Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

tiểu thuyết trung trung đỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.19 KB, 119 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiểu thuyết là thể loại quan trọng bậc nhất trong văn xuôi hiện đại, có
năng lực khám phá cuộc sống ở cả chiều sâu lẫn bề rộng. Nhìn chung trong
các thể loại văn học thì tiểu thuyết là một thể loại văn học còn tương đối trẻ,
dồi dào sức sống so với nhiều thể loại khác.
Văn học Việt Nam nói chung và văn xuôi nói riêng từ 1986 đến nay có
nhiều khởi sắc. Sự khởi sắc của văn xuôi thời kỳ tiền đổi mới và đổi mới có
sự đóng góp quan trọng của nhiều thể loại tiểu thuyết khác nhau: tiểu thuyết
phóng sự, tiểu thuyết triết luận, tiểu thuyết tâm lý xã hội, với hàng loạt các
tên tuổi như: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Chu Lai,
Lê Lựu, Nguyễn Trí Huân, và sau này là Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy
Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Xuân Khánh, Trung Trung
Đỉnh…Họ với những nỗ lực của riêng mình, đang ngày càng hoàn thiện và
có những đóng góp quan trọng, tạo nên một diện mạo mới cho tiểu thuyết
nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
Cùng với Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, …Trung Trung
Đỉnh được xem như một gương mặt đáng chú ý, đặc biệt là từ sau những
năm 1990. Khởi nghiệp bằng truyện ngắn đầu tay Những khấc coong chung
(1972) được in trên Tạp chí Văn Nghệ quân giải phóng miền Trung Trung
Bộ. Nhưng Trung Trung Đỉnh được biết đến nhiều hơn phải từ những năm
80 với các truyện ngắn Người trong cuộc (1980) và Đêm nguyệt thực (1982).
Trong lĩnh vực tiểu thuyết, mở màn với tác phẩm Những người không chịu
thiệt thòi (1982), đến cuối những năm 80 đầu những năm 90 Trung Trung
Đỉnh cho ra đời ba tiểu thuyết: Ngược chiều cái chết (1989), Tiễn biệt những
ngày buồn (1990) và Ngõ lỗ thủng (1990). Đó là khi ngọn gió đổi mới vừa
thổi lên trong nước, đầu óc con người thoát khỏi vòng bao cấp và thân phận
con người hiện lên trần trụi mong manh hơn, đáng trọng mà cũng đáng buồn
1
hơn trong cuộc sống thường ngày. Văn đàn Việt Nam trở nên sôi động, náo
nhiệt, đôi lúc quyết liệt trong một cơn chuyển mình lột xác.


Với ba tiểu thuyết, Trung Trung Đỉnh đã tạo cho mình một diện mạo
mới. Ông cố đi vào cái lõi của sự thật, buộc mình và độc giả của mình phải
cật vấn riết róng tại sao bao lâu nay mình sống như vậy. Dường như Trung
Trung Đỉnh đang gõ lên một tiếng chuông báo động và cảnh tỉnh những lỗ
thủng trong tâm hồn và nhân cách mỗi người.
Năm 1999, tiểu thuyết Lạc rừng ra đời. Tác phẩm đã đoạt giải của Bộ
Quốc Phòng và giải chính thức của cuộc thi viết tiểu thuyết của Hội nhà văn
1998 - 2000. Trung Trung Đỉnh là người có công rất lớn với Tây Nguyên. Từ
sau năm 1975 đến nay, ông là người viết về Tây Nguyên rất thành công với
Đêm nguyệt thực, Đêm trắng, Chóp trên đỉnh Kon Từng…và Lạc rừng là
những tác phẩm để đời của ông viết về mảnh đất này. Đó là một phần cuộc
sống, một phần tuổi trẻ của Trung Trung Đỉnh. Lạc rừng được coi là tác
phẩm thành công nhất của ông về đề tài chiến tranh và Tây Nguyên.
