật, không có
cái gì là đứng im. Nhưng do vô minh nên con người đã nhầm lẫn mà cho rằng nó
là của ta và chúng tồn tại vĩnh viễn. Vì vậy, con người đã cố giành lấy cho riêng
mình. Song, đó chính là những thứ mà con người không thể làm được bởi con
người không thể làm trái quy luật khách quan. Chính điều này đã đưa con người
rơi vào mâu thuẫn, thất vọng, rồi đau khổ.
Trong Phật giáo, thế giới tự nhiên và nhân sinh đều được nhìn nhận theo
quan niệm về quy luật nhân - quả. Quy luật nhân - quả cho rằng, sự tồn tại đa
dạng và phong phú của thế giới đều có nguyên nhân tự thân, đó là quy luật
nhân quả, một định lý tất định và phổ biến dù đó là vũ trụ hay nhân sinh. Như
vậy, triết học Phật giáo cũng đã tìm thấy sự đối lập của các mặt trong sự đồng
nhất, vạch ra được những mâu thuẫn nội tại như giữa ý thức và vô thức, niết
bàn và vô minh.
Tóm lại, triết học Ấn Độ là một trong những cái nôi vĩ đại của nhân loại
thời kì cổ đại. Nó chứa đựng những yếu tố duy vật, vô thần, manh nha hình
thành tư tưởng biện chứng sơ khai. Từ nhiều góc độ khác nhau, triết học Ấn Độ
14
đã đề cập đến mâu thuẫn của sự vật hiện tượng trong vũ trụ. Tuy nhiên, vai trò
động lực của mâu thuẫn đã không được nhận thức một cách đầy đủ và còn có
những yếu tố duy tâm.
1.1.2 Một số quan niệm về mâu thuẫn trong triết học Phương Tây
Đại diện tiêu biểu cho triết học phương Tây là triết học Hy Lạp cổ đại.
Có thể nói, triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao
hưởng, bản hợp xướng của triết học phương Tây. Ra đời trong xã hội chiếm hữu
nô lệ với những mâu thuẫn gay gắt giữa tầng lớp chủ nô dân chủ với chủ nô quý
tộc. Triết học Hy Lạp cổ đại được đánh giá là hình thức biện chứng đầu tiên của
nền văn minh cổ đại nhưng mang tính duy vật tự phát và biện chứng sơ khai,
đồng thời đã bàn về vấn đề mâu thuẫn khá sâu sắc. Ở phương Tây cổ đại nghiên
cứu vấn đề mâu thuẫn bao quát ở hai lĩnh vực: mâu thuẫn trong hiện thực khách
quan và mâu thuẫn trong tư duy. Các nhà triết học thời kì này cũng đã chỉ ra các
khuynh hướng đối lập nhau trong tự nhiên và trong xã hội.
Hêraclit (520 - 460 TCN) sinh ra trong một gia đình quý tộc chủ nô ở
thành phố Ephetdơ. Ông sớm trở thành một nhà triết học duy vật thể hiện rõ các
tư tưởng biện chứng chất phác, mộc mạc từ thời cổ Hy Lạp. Phép biện chứng của
ông được xếp vào vị trí trung tâm, ông đã có những tư tưởng về sự thống nhất
giữa các mặt đối lập trong tất cả các sự vật hiện tượng.
Theo Hêraclit, tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng trong nó
những mặt đối lập, chúng tác động qua lại như là những khuynh hướng trái
ngược nhau, song chúng vẫn luôn ràng buộc và thống nhất với nhau - làm tiền đề
cho sự tồn tại của nhau. Thống nhất là sự đồng nhất của cái đa dạng và là sự hài
hòa giữa các mặt đối lập. Nếu không có mặt này thì sẽ không có mặt khác. Một
chỉnh thể thống nhất bao giờ cũng tồn tại với các mặt đối lập của nó, như là
không thể quý sức khỏe khi mà không biết mặt đối lập của nó là bệnh tật, cái ác
bao giờ cũng tồn tại với mặt đối lập của nó là cái thiện và chính cái ác sẽ làm
cho cái thiện trở nên cao cả hơn…Khi thừa nhận sự tồn tại và thống nhất của các
15
mặt đối lập thì ông cũng cho rằng, vũ trụ là một thể thống nhất nhưng trong lòng
nó luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các sự vật, hiện tượng trái ngược nhau.
