Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Chứng từ kế toán ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.62 KB, 21 trang )

1
Chủ đề 8: Trình bày những yêu cầu chung về việc lập chứng
từ kế toán NH. Nêu những vụ việc làm tổn thất trong hoạt
động NH xuất phát từ chứng từ KTNH.
2

A. Cơ sở lý thuyết:
I. Lý thuyết chung về chứng từ kế toán ngân hàng
1.Khái niệm, chức năng, vai trò.
- Khái niệm: Chứng từ kế toán ngân hàng là các bằng chứng chứng minh các nghiệp
vụ kinh tế tài chính đã phát sinh và thực sự hoàn thành, và là cơ sở để hạch toán vào sổ
sách kế toán tại các NHTM, các TCTD.
Chứng từ kế toán có thể là chứng từ bằng giấy hoặc chứng từ điện tử. Theo luật kế
toán thì chứng từ điện tử được coi là chứng từ kế toán khi đảm bảo đầy đủ các nội
dung của chứng từ kế toán (theo quy định tại điều 17 của Luật) và được thể hiện dưới
dạng dữ liệu điện tử, được mã hóa mà không bị thay đổi trong quá trình truyền qua
mạng máy tính hoặc trên vật mang tin như băng từ, đĩa từ, các loại thẻ thanh toán.
-Chức năng, vai trò: cũng giống như hoạt động kế toán tài chính, chứng từ có ý nghĩa
vô cùng quan trọng đối với hoạt động của NHTM và các TCTD. Chứng từ có ý nghĩa
quan trọng trong việc tổ chức công tác kế toán, kiểm soát nội bộ bởi vì nó chứng minh
tính chất pháp lý của các nghiệp vụ và của số liệu ghi chép trên sổ kế toán.
Chứng từ có những tác dụng rất đáng kể:
+ Thứ nhất, việc lập chứng từ kế toán giúp thực hiện kế toán ban đầu. Nó là khởi điểm
của tổ chức công tác kế toán và xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị. Nếu
thiếu chứng từ thì sẽ không thể thực hiện được kế toán ban đầu cũng như toàn bộ công
tác kế toán.
+ Thứ hai, việc lập chứng từ kế toán là để ghi nhận nghiệp vụ kinh tế tài chính đã phát
sinh và đã hoàn thành. Điều này đảm bảo tính hợp lệ và hợp pháp của nghiệp vụ.
+ Thứ ba, việc lập chứng từ kế toán là để tạo ra căn cứ để kế toán ghi sổ nghiệp vụ
phát sinh.
3


+ Thứ tư, việc lập chứng từ kế toán là để ghi nhận đơn vị, cá nhân chịu trách nhiệm
trước pháp luật về nghiệp vụ phát sinh.
2. Phân loại chứng từ kế toán ngân hàng.
a,Phân loại theo tính chất pháp lý của chứng từ:
-Chứng từ gốc: Là căn cứ pháp lý chứng minh cho một nghiệp vụ kinh tế tài chính
phát sinh và đã hoàn thành. Chứng từ gốc được lập ngay khi có nghiệp vụ kinh tế phát
sinh.
- Chứng từ ghi sổ: Là chứng từ phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào sổ sách
kế toán. Chứng từ ghi sổ được lập trên chứng từ gốc hoặc chứng từ gốc kiêm chứng từ
ghi sổ.
Hệ thống ngân hàng thương mại sử dụng chủ yếu chứng từ gốc kiêm ghi sổ cho các
giao dịch chủ yếu giữa khách hàng và ngân hàng.
b,Phân loại theo mục đích sử dụng và nội dung nghiệp vụ kinh tế:
-Chứng từ tiền mặt
-Chứng từ chuyển khoản
-Bảng kê các loại
-Giấy báo liên hàng
-Lệnh chuyển tiền sử dụng trong chuyển tiền điện tử
-Các chứng từ hạch toán tài sản và chứng từ ngoại bảng
c,Phân loại theo nguồn gốc:
-Chứng từ gốc do khách hàng lập, mang đến giao dịch với ngân hàng.
-Chứng từ gốc do TCTD khác phát sinh trong quan hệ với TCTD thực hiện.
-Chứng từ gốc phát sinh trên cơ sở các thông tin, dữ liệu đầu vào trong hệ thống thông
tin của TCTD và tạo ra các dữ liệu kết quả.
-Chứng từ gốc phát sinh phục vụ các giao dịch nội bộ của TCTD.
4
Dưới đây là một số mẫu chứng từ kế toán ngân hàng:
5
3. Các văn bản pháp luật có liên quan.
-Quyết định 1789/2005/QĐ-NHNN về việc ban hành chế độ chứng từ kế toán ngân