Gần đây nhất, năm 2008, Trung Trung Đỉnh xuất bản cuốn tiểu thuyết
Sống khó hơn là chết. Cuốn tiểu thuyết chưa đầy 200 trang là những ám ảnh
quá khứ của nhà văn, là sự trăn trở day dứt và đấu tranh cho những điều
tưởng dễ mà thật khó, chết là đi vào cõi vĩnh hằng, nhưng sống thì sống sao
cho ra sống, sống thế nào mới khó lắm thay.
Quan sát sự đổi mới của tiểu thuyết sau năm 1986, chúng ta thấy có
hai hướng nổi bật: Thứ nhất, đổi mới trên cơ sở tiếp thu kỹ thuật tiểu thuyết
của Phương Tây; thứ hai, đổi mới trên cơ sở truyền thống. Trung Trung Đỉnh
thuộc hướng thứ hai này.
Là một nhà văn đã trải qua chiến tranh và đang sống trong thời kỳ hậu
chiến, thành tựu lao động của Trung Trung Đỉnh đã được khẳng định trong
quá khứ và hiện tại. Tuy nhiên chúng tôi không có tham vọng lý giải một
cách thấu đáo tất cả mọi yếu tố thuộc cấp độ nội dung cũng như hình thức
2
nghệ thuật của tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh, mà chỉ có thể tập trung quan
tâm tới một số yếu tố thành công, đổi mới trên cơ sở kế thừa tiểu thuyết
truyền thống. Đây chính là lý do chúng tôi lựa chọn đề tài: Tiểu thuyết Trung

Trung Đỉnh.
2. Lịch sử vấn đề
Ngay khi còn là một anh lính huyện đội, Trung Trung Đỉnh đã từng làm
rất nhiều nghề: viết văn, đi chiếu bóng lưu động, làm công tác thư viện rồi sau
nay làm phóng viên, viết kịch bản phim truyền hình và hiện đang công tác tại
nhà xuất bản Hội nhà văn. Trong nghiệp văn của mình, Trung Trung Đỉnh
sáng tác ở cả lĩnh vực truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ. Dù là viết văn, làm báo,
hay viết kịch bản phim truyền hình Trung Trung Đỉnh luôn trăn trở, day dứt
về trạng thái sống và luôn hết mình qua những trang viết. Tác phẩm của ông
ngày càng chiếm được nhiều tình cảm của dư luận. Đã có khá nhiều bài viết
về Trung Trung Đỉnh và những tác phẩm của ông, song có thể khẳng định cho
đến nay chưa có một công trình khoa học nào đi sâu vào nghiên cứu về tiểu
thuyết Trung Trung Đỉnh một cách có hệ thống. Hầu hết các bài viết chỉ dừng
lại ở dạng giới thiệu, nhận xét sơ bộ, trình bày cảm xúc về tiểu thuyết hay
truyện ngắn nào đó của ông, trong đó Lạc rừng là tiểu thuyết dành được sự
quan tâm nhiều nhất của độc giả và giới nghiên cứu phê bình.
Trong số các bài viết về tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh có thể kể đến
một số ý kiến về những tác phẩm cụ thể sau:
Võ Hồng Ngọc trong bài giới thiệu về Tiễn biệt những ngày buồn trên
Báo Văn nghệ số 15 năm 1990 cho rằng: đây là một cuốn sách về bản thân
ngày hôm nay mà ở đó “chiến tranh vẫn hắt bóng xuống đời sống tinh thần
của các nhân vật, vẫn là một món nợ quá khứ đang day dứt ám ảnh họ khôn
nguôi. Các nhân vật trong Tiễn biệt những ngày buồn được khắc họa trong
bối cảnh của một cuộc “hành hương” gian lao để đi tìm lại chính mình”.
3
Tác giả bài viết còn cho rằng Tiễn biệt những ngày buồn, xét trong chỉnh thể
cấu trúc tác phẩm, là một cuộc thí nghiệm cách tân đáng khích lệ.
