Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

nghiên cứu thành phần loài bộ cá chép (cypriniformes) ở các thủy vực nội địa tỉnh khánh hoà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.1 MB, 78 trang )

Bĩ GIAẽO DUC VAè AèO TAO
AI HOĩC HU
TRặèNG AI HOĩC Sặ PHAM
HOAèNG THậ KHAẽNH THANH
NGHIN CặẽU THAèNH PHệN LOAèI
Bĩ CAẽ CHEẽP (CYPRINIFORMES)
CAẽC THUY VặC NĩI ậA TẩNH
KHAẽNH HOèA
Chuyón ngaỡnh: ĩNG VT HOĩC
Maợ sọỳ: 60 42 10
LUN VN THAC Sẫ SINH HOĩC
Ngổồỡi hổồùng dỏựn khoa hoỹc:
PGS.TS. VOẻ VN PHUẽ
Huóỳ, nm 2013
LI CAM OAN
i
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung
thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa được
công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả
Hoàng Thị Khánh Thanh
ii
Đầu tiên tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến sự hướng dẫn tận
tình của thầy giáo - PGS.TS Võ Văn Phú.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu; phòng Đào tạo
Sau Đại học - trường Đại học Đại học Sư phạm – Đại học Huế, Bộ
môn Tài nguyên Sinh học và Môi trường - Trường Đại học Khoa học
– Đại học Huế đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong
quá trình học tập và thực hiện đề tài. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Sinh học - Trường ĐHSP


Huế đã hết lòng giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho chúng tôi
trong thời gian được học tập tại trường.
Chân thành cảm ơn UBND tỉnh Khánh Hòa; Chi cục Thống kê
tỉnh Khánh Hoà; Ngư dân Thị xã Ninh Hòa, TP Nha Trang, huyện
Khánh Sơn, huyện Diên Khánh và huyện Khánh Vĩnh đã tạo điều
kiện và giúp đỡ chúng tôi trong thời gian thu mẫu và lấy số liệu
thực hiện đề tài.
Vô cùng biết ơn gia đình và bạn bè đã không ngừng ủng hộ,
động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do kiến thức cũng như năng lực
còn hạn chế, nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và quý độc giả.
Xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 10 năm 2013
Tác giả
Hoàng Thị Khánh Thanh
iii
iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
MỤC LỤC 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
DANH MỤC CÁC BẢNG 5
Trang5
5
DANH MỤC CÁC HÌNH 6
MỞ ĐẦU 6

Chương 1 7
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁ Ở CÁC THỦY VỰC NỘI ĐỊA 8
1. 1. Tình hình nghiên cứu cá nội địa ở Việt Nam 8
1.2. Tình hình nghiên cứu cá nội địa ở Khánh Hòa 13
Chương 2 15
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI TỈNH KHÁNH HÒA 15
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN 15
2.1.1. Vị trí địa lý 15
2.1.2. Đặc điểm địa hình 15
2.1.3. Đặc điểm khí hậu 16
2.1.4. Đặc điểm sông ngòi 18
2.1.5. Tài nguyên sinh vật 18
2.2. ĐẶC ĐIỂM XÃ HỘI 19
2.2.1. Dân số 19
2.2.2. Kinh tế 19
2.2.2.1. Công nghiệp 19
2.2.2.2.Thương mại, dịch vụ 20
2.2.2.3. Nông - lâm - thủy sản 20
2.2.3. Y tế, giáo dục, văn hóa 20
Chương 3 22
ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM 22
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 22
3.2. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 22
3.3. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU 22
3.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 24
3.3.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa 24
1
3.3.1.1. Phương pháp thu thập mẫu cá 24
3.3.1.2. Xử lý và bảo quản mẫu 24

3.3.1.3. Điều tra, phỏng vấn ngư dân và nhân dân địa phương khu vực nghiên cứu
24
3.3.2. Trong phòng thí nghiệm 25
3.3.2.1. Phân tích các chỉ tiêu hình thái 25
3.3.2.2. Định loại các loài cá 26
3.2.2.3. Xác định thành phần thức ăn 26
3.3.3. Đánh giá mối quan hệ thành phần loài 26
3.3.4. Các phương pháp áp dụng trong xử lý số liệu, sơ đồ, biểu đồ: 27
Chương 4 28
ĐẶC ĐIỂM THÀNH PHẦN LOÀI 28
BỘ CÁ CHÉP (CYPRINIFORMES) 28
Ở CÁC SÔNG CHÍNH THUỘC TỈNH KHÁNH HÒA 28
4.1. DANH LỤC THÀNH PHẦN CÁC LOÀI CÁ 28
4.2. CẤU TRÚC THÀNH PHẦN LOÀI 31
4.3. CÁC NHÓM ƯU THẾ 35
4.4. CÁC LOÀI CÁ CÓ GIÁ TRỊ KINH TẾ 36
4.5. CÁC LOÀI CÁ NHẬP NỘI 38
Chương 5 40
ĐA DẠNG SINH HỌC 40
THÀNH PHẦN LOÀI BỘ CÁ CHÉP (CYPRINIFORMES) 40
Ở CÁC SÔNG CHÍNH THUỘC TỈNH KHÁNH HÒA 40
5.1. ĐẶC TRƯNG ĐA DẠNG THÀNH PHẦN LOÀI 41
5.2. ĐẶC TRƯNG ĐA DẠNG VỀ CÁC NHÓM SINH THÁI CÁ 45
5.2.1. Nhóm sinh thái theo môi trường sống 45
5.2.1.1. Nhóm cá phân bố ở các sông suối chảy qua khu vực miền núi 45
5.2.1.2. Nhóm cá phân bố ở các sông chảy qua khu vực đồng bằng 46
5.2.2 Nhóm sinh thái theo dinh dưỡng 47
5.2.2.1. Nhóm cá ăn thực vật 48
5.2.2.2. Nhóm cá ăn động vật 48
5.1.2.3. Nhóm cá ăn tạp 49

5.3. QUAN HỆ GIỮA THÀNH PHẦN LOÀI BỘ CÁ CHÉP (CYPRINIFORMES) Ở
KHU HỆ KHÁNH HÒA VỚI MỘT SỐ KHU HỆ KHÁC 49
Chương 6 53
TÌNH HÌNH KHAI THÁC VÀ BẢO TỒN 53
NGUỒN LỢI CÁ NƯỚC NGỌT Ở TỈNH KHÁNH HÒA 53
6.1 TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGUỒN LỢI 53
6.1.1. Tình hình khai thác 53
6.1.1.1. Ngư cụ 53
6.1.1.2. Đối tượng khai thác 53
6.1.1.3. Sản lượng đánh bắt 54
6.1.2. Nuôi thả 54
6.1.3. Những nguyên nhân chính tác động đến nguồn lợi 55
2
6.2. ĐỀ XUẤT CÁC NHÓM GIẢI PHÁP BẢO VỆ NGUỒN LỢI 56
6.2.1. Khai thác hợp lí 56
6.2.2. Nuôi thả 56
6.2.3. Quản lý tổng hợp 57
6.2.4. Tuyên truyền, giáo dục, thi hành pháp luật 57
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 58
1. KẾT LUẬN 58
2. KIẾN NGHỊ 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO 60
PHỤ LỤC
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Stt Viết tắt Viết đầy đủ
1
ĐVKXS Động vật không xương sống
2 KVNC Khu vực nghiên cứu
3 NXB Nhà xuất bản