Chính các cuộc đấu tranh đó đã làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi và thay vào
đó là sự vật, hiện tượng mới. Điều này làm cho sự vật hiện tượng trong vũ trụ
luôn thay đổi và phát triển không ngừng.
Hêraclit cho rằng, đấu tranh giữa các mặt đối lập là hiện tượng phổ biến
trong vũ trụ, là quy luật phát triển của vũ trụ. Không có đấu tranh sẽ không có
bất cứ sự hài hòa nào và ngược lại, khi đấu tranh không còn thì mọi cái cũng
biến mất. Đấu tranh của các mặt đối lập chính là sự đối lập trong cái thống
nhất, làm phá vỡ sự thống nhất cũ, thiết lập sự thống nhất mới cao hơn, hoàn
thiện hơn. Từ đây, làm cho các mặt đối lập trong mỗi sự vật không ngừng tự
hoàn thiện, điều chỉnh mình để phù hợp, thống nhất với mặt còn lại, tạo bước
tiến cao hơn. Ông khẳng định, đấu tranh sẽ tạo ra một trật tự hài hòa về sự thống
nhất. Ở đâu không có sự khác biệt thì ở đó không có sự thống nhất. Đấu tranh là
nguồn gốc của mọi cái đang hiện hữu, là khởi nguyên sáng tạo của sự sống và
tồn tại. Điều đó cho thấy đấu tranh giữa các mặt đối lập là tất yếu, là quy luật
tất yếu của vũ trụ.
Ông được mọi người biết đến nhiều bởi học thuyết “Dòng chảy”. Ông
cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại và đồng thời lại không
tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, chảy đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi
vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong. Dựa vào trải nghiệm của mình, ông
khẳng định rằng: “Chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông” [4,
tr.49]. Với ông, mọi vật đều luôn biến đổi, vận động và phát triển không ngừng,
nó thay đổi thường xuyên và liên tục bởi không có gì tồn tại mà đứng yên tuyệt
đối, đứng yên chỉ là tạm thời, tương đối mà thôi. Đứng yên và vận động chính là
sự thống nhất của các mặt đối lập, cũng như đấu tranh và hài hòa, chúng tồn tại
không thể tách rời nhau. Chính sự vận động biến đổi liên tục của thực tiễn đã
chứng minh “vạn vật không ngừng sinh ra và mất đi, giống như ngọn lửa không
16
ngừng bùng cháy rồi lụi tàn”. Với quan điểm này Hêraclit đã nắm được đúng
tính chất chung của toàn bộ bức tranh về các hiện tượng trên thế giới nhưng nó
không đủ để giải thích những chi tiết hợp thành bức tranh toàn bộ. Muốn nhận
thức được chi tiết ấy thì phải tách riêng từng chi tiết ra khỏi mối liên hệ tự nhiên
theo đặc tính của chúng. Điều này được thực hiện khi khoa học tự nhiên thực sự
phát triển.
Ngoài học thuyết về “Dòng chảy”, Hêraclit còn được biết đến bởi quan
niệm sâu sắc về thuật ngữ “Logos”. Đây là thuật ngữ được Hêraclit sử dụng đầu
tiên với tư cách là một trong các khái niệm cơ bản nói về cái tất yếu, cái có tính
quy luật và nó trở nên phổ biến trong toàn bộ triết học Hy Lạp cổ đại. Ông cho
rằng, thế giới vận động theo trật tự mà ông gọi đó là logos. Logos khách quan là
trật tự mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ, logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết và
lời nói của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan. Với
Hêraclit, logos là nguyên tắc về sự thống nhất mâu thuẫn của mọi sự vật hiện
tượng trong vũ trụ. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là nguồn gốc vận động và
phát triển của sự vật hiện tượng. Vũ trụ vừa thống nhất vừa đa dạng, trong đó sự
chuyển hóa và tác động qua lại giữa các mặt đối lập là tiền đề xuất hiện cái mới.