Xuất hiện gần như cùng thời điểm với Tiễn biệt những ngày buồn, tiểu
thuyết Ngõ lỗ thủng ngay khi ra đời cũng đã nhận được sự chú ý của dư luận,
nhưng phải cho đến tận khi hai tiểu thuyết này được chuyển thể thành kịch

bản phim truyền hình Ngõ lỗ thủng của đạo diễn Trần Quốc Trọng thì nó
mới thực sự nhận được nhiều sự quan tâm. Tác phẩm là cái nhìn trực diện
mổ xẻ vết thương bao cấp, một góc nhìn về quá khứ - thời điểm khó khăn
của đất nước khi chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Những
ảnh hưởng sâu sắc về nhận thức xã hội, mối quan hệ giữa người với người.
Bản thân nhà văn tâm sự rằng: “Tôi viết Ngõ lỗ thủng và Tiễn biệt những
ngày buồn là để viết về những con người một thời chỉ tin vào những tình
cảm trong sáng. Nói là tiễn biệt những ngày buồn nhưng thực chất là lưu
giữ nó, gặm nhấm nó như một vết sẹo trong tâm hồn trong ký ức” [41]. Tuy
nhiên do đề cập đến những vấn đề nhạy cảm của thời bao cấp nên khi ra đời
tác phẩm chưa được đưa nhiều lên các diễn đàn văn nghệ. Chỉ đến khi được
chuyển thể thành phim truyền hình, với một độ lùi nhất định về lịch sử so với
thời điểm mà nó ra đời, tác phẩm đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá. Hầu
hết những nhận xét đều cho đó là những “ký ức đau buồn, một quãng lùi
sòng phẳng”. Tuy nhiên như tác giả nói “tôi viết là để lưu giữ những ngày
buồn”, để chúng ta sống tốt hơn ngày hôm nay cho dù quá khứ đó không dễ
gì quên được.
Phạm Xuân Nguyên trong bài viết Người báo động ngõ lỗ thủng được
in trên báo Văn nghệ năm 1998 đã có sự đánh giá, nhận xét tổng quát về ba
tiểu thuyết của Trung Trung Đỉnh: Ngược Chiều cái chết, Tiễn biệt những
ngày buồn, Ngõ lỗ thủng. Ông cho rằng “Trung Trung Đỉnh đã rung lên hồi
chuông báo động: Lỗ Thủng! những trang sách của anh gợi mở cho chúng
ta thấy các lỗ thủng đó như thế nào, tại sao lại sinh ra lỗ thủng trong cuộc
4
sống, trong con người, làm thế nào để bít lỗ thủng ấy lại. Như là tâm sự giãi
bày, như là cật vấn tra hỏi anh đã khơi được một độ sâu đáng kể của vấn đề
trên một số lượng trang không nhiều”.
Năm 1999, Trung Trung Đỉnh cho ra đời cuốn tiểu thuyết Lạc rừng và
đoạt liền hai giải của Bộ Quốc Phòng và Hội nhà văn. Tác phẩm đã nhận
được rất nhiều sự quan tâm của giới phê bình và độc giả. Một tác phẩm đậm

nét Tây Nguyên là bài viết của tác giả Phạm Quang Đẩu khi viết về Lạc
Rừng. Tác phẩm miêu tả trực diện về người du kích Tây Nguyên thời chống
Mỹ. Phạm Quang Đẩu cũng đánh giá cao việc lựa chọn tình tiết, sử dụng
ngôn ngữ và kết cấu của tác phẩm.
Trên báo Người Hà Nội nguyệt san số 5 tháng 5 năm 2000, Hoàng
Hoa với bài viết Lạc Rừng giao thoa không cùng tần số. Tác giả cho rằng
Lạc Rừng - sự hội ngộ lạ lùng của văn hóa. Văn hóa của người Ba Nar, văn
hóa của người Kinh với văn hóa Phương Tây. Tác phẩm mang phẩm chất
của thể loại phiêu lưu. Sự phiêu lưu thể hiện ở sự va đập trong cách ứng xử
của người lính trẻ trước hoàn cảnh và bị hoàn cảnh, số phận xô đẩy.
Lạc Rừng mà tìm được hướng đi là tiêu đề bài viết của Thanh Thảo về
tác phẩm này. Tác giả đánh giá cao cách xây dựng tình huống truyện và giọng
điệu của tác phẩm. “Sức mạnh và sức thuyết phục lớn của Lạc Rừng là tác giả
đã không hề giấu diếm con người thật của nhân vật chính xưng tôi” [67].