4 PRA
Điều tra nông thôn có sự tham gia của cộng đồng
(Participatory Rural Appriral)
5 RRA
Điều tra nhanh nông thôn
(Rapid Rural Appriral)
6 S (Sorencen) Hệ số gần gũi, tương quan thành phần loài
7 Stt Số thứ tự
8 TP Thành phố
4
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Bảng thống kê số giờ nắng các tháng trong năm 2012 ở Khánh Hòa 17
Bảng 2.2. Bảng thống kê lượng mưa các tháng trong năm 2012 ở Khánh Hòa 17
Bảng 2.3. Bảng thống kê nhiệt độ các tháng trong năm 2012 ở Khánh Hòa 17
Bảng 2.4. Bảng thống kê độ ẩm các tháng trong năm 2012 ở Khánh Hòa 18
Bảng 4.1. Danh lục thành phần loài bộ cá Chép (Cyprinformes) 28
ở các sông chính thuộc tỉnh Khánh Hòa 28
Bảng 4.2. Số lượng các giống và loài của bộ cá Chép (Cypriniformes) 32
ở các sông chính thuộc tỉnh Khánh Hòa 32
Bảng 4.3. Số lượng các giống và loài của bộ cá Chép (Cypriniformes) 34
ở sông Dinh, tỉnh Khánh Hòa 34
Bảng 4.4. Số lượng các giống và loài của bộ cá Chép (Cypriniformes) 34
ở sông Cái, tỉnh Khánh Hòa 34
Bảng 4.5. Số lượng các giống và loài của bộ cá Chép (Cypriniformes) 35
ở sông Tô Hạp, tỉnh Khánh Hòa 35
Bảng 4.6. Tính đa dạng của taxon bậc họ của bộ cá Chép (Cypriniformes) 35
ở các sông chính thuộc tỉnh Khánh Hòa 35
Bảng 4.7. Các loài cá có giá trị kinh tế thuộc bộ cá Chép (Cypriniformes) 37
ở các sông chính của tỉnh Khánh Hòa 37

Bảng 4.8. Các loài cá nhập nội thuộc bộ cá Chép (Cypriniformes) 39
ở các sông chính của tỉnh Khánh Hòa 39
Bảng 5.1. Tỷ lệ chênh lệch các bậc taxon trong bộ cá Chép (Cypriniformes) 41
của các khu hệ cá trong tỉnh Khánh Hòa 41
Bảng 5.2. Tỷ lệ chênh lệch các bậc taxon trong bộ cá Chép (Cypriniformes) 43
của một số khu hệ cá trong nước 43
Bảng 5.3. Kết quả phân tích thành phần thức ăn chính trong dạ dày của 20 loài trong bộ cá
Chép (Cypriniformes) ở các sông chính thuộc tỉnh Khánh Hòa 47
Bảng 5.4. Số loài chung và hệ số gần gũi của thành phần loài 50
bộ cá Chép (Cypriniformes) ở khu hệ cá sông Cái so với một số khu hệ cá khác 50
Bảng 6.1. Số lượng ngư cụ ở các con sông chính thuộc tỉnh Khánh Hòa 53
5
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1. Sơ đồ các vùng thu mẫu ở các con sông chính thuộc tỉnh Khánh Hòa 23
Hình 3.2. Sơ đồ chỉ dẫn các số đo ở cá của W.J.Rainboth (1996) 25
Hình 4.1. Biểu đồ số lượng các giống và loài 32
trong bộ cá Chép (Cypriniformes) ở các sông chính thuộc tỉnh Khánh Hòa 32
Hình 4.2. Biểu đồ tỷ lệ (%) số giống của bộ cá Chép (Cypriniformes) 33
ở các sông chính thuộc tỉnh Khánh Hòa 33
Hình 4.3. Biểu đồ tỷ lệ (%) số loài của bộ cá Chép (Cypriniformes) 33
ở các sông chính thuộc tỉnh Khánh Hòa 33
Hình 4.4. Biểu đồ tỉ lệ (%) số loài của taxon bậc giống 36
của bộ cá Chép (Cypriniformes) ở các sông chính thuộc tỉnh Khánh Hòa 36
Hình 5.1. Biểu đồ so sánh tỷ lệ chênh lệch các bậc taxon 42
trong bộ cá Chép (Cypriniformes) của các khu hệ cá trong tỉnh Khánh Hòa 42
Hình 5.2. Biểu đồ so sánh tỷ lệ chênh lệch các bậc taxon 44
trong bộ cá Chép (Cypriniformes) ở một số khu hệ cá trong nước 44
Hình 5.3. Biểu đồ hệ số gần gũi giữa thành phần loài 52
bộ cá Chép (Cypriniformes) ở khu hệ sông Cái với một số khu hệ cá khác 52

MỞ ĐẦU
6
Việt Nam có tính đa dạng về thành phần loài cá nói chung, các loài cá nội địa
nói riêng. Trong đó bộ cá Chép (Cypriniformes) là một trong 5 bộ cá quan trọng
nhất ở nước ta với số lượng loài phong phú. Tính đến này bộ cá Chép
(Cypriniformes) có khoảng 327 loài thuộc 100 giống nằm trong 4 họ khác nhau [9].
Khánh Hòa là một tỉnh thuộc duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam, được
mệnh danh là “xứ sở trầm hương”, có bờ biển trải dài với nhiều danh lanh lam
thắng cảnh đẹp, là địa điểm du lịch lí trưởng với du khách trong và ngoài nước.
Khánh Hòa nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, song được thiên nhiên ưu đãi nên
so với các tỉnh, thành phía Bắc từ đèo Cả trở ra và phía Nam từ ghềnh Đá Bạc trở
vào thì khí hậu Khánh Hòa tương đối ôn hòa hơn. Bên cạnh đó, Khánh Hòa có
mạng lưới sông suối khá dày phân bố đều khắp trong cả tỉnh. Hầu hết các dòng
sông đều ngắn và dốc. Có hai dòng sông lớn nhất tỉnh là sông Cái và sông Dinh.
Ngoài ra, còn có rất nhiều thủy vực nội địa khác như: ao, hồ, đồng ruộng,…Với
điều kiện như vậy nên Khánh Hòa khá đa dạng về nguồn lợi cá nước ngọt, trong đó
nhiều loài có giá trị kinh tế, đặc biệt là các loài thuộc bộ cá Chép (Cypriniformes).
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về nguồn lợi cá nước ngọt ở các thủy vực nội địa Khánh
Hòa chưa được quan tâm đúng mức. Bên cạnh đó, do sức ép về dân số và nhu cầu
thực phẩm, nên gần đây cá ở các thủy vực nội địa Khánh Hòa đang bị khai thác quá
mức làm suy giảm đa dạng sinh học. Mặc dù vậy, cho đến nay chưa có một công
trình nghiên cứu nào đề cập đến thành phần loài cá của toàn tỉnh để từ đó đề xuất
một số biện pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: " Nghiên cứu
thành phần loài bộ cá Chép (Cypriniformes) ở các thủy vực nội địa tỉnh Khánh
Hoà” trong luận văn thạc sĩ sinh học của mình. Tuy nhiên do giới hạn của một đề
tài nên chúng tôi chỉ nghiên cứu thành phần loài bộ cá Chép (Cypriniformes) ở các
con sông chính trong tỉnh như: sông Dinh, sông Cái, sông Tô Hạp.
Mặc dù đề tài nhận được sự hướng dẫn tận tình của quý thầy, cô nhưng do kinh
nghiệm của bản thân còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng

tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ quý thầy cô và độc giả gần xa.
Chương 1
7
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁ Ở CÁC THỦY VỰC NỘI ĐỊA
1. 1. Tình hình nghiên cứu cá nội địa ở Việt Nam
Tình hình nghiên cứu cá ở các thủy vực nội địa nước ta được đề cập từ rất sớm,
có thể chia thành các giai đoạn:
Thời kỳ trước 1945, các công trình nghiên cứu chủ yếu do các tác giả người
nước ngoài thực hiện. Công trình đầu tiên có thể kể đến là của H.E. Sauvage (1881)
trong tác phẩm “Nghiên cứu về khu hệ cá Á Châu và mô tả một số loài mới ở Đông
Dương”. Tác giả đã thống kê 139 loài chung cho toàn Đông Dương và mô tả 2 loài
mới ở miền Bắc Việt Nam. G.Tirant (1929) đã công bố thành phần loài và mô tả 70
loài cá ở sông Hương (Huế) trong đó có 5 loài mới mà ông đã thu thập mẫu vật từ
năm 1883. Năm 1884, H. E. Sauvage thu được 10 loài cá ở sông Hồng (Hà Nội),
trong đó có 7 loài mới; L.Vaillant (1891) thu thập 6 loài, mô tả 4 loài mới ở Lai
Châu. Năm 1937, một công trình tổng hợp về cá nước ngọt miền Bắc Việt Nam của
P. Chevey và J. Lemason: "Góp phần nghiên cứu các loài cá nước ngọt miền Bắc
Việt Nam" đã giới thiệu 98 loài trong 71 giống, 17 họ và 10 bộ cá nước ngọt ở miền
Bắc [3], [47]. Các mẫu chuẩn trong thời kỳ này phần lớn lưu trữ tại viện bảo tàng
Paris và việc nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ mô tả, thống kê thành phần
loài, còn nghiên cứu về nguồn lợi chưa được thực hiện.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), việc nghiên
cứu phân loại cá bị gián đoạn. Sau hiệp định Gernever 1954, miền Bắc được hoàn
toàn giải phóng, miền Nam tiếp tục kháng chiến chống Mỹ, công tác nghiên cứu cá
lại được tiếp tục do chính các nhà khoa học Việt Nam tiến hành nhưng tập trung
chủ yếu ở miền Bắc. Nhiều công trình nghiên cứu về khu hệ, sinh học, sinh thái cá
và nguồn lợi thủy sản được công bố.
Sau ngày hòa bình lập lại (1954 – 1975), ở miền Bắc có các công trình tiêu
biểu của các tác giả như: Đào Văn Tiến và Mai Đình Yên (1959): “Dẫn liệu sơ bộ
ngư giới sông Bôi” và “Dẫn liệu sơ bộ ngư giới Ngòi Thia” (1960); Đào Văn Tiến,

Đặng Ngọc Thanh, Mai Đình Yên (1961): “Điều tra nguồn lợi sinh vật hồ Tây”;
Mai Đình Yên (1962): “Sơ bộ điều tra thành phần, nguồn gốc và phân bố của chủng
8
quần cá sông Hồng”; Nguyễn Văn Hảo (1964): “Dẫn liệu nguồn lợi cá hồ Ba Bể”;
Hoàng Duy Hiệp, Nguyễn Duy Hảo (1964): “Kết quả điều tra nguồn lợi cá sông
Thao”; Mai Đình Yên (1966): “Đặc điểm sinh học một số loài cá ruộng ở đồng
bằng miền Bắc Việt Nam”; Đoàn Lệ Hoa, Phạm Văn Doãn (1971): “Sơ bộ điều tra
nguồn lợi cá sông Mã”; P. Bananescu (1967, 1970, 1971): “Nghiên cứu phân họ cá
Mương (Cultrinae)”.
Miền Nam cũng có những công trình nghiên cứu của cán bộ khoa học Việt
Nam phối hợp với người nước ngoài thực hiện như: Trần Ngọc Lợi và Nguyễn
Cháu (1964); Fourmanoir (1965); M.Yamamura (1966); N.Kawamoto, Nguyễn Viết
Trương và Trần Tuý Hoa (1972) [52]; Y.Taki (1975) [55],…
Sau năm 1975, nhiều công trình nghiên cứu về thành phần loài cũng như đặc
điểm sinh học đã được triển khai nên đã lấp dần các điểm trắng chưa được điều tra.
Ở miền Bắc, Mai Đình Yên (1978) đã thông kê danh mục, mô tả chi tiết, lập khóa
định loại, đặc điểm phân bố và giá trị kinh tế của 201 loài cá nước ngọt ở các tỉnh
miền Bắc nước ta trong tác phẩm: “Định loại cá nước ngọt ở các tỉnh miền Bắc Việt
Nam” [46]. Nguyễn Thái Tự (1999): “Khu hệ cá Phong Nha” (72 loài). Những năm
gần đây có các công trình của Nguyễn Thị Hoa (2008): “Điều tra thành phần loài cá
tự nhiên lưu vực sông Đà, Mường Tè, Lai Châu” đã xác định trong 63 loài của khu
hệ, bộ cá Chép có số loài nhiều nhất với 41 loài (chiếm 66%). Đây là khu hệ thuộc
đầu nguồn của sông Đà, cá ở đây mang đặc trưng của cá miền núi nên bộ cá Chép
chiếm ưu thế [11]; Tạ Thị Thủy, Đỗ Văn Nhượng, Trần Đức Hậu, Nguyễn Xuân
Huấn (2011): “Thành phần loài và phân bố các loài cá ở sông Ba Chẽ thuộc địa
phận tỉnh Quảng Ninh”. Tác giả đã xác định trong 123 loài, bộ cá Chép chỉ có 29
loài (chiếm 23,6%). Khu hệ này chủ yếu ở đồng bằng, vùng cửa sông có biên độ
triều cao và hình thành những bãi triều rộng nên các loài cá nước mặn và nước lợ
ưu thế hơn [43].
Các công trình nghiên cứu về khu hệ cá ở miền Nam có công bố của Mai Đình