Logos trong triết học của Hêraclit đã đưa ông tới sự khẳng định: lửa là
bản nguyên vật chất, là cơ sở duy nhất và phổ biến nhất của tất cả mọi sự vật
hiện tượng, đồng thời lửa cũng là nguồn gốc của vận động. Toàn bộ thế giới hay
vũ trụ chẳng qua là sản phẩm biến đổi của lửa. Lửa chuyển hóa thành sự vật và
sự vật cũng chuyến hóa thành lửa. Ông cho rằng, vũ trụ - cái thế giới mà con
người đang sống trong đó thống nhất ở một cái duy nhất là ngọn lửa vĩnh hằng
bất diệt. Dựa vào quan điểm này mà Hêraclit đã khẳng định được tính vĩnh viễn
và bất diệt của thế giới.
Có thể khẳng định rằng, Hêraclit với luận giải sâu sắc về quy luật thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, tư tưởng biện chứng của ông đã đặt nền
móng cho phép biện chứng Hy Lạp cổ đại. Hêraclit trở thành đại biểu của phép
17
biện chứng và đưa triết học duy vật cổ đại tiến lên một bước phát triển mới.
Song, tư tưởng biện chứng của ông vẫn còn một số hạn chế nhất định, đó là ông
chưa thấy được sự thống nhất giữa các sự vật trong mối liên hệ cụ thể, những
luận giải mới dừng lại ở phỏng đoán chứ chưa được luận chứng về mặt khoa học.
Nếu như Hêraclit đã xây dựng được học thuyết về “dòng chảy”, xây dựng
được một số phạm trù của phép biện chứng như “logos” để luận bàn về những
phép biện chứng thì sau ông phép biện chứng Hy Lạp cổ đại tiếp tục hoàn thiện
và phát triển với nhiều nội dung phong phú, gắn với tên tuổi của các triết gia nổi
tiếng khác. Đó là Đêmôcrit (460 – 370 TCN) - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa
duy vật cổ đại. Nổi bật trong triết học duy vật của ông là thuyết nguyên tử.
Đêmôcrit cho rằng, tất cả mọi sự vật đều hình thành từ những nguyên tử.
Nguyên tử là hạt vật chất bé nhỏ không thể phân chia được nữa, chúng không
khác nhau về chất mà khác nhau về hình thức, trật tự và tư thế. Bởi có vô vàn
hình dạng nên tính đa dạng của nguyên tử làm nên tính đa dạng của thế giới các
sự vật hiện tượng. Theo ông, vận động của nguyên tử là vĩnh viễn, ông giải thích
vận động của nguyên tử là tự nó vận động, chúng va chạm và di chuyển về mọi
phía. Dù ông đã không lí giải được nguồn gốc của sự vận động nhưng ông đã
gắn vận động với nguyên tử, nó cũng là vô cùng, vô tận như nguyên tử và vận
động không tách rời khỏi vật chất.
Trong quan niệm về mâu thuẫn, Đêmôcrit cho rằng, vũ trụ được cấu thành
từ hai thực thể đầu tiên là nguyên tử (tồn tại) và chân không (không tồn tại) là
những bản nguyên đầu tiên và chúng luôn đối lập nhau, trong đó nguyên tử là
những hạt vật chất cực nhỏ, chúng tồn tại vĩnh viễn và vận động không ngừng,
sự vận động đó xảy ra trong chân không, tuân theo quy luật khách quan và theo
các hướng phân ly và tích hợp, tạo nên sự đa dạng phong phú trong vũ trụ. Linh
hồn của con người, theo Đêmôcrit, cũng là một dạng vật chất, được tạo nên từ
các nguyên tử đặc biệt, khi người ta chết, linh hồn sẽ không còn, chúng rời thể
xác và tồn tại như những nguyên tử khác. Chân không là khoảng không gian
18
trống rỗng. Với Đêmôcrit, chân không cũng cần thiết như nguyên tử, nhờ nó mà
nguyên tử mới vận động được. Khác với nguyên tử có kích thước, hình dáng,
chân không thì vô hạn và không có hình dáng.
Ngoài đóng góp của Hêraclit và Đêmôcrit về phép biện chứng, trong triết
học Hy Lạp cổ đại còn có sự đóng góp nhất định của Arixtôt, Dênôn, Platôn về
vấn đề này.