Trung Trung Đỉnh là một trong số ít những nhà văn hầu như chỉ viết
về Tây Nguyên, về cuộc chiến đấu ngoan cường của các dân tộc trên vùng
đất này trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Chính vì vậy tác giả Trần Bảo
Hưng đã có bài viết Lạc Rừng và hình ảnh những người dân Tây Nguyên
trong kháng chiến chống Mỹ. Ông cho rằng với Lạc Rừng Trung Trung Đỉnh
đã khắc họa một cách tự nhiên mà dung dị, sâu sắc cuộc chiến đấu toàn dân
toàn diện của đồng bào Tây Nguyên. Bằng một giọng văn thô ráp mà chắc
nịch, Lạc Rừng đã hấp dẫn người đọc không chỉ ở việc tái hiện cuộc chiến
5
đấu ngoan cường của đồng bào Tây Nguyên một cách sinh động mà còn có
những trang mô tả những phong tục tập quán, những sinh hoạt văn hóa đặc
sắc của người dân nơi đây như uống rượu cần, nhảy múa…
Đọc Lạc Rừng, người đọc có cảm giác như lạc vào một thế giới cổ
tích. Nguyễn Chí Hoan trong bài viết Giống như chuyện cổ tích xa xưa mà
hiện đại cũng đánh giá cao cách xây dựng tình huống truyện, giọng điệu
cũng như cảm giác chân thật mà tác phẩm đem lại [39]. Trung Trung Đỉnh

đã từng tâm sự rằng Lạc rừng chính là cuốn sách mà ông viết về thân phận
con người, về một phần tuổi trẻ, về vùng ký ức thường xuyên ám ảnh của
ông. Có lẽ vì thế mà đọc tác phẩm của ông, ta luôn cảm nhận được sự chân
thật, sức hấp dẫn từ những tình huống, cũng như tâm lý của nhân vật. Qua
những truyện ngắn Thung lũng Đá Hoa (1979), Người trong cuộc (1980),
Đêm nguyệt thực (1982) cho đến các tiểu thuyết Ngược chiều cái chết, Tiễn
biệt những ngày buồn, Ngõ lỗ thủng…nhưng phải đến Lạc rừng người ta
mới thấy cái nhìn của tác giả có tầm hơn đồng thời với lúc văn chương của
ông có lực hấp dẫn hơn.
Năm 2008, Trung Trung Đỉnh cho ra đời tiểu thuyết Sống khó hơn là
chết. Có lẽ thời gian xuất hiện còn ngắn nên tác phẩm chưa nhận được
nhiều sự chú ý. Sống khó hơn là chết có lai lịch thật đặc biệt. Phần đầu
truyện được viết từ đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, phản ánh cuộc sống
mà hôm nay chúng ta nhìn lại như là chuyện cổ tích. Phần sau là cõi thực
được viết vào những ngày gần đây, những năm của đời sống hiện đại. Trên
tờ Thể thao & Văn hóa, Dương Bình Nguyên cho rằng Sống khó hơn là
chết không phải là thành công cỡ Lạc rừng, cũng khác nhiều so với bốn tiểu
thuyết còn lại nhưng tác phẩm đi vào sự tinh giản, tưởng nhẹ mà rất buồn,
tưởng giản đơn mà không phải vậy. Đó là sự trằn trọc về nhân tình thế thái
của nhà văn. Dường như chính ông cũng đang phân vân vào sự lạc chốn
thành thị của mình.
6
Sống hơn là chết vẫn là những day dứt, ám ảnh về thân phận con
người, vẫn là những ký ức về chiến tranh và Tây Nguyên. Bản thân tên
truyện đã mang đầy tính triết lý mà Trung Trung Đỉnh muốn gửi gắm tới
bạn đọc.