Yên, Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Thiện, Lê Hoàng Yến, Hứa Bạch Loan
(1992): “Thành phần loài cá sông: sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Cỏ, sông Sài
Gòn và sông Đồng Nai” (225 loài); Mai Đình Yên và cộng sự (1992) với tác phẩm
9
“Định loại các loài cá nước ngọt Nam Bộ” đã mô tả, lập khóa định loại 255 loài cá
ở Nam Bộ Việt Nam [49]. Đây được xem là công trình đầy đủ nhất về cá nước ngọt
miền Nam Việt Nam ở vào cuối thế kỷ XX; Trương Thủ Khoa, Trần Thị Thu
Hương (1993): “Định loại cá nước ngọt vùng đồng bằng sông Cửu Long” đã mô tả
173 loài, trong đó bộ cá Chép có 48 loài [13]. Những năm gần đây có công trình của
Tống Xuân Tám (2007), “Nghiên cứu thành phần loài cá ở hồ Dầu Tiếng” xác định
có 111 loài, trong đó có 41 loài thuộc bộ cá Chép (chiếm 36,9%). Hồ Dầu Tiếng là
thủy vực nước ngọt điển hình nên bộ cá Chép chiếm ưu thế [39]; Đinh Minh Quang
(2008), “Dẫn liệu bước đầu về thành phần loài cá trên sông Hậu thuộc địa phận An
Phú – An Giang” xác định trong 146 loài, bộ cá Chép có 47 loài (chiếm 32,2%).
Đây là thủy vực nước ngọt điển hình nên bộ cá Chép chiếm ưu thế [37]; Đinh Minh
Quang, Phạm Ngọc Thoa, Nguyễn Thị Lệ Kha (2009): “ Dẫn liệu bước đầu về
thành phần loài cá khu vực sông Cổ Chiên và sông Hàm Luông trên địa bàn huyện
Mỏ Cày – tỉnh Bến Tre” [38]; Nguyễn Hữu Dực và Tống Xuân Tám (2012):
“Nghiên cứu về thành phần loài, đặc điểm phân bố và tình hình nguồn lợi cá ở lưu
vực sông Sài Gòn” xác định trong 264 loài có 72 loài thuộc bộ cá Chép (chiếm
27,3%) [40].
Ở vùng nước ngọt miền Trung, Tây Nguyên đã có một số công bố của: Dương
Tuấn (1979): “Đặc điểm, thành phần loài khu hệ cá đầm Châu Trúc” (39 loài);
Nguyễn Hữu Dực (1983): “Thành phần loài cá sông Hương” (58 loài); Nguyễn Thái
Tự (1985): “Khu hệ cá sông Lam” (157 loài); Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Hữu Dực
(1994): “Thành phần loài ở một số sông suối của Tây Nguyên” (82 loài); Mai Đình
Yên, Nguyễn Hữu Dực (1994), “Thành phần loài cá và sự phân bố các loài cá nước
ngọt ở các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ” [50]; Nguyễn Hữu Dực (1995) đã công bố
134 loài cá thuộc hệ cá Nam Trung Bộ, nhưng chưa được xem là đầy đủ [6]; Võ
Văn Phú (1995): “Khu hệ cá và đặc điểm sinh học của 10 loài cá kinh tế ở đầm phá

Thừa Thiên Huế” [17]; Võ Văn Phú (1997): “Thành phần cá loài cá ở đầm phá
Thừa Thiên Huế” (163 loài) [18]; Vũ Trung Tạng (1999): “Thành phần loài cá đầm
Trà Ồ” (67 loài); Nguyễn Thị Thu Hè (2000): “Thành phần loài cá ở sông suối Tây
Nguyên” xác định trong 160 loài, bộ cá Chép có 107 loài (chiếm 67%). Cá tự nhiên
10
ở khu hệ này mang đặc trưng của cá miền núi nên bộ cá Chép có số loài nhiều nhất
[10]; Võ Văn Phú, Trần Hồng Đỉnh (2000): “Thành phần loài cá ở đầm Lăng Cô”
(151 loài) [20]; Nguyễn Văn Hảo (2001) đã xuất bản tập I cuốn sách “Cá nước ngọt
Việt Nam” dành cho họ cá Chép (Cyprinidae) thuộc bộ cá Chép (Cypriniformes)
với 11 phân họ, 103 giống, 315 loài và phân loài [8]; Võ Văn Phú, Nguyễn Thị Thu
Hà (2009): “Đa dạng sinh học về thành phần loài cá ở hồ thủy điện Yaly (Gia Lai -
Kon Tum)” đã xác định trong 98 loài, bộ cá Chép có đến 55 loài (chiếm 57,89%). Ở
khu hệ này bộ cá Chép chiếm ưu thế vì hồ Yaly là hồ nước ngọt ở khu vực Tây
Nguyên, mang đặc trưng của khu hệ cá miền núi [7]; Võ Văn Phú, Nguyễn Thị Phi
Loan, Hồ Thị Hồng (2003): “Đa dạng thành phần loài cá ở đầm Ô Loan, tỉnh Phú
Yên” (109 loài) [22]; Võ Văn Phú, Vũ Thị Phương Anh (2004): “Thành phần loài
cá ở hồ Phú Ninh, Quảng Nam”. Hồ Phú Ninh là thủy vực hoàn toàn nước ngọt nên
ở khu hệ này bộ cá Chép có số loài nhiều nhất. Tác giả đã xác định trong 71 loài, bộ
cá Chép có đến 67 loài (chiếm 58,77%) [23]; Võ Văn Phú và nnk (2004): “Đa dạng
sinh học động vật Vườn Quốc gia Bạch Mã” đã xác định trong 57 loài cá, bộ cá
Chép có đến 31 loài (chiếm 54,38%). Các thủy vực ở Vườn Quốc Gia Bạch Mã là
các khe suối miền núi nên số loài trong bộ cá Chép nhiều nhất [25]; Nguyễn Văn
Hảo (2005) xuất bản tập II cuốn sách “Cá nước ngọt Việt Nam”, trong tác phẩm đã
phân loài và mô tả những loài thuộc lớp cá Sụn (Chondrichthyes) và bốn liên bộ cá
Xương (Osteichthyes): Liên bộ cá Thát lát (Osteoglossomorpha), liên bộ cá Trích
(Clupeomorpha), liên bộ cá Cháo (Elopomorpha) và liên bộ cá Chép
(Cyprinomorpha) với 331 loài và phân loài thuộc 109 giống, 34 họ, 10 bộ [9]; Võ
Văn Phú, Vũ Thị Phương Anh và Nguyễn Ngọc Hoàng Tân (2005): “Dẫn liệu bước
đầu về thành phần loài cá ở sông Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam” (83 loài) [26]; Võ Văn
Phú, Phan Đỗ Quốc Hùng (2005): “Đa dạng sinh học cá sông Hương, tỉnh Thừa