Như vậy, phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại đã cho thấy bức
tranh chung về thế giới, trong đó các sự vật, hiện tượng luôn vận động, phát triển
và biến đổi không ngừng. Phép biện chứng giai đoạn này chỉ là những yếu tố
biện chứng hồn nhiên, tự phát - chưa thành một hệ thống, quy luật, phạm trù, tức
là chưa trở thành một hệ thống lý luận nhận thức. Do đó vai trò nhận thức và cải
tạo thế giới của nó còn có nhiều hạn chế. Dù giải thích thế giới chủ yếu dựa trên
sự cảm thụ trực tiếp thế giới vật chất xung quanh, phỏng đoán trên cơ sở kinh
nghiệm trực giác, chưa có căn cứ, minh chứng khoa học, nhưng quan niệm về sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn) của các đại
biểu triết học Hy lạp thời kì này là tiền đề, là khởi nguyên lịch sử của phép biện
chứng chứng về sau.
Vấn đề mâu thuẫn tiếp tục được triết học Tây Âu Phục Hưng quan tâm
nghiên cứu. Đây là thời kì tan rã của chế độ xã hội phong kiến, đồng thời là sự
xuất hiện của tư bản chủ nghĩa. Triết học thời kì này xen lẫn giữa yếu tố duy vật
và yếu tố duy tâm. Song, tư tưởng biện chứng của một số đại biểu cũng hết sức
sâu sắc, điển hình như Brunô. Brunô ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng biện
chứng của các nhà triết học đi trước, ông tiếp tục phát triển phép biện chứng trên
quan điểm của mình. Ông đưa ra tư tưởng biện chứng về sự phù hợp giữa các
mặt đối lập trong sự thống nhất vô tận của vũ trụ. Theo ông, vũ trụ là vĩnh hằng
và vô tận, nó không sinh ra và cũng không bị hủy diệt. Các sự vật, hiện tượng
trong vũ trụ đều có mối liên hệ, luôn vận động và thường xuyên biến đổi. Cái
19
này mất đi thì cái khác sẽ ra đời, sự vật không chỉ vận động mà còn chuyển hóa
lẫn nhau, chuyển hóa giữa các mặt đối lập.
Brunô đã xây dựng học thuyết về sự thống nhất của cực tiểu và cực đại,
cái tối thiểu và cái tối đa, giữa cái vô hạn và hữu hạn. Đó là những mặt đối lập
nhau nhưng trong một sự vật thì chúng luôn vận động và chuyển hóa lẫn
nhau. Tư tưởng biện chứng của Brunô đã vượt xa hơn so với các nhà triết học
Hy Lạp cổ đại bởi triết học của ông đã dựa trên các thành tựu khoa học của
thời đại mình.
Triết học cổ điển Đức là nền triết học được hình thành nên từ cuối thế kỷ
XVIII - đầu thế kỷ XIX. Ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế - xã
hội đặc thù – vừa bị chi phối bởi các yếu tố kinh tế, chính trị, ý thức hệ của xã
hội phong kiến đang mục rỗng, vừa bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng cấp tiến
trong thời kỳ đầu phát triển của chủ nghĩa tư bản, đã làm cho triết học cổ điển
Đức có những nét riêng. Tiếp thu những tư tưởng biện chứng từ thời cổ đại, các
nhà triết học thời kì này đã hình thành phép biện chứng duy tâm trong việc
nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy. Nếu phép biện chứng cổ
đại chủ yếu được đúc rút từ kinh nghiệm cuộc sống hàng ngày, thì phép biện
chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã trở thành một hệ thống lý luận
tương đối hoàn chỉnh và đã trở thành một phương pháp tư duy triết học phổ biến.
Dù còn nhiều hạn chế, nhưng “hạt nhân” hợp lý được mang lại từ nền triết này
cũng cho chúng ta khẳng định đây là giai đoạn phát triển rực rỡ trong nền văn
minh triết học của Tây Âu.
Lênin cho rằng, phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã
tạo ra bước quá độ chuyển biến về lập trường từ chủ nghĩa duy vật siêu hình
sang thế giới quan khoa học duy vật biện chứng. Có thể khẳng định, phép biện
chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã hoàn thành cuộc cách mạng về
phương pháp.