Trong toàn bộ sáng tác của Trung Trung Đỉnh, bên cạnh truyện ngắn,
ký, thì thể loại tiểu thuyết đã góp phần rất lớn trong việc khẳng định tên tuổi
của nhà văn trên văn đàn Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Trong đó Lạc
Rừng là sự thành công có ý nghĩa lớn đối với sự nghiệp sáng tạo của ông.

Chính vì vậy trong đề tài nghiên cứu của mình, chúng tôi cố gắng tìm hiểu
một cách bao quát toàn bộ tiểu thuyết của Trung Trung Đỉnh, trên hai
phương diện nội dung và nghệ thuật.
3. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài muốn phát hiện những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ
thuật trong tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh, từ đó khẳng định đóng góp của
nhà văn đối với quá trình vận động văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới.
- Luận văn là công trình đầu tiên khảo sát nghiên cứu một cách toàn diện,
hệ thống toàn bộ sáng tác của Trung Trung Đỉnh, đặc biệt là tiểu thuyết
nhằm ghi nhận sự cách tân trên nền truyền thống của nhà văn trong thực tiễn
sáng tạo nghệ thuật.
4. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu
Trung Trung Đỉnh có một số lượng tác phẩm khá phong phú. Trong
khoảng 40 năm vừa làm báo vừa sáng tác văn học, ông cho ra đời 5 tập
truyện ngắn, 6 tiểu thuyết và một số tập ký.
Vừa viết truyện ngắn, bút ký, vừa sáng tác tiểu thuyết, ở mỗi thể loại
ông đều có những thành công nhất định. Do yêu cầu đặt ra của đề tài, chúng
tôi chỉ khảo sát sáu tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh. Trong số đó tiểu thuyết
Những người không chịu thiệt thòi chúng tôi nhận thấy chưa có đánh giá
chung nhất về tác phẩm này. Vì vậy chúng tôi không lấy Những người không
7
chịu thiệt thòi làm đối tượng khảo sát chính, mà xem như một tác phẩm để
tham khảo.
5. Đóng góp của luận văn
Với luận văn này, lần đầu tiên tiểu thuyết trung Trung Đỉnh được khám
phá trong tính chỉnh thể của nó. Từ đó, luận văn góp phần chỉ ra được những
đặc trưng riêng, những sáng tạo độc đáo và những đóng góp của nhà văn vào
nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ khoa học của đề tài, luận văn vận dụng tổng hợp

một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp cấu trúc hệ thống
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích tác phẩm
- Phương pháp tổng hợp
7. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Quan niệm nghệ thuật mới về con người trong tiểu thuyết
Việt Nam sau 1975
Chương 2: Các loại nhân vật chính
Chương 3: Nghệ thuật tổ chức trần thuật
8
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT MỚI VỀ CON NGƯỜI
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975
1.1. Sự thay đổi trong tọa độ soi ngắm con người
Trong nghệ thuật nói chung và trong văn học nói riêng, con người là
đối tượng nhận thức trung tâm. Là thước đo cho sự tiến bộ nghệ thuật từ
xưa đến nay, là cái đích để văn học hướng tới. Con người là “hệ quy chiếu
ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật”. Chính con người đóng một vai trò
quan trọng trong nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Khi đánh giá
thành tựu của một nền văn học hay một xu hướng, một tác giả, một giai
đoạn văn học chúng ta không thể không quan tâm đến quan niệm nghệ
thuật về con người của nền văn học ấy. Chẳng hạn, khi nói về văn học thời
kỳ Phục hưng người ta nói đến Bôcaxiô như một bậc tiên khu, vì ông là một
trong những nhà văn đầu tiên bằng tác phẩm của mình (Mười ngày) đã đưa
ra một quan niệm mới mẻ, tiến bộ về con người. Đó là con người của cuộc
sống trần thế, con người với những hành vi và ý thức bản năng. Trong văn
học Việt Nam, thiên tài Nguyễn Du được đánh giá cao, trước hết là sự ghi

nhận chủ nghĩa nhân đạo trong quan niệm về con người của ông. Đến thời
kỳ hiện đại, nếu được phép dẫn chứng một trường hợp cụ thể không thể
không nhắc đến Nam Cao. Tác phẩm của ông là sự nhức nhối về thân phận
con người với những ước mơ hoài bão, đấu tranh vật lộn và khao khát vươn lên
để sống sao cho người nhất.