Thiên Huế”. Sông Hương là thủy vực nước ngọt điển hình nên bộ cá Chép khá đa
dạng về loài. Bộ cá Chép có 38 loài (chiếm 31,4%) trong tổng số 121 loài [27]; Võ
Văn Phú, Hồ Thị Thanh Tâm (2006): “Thành phần loài khu hệ cá sông Hàn, thành
phố Đà Nẵng” (108 loài) [28]; Võ Văn Phú, Nguyễn Vinh Hiển (2007): “Thành
phần loài cá ở sông Bến Hải” đã xác định có 100 loài, trong đó bộ cá Chép có 30
11
loài (chiếm 30%); Võ Văn Phú và Nguyễn Thanh Đăng (2008): “Đa dạng thành
phần loài cá hệ thống sông Truồi, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế”. Sông
Truồi mang đặc điểm của một hệ sinh thái nước ngọt nên số loài bộ cá Chép tương
đối nhiều, đã xác định trong tổng số 105 loài, bộ cá Chép có 30 loài (chiếm 28,57%)
[31]; Võ Văn Phú, Nguyễn Duy Thuận (2009): “Thành phần loài cá ở hệ thống sông
Ô Lâu ( Quảng Trị - Thừa Thiên Huế)” đã xác định trong 109 loài, bộ cá Chép có
47 loài (chiếm 43,12%). Hệ thống sông Ô Lâu có diện tích lưu vực nước ngọt chiếm
phần lớn nên số loài bộ cá Chép phong phú nhất [32]; Vũ Thị Phương Anh, Võ Văn
Phú (2010): “Nghiên cứu khu hệ cá sông Thu Bồn - Vu Gia, tỉnh Quảng Nam”. Hệ
thống sông Thu Bồn – Vu Gia có diện tích lưu vực nước ngọt khá lớn nên số loài bộ
cá Chép nhiều nhất. Các tác giả đã xác định trong tổng số 197 loài, bộ cá Chép có
82 loài (chiếm 41,62%) [1]; Nguyễn Minh Ty (2010): “Nghiên cứu khu hệ cá sông
Ba” đã xác định trong tổng số 182 loài, bộ cá Chép có số loài nhiều nhất với 66 loài
(chiếm 36,26%). Hệ thống sông Ba có một phần lưu vực nằm ở miền núi tương đối
dài nên bộ cá Chép chiếm ưu thế [45]; Võ Văn Phú và cộng sự (2011): “Nghiên cứư
đánh giá hiện trạng môi trường các hệ sinh thái thuỷ sinh đầm phá Tam Giang - Cầu
Hai, những tác động các công trình trên dòng chính sau thực hiện quy hoạch đến
điều kiện tự nhiên môi trường vùng đầm phá và đề xuất biện pháp giảm thiểu” (199
loài, thuộc 106 giống của 17 bộ); Võ Văn Phú và Trần Đại Nghĩa (2011): “Nghiên
cứu khu hệ cá sông Roòn, tỉnh Quảng Bình” đã xác định có 135 loài trong đó bộ cá
Chép chỉ có 23 loài (chiếm 17,04%). Ở khu hệ này cá nước lợ và cá nước mặn
chiếm ưu thế hơn chứng tỏ tính mặn hóa của hệ thống sông này [16]; Võ Văn Phú
và Nguyễn Giang Nam (2011): “Nghiên cứu thành phần loài cá ở sông Long Đại,
tỉnh Quảng Bình” đã xác định trong 101 loài, bộ cá Chép có 39 loài (chiếm 38,61%)

[15]; Võ Văn Phú, Phạm Thanh Hà, Mai Thị Thảo Nhi (2012): “Cấu trúc thành
phần loài cá ở hạ lưu sông Hiếu, tỉnh Quảng Trị” xác định trong 119 loài, bộ cá
Chép có 36 loài (chiếm 21,18% ). Đây là khu vực hạ lưu nên ưu thế thuộc về bộ cá
Vược [34]. Võ Văn Phú, Lê Thị Thu Phương (2012): “Nghiên cứu khu hệ cá sông
Gianh, tỉnh Quảng Bình” xác định trong 157 loài, bộ cá Chép có 30 loài (chiếm
19,11%). Diện tích lưu vực nước ngọt ở sông Gianh không nhiều nên khu hệ này
12
nên số loài bộ cá Chép ít hơn bộ cá Vược [35]; Võ Văn Phú, Hoàng Đình Trung,
Nguyễn Hoàng Diệu Minh (2012): “Dẫn liệu bước đầu về thành phần loài cá ở vùng
rừng Cao Muôn, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi” xác định trong 73 loài, bộ cá Chép
có 37 loài (chiếm 50,64%). Đây là khu hệ ở miền núi nên bộ cá Chép chiếm tỉ lệ
cao [33]; Võ Văn Phú (2013): “Nghiên cứu thành phần loài cá ở khu bảo tồn Phong
Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế” đã xác định trong 66 loài, bộ cá Chép có 36 loài (chiếm
55,6%). Khu bảo tồn Phong Điền nằm ở khu vực miền núi nên các thủy vực nơi đây
mang đặc điểm của hệ sinh thái nước ngọt điển hình. Chính vì vậy, ở khu hệ này bộ
cá Chép chiếm ưu thế.
Nghiên cứu về đặc trưng phân bố các loài cá và đặc điểm địa động học cá
nước ngọt Việt Nam có các tác giả Mai Đình Yên (1983), Nguyễn Thái Tự (1983,
1997, 1998); Mai Đình Yên và Nguyễn Hữu Dực (1991); Võ Văn Phú (1995, 1997,
1999, 2000); Nguyễn Thị Thu Hè (2000); Nguyễn Thái Tự và Lê Viết Thắng (2000,
2002),… [41].
1.2. Tình hình nghiên cứu cá nội địa ở Khánh Hòa
Khánh Hòa là một tỉnh thuộc duyên hải Nam Trung Bộ, nằm trong khu vực
nhiệt đới gió mùa, khí hậu tương đối ôn hòa, sinh vật đa dạng và phong phú. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu khoa học ở khu vực này chưa được quan tâm đầy đủ nên
chưa có đánh giá chính thức về sự đa dạng sinh học.
Riêng với việc nghiên cứu cá ở thủy vực nội địa tỉnh Khánh Hòa đã được tiến
hành khá sớm và đã có công trình của: Nguyễn Hữu Dực (1995) công bố sông Cái
có 25 loài, trong đó bộ cá Chép có 13 loài (chiếm 52%) [6]. Gần đây, các công trình
nghiên cứu về cá vẫn đang được tiếp tục đẩy mạnh. Tuy nhiên, chỉ mới tập trung