hàng: quy định về nội dung của chứng từ kế toán ngân hàng, và các quy tắc lập chứng
từ kế toán ngân hàng,…
-Quyết định 44/2002/QĐ-TTg của thủ tưởng Chính phủ về việc sử dụng chứng từ điện
tử làm chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn của các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán.
6
Điều kiện cơ bản để sử dụng chứng từ điện tử: NHNN, các NHTM, TCTD phải đáp
ứng được các yêu cầu về công nghệ để đảm bảo tính bảo mật, sự chính xác và toàn vẹn
về thông tin trên chứng từ, và phải có một hành lang pháp lý phù hợp để đảm bảo tính
pháp lý của chứng từ điện tử.
Các chứng từ điện tử phải có đủ các yếu tố bảo đảm tính pháp lý như chứng từ kế toán
bằng giấy, riêng yếu tố dấu và chữ ký được mã hóa bằng ký hiệu mật, và phải có yếu
tố bảo mật, bảo đảm an toàn trong quá trình xử lý, truyền tin, lưu trữ. Để đảm bảo tính
bảo mật khi sử dụng chứng từ điện tử, các TCTD sử dụng mã khóa bảo mật và chữ ký
điện tử.
II. Yêu cầu về lập chứng từ kế toán ngân hàng :
1. Quy định về nội dung:
Theo khoản 1 điều 5 quyết định số 1789/2005/QĐ-NHNN, chứng từ kế toán của ngân
hàng phải có các nội dung chủ yếu là:
- Tên của chứng từ (Séc, UNC, UNT, Phiếu thu, phiếu chi…)
- Số hiệu của chứng từ
- Ngày, tháng, năm lập chứng từ; Ngày tháng năm hạch toán số tiền trên chứng từ vào
sổ kế toán.
- Tên, địa chỉ, số chứng minh nhân dân, hộ chiếu, số hiệu tài khoản của người trả
(hoặc chuyển) tiền và tên, địa chỉ của ngân hàng phục vụ người trả (hoặc người
chuyển) tiền.
- Tên, địa chỉ, số chứng minh nhân dân, hộ chiếu, số hiệu tài khoản của người thụ
hưởng số tiền trên chứng từ và tên, địa chỉ của ngân hàng phục vụ người thụ hưởng.
- Nội dung nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh
- Số lượng, đơn giá và số tiền của nghiệp vụ kinh tế, tài chính ghi bằng số, tổng số tiền

của chứng từ kế toán dùng để thu, chi tiền phải ghi bằng số và bằng chữ.
7
- Chữ kí, họ và tên của người lập, người duyệt và những người có liên quan đến chứng
từ kế toán. Những chứng từ phản ánh quan hệ kinh tế giữa các pháp nhân phải có chữ
ký của kế toán trưởng và người phê duyệt.
Ngoài những nội dung chủ yếu nêu trên, các ngân hàng có thể bổ sung thêm những
yếu tố khác tùy theo từng loại chứng từ.
Lập chứng từ kế toán ngân hàng là việc phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo
đúng mẫu đã quy định làm cơ sở cho việc hạch toán, kiểm soát, kiểm toán và thanh tra
sau này. Việc ghi chép vào sổ sách kế toán phải căn cứ vào chứng từ hợp lệ, hợp pháp.
2. Quy định về chứng từ điện tử:
- Chứng từ điện tử phải được mã hóa đảm bảo an toàn dữ liệu điện tử trong quá trình
sử dụng, sử lý truyền tin và lưu trữ. Phải có biện pháp quản lý kiểm tra chống các hình
thức lợi dụng khai thác, thâm nhập, sao chép, đánh cắp hoặc sử dụng không đúng quy
định. Chứng từ điện tử được chứa trong những vật mang tin như băng từ, đĩa từ, thẻ
thanh toán…
- Ngân hàng sử dụng chứng từ điện tử phải có các điều kiện:
+ Có điạ điểm, các đường truyền tải thông tin, mạng thông tin, thiết bị truyền
tin và các thiết bị phù hợp đáp ứng yêu cầu khai thác, kiểm soát sử lý, sử dụng bảo
quản và lưu trữ chứng từ điện tử.
+ Có đội ngũ cán bộ thực thi đủ trình độ, khả năng tương xứng với yêu cầu kỹ
thuật để thực hiện quy trình lập, xử lý, sử dụng, bảo quản lưu trữ chứng từ điện tử theo
quy trình kế toán và thanh toán .
- Tổ chức, cá nhân sử dụng chứng từ điện tử để giao dịch, thanh toán qua ngân hàng
phải có văn bản thỏa thuận, đề nghị với ngân hàng (nơi mở tài khoản) phải có các điều
kiện:
+ Chữ kí điện tử của người đại diện theo pháp luật, người được ủy quyền của
người đại diện theo pháp luật của tổ chức hoặc cá nhân sử dụng chứng từ điện tử và
giao dịch thanh toán điện tử.
+ Phương thức giao nhận chứng từ điện tử và kỹ thuật của vật mang tin.

8
+ Cam kết về các hoạt động diễn ra do chứng từ điện tử của mình lập khớp,
đúng quy định và phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại xảy ra do vô tình hay cố ý
để lộ chữ ký điện tử, dẫn đến bị kẻ gian lợi dụng.
- Việc chuyển đổi chứng từ điện tử thành chứng từ giấy hoặc ngược lại để giao dịch,
thanh toán phải được thực hiện đúng theo quy định về lập, luân chuyển, kiểm soát, ký
chứng từ kế toán ngân hàng. Đảm bảo khớp đúng giữa chứng từ dùng làm căn cứ
chuyển đổi và chứng từ được chuyển đổi và đảm bảo tính pháp lý của chứng từ.
- Chứng từ sau khi đã dùng làm căn cứ để chuyển đổi chỉ còn giá trị lưu trữ để theo dõi
kiểm tra, không còn hiệu lực để giao dịch, thanh toán.
3. Quy định về lập chứng từ:
Lập chứng từ KTNH là việc phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo đúng mẫu
đã quy định làm cơ sở cho việc hạch toán, kiểm soát, kiểm toán và thanh tra sau này.
Việc ghi chép vào sổ sách kế toán phải căn cứ vào chứng từ hợp lệ, hợp pháp. Cụ thể:
Theo quyết định số 1789/ 2005/QĐ-NHNN quy định về việc lập chứng từ kế toán ngân
hàng như sau:
-Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn,
kinh phí; các khoản thu, chi, trích lập và sử dụng các quỹ của ngân
hàng…đều phải lập chứng từ kế toán. Chứng từ kế toán ngân hàng chỉ
được lập một lần cho mỗi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh. ( Điều
này giúp đảm bảo cho nguyên tắc cơ sở dồn tích trong kế toán).
-Tất cả các chứng từ KTNH (bao gồm chứng từ do ngân hàng lập và
chứng từ do khách hàng lập) đều phải được lập rõ ràng, đầy đủ, kịp thời,
chính xác theo các nội dung quy định trên mẫu. (Quy định này nhằm
đảm bảo cho nguyên tắc cơ sở dồn tích, thận trọng và trọng yếu - nếu
thiếu thông tin đó trên chứng từ có thể ảnh hưởng đến quyết định kinh tế
của người sử dụng.)
-Đối với séc, bắt buộc khách hàng phải lập trên mẫu séc in sẵn nhận ở
ngân hàng nơi khách hàng mở tài khoản tiền gửi. Đối với các chứng từ