Nghiên cứu Văn học hiện đại xem toàn bộ sự miêu tả về nhân vật như
là một cái biểu đạt, là sự biểu hiện của trình độ cảm nhận về con người, từ đó
phân tích nhân vật để tìm hiểu quan niệm về con người trong ý thức sáng tác.
Vì vậy quan niệm nghệ thuật về con người là cơ sở chắc chắn nhất khi
9
nghiên cứu tính độc đáo của sáng tạo nghệ thuật. Tuy nhiên trong mỗi thời
kỳ, con người được tiếp cận ở những góc độ khác nhau. Chính sự khác nhau
đó đã làm nên tính sự phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc cho văn học nói
riêng và nghệ thuật nói chung nhằm hướng đến cái đích là khám phá ngày
càng sâu sắc hơn về con người như nó tự cảm thấy trong tự nhiên, xã hội và
lịch sử với tất cả sự phong phú, tinh tế.
1.1.1. Con người trong văn xuôi trước 1975
Văn học giai đoạn 1945-1975 phát triển trong hoàn cảnh đặc biệt của
cuộc chiến tranh vệ quốc. Nó không thể không bị chi phối bởi những quy
luật bất thường. Chiến tranh đặt vấn đề sống còn của dân tộc lên trên hết,
mọi quyền lợi, mọi ứng xử phải nhìn theo quan điểm “địch - ta”, sự thống
nhất muôn người như một trở thành một nguyên tắc tối thượng. Để phục vụ
cho những nhiệm vụ chính trị, văn học đã tập trung mọi cố gắng vào việc
giáo dục, đào tạo con người mới. Cá nhân tự hòa quyện trong cộng đồng
“Con người giải quyết mọi bi kịch, mọi vướng mắc cá nhân là hướng về
cách mạng và cộng đồng”. Phát hiện con người cộng đồng trong mỗi cá
nhân, con người như sản phẩm hoàn hảo của hiện thực cách mạng là cống
hiến của văn học với tư cách là một mặt trận tư tưởng. Nhà văn thông qua
con người để biểu hiện lịch sử. Con người trở thành phương tiện để khám
phá lịch sử và được nhận thức, đánh giá theo tiêu chí giai cấp. Từ những

mối quan hệ cho đến bản ngã của mỗi cá nhân đều được nhìn nhận theo
chuẩn mực chung. Nền văn xuôi 1945- 1975 đem lại ấn tượng về con người
có thể biết trước. Nhà văn nhìn con người chủ yếu như một ý thức chính trị
vận động hợp quy luật lịch sử. Cảm hứng sử thi và khuynh hướng lãng mạn
đã tạo dựng lên những con người đẹp đẽ và hoàn hảo. Trên thực tế chúng ta
không thể phủ nhận sự trưởng thành của văn học từ chống Pháp đến chống
Mỹ. Đó là sự thể hiện con người ngày càng trưởng thành hơn, sâu sắc và
đầy đặn hơn. Nhưng do chiến tranh kéo dài, nhiều nguyên tắc nhất thời trở
10
thành quy phạm, hạn chế không nhỏ khả năng sáng tạo của văn học trong
đó có quan niệm về con người.