20
Tuy đứng trên lập trường duy tâm nhưng các nhà triết học cổ điển Đức đã
xây nên một hệ thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, logic
biện chứng, học thuyết về các quá trình phát triển, mà thành quả lớn nhất trong
quá trình tìm tòi đó là phép biện chứng. Với cách nhìn tổng quát về phương pháp
biện chứng, các nhà triết học cổ điển Đức đã hệ thống hóa toàn bộ tri thức và
thành tựu mà nhân loại đã đạt được. Như vậy, so với các nền triết học trước thì
triết học cổ điển Đức đã đạt tới trình độ khái quát và tư duy trừu tượng cao với
hệ thống kết cấu lí luận chặt chẽ, tư tưởng về mâu thuẫn đã có những bước tiến
đáng kể. Đại biểu đặc trưng của triết học cổ điển Đức đó là Cantơ và Hêghen.
Cantơ (1724 - 1804) là một trong những nhà triết học vĩ đại của lịch sử tư
duy phương Tây trước Mác. Với tư cách là người sáng lập ra triết học cổ điển
Đức, Cantơ có những đóng góp lớn lao cho nền triết học của thế giới.
Triết học của ông được chia làm hai thời kì. Vào thời kì tiền phê phán,
Cantơ quan niệm cấu trúc của vật chất luôn biến đổi và không ngừng tương tác
với nhau bằng sức hút và lực đẩy. Cantơ cho rằng, khởi nguyên của vũ trụ là
những vật chất hỗn độn. Trong thời kì này, ông phát triển tư tưởng về sự tác
động, xâm nhập đan xen lẫn nhau giữa các mặt đối lập trên cở sở triết học tự
nhiên. Sang thời kì phê phán, ông đề xướng việc nghiên cứu lại các vấn đề triết
học đã đặt ra trước đây, và xác định lại một cách phê phán các quan niệm về lí
tính, khả năng suy diễn và khả năng nhận thức của con người. Thời kì này, triết
học của ông được đánh giá như là phép biện chứng.
Trong hệ thống triết học của mình, Cantơ cho rằng, mọi vật trong thế giới
chỉ tồn tại dưới dạng đơn nhất và cá biệt. Với việc đề xuất cách tiếp cận các vật
phải phù hợp theo xu hướng của chúng ta, Cantơ thừa nhận con người không thể
nhận thức được “vật tự nó” hay “vật tự thân”. Theo ông, “vật tự nó” là sự biểu
hiện những gì thuộc về hiện tượng mà con người chưa nhận thức được, nó là
bản chất đích thực của mọi sự vật tồn tại bên ngoài con người, là chuẩn mực
hoàn hảo mà con người không thể đạt tới, nhưng đó là những điều mà con người
21
hằng mong ước, thể hiện khát vọng cao đẹp của trí tuệ con người. Ông cho rằng,
lí tính của con người có khát vọng xâm nhập vào vật tự nó để đạt tới tri thức
tuyệt đối, điều này đã làm phát sinh những mâu thuẫn - Cantơ gọi đó là các
antinomia; ông xem các antinomia như là những mâu thuẫn không bao giờ giải
quyết được. Việc tìm ra và giải quyết các antinomia của Cantơ càng khẳng định
luận điểm của ông rằng "vật tự nó" là bất khả tri. Đó là một nghịch lý khách
quan mà nhận thức con người buộc phải chấp nhận. Xưa nay người ta vẫn ngộ
nhận tưởng rằng mình có thể nhận thức được "vật tự nó", nhưng trên thực tế, con
người đang phải chấp nhận nghịch lý trên.
Ông đưa ra 4 antinomia, mỗi antinomia (mâu thuẫn) cơ bản của lí tính
được tạo nên từ hai luận đề đối lập nhau đó là chính đề và phản đề. Đây là những
mâu thuẫn mà không thể khắc phục được, bởi nó nằm ngay trong bản thân lí tính
của con người. Dẫn chứng điều này, ông viết: Vũ trụ có khởi đầu hay không có
khởi đầu trong thời gian, có hạn hay vô hạn trong không gian là một trong những
antinomia mà Cantơ nêu ra nhưng ông không thể giải quyết được, vì theo ông,
không bao giờ có thể xác định được phán đoán nào chân thực hay giả dối. Xét về
toàn bộ thì vũ trụ là vô hạn, nhưng xét về từng sự vật hiện tượng cụ thể thì nó có
giới hạn, thuộc tính có hạn hay vô hạn đều được xét ở cùng một khía cạnh, như
một chỉnh thể toàn vẹn. Nếu tìm ra cách chứng minh nó là có hạn thì sẽ dẫn đến
sự phi lý và rơi vào kết luận ngược lại, còn nếu giả định nó là vô hạn thì cũng sẽ
rơi vào sự phi lý không hơn không kém.