9
chuyển tiền đến Kho bạc Nhà nước để nộp thuế, nộp ngân sách thì phải
ghi đầy đủ mã số thuế, mục lục ngân sách của người nộp thuế, nộp ngân
sách. Chứng từ để xử lý các nghiệp vụ chỉ liên quan đến nội bộ một ngân
hàng, các ngân hàng phải dùng các mẫu chứng từ nội bộ do ngân hàng
lập như Phiếu chuyển khoản, Phiếu thu, Phiếu chi…không được dùng
các chứng từ do khách hàng lập.
-Chứng từ kế toán bằng giấy phải được lập đầy đủ số liên quy định.
Trường hợp phải lập nhiều chứng từ kế toán cho một nghiệp vụ kinh tế,
tài chính thì nội dung các liên phải giống nhau và chỉ lập một lần đúng
với thực tế thời gian, địa điểm, nội dung và số tiền của nghiệp vụ kinh tê
phát sinh. Trường hợp chứng từ in hỏng, in thiếu liên, viết sai phải hủy
bỏ bằng cách gạch chéo (X) hoặc ghi chữ “HỦY BỎ” vào tất cả các liên
sai hỏng. Những liên của các chứng từ có in số sẵn (như Séc, Giấy báo
liên hàng,…) bị viết sai phải được giữ lại đầy đủ ở cuống hay ở quyển
chứng từ trước khi làm thủ tục tiêu hủy. Khi tiêu hủy các chứng từ quan
trọng viết sai, phải lập biên bản tiêu hủy và tiến hành tiêu hủy theo đúng
quy định.
Các chứng từ kế toán bằng giấy do ngân hàng lập hoặc chuyển đổi chứng từ điện tử từ
giấy để giao dịch, thanh toán với tổ chức, cá nhân bên ngoài đơn vị ngân hàng thì liên
gửi cho bên ngoài phải có dấu của đơn vị ngân hàng (chi nhánh, sở giao dịch,…). Việc
sử dụng con dấu để đóng dấu trên các chứng từ kế toán hạch toán, thanh toán trong nội
bộ ngân hàng do Tổng giám đốc (Giám đốc) ngân hàng đó quy định, nhưng phải đảm
bảo tính pháp lý của chứng từ và phù hợp với quy định của pháp luật về quản lý và sử
dụng con dấu.
-Nội dung nghiệp vụ kinh tế, tài chính trên chứng từ KTNH phải được
viết đủ câu, rõ nghĩa. Đối với chứng từ bằng giấy, khi viết phải dùng bút
mực (màu tím, xanh, đen) số và chữ viết phải liên tục, không ngắt quãng,
chỗ trống phải gạch chéo; không được viết tắt, viết chữ không dấu, viết
mờ hoặc nhòe chữ, không được tẩy xóa, sửa chữa, không được viết bằng

mực đỏ (trừ phiếu kế toán lập để điều chỉnh sai sót). Chứng từ bị tẩy xóa,
sửa chữa không có giá trị thanh toán và ghi sổ kế toán ngân hàng.
10
-Ngày, tháng, năm lập chứng từ KTNH ghi bằng số. Ngày lập chứng từ
ghi ngày thực tế nộp vào ngân hàng (trừ các chứng từ có quy định tách
biệt ngày lập và ngày giá trị ghi sổ là hai nội dung khác nhau).
Trên chứng từ KTNH bắt buộc phải ghi số chứng từ, các chứng từ có in
số sẵn thì số chứng từ là số in sẵn đó, chứng từ do khách hàng lập thì
khách hàng phải đánh số. Đối với séc thì xeri và số séc của khách hàng
phát hành phải phù hợp với xeri và số séc mà ngân hàng (nơi khách hàng
mở tài khoản) đã bán cho khách hàng. Kế toán trưởng hoặc người phụ
trách KTNH quy định cụ thể việc đánh số những chứng từ do đơn vị
ngân hàng mình lập.
-Số tiền trên chứng từ KTNH bắt buộc phải ghi cả bằng số và bằng chữ.
Số tiền bằng chữ phải viết rõ nghĩa, chữ đầu của số tiền bằng chữ phải
viết hoa và sát đầu dòng đầu tiên, không được viết cách dòng, cách
quãng giữa các chữ, không được viết thêm chữ (khác dòng) vào giữa hai
chữ viết liền nhau trên chứng từ.
-Người lập, người kí duyệt và những người khác ký trên chứng từ KTNH
phải chịu trách nhiệm về nội dung của chứng từ kế toán. Đây là yếu tố
cần thiết để có thể căn cứ vào đó mà quy trách nhiệm về tính chất hợp
pháp của nghiệp vụ kinh tế cũng như tính chính xác của chứng từ đối với
các cá nhân có liên quan.
-Chứng từ KTNH được lập dưới dạng chứng từ điện tử phải tuân theo
quy định tại điều 18, khoản 1 và khoản 2 Điều 19 của Luật Kế toán và
các quy định tại chế độ này:
 Các chứng từ điện tử phải lập đúng mẫu quy định, đúng cấu trúc,
định dạng, đầy đủ các nội dung, bảo đảm tính pháp lý của chứng
từ kế toán.
 Chứng từ điện tử ghi trên vật mang tin phải có chỉ dẫn cụ thể về