nghiên cứu đặc tính sinh học của một số loài cá đặc trưng, có các công trình như: Cao
Xuân Dũng (2010) với “ Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học sinh sản của cá
Ngạnh ở Khánh Hòa”; Mai Như Thủy (2011): “Thành phần thức ăn tự nhiên của cá
đục bạc (Sillago sihama forskal, 1775) ở Khánh Hòa”. Ngoài ra, chỉ nghiên cứu cá ở
khu vực cửa biển, đầm phá như gần đây có công trình của Trần Văn Phước (2011)
“Hiện trạng nguồn lợi thủy sản khai thác bằng nò sáo tại đầm Nha Phu thuộc thôn
Tân Đảo, tỉnh Khánh Hòa” đã thu thập và xác định thành phần loài thủy sản bằng
13
phương pháp so sánh hình thái. Qua đó thấy được thành phần loài thủy sản khai
thác bằng nò sáo rất đa dạng, trong đó xác định có 55 loài cá. Bộ cá Vược
(Perciformes) chiếm ưu thế nhất gồm 33 loài (52,38%).
Ngoài ra, chưa tìm thấy công trình nghiên cứu nào chuyên sâu về thành phần
loài cá ở các hệ thống sông, suối,… nhất là ở khu vực miền núi
14
Chương 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI TỈNH KHÁNH HÒA
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
2.1.1. Vị trí địa lý
Khánh Hòa là một tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam có diện tích tự
nhiên là 5.217,6 km
2
[5]. Khánh Hòa có hình dạng thon hai đầu và phình ra ở giữa,
ba mặt là núi và một mặt giáp biển. Phía Bắc giáp tỉnh Phú Yên, điểm cực Bắc:
12
0
52'15'' vĩ độ Bắc. Phía Nam giáp tỉnh Ninh Thuận, điểm cực Nam: 11
0
42' 50'' vĩ
độ Bắc. Phía Tây giáp tỉnh Đăk Lắk, Lâm Đồng, điểm cực Tây: 108
0

40’33'' kinh độ
Đông. Phía Đông giáp biển Đông, điểm cực Đông: 109
0
27’55'' kinh độ Đông tại
mũi Hòn Đôi trên bán đảo Hòn Gốm, huyện Vạn Ninh, đây cũng chính là điểm cực
Đông trên đất liền của nước Việt Nam [57].
Ngoài phần lãnh thổ trên đất liền, tỉnh Khánh Hòa còn có vùng biển rộng
lớn. Bên trên phần đất liền và vùng lãnh hải là không phận của tỉnh Khánh Hòa. Bờ
biển dài 385km, có khoảng 200 hòn đảo lớn nhỏ ven bờ và các đảo san hô trong
quần đảo Trường Sa [57].
Vị trí địa lý của Khánh Hòa có ảnh hưởng lớn đến các yếu tố tự nhiên khác
như: khí hậu, đất trồng, sinh vật. Ngoài ra còn có ý nghĩa chiến lược về mặt quốc
phòng vì tỉnh Khánh Hòa nằm gần đường hàng hải quốc tế, có huyện đảo Trường
Sa, cảng Cam Ranh và là cửa ngõ của Tây Nguyên thông ra biển Đông [57].
2.1.2. Đặc điểm địa hình
Khánh Hòa là một tỉnh nằm sát dãy núi Trường Sơn, đa số diện tích là núi
non, miền đồng bằng rất hẹp, chiếm chưa đến 1/10 diện tích toàn tỉnh. Miền đồng
bằng lại bị chia thành từng ô, cách ngăn bởi những dãy núi ăn ra biển. Nhìn tổng thể
địa hình có độ nghiêng chung từ Tây sang Đông và có thể chia thành ba vùng chính:
* Vùng núi và bán sơn địa: Núi ở Khánh Hòa tuy hiếm những đỉnh cao chót vót,
phần lớn chỉ trên dưới một ngàn mét nhưng gắn với dãy Trường Sơn, lại là phần
cuối phía cực Nam nên địa hình núi khá đa dạng. Phía Bắc và Tây Bắc tỉnh có vùng
núi cao thuộc dãy Vọng Phu cao hơn 1.000 m, trong đó có dãy Tam Phong gồm ba
15
đỉnh núi cao là Hòn Giữ (cao 1.264 m), Hòn Ngang (1.128 m) và Hòn Giúp
(1.127m). Dãy Vọng Phu - Tam Phong có hướng tây nam - đông bắc, kéo dài trên
60 km, tạo thành ranh giới tự nhiên của Khánh Hòà, Phú Yên, Đăk Lắk. Các núi
thuộc đoạn giữa của tỉnh thường có độ cao kém hơn, có nhiều nhánh đâm ra sát biển
tạo nên nhiều cảnh đẹp, gắn với những huyền thoại dân gian và di tích lịch sử, sự
kiện của địa phương. Đến phía Nam và Tây Nam, lại xuất hiện một vùng núi rộng,

với nhiều đỉnh núi cao trên 1.500m đến trên 2.000m, trong đó có đỉnh Hòn Giao
(2.062 m) thuộc địa phận huyện Khánh Vĩnh là đỉnh núi cao nhất Khánh Hòa [57].
* Vùng đồng bằng: Các đồng bằng lớn ở Khánh Hòa gồm có đồng bằng Nha
Trang, Diên Khánh nằm ở hai bên sông Cái với diện tích khoảng 135 km²; đồng
bằng Ninh Hòa do sông Dinh bồi đắp, có diện tích 100 km². Ngoài ra, Khánh Hòa
còn có hai vùng đồng bằng hẹp là đồng bằng Vạn Ninh và đồng bằng Cam Ranh ở
ven biển, cùng với lượng diện tích canh tác nhỏ ở vùng thung lũng của hai huyện
miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh [57].
* Vùng bờ biển và thềm lục địa: Khánh Hòa là một trong những tỉnh có đường bờ
biển đẹp của Việt Nam. Đường bờ biển kéo dài từ xã Đại Lãnh tới cuối vịnh Cam
Ranh, có độ dài khoảng 385 km tính theo mép nước với nhiều cửa lạch, đầm, vịnh,
cùng khoảng 200 đảo lớn, nhỏ ven bờ. Khánh Hòa có 6 đầm và vịnh lớn là: vịnh
Vân Phong, Nha Trang, Cam Ranh, Hòn Khói, đầm Nha Phu, Đại Lãnh. Trong đó,
nổi bật nhất vịnh Cam Ranh với chiều dài 16 km, chiều rộng 32 km, thông với biển
thông qua eo biển rộng 1,6 km, có độ sâu từ 18 – 20 m và được xem là cảng biển có
điều kiện tự nhiên tốt nhất Đông Nam Á [57].
2.1.3. Đặc điểm khí hậu
Khánh Hòa nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới xavan. Song khí hậu Khánh
Hòa có những nét biến dạng độc đáo với các đặc điểm riêng biệt. So với các tỉnh,
thành phía Bắc từ đèo Cả trở ra và phía Nam từ ghềnh Đá Bạc trở vào, khí hậu ở
Khánh Hòa tương đối ôn hòa hơn do mang tính chất của khí hậu đại dương. Thường
chỉ có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa nắng.
16
* Chế độ nắng: Mùa nắng kéo dài từ tháng 1 đến tháng 8. Số giờ nắng cả năm là
2.370 giờ. Số giờ nắng thấp nhất vào tháng 12 với 45 giờ và cao nhất vào tháng 8
với 293 giờ [5].
Bảng 2.1. Bảng thống kê số giờ nắng các tháng trong năm 2012 ở Khánh Hòa
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Giờ
nắng