Như vậy, học thuyết của Cantơ về các antinomia còn nhiều hạn chế. Ông
quy những mâu thuẫn vào mâu thuẫn của lí tính (tư tưởng) chứ chưa thấy rằng
đó là những mâu thuẫn của thế giới hiện thực (giới tự nhiên); theo ông, các
antinomia đó cũng chưa hoàn toàn là những mâu thuẫn biện chứng vì giữa các
chính đề và phản đề chưa có sự thống nhất và chuyển hoá lẫn nhau; khi đề cập
đến mâu thuẫn Cantơ cũng chỉ dừng lại ở việc phân tích, tổng hợp các mặt đối
lập chứ chưa đề xuất các biện pháp giải quyết mâu thuẫn; ông cũng đã sai lầm
22
khi hạn chế số lượng các antinomia, trong khi mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các
sự vật và trong tất cả các lĩnh vực.
Mặc dù vậy, Cantơ vẫn là người đầu tiên trong lịch sử triết học đặt ra
vấn đề mâu thuẫn trong nhận thức luận và giải quyết vấn đề đó theo tinh thần
biện chứng.
Phép biện chứng duy tâm xuất hiện trong triết học Cantơ đã được hoàn
thiện trong triết học của Hêghen - một đại biểu xuất sắc trong triết học cổ điển
Đức cuối thế kỉ XIX với một hệ thống khái niệm, phạm trù và quy luật cơ bản.
Hêghen (1770 - 1831) là đại biểu xuất sắc của nền triết học cổ điển Đức,
là nhà triết học duy tâm khách quan nhưng học thuyết về bản chất và tư tưởng về
mâu thuẫn của ông hết sức biện chứng. Phép biện chứng của ông là tiền đề lý
luận quan trọng của triết học mácxít và cũng là đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm
Đức cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Nếu ở các nhà biện chứng trước ông tư
duy còn mang tính trực quan, siêu hình, cảm tính, chủ yếu dựa vào các phỏng
đoán và chưa có cơ sở khoa học thì đến Hêghen tư duy biện chứng trong triết
học đã được nâng lên thành học thuyết hoàn chỉnh. Trong hệ thống triết học của
mình, Hêghen cho rằng, những gì hiện thực đều là hợp lý và tất cả những cái hợp
lý thì đều tồn tại. Vì vậy, triết học của Hêghen đã ảnh hưởng mạnh đến tư tưởng
nước Đức và châu Âu đương thời.
Phép biện chứng được Hêghen đã đem lại một quan niệm mới về mâu
thuẫn và lần đầu tiên trong lịch sử, Hêghen đã xây dựng lý luận mâu thuẫn và đề
xuất cách thức giải quyết mâu thuẫn.
Ông trình bày toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử, xã hội và tư duy con
người dưới dạng một quá trình, nghĩa là tất cả đều trong sự vận động, biến đổi và
luôn phát triển. Nhưng không phải ý thức, tư tưởng phát triển phụ thuộc vào sự
phát triển của tự nhiên, xã hội mà tự nhiên, xã hội phát triển phụ thuộc vào sự
phát triển của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối là thực thể tinh thần, có trước
tự nhiên và loài người, trải qua một quá trình lịch sử - tự nhận thức về bản thân.
23
Ông cho rằng, khởi nguyên của thế giới không phải là vật chất mà là “ý niệm
tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”. Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều
được sinh ra bởi một thực thể tinh thần, ý thức. Tinh thần có trước vật chất
nhưng đó không phải là tinh thần, ý thức của từng cá nhân cụ thể mà là một thực
thể, tinh thần bên ngoài con người và ông gọi đó là ý niệm tuyệt đối. Tính phong
phú đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý
niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn, là động lực của mọi hiện
tượng tự nhiên và xã hội. Như vậy, hoạt động tinh thần (con người) sáng tạo ra
thế giới.