thời gian và các yếu tố kỹ thuật đảm bảo cho việc sử dụng, kiểm
tra, kiểm soát chứng từ điện tử khi cần thiết.
 Các dữ liệu, thông tin trên chứng từ phải được phản ánh rõ ràng,
trung thực, chính xác và phải được mã hóa theo đúng quy định.
11
Trên chứng từ phải có đủ chữ ký điện tử của những người liên
quan chịu trách nhiệm về tính chính xác, an toàn của dữ liệu; chữ
ký điện tử trên chứng từ phải khớp đúng với chữ ký điện tử do
ngân hàng nơi mở tài khoản hoặc trung tâm thanh toán của Ngân
hàng cấp phát và quản lý.
 Ngày, tháng , năm lập chứng từ điện tử ghi bằng số và ghi theo
dạng: DD/MM/YYYY
 Việc hủy bỏ, sửa chữa chứng từ điện tử lập sai được thựa hiện
theo quy định của pháp luật và của Ngân hàng Nhà nước về xử lý
sai sót trong giao dịch, thanh toán điện tử.
4. Quy định về ký chứng từ
Theo điều 8 quyết định số 1789/2005/QĐ-NHNN
- Chứng từ kế toán ngân hàng phải có đủ chữ kí bằng bút mực trừ mực đỏ và không
được đóng dấu chữ kí khắc sẵn. Chữ kí trên chứng từ kế toán phải thống nhất, do
người có thẩm quyền ký hoặc người được ủy quyền ký.
- Chữ kí của khách hàng trên chứng từ giao dịch với ngân hàng:
+ Đối với khách hàng là cá nhân thì trên chứng từ phải có chữ kí của chủ tài
khoản hoặc người được chủ tài khoản ủy quyền kí thay. Khách hàng là đơn vị, tổ chức
thì phải có đủ chữ kí của chủ tài khoản, kế toán trưởng hoặc người được ủy quyền kí
thay và dấu đơn vị (đối với chứng từ bằng giấy)
+ Đối với chứng từ lập để trích tiền từ tài khoản của đồng chủ tài khoản thì trên
chứng từ phải có đủ chữ kí của tất cả những người là đồng chủ tài khoản hoặc người
được đồng chủ tài khoản ủy quyền kí thay.
+ Chữ kí và dấu (nếu có) phải đúng với chữ kí mẫu đa đăng kí tại ngân hàng
nơi mở tài khoản. Chữ kí điện tử trên chứng từ điện tử phải đúng khớp với chữ kí đã

được ngân hàng nơi mở tài khoản cấp.
- Khi kí trên chứng từ kế toán, các cán bộ, nhân viên ngân hàng chỉ được kí trong
phạm vi, thẩm quyền quy định và phải kí đúng mẫu đã đăng kí (hoặc được cấp nếu là
chữ kí điện tử). Khi có sự thay đổi về nhân sự, những cán bộ, nhân viên mới phải lập
12
bản mẫu, chữ kí của mình để thay thế bản mẫu chữ kí của người thôi làm các công
việc liên quan đến trách nhiệm kí chứng từ.

B. Thực trạng:
I. Vài nét về gian lận, sai sót liên quan đến chứng từ kế toán ngân hàng.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, quyết định số 143/2001QĐ-BTC của
Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành và công bố chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam (đợt 3), có khái niệm về sai phạm. Theo đó sai phạm là việc không thực
hiện hoặc thực hiện sai thủ tục kiểm soát, phát hiện được thông qua các thử
nghiệm kiểm soát hoặc các sai lệch về thông tin hoặc số liệu phát hiện đợc qua các
thử nghiệm cơ bản, do cá nhân hoặc tập thể gây ra một cách cố ý (gian lận )
hoặc không cố ý (sai sót). Tổng sai phạm được tính bằng tỷ lệ lỗi hoặc tổng giá trị
sai lệch về số liệu.
1. Gian lận:
Gian lận là các hành vi bất thường và phi pháp mang chủ ý lừa dối hay đưa thông tin
thiếu chính xác mà cá nhân đó biết rõ là sai hoặc tin là không đúng. Người có hành vi
gian lận biết rõ hành vi đó có thể đem lại lợi ích bất hợp pháp cho cá nhân hoặc tổ
chức nào đó. Gian lận có thể do người bên trong hoặc bên ngoài tổ chức thực hiện.
Các loại hình gian lận phổ biến bao gồm gian lận báo cáo tài chính, biển thủ tài sản và
tham nhũng.
a) Các dạng gian lận liên quan đến chứng từ kế toán ngân hàng thường gặp:
- Xuyên tạc, làm giả chứng từ.
- Sửa đổi chứng từ làm sai lệch báo cáo tài chính.
- Che giấu hoặc cố ý bỏ sót các thông tin trên chứng từ làm sai lệch các nghiệp vụ phát
sinh.