80 214 113 257 286 270 274 293 192 192 154 45 2573
Nguồn: Niên giám thống kê Khánh Hòa, 2013
* Chế độ mưa: Mùa mưa ngắn, từ khoảng giữa tháng 9 đến giữa tháng 12 dương
lịch, tập trung vào 2 tháng 10 và tháng 11, lượng mưa thường chiếm trên 50%
lượng mưa trong năm. Lượng mưa cả năm là 1.326,6mm. Vào tháng 2 hầu như
không có mưa và lượng mưa cao nhất vào tháng 10 với 354,9mm [5].
Bảng 2.2. Bảng thống kê lượng mưa các tháng trong năm 2012 ở Khánh Hòa
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Lượng
mưa
(mm)
22 0 75,9 4,5 187,8 17 110,3 132 162,3 354,9 144,5 115,4 1.326,6
Nguồn: Niên giám thống kê Khánh Hòa, 2013
* Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình trong năm của Khánh Hòa khoảng 26,7 °C.
Nhiệt độ trung bình thấp nhất vào tháng 1 với 24,1
o
C và cao nhất vào tháng 6 với
28,9
o
C [5].
Bảng 2.3. Bảng thống kê nhiệt độ các tháng trong năm 2012 ở Khánh Hòa
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Nhiệt
độ
(
o
C)
24 24,7 25 26,5 28,5 28,9 28 28,6 28,7 26,9 26,4 24,4 26,7
Nguồn: Niên giám thống kê Khánh Hòa, 2013
* Độ ẩm: Độ ẩm tương đối trung bình năm là 78%. Độ ẩm tương đối trung bình

thấp nhất vào tháng 6 với 73% và cao nhất vào tháng 1 với 83% [5].
17
Bảng 2.4. Bảng thống kê độ ẩm các tháng trong năm 2012 ở Khánh Hòa
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Độ ẩm
(%)
83 81 79 78 75 73 75 76 77 83 80 77 78
Nguồn: Niên giám thống kê Khánh Hòa, 2013
2.1.4. Đặc điểm sông ngòi
Sông ngòi ở Khánh Hòa nhìn chung ngắn và dốc, cả tỉnh có khoảng 40 con
sông dài từ 10 km trở lên, tạo thành một mạng lưới sông phân bố khá dày. Hầu hết
các con sông đều bắt nguồn tại vùng núi phía Tây trong tỉnh và chảy xuống biển
phía Đông. Dọc bờ biển, cứ khoảng 5 - 7 km có một cửa sông. Các con sông lớn ở
Khánh Hòa phải kể đến: sông Cái Nha Trang, sông Dinh (hay còn gọi là sông Cái
Ninh Hòa), sông Tô Hạp (huyện Khánh Sơn) [57].
2.1.5. Tài nguyên sinh vật
Về mặt sinh thái, vịnh Nha Trang là một trong những hình mẫu tự nhiên
hiếm có của hệ thống vũng, vịnh trên thế giới bởi nó có hầu hết các hệ sinh thái điển
hình, quý hiếm của vùng biển nhiệt đới. Đó là hệ sinh thái đất ngập nước, rạn san
hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, hệ sinh thái cửa sông, hệ sinh thái đảo biển, hệ
sinh thái bãi cát ven bờ. Đặc biệt, khu vực Hòn Mun của vịnh Nha Trang có đa dạng
sinh học cao nhất với 350 loài rạn san hô chiếm 40% san hô trên thế giới [57].
Trữ lượng hải sản thuộc vùng biển Khánh Hòa ước khoảng 150 nghìn tấn,
trong đó chủ yếu là cá nổi (70%). Khả năng cho phép hàng năm khoảng 70.000 tấn.
Ngoài các hải sản như cá, mực và các loại ốc, biển Khánh Hòa còn là nơi trú ngụ
của chim yến, hàng năm cho phép khai thác khoảng 2.000 kg yến sào. Đây là một
đặc sản quý mà không phải tỉnh nào trong cả nước cũng có thể có được. Nó không
chỉ góp phần cho xuất khẩu mà còn là nguồn nguyên liệu quý cho công nghiệp chế
biến dược liệu bổ dưỡng cao cấp [57].
Diện tích rừng hiện có 186,5 nghìn ha, trong đó 64,8% là rừng sản xuất, 34%

rừng phòng hộ và 1,2% rừng đặc dụng. Rừng phòng hộ có 34%, song hầu hết là
rừng giàu ở khu vực núi cao, đầu nguồn các huyện Khánh Vĩnh, Khánh Sơn và thị
xã Ninh Hòa. Độ che phủ của rừng là 38,5%, lớn nhất là ở Khánh Vĩnh và Khánh
18
Sơn. Ngoài ra, Khánh Hòa còn có khoảng 104 ha rừng ngập mặn phân bổ rải rác ở
các vùng ven bờ vịnh Vân Phong, đầm Nha Phu, cửa sông Vĩnh Trường (Nha
Trang), đầm Thủy Triều và vịnh Cam Ranh với khoảng 34 loài cây ngập mặn [57].
Có thể nói, Khánh Hòa là một trong những trung tâm về đa dạng sinh học
rừng, bao gồm nhiều thành phần di cư từ nhiều luồng khác nhau từ Bắc vào Nam,
có cả các hệ thực vật Nam Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, trong đó có nhiều loài
bản địa quý hiếm. Theo số liệu của Viện Điều tra quy hoạch (1996), cả tỉnh có
1.035 loài thực vật thuộc 559 chi và 161 họ. Riêng Hòn Bà có 595 loài xếp trong
401 chi và 120 họ chiếm tới 57% số lượng loài thực vật của cả tỉnh. Sự phong phú
về sinh học rừng Khánh Hòa còn đặc biệt được biết đến với sự đa dạng về nguồn
gen, nổi bật trong đó là cây Dó bầu (Aquilaria crassna), loài cung cấp các sản phẩm
trầm kỳ nổi tiếng trong và ngoài nước [57].
2.2. ĐẶC ĐIỂM XÃ HỘI
2.2.1. Dân số
Dân số trung bình của toàn tỉnh (tính đến năm 2012) là 1.174.136 người,
trong đó nam có 580.455, nữ có 593.681. Thành phố Nha Trang có số dân cao nhất
với 396.066 người, thấp nhất là huyện đảo Trường Sa với 198 người. Mật độ dân số
toàn tỉnh là 225 người/km
2.
Tỉ lệ tăng tự nhiên dân số là 9,7. Toàn tỉnh có 32 dân
tộc đang sinh sống (Kinh, Raglai, Hoa, Ê-đê, Cơ-ho, một nhóm nhỏ dân tộc Tày,
Nùng, Mường, Thái, Chăm, Khmer, Thổ ) [5].
2.2.2. Kinh tế
2.2.2.1. Công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng năm 2011 tăng 15,5%; trong đó giá
trị sản xuất công nghiệp đạt 17.865 tỷ đồng, tăng 16% (vượt chỉ tiêu kế hoạch năm