Với ông, cái tuyệt đối không phải là những thứ đã có sẵn mà nó vừa là
thực thể vừa là chủ thể hoạt động của chính mình trong quá trình sản sinh ra cái
tương đối, cái tương đối cũng chính là kết quả hoạt động của cái tuyệt đối và cái
tuyệt đối cũng được sinh ra từ chính quá trình hoạt động của mình. Tương đối và
tuyệt đối là hai mặt đối lập nhau, chúng mâu thuẫn với nhau.
Hêghen khẳng định, sự đồng nhất nào cũng phải bao hàm sự khác biệt và
mâu thuẫn, đồng nhất và khác biệt vừa thống nhất nhưng vừa đối lập nhau, trong
một bản chất chúng lại gắn bó với nhau. Sự vật nào thì chứa đựng mâu thuẫn của
sự vật đó, là những mâu thuẫn nội tại, mâu thuẫn tồn tại tức là sự vật tồn tại.
Mâu thuẫn đó tạo nên động lực cho sự biến đổi và phát triển của sự vật, vì theo
ông “mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sức
sống” [24, tr.19]. Chính việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn làm cho cái mới
ra đời phủ định sự tồn tại của cái cũ, lỗi thời, lạc hậu song vẫn giữ lại những yếu
tố tích cực, tiến bộ của cái cũ. Đây là một trong những động lực thúc đẩy sự phát
triển của xã hội. Vì vậy, không nên xem mâu thuẫn là sự kìm hãm đối với các sự
vật mà phải xem mâu thuẫn trong sự tác động qua lại, sự lệ thuộc và quy định lẫn
nhau của các sự vật.
Mặc dù là người đã tuyệt đối hóa quá trình logic, đồng nhất các quy luật
của tự nhiên và xã hội với quy luật của logic học, giải thích các hiện tượng tự
24
nhiên và xã hội như là các quá trình logic, song Hêghen là người có công lớn
nghiên cứu một cách hệ thống, đem lại cho con người một cách hiểu mới về bản
chất của tư duy, về mối quan hệ qua lại và sự vận động của các khái niệm, các
phạm trù là biện chứng hiện thực, khách quan của các sự vật, các quá trình trong
giới tự nhiên và trong xã hội loài người. Ông cũng đã đưa logic học phát triển
đến đỉnh cao khoa học và coi đó là học thuyết về sự phát triển toàn diện của mọi
sự vật, hiện tượng trong thế giới theo những quy luật của phép biện chứng. Ông
xây dựng các phạm trù của logic học sao cho phản ánh mối liên hệ phổ biến và
tất yếu của tồn tại và cả tư duy trong sự vận động và chuyển hóa lẫn nhau như:
Lượng, chất, phủ định, mâu thuẫn, khả năng - hiện thực, nguyên nhân - kết quả,
cái chung - cái riêng, quy nạp - diễn dịch…Theo ông, những phạm trù logic là
những trừu tượng được tách ra từ hiện thực nên chúng có nội dung sinh động,
phong phú.
Không phải là người đầu tiên xây dựng phép biện chứng - nhưng bằng tư
tưởng và hoạt động của mình, Hêghen đã làm cho phép biện chứng trở nên
hoàn thiện hơn và giữ một vị trí quan trọng trong triết học. Phương pháp tư duy
biện chứng được ông nghiên cứu một cách đầy đủ nhất và có căn cứ vững chắc
là phương pháp chưa từng thấy trong lịch sử triết học trước Mác. Đó không chỉ
là tiền đề cho bước phát triển tiếp theo của triết học mà còn đóng vai trò là cơ
sở lý luận, phương pháp luận cho việc nghiên cứu và phát triển các môn khoa
học khác.
Như vậy, triết học của Hêghen đã trở thành điểm nhấn trong lịch sử triết
học nói chung và triết học cổ điển Đức nói riêng. Song, do những hạn chế về các
điều kiện của lịch sử, về lập trường giai cấp nên quan niệm về mâu thuẫn của
ông cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Hêghen đã có những kết
luận mâu thuẫn, không nhất quán và trái với các nguyên tắc xuất phát của mình.
Ông đưa ra chủ trương giải quyết mâu thuẫn bằng con đường điều hòa, thỏa hiệp
chứ không phải bằng đấu tranh của các mặt đối lập. Dù đã phê phán mạnh mẽ
25