- Ghi chép các nghiệp vụ kinh tế không đúng với chứng từ.
- Cố ý áp dụng sai các chuẩn mực, nguyên tắc, phương pháp và chế độ kế toán trong
việc ghi chép chứng từ.
- Cố ý tính toán sai về số học.
13
2. Sai sót:
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 240: “Sai sót là những lỗi không
cố ý có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính.”
Một số sai sót thường gặp liên quan đến chứng từ kế toán ngân hàng:
- Lỗi về tính toán số học hoặc ghi chép sai. Có thể là do cộng dồn, chuyển sổ, cộng
sang trang, tính toán trong các trường hợp phân bổ chi phí sai. Các sai sót này thường
xảy ra với những Ngân hàng có nhiều nghiệp vụ kinh tế phát sinh, song lại tổ chức hệ
thống kế toán không hợp lý, không có đủ đội ngũ nhân viên kế toán, dẫn đến áp lực
công việc nhiều, làm giảm đi tính chính xác của thông tin kế toán cung cấp.
- Bỏ sót hoặc hiểu sai, làm sai các khoản mục, các nghiệp vụ kinh tế.Sự sai sót này có
ảnh hưởng rất lớn đến bảng khai tài chính, vì nó đã phản ánh không trung thực tất cả
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, hơn thế nữa nó còn làm cho doanh thu hoặc lợi nhuận
của công ty bị thay đổi, tuy không nhiều nhưng khi tích tụ lại sẽ làm cho tổng cộng các
sai sót là rất lớn.
- Áp dụng sai các chuẩn mực, nguyên tắc, phương pháp, quy định và chế độ kế toán,
chính sách tài chính nhưng không cố ý.
- Áp dụng phương pháp đánh giá không đúng.
II. Những vụ việc làm tổn thất trong hoạt động ngân hàng xuất phát từ
chứng từ kế toán ngân hàng.
1. Nhân viên ngân hàng làm giả thư tín dụng.
Dùng thủ đoạn giả chữ ký của trưởng phòng, phó tổng giám đốc NH ngoại thương
(VCB) và cả con dấu để làm ra một L/C dự phòng trị giá đến 14 triệu USD do Sở giao
dịch VCB VN phát hành theo yêu cầu của một công ty TNHH ở Hải Phòng với người
thụ hưởng là một công ty TNHH ở trong nước. Khi đơn vị đem L/C đi giao dịch vay
vốn tại ngân hàng công thương VN và nơi này đi xác minh tại VCB mới phát hiện là

giả tạo.
2. Nhân viên ngân hàng lập chứng từ, hồ sơ khống( năm 2011)
14
2.1. Vụ việc 2 giao dịch viên “nuốt” 6 tỷ đồng của ngân hàng (2 giao dịch viên là
Nguyễn Thị Nhung sinh năm 1965, trú tại xã Vân Bình huyện Thường Tín Hà Nội và
Ngô Thị Mỹ Liên sinh năm 1980, trú tại phường Phúc La, quận Hà Đông, Hà Nội
Từ năm 1984, Nhung được chi nhánh ngân hàng N huyện Thường Tín giao nhiệm vụ
là thủ quỹ chính đến 3-2010. Còn Liên công tác từ năm 2004, được chi nhánh Ngân
hàng N huyện Thường Tín giao làm giao dịch viên đến 3-2010. Từ tháng 3-1010, chi
nhánh ngân hàng N huyện Thường Tín chuyển sang chế độ một cửa, Liên và Nhung
được giao nhiệm vụ cùng là giao dịch viên. Hai người này được cấp User và có mật
khẩu riêng. Tuy nhiên, trong hai giao dịch viên này chỉ có Liên là được phép sử dụng
ấn chỉ trắng (sổ tiết kiệm) để mở, lập, phát hành sổ tiết kiệm cho khách hàng đến gửi
tiền tiết kiệm. Từ 14-1 đến 14-2-2011, Nhung và Liên đã bàn bạc, lên kế hoạch cùng
nhau tất toán 10 sổ tiết kiệm của khách hàng mà 2 cán bộ này có trách nhiệm quản lý.
Sau đó, để hợp thức và che giấu hành vi phạm tội của mình, cả hai thông đồng lập hồ
sơ khách hàng gửi tiền tiết kiệm khống hoặc lập mới sổ tiết kiệm cho khách. Nhung và
Liên nhận tiền gửi tiết kiệm của khách, nhưng không hạch toán trên hệ thống IPCAS
của ngân hàng để bù trừ cho các sổ tất toán khống.
Bằng thủ đoạn trên, Nhung chiếm đoạt gần 3,5 tỷ đồng, Liên chiếm đoạt của ngân
hàng hơn 2,5 tỷ đồng.Việc tất toán sổ tiết kiệm của khách hàng đều do Liên thực hiện
bằng User của Nhung (Nhung cho Liên biết mật khẩu), sau đó cuối ngày, Liên đưa
chứng từ để Nhung ký.
Ở vụ việc này, bà Lưu Thị Vân, trưởng phòng kế toán ngân quỹ chi nhánh ngân hàng
N huyện thường tín , là người chịu trách nhiệm kiểm soát các giao dịch hằng ngày của
Nhung và Liên. Do tin tưởng 2 người này nên không thực hiện việc kiểm soát các giao
dịch của Nhung, Liên cuối ngày một cách kịp thời để phát hiện được sai phạm.
2.2. Vụ Nguyễn Thị Thủy Vân, phạm tội tham ô tài sản xảy ra ở Ngân hàng Thương
mại cổ phần Sài Gòn, Hà Nội (SHB)
Nguyễn Thị Thùy Vân là kiểm soát viên của một phòng giao dịch thuộc ngân hàng