2012 là 13,5%); giá trị xây dựng tăng 14,5% so năm 2011. Giá trị công nghiệp nhà
nước địa phương ước tăng 18,09%; giá trị công nghiệp ngoài quốc doanh tăng
2,57%; giá trị công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 37,77% và giá trị công
nghiệp nhà nước Trung ương giảm 7,92% so với năm 2011 [5].
Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2012 tăng cao chủ yếu là do các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và một số doanh nghiệp địa phương như: Tổng
19
Công ty Khánh Việt, Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Yến sào Khánh
Hòa [5].
2.2.2.2.Thương mại, dịch vụ
Tổng mức bán hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2012 được
68.057,47 tỷ đồng, tăng 27,80% so năm trước, trong đó bán lẻ 36.778,20 tỷ đồng,
tăng 26,61% (thành phần kinh tế nhà nước 4.353,21 tỷ đồng, tăng 8,57%; kinh tế tư
nhân 12.969 tỷ đồng, tăng 27,42%; kinh tế cá thể 19.167,66 tỷ đồng, tăng 25,75%;
kinh tế tập thể 32,04 tỷ đồng, tăng 5,88%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 256,29
tỷ đồng, tăng 11,17%). Lĩnh vực dịch vụ, du lịch ở địa phương đã duy trì và tiếp tục
phát triển; khách lưu trú được 2.180,90 nghìn lượt, tăng 18,32% với 4.604,07 nghìn
ngày khách, tăng 14,96%; trong đó ngày khách quốc tế tăng 14,29%, lượt khách
quốc tế tăng 30,46%; đã đón được chuyến tàu du lịch biển quốc tế với 37.350 khách
tham quan [5].
2.2.2.3. Nông - lâm - thủy sản
Sản lượng lương thực có hạt năm 2012 đạt khoảng 254,28 nghìn tấn, tăng
4,6%, trong đó sản lượng thóc đạt 241,14 nghìn tấn, tăng 4,39%. Sản lượng đánh
bắt thủy sản được 75.174 tấn. Giá trị sản xuất thủy sản được 1.398,5 tỷ đồng, tăng
2,03 %. Tổ chức thực hiện công tác quản lý bảo vệ rừng, trong đó tập trung thực
hiện phương án phòng chống cháy rừng [5].
2.2.3. Y tế, giáo dục, văn hóa
Giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển, số cháu vào nhà trẻ và học sinh mẫu
giáo tiếp tục tăng, tiếp cận dần đến mục tiêu huy động số cháu trong độ tuổi vào nhà
trẻ và cháu trong độ tuổi vào mẫu giáo. Công tác phổ cập giáo dục tiểu học và xóa

mù chữ được giữ vững ở 137/137 xã, phường, thị trấn. Sẽ hoàn thành phổ cập giáo
dục tiểu học đúng độ tuổi 8/8 huyện, thị xã, thành phố (125/137 xã, phường, thị
trấn). Phổ cập giáo dục THCS được duy trì ở 8/8 huyện, thị xã, thành phố; phổ cập
THPT đã được triển khai rộng rãi trong toàn tỉnh [5].
Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và phát triển; tiếp tục thực hiện chủ trương
đưa bác sĩ về công tác tại trạm y tế xã/phường. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh
dưỡng ước đạt dưới 10%; Số giường bệnh trên 10.000 dân ước đạt 25 giường [5].
20
Văn hóa: đã tổ chức các hoạt động kỷ niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, kỷ niệm ngày giải phóng tỉnh Khánh Hòa 2/4, Quốc khánh 2/9…Tổ
chức hơn 20 giải thể thao cấp tỉnh như và gần 120 giải thể thao cấp huyện. Toàn
tỉnh có 5 bảo tàng và 13 di tích quốc gia được xếp hạng. Có 9 thư viện đang hoạt
động, trong đó có 1 thư viện tỉnh và 8 thư viện huyện [5].
21
Chương 3
ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Các loài thuộc bộ cá Chép (Cypriniformes) ở một số con sông chính của tỉnh
Khánh Hòa.
3.2. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Việc nghiên cứu được tiến hành từ tháng 9/2012 đến tháng đầu tháng 10/ 2013.
- Từ tháng 09 đến tháng 10 năm 2012: thu thập số liệu, lập phiếu điều tra.
- Từ tháng 11/2012 đến tháng 07/2013:
+ Nghiên cứu thực địa: tiến hành thu mẫu theo định kỳ 1 tháng một lần/4- 6
vùng thu mẫu. Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi đã thu thập và phân tích 260
mẫu cá.
+ Phân tích số liệu và xử lý mẫu.
- Từ tháng 8/2013 đến tháng 10/2013: Hoàn thành luận văn
- Từ tháng 9 đến tháng 10/2013: Lập tiêu bản mẫu phân loại cho 20 loài thuộc

bộ cá Chép (Cypriniformes) ở các sông chính của tỉnh Khánh Hòa.
3.3. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
- Tiến hành thu mẫu cá trên các sông chính: sông Dinh, sông Cái, sông Tô Hạp.
- Trên mỗi sông sẽ tiến hành thu mẫu 4 – 6 vùng (hình 3.1), cụ thể:
+ Sông Dinh thu mẫu tại: xã Ninh Tây, xã Ninh Sim, xã Ninh Xuân, xã Ninh
Bình, phường Ninh Giang, phường Ninh Hà ( Thị xã Ninh Hòa).
+ Sông Cái thu mẫu tại: xã Khánh Bình, xã Khánh Hiệp, xã Khánh Trung,
Khánh Nam (huyện Khánh Vĩnh); xã Diên Xuân, xã Diên Thọ, xã Diên Phước, xã
Diên Lạc, xã Diên Phú (huyện Diên Khánh); xã Vĩnh Ngọc, xã Vĩnh Thạnh (TP
Nha Trang).
+ Sông Tô Hạp thu mẫu tại: xã Sơn Lâm, xã Sơn Bình, xã Sơn Trung, Thị trấn
Tô Hạp, xã Ba Cụm Nam (huyện Khánh Sơn).
22

×