Tiến sĩ Niculin người Nga đã nhận xét nhân vật của Nguyễn Minh Châu
dường như luôn được nhà văn “tắm rửa sạch sẽ”, “được bao bọc trong một
bầu không khí vô trùng”. Điều này đúng với hầu hết các nhân vật tích cực của
văn xuôi trước 1975. Cái nhìn lý tưởng hóa lúc ấy đáp ứng yêu cầu chính trị
và chuẩn mĩ thời đại. Con người có lý tưởng cao cả, con người quên “cái tôi”
riêng, hi sinh cho cái chung một cách thanh thản, nhẹ nhõm, con người nhiều
khát vọng cống hiến, ít nhu cầu hưởng thụ trở thành hình mẫu phổ biến (như
Nhẫn – Cỏ non, Biển – Tầm nhìn xa, Nam – hãy đi xa hơn nữa, Nguyễn Văn
Trỗi – Sống như anh…). Trong dòng thác các biến cố cách mạng, con đường
đổi đời, giác ngộ và trưởng thành về ý thức chính trị, ý thức công dân của mọi
người dân như Mị và A Phủ (Vợ chồng A Phủ), Út Tịch (Người mẹ cầm
súng), Mẫn (Mẫn và tôi) …là cái tất yếu được biết trước và đoán trước. Nếu
diễn đạt theo M. Bakhtin thì đó là quan niệm con người kiểu sử thi. Văn học
Việt Nam từ 1945 đến 1975 đậm chất sử thi, ở đó con người luôn “khoác bộ
áo xã hội”, luôn “trùng khít với địa vị xã hội của mình”, “nó là con người đơn
trị dễ hiểu, đẹp đến mức hoàn hảo, thánh thiện”.
Trong giai đoạn văn học này những tác phẩm nào có phần nặng nề, có
hơi hướng bi kịch hoặc mang những tâm trạng buồn thương, day dứt, phức
tạp thường không nhận được sự đồng tình ủng hộ. Chú ý tới biến cố lịch sử

hơn là sự quan tâm đến con người, coi trọng con người tập thể, con người
của sự nghiệp chung hơn là con người cá nhân với những vấn đề riêng tư của
nó. Tất cả những ngộ nhận, ấu trĩ dẫn đến một quan niệm đơn giản, dễ dãi về
con người, nhìn con người vừa theo công thức lại vừa lý tưởng hóa sẽ được
nhìn nhận một cách thấu đáo và có sự thay đổi mạnh mẽ trong văn học giai
đoạn sau 1975.
11
1.1.2. Con người trong văn xuôi sau 1975.
Chiến thắng 30/4/1975, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân
tộc Việt Nam. Bước qua cuộc chiến tranh, dân tộc ta phải đối mặt với biết
bao khó khăn của cuộc sống thời hậu chiến. Thực tế ấy đã làm thay đổi nếp
nghĩ và những quan niệm trước kia được coi là chuẩn mực. Những vấn đề
mà người ta có thể gạt ra phía sau để ưu tiên cho cái lớn lao, cao cả của dân
tộc, thì giờ đây nó thúc ép, đe dọa con người, buộc mỗi người phải lưu tâm
giải quyết. Những tiêu chuẩn và quan niệm về giá trị con người cũng được
nhìn nhận và đánh giá lại trong bối cảnh của cuộc sống đời thường. Nhà văn
không thể nhìn nhận con người bằng cảm hứng lãng mạn cách mạng và cảm
hứng anh hùng ca như thời kỳ chiến tranh. Lúc này trong văn chương không
thể cứ lý tưởng hóa như “thần thánh nói chuyện với nhau” mà nhà văn phải
có một quan niệm đầy đủ hơn về hiện thực và con người. Con người được
khám phá như một cá thể phức tạp, có số phận riêng, với cả thế giới tinh thần
phong phú, đặt trong quan hệ con người với con người, con người với tự
nhiên, và con người với xã hội.
Những năm đầu sau đại thắng mùa xuân năm 1975, nhiều tác phẩm
văn học viết về đề tài chiến tranh ra đời, vấn tiếp mạch cảm hứng ngợi ca
những anh hùng trong chiến đấu: Nắng đồng bằng (Chu Lai), Trong cơn gió
lốc (Khuất Quang Thụy), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh) ….Nét mới về
những đề tài chiến tranh thời kỳ này là con người vẫn được nhìn nhận dưới
con mắt sử thi. Nhưng tác giả đã đặt nhân vật trong những môi trường, hoàn
cảnh khác, nhằm khai thác tâm lý nhân vật. Nhà văn có cái nhìn bình tĩnh và

nghiêm túc hơn về cuộc chiến tranh, về sự biến đổi trong tính cách của con
người. Nhiều vấn đề, sự kiện mà trước đây còn nằm trong vòng cấm địa nay
được tiếp cận và khám phá. Mỗi người đều phải đối diện với thực tế, với
chính mình cùng với số phận cá nhân trong cuộc sống đời thường. Sự trở về
với cuộc sống đời thường làm thay đổi những quan niệm nghệ thuật về con
12
người trong những sáng tác thời kỳ này. Đó là con người cá nhân và chính
con người cá nhân đó vừa là đối tượng phản ánh của nghệ thuật, vừa là
chuẩn mực để nhà văn đánh giá. Các nhà văn khám phá sâu hơn “cái bản thể
nằm ở chiều sâu tâm hồn con người”.