SHB, biết được User của một nhân viên khác. Khi nhân viên này đã chuyển sang làm
việc tại ngân hàng khác nhưng bộ phận quản lý mạng của ngân hàng SHB không làm
hết trách nhiệm, không hủy ngay User của cán bộ đã chuyển đi nên Nguyễn Thị Thủy
15
Vân đã sử dụng User đó để truy cập vào hệ thống máy tính của ngân hàng SHB, khai
báo thông tin giả, tạo ra tài khoản cá nhân mang tên một người không có thực, tự ký
giả chữ ký và lưu tại mục thông tin cá nhân trên hệ thống làm chữ ký mẫu của khách
hàng mà không lập hồ sơ giấy. Nguyễn Thị Thủy Vân đã sử dụng tài khoản đã lập, sử
dụng User của cán bộ ngân hàng đã chuyển công tác nơi khác để tạo ra các giao dịch
thanh toán các sổ tiết kiệm không có thực trên hệ thống, trả tiền vào tài khoản này và
rút ra để chiếm đoạt trên 24 tỷ đồng.
2.3. Vụ án Phan Việt Hà phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công
vụ, xảy ra ở Ngân hàng Thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) :
Phan Việt Hà lấy thông tin từ khách hàng gửi tiền tiết kiệm để lập 04 quyển sổ tiết
kiệm giả, sau đó đưa cho các nhân viên dưới quyền mình để hợp thức với các lý do giả
mạo. Vì tin tưởng ở Trưởng phòng của mình nên các nhân viên dưới quyền đã thực
hiện các việc theo yêu cầu của Phan Việt Hà. Sau đó Phan Việt Hà đã đem 4 quyển sổ
tiết kiệm giả này, nhờ các nhân viên trong phòng đem cầm cố để vay hộ tiền của ngân
hàng cho người quen. Cũng do tin tưởng ở Phan Việt Hà là Trưởng phòng của mình
nên các nhân viên này để cho Phan Việt Hà vừa làm thủ tục, vừa ký nhận tiền mà
không hề kiểm tra các thủ tục, điều kiện cho vay theo quy định; tạo điều kiện cho Phan
Việt Hà chiếm đoạt gần 3 tỷ đồng).
2.4. Vụ án “Cán bộ Ngân hàng đầu tư đút túi hàng trăm tỷ đồng lãnh án chung thân”-
2008.
Trần Lệ Thủy nguyên cán bộ ngân hàng BIDV chi nhánh Đông Đô, trong thời gian
làm việc tại BIDV, Trần Lệ Thủy đã câu kết với người thân trong gia đình, bạn bè và
một số đồng nghiệp sửa chữa xác nhận khống số dư trên chứng nhận tiền gửi tiết
kiệm của VCB và BIDV rồi đem thế chấp chiếm đoạt tiền của các nhà băng lấy tiền
chơi chứng khoán, đầu tư bất động sản và tiêu xài cá nhân.
Cụ thể, năm 2003-2008 khi làm việc tại Quỹ tiết kiệm số 1 BIDV Thái Bình cũng như

làm giao dịch viên tại BIDV Đông Đô, bà Thủy bàn với em gái Trần Thị Huyền và
Trần Chí Dân làm thủ tục gửi tiền ở VCB Thái Bình. Sau đó, họ dùng tiền USD gửi
tiết kiệm, mỗi lần gửi làm hai giao dịch khác nhau. Một sổ có giá trị vài chục nghìn
USD, sổ kia có seri liền kề nhưng số dư chỉ có giá trị thấp. Huyền mang giấy chứng
16
nhận tiền gửi với số tiền lớn đem thế chấp tại BIDV Thái Bình. Sổ này sau đó được
giao cho Thủy cất giữ. Còn lại sổ tiết kiệm với số dư thấp, Huyền và Thủy đưa cho
Dân sửa chữa, làm giả số tiền trùng với số dư của sổ có giá trị lớn đang thế chấp.
Chứng nhận tiết kiệm giả này sau đó được Thủy tráo với sổ thật. Phi vụ hoàn tất, Thủy
lập thông báo về việc trả lại giấy tờ có giá cầm cố vay vốn ngân hàng đưa cho Huyền
đem đến VCB Thái Bình để rút tiền.
Theo nhà chức trách, với thủ đoạn trên, từ năm 2003 đến tháng 4/2008, Thủy Huyền,
Dân đã thực hiện sửa chữa, làm giả, tráo đổi nhiều giấy chứng nhận tiền gửi có kỳ hạn,
chiếm đoạt của BIDV Thái Bình hơn 29 tỷ đồng.
Khi chuyển sang làm ở BIDV Đông Đô, Thủy tiếp tục dùng thủ đoạn, lợi dụng chức
vụ của mình cùng với sự giúp sức đắc lực của Nguyễn Minh Hằng và Nguyễn Thị Thu
(cùng nguyên Phó trưởng phòng giao dịch 1 của VCB Thành Công); Vũ Khắc Thành
và Phạm Thị Hồng Thái (cùng là nguyên Phó giám đốc BIDV Đông Đô); Hoàng
Trung Thông (nguyên Phó Trưởng phòng Dịch vụ khách hàng BIDV Đông Đô) đã
chiếm đoạt hơn 174 tỷ đồng.
2.5. Vụ án Huỳnh Thị Huyền Như.( từ năm 2007 đến 9/2011)
Khi nhắc tới những vụ việc tổn thất trong hoạt động ngân hàng xuất phát từ chứng từ
kế toán ngân hàng. Ta không thể không nhắc tới vụ án của Huỳnh Thị Huyền Như
chiếm đoạt hơn 4.911 tỷ Việt Nam đồng xảy ra tại VietinBank.
Có con dấu giả, Như và đồng bọn đã trực tiếp dùng các hợp đồng giả và chữ ký giả
huy động vốn từ các ngân hàng, doanh nghiệp, công ty chứng khoán để vay vốn với
những lời mời hết sức hấp dẫn như: Ngoài lãi suất 14% theo quy định còn trả thêm
ngoài hợp đồng 8 - 10%/năm. Nhiều doanh nghiệp đã theo nhau sập bẫy. Vì vậy, trong
một thời gian dài Như có uy tín rất lớn.3 công ty Phúc Vinh, Thịnh Phát và Công ty
Hưng Yên bị Huỳnh Thị Huyền Như lừa với số tiền bị mất lên tới xấp xỉ 1.600 tỷ

đồng.
Huyền Như đã dùng chữ ký giả, dấu giả lập các lệnh chi, chứng từ chuyển tiền, rút
tiền chiếm đoạt tiền gửi tại Ngân hàng Công thương, chiếm đoạt 210 tỷ đồng từ tài
khoản của Công ty CP CK Saigonbank-Berjaya (SBBS), chiếm đoạt 550,35 tỷ từ tài
khoản của Công ty Phương Đông và Công ty An Lộc.Huyền Như còn tự ý lập 16 thẻ
17
tiết kiệm với số tiền hơn 81 tỷ đứng tên khách hàng gửi tiền, làm giả 16 Lệnh chi, ký
giả chữ ký của 9 chủ thẻ tiết kiệm này để rút tiền, chiếm đoạt.
Huyền Như cùng đồng bọn còn dùng hồ sơ giả để vay tiền của Ngân hàng Công
thương. Lập 83 thẻ tiết kiệm do Ngân hàng Công thương phát hành trị giá 533,55 tỷ
đồng đứng tên các khách hàng gửi tiền, trên cơ sở hợp đồng tiền ký gửi với
Vietinbank, các nhân viên Ngân hàng ACB, ngân hàng Nam Việt đã chuyển tiền vào
tài khoản của từng người mở tại Ngân hàng Công thương. Sau đó Huyền Như sử dụng
trái phép các thẻ tiết kiệm này làm tài sản bảo đảm, lập hợp đồng vay tiền giả, ký giả
chữ ký của chủ thẻ để vay 514,54 tỷ đồng tại 2 phòng giao dịch Điên Biên Phủ và
Đinh Tiên Hoàng thuộc Ngân hàng Công thương TP.HCM.
Đánh tráo hồ sơ mở tài khoản, giả chứng từ để chuyển tiền rút tiền. Với thủ đoạn của
mình, Huyền Như đã làm giả 127 lệnh chi, chiếm đoạt 1.598 tỷ từ tài khoản tiền gửi
của ba công ty Phúc Vinh, Thịnh Phát và Hưng yên, 50 tỷ đồng của hai cá nhân
Nguyệt và Bé Năm.
Từ tháng 5-2010 đến 11-2011, ACB của Bầu Kiên ủy thác cho 19 nhân viên gửi tổng
cộng gần 719 tỉ đồng vào VietinBank (Chi nhánh Nhà Bè và Chi nhánh TP HCM) với
lãi suất từ 17,8% - 18,5%/năm song bị Huyền Như chiếm đoạt toàn bộ. Huyền Như tự
ý chuyển đi trên hệ thống máy tính, chiếm đoạt gần 125 tỷ đồng từ tài khoản của Công
ty cổ phần bảo hiểm Toàn cầu.
3. Khách hàng làm giả hồ sơ vay dẫn đến những sai sót nghiêm trọng trên chứng
từ kế toán ngân hàng.
3.1. Truy tố 8 cán bộ ngân hàng Vietinbank và VDB trong vụ án Công ty An Khang
(8/2014).
Ngày 5-8/2014, Viện KSND TP Cần Thơ đã tống đạt cáo trạng truy tố 14 bị can liên

quan đến vụ lừa đảo xảy ra tại Công ty TNHH An Khang, trong đó có tám người
nguyên là cán bộ thuộc Ngân hàng VietinBank chi nhánh Trà Nóc (Cần Thơ) và Ngân
hàng Phát triển Việt Nam, khu vực Cần Thơ - Hậu Giang. Công ty An Khang nằm tại
Khu chế xuất - công nghiệp Trà Nóc do ông Nguyễn Hồng Quân làm giám đốc. Ông
Quân giao cho con gái là Nguyễn Thị Thu Sương (làm phó giám đốc) điều hành mọi
hoạt động.
18
Do hoạt động không hiệu quả, Sương đã làm khống 44 bộ chứng từ xuất khẩu để chiết
khấu tại VietinBank Trà Nóc với số tiền hơn 6,4 triệu USD, chiếm đoạt gần 4,4 triệu
USD (tương đương 87 tỉ đồng). Ngoài ra, Sương đã ký khống hợp đồng mua nguyên
liệu, hợp đồng xuất khẩu để làm thủ tục vay, lừa đảo chiếm đoạt của VDB khu vực
Cần Thơ - Hậu Giang hơn 75,1 tỉ đồng; làm khống ba bộ chứng từ xuất khẩu để chiết
khấu tại Ngân hàng TMCP An Bình chi nhánh Cần Thơ hơn 4,9 tỉ đồng, chiếm đoạt
hơn 3,9 tỉ đồng. Sương còn kê khống hàng tồn kho, làm thủ tục khống vay tiền để lừa
đảo, chiếm đoạt của Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Cần Thơ hơn 14,9 tỉ
đồng; kê khống hàng tồn kho, làm thủ tục khống vay tiền để lừa đảo, chiếm đoạt của
Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam chi nhánh Tây Đô hơn 11 tỉ đồng. Để mọi việc
trôi chảy, Sương đã “bôi trơn” một số cán bộ ngân hàng (đã bị truy tố) mỗi người từ
vài chục triệu đến vài tỉ đồng cùng hàng chục ngàn USD.
3.2. Cho vay sai, AgriBank chi nhánh 6 chịu tổn thất.( năm 2007-2010)
Thực hiện chủ trương di dời nhà máy, xí nghiệp sản xuất gây ô nhiễm môi trường về
khu công nghiệp, công ty Đông Phương đã ký hợp đồng với công ty Phương Nam hợp
tác xây dựng Trung tâm thương mại dịch vụ và chung cư cao tầng tại số 10 Âu Cơ,
TP.HCM.
Lợi dụng việc thực hiện dự án, từ năm 2007-2010, giám đốc công ty Đông Phương Lê
Thành Công, Dương Thanh Cường và nhiều giám đốc doanh nghiệp khác đã làm các
bộ hồ sơ không hợp pháp, vay của Agribank Chi nhánh 6 hàng trăm tỉ đồng và đến nay
không có khả năng hoàn trả.
Bên cạnh đó là 4 vụ việc liên quan tới Agribank chi nhánh 6 đang được các cán bộ
điều tra làm rõ.

Nhận thấy, cơ chế sai phạm của Agribank chi nhánh 6 là không kiểm soát được dự án
kinh doanh, cũng như khả năng thu được lợi nhuận của dự án, ảnh hưởng tới khả năng
chi trả. Quá trình kiểm tra phân tích hồ sơ vay vốn của Agribank chi nhánh 6 đang gặp
vấn đề. Các chứng từ kế toán liên quan không rõ ràng.
C. Phân tích , đánh giá và khuyến nghị của nhóm:
19
Trong những năm gần đây, mặc dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng con số lợi
nhuận của ngân hàng vẫn khá ấn tượng. Tuy nhiên, hoạt động trong hệ thống ngân
hàng còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Ngoài ra, cũng phải thấy rằng tính minh bạch trong
hoạt động ngân hàng hiện nay đang bị xói mòn, đe dọa sự phát triển bền vững của hệ
thống, thành quả về tính trung thực của đội ngũ nhân viên ngân hàng sau nhiều năm
giáo dục, rèn luyện có nguy cơ bị huy hoại (lãnh đạo chỉ đạo nhân viên thực hiện các
hành vi gian dối); công tác thẩm định còn rất yếu kém, thậm chí bị cho qua khi xét
duyệt hồ sơ cho vay, điều này dễ dẫn đến các trường hợp gian lận, cấu kết lẫn nhau để
lừa đảo, qua mặt ngân hàng.
Hành vi gian lận chủ yếu do những nguyên nhân sau:
-Xuất phát từ phía khách hàng:
Có những trường hợp khách hàng cố tình lừa gạt ngân hàng bằng cách lập ra các
chứng từ giả mạo nhằm nâng cao khống tài sản đảm bảo để vay được số tiền lớn hơn
nhiều lần. Với những trường hợp như thế này thì lỗi thuộc về khách hàng nhưng về
phía ngân hàng cũng có trách nhiệm một phần khi không kiểm định, thẩm định chính
xác.
- Từ nội bộ trong ngân hàng:
Một số tình huống khách hàng và nhân viên ngân hàng thông đồng với nhau để rút
ruột ngân hàng. Ví dụ như nhiều vụ lừa đảo bằng giấy tờ giả của khách hành với sự
tiếp tay của nhiều nhân viên tín dụng, thậm chí là các trưởng phòng, kế toán trưởng
của các ngân hàng.
+ Công tác kiểm soát của ngân hàng còn quá lỏng lẻo, các hồ sơ, chứng từ qua các bộ
phận không được thẩm định, kiểm duyệt chặt chẽ; thậm chí chỉ mang tính đối phó,
chống chế. Thực tế cho thấy, phần lớn các vụ lừa đảo trong ngân hàng xảy ra ở các chi

nhánh cấp 2 (thực chất là phòng giao dịch nhỏ). Tại những chi nhánh này, do cán bộ ít
(một người phải kiêm nhiệm nhiều việc) nên việc kiểm tra, kiểm soát và quản lý có
nhiều sơ hở để các đối tượng triệt để lợi dụng phạm tội.
20
+ Công tác tổ chức cán bộ tại nhiều ngân hàng cũng có vấn đề khi làm việc dựa nhiều
trên tình cảm, công tác bảo mật kém, nhiều nhân viên có tiền sự về kinh tế, bất minh
về lối sống vẫn được trọng dụng.
+ Có sự nhập nhằng trong việc phân chia trách nhiệm giữa các bộ phận, dẫn đến việc
nhân viên các bộ phận thông đồng với nhau.
+ Quyền hạn và trách nhiệm của bộ phận lãnh đạo chưa được rõ ràng nên vẫn có
những trường hợp cấp trên lợi dụng chức vụ để ép buộc cấp dưới thực hiện trái quy
định và người chịu trách nhiệm là nhân viên.
Đề xuất của nhóm về giải pháp hạn chế gian lận:
- NHNN cần đưa ra những mức xử phạt nặng hơn để răn đe các ngân hàng thương
mại, bởi nếu xử phạt không thích đáng, biện pháp đưa ra không mạnh thì các ngân
hàng sẽ không dè chừng.
- Đối với những ngân hàng đã từng vi phạm, NHNN nên theo dõi chặt chẽ hơn, có thể
là lưu lại một danh sách nào đó, nếu như vẫn còn tiếp tục thì sẽ phạt nặng hơn.
- Các NHTM nên tuyển chọn nhân viên ở khâu đầu vào thật tốt, am hiểu về kế toán và
chế độ kế toán, giỏi về nghiệp vụ và tốt về đạo đưc. Thường xuyên tổ chức các lớp rèn
luyện nâng cao kỹ năng, đạo đức, tính trung thực của nhân viên. Bên cạnh đó, cần chú
trọng vào chính sách lương thưởng của nhân viên, từ đó tạo ra động lực để nhân viên
làm tốt hơn, hiệu quả hơn.
- Đưa ra những hình phạt hợp lý, có tính răn đe với những cá nhân có ý đồ thực hiện
hành vi gian lận.
- Các khách hàng đến giao dịch với ngân hàng phải được thẩm định kĩ lưỡng.
- Nâng cao chất lượng hệ thống bảo mật thông tin, kiểm soát chặt chẽ thông tin và hồ
sơ của khách hàng.
Kết luận: Qua những vụ việc trên đây, có thể thấy, mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã
có văn bản pháp luật quy định rõ ràng về chế độ chứng từ kế toán ngân hàng nhưng

những vụ việc gian lận liên quan đến chứng từ kế toán ngân hàng đang có xu hướng
ngày một tinh vi, phức tạp, gây những hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng. Để giảm
21
thiểu được những hành vi gian lận ấy phải kết hợp tham gia hành động đồng bộ, chặt
chẽ từ cả 3 phía: các Ngân hàng thương mại, khách hàng của các Ngân hàng thương
mại và Ngân hàng Nhà nước. Bản thân các Ngân hàng thương mại cần tích cực và chủ
động hơn nữa trong việc phòng chống gian lận vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích
của các ngân hàng trong quá trình kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận.

×