Nếu như trước 1975, các nhà văn có thiên hướng minh họa con người
theo tiêu chí giai cấp, lựa chọn nhân vật điển hình, chú trọng tính chung sao
cho phù hợp với quan điểm về sự vận động tích cực và tất yếu của đời sống
thì văn xuôi sau năm 1975 dần dần quan tâm đến con người ở tư cách cá nhân
như một “nhân vị” độc lập. Cá nhân mỗi con người được xem xét ở mọi phía,
nhiều “tọa độ” với những khía cạnh khác nhau. Con người như nó vốn có
trong hiện thực, trong cuộc đời là đối tượng phản ánh của văn học sau 1975.
Theo thời gian, hình ảnh con người công dân, con người cộng đồng
trong văn học kháng chiến dần nhường chỗ cho những con người bình
thường trong cuộc sống. Đây đồng thời cũng là thời kỳ đột phá của văn xuôi,
trong đó tiểu thuyết là một thể loại nghệ thuật giữ vai trò quan trọng trong
một nền văn học. Không chỉ bởi sức mạnh nghệ thuật của nó mà còn ở tầm
bao quát về bề rộng cũng như chiều sâu trong phản ánh hiện thực. Do vậy
trước yêu cầu của cuộc đổi mới văn học, nhiều cuốn tiểu thuyết đã ra đời.
Những cây bút tiêu biểu trong văn học trước đây như Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê Lựu cùng nhiều tác giả xuất hiện sau như
Bảo Ninh, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường…đã khiến cho tiểu thuyết
“niềm hi vọng của thế kỷ” tạo ra nhiều phong cách sáng tạo, có giọng điệu
riêng. Với Thời xa vắng (Lê Lựu), Thân phận tình yêu (Bảo Ninh), Bến
không chồng (Dương Hướng), Đám cưới không giấy giá thú (Ma Văn

Kháng) … đã chứng tỏ sự chuyển đổi trong tư duy sáng tạo của nhà văn.
Nhà văn đã nhận diện hình ảnh con người đích thực với nhiều kiểu dáng đa
dạng trong sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, con người tâm linh và
con người xã hội.
13
Phát hiện con người phức tạp, con người lưỡng diện, con người không
nhất quán với mình, có thể nói ở giai đoạn lịch sử mới, các nhà văn đã có
những chuyển hướng trong nhận thức, tư duy về bản thể con người. Các nhà
tiểu thuyết Việt Nam đã phá vỡ cái nhìn đơn phiến, tĩnh tại để tạo ra một cái
nhìn phức tạp hơn đa chiều hơn và vị thế sâu sắc hơn. Khắc họa chân dung
những con người vừa đời thường, trần thế vừa đẹp đẽ thánh thiện, luôn khao
khát cái đẹp và hướng tới cái thiện. Đó cũng là nét nổi bật mang đậm chất
nhân văn khi nhìn nhận về con người Việt Nam sau 1975.
1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Trung
Trung Đỉnh
Quan niệm nghệ thuật về con người được xem là “toàn bộ cái nhìn và
sự miêu tả về con người bằng các biện pháp nghệ thuật”. Trong quan niệm
nghệ thuật có cái chung của thời đại, của dân tộc và của cả nền văn hóa, song
lại có vai trò năng động sáng tạo của mỗi cá nhân người nghệ sĩ. Ở các nhà
văn, sự hình thành quan niệm nghệ thuật có một vai trò đặc biệt quan trọng
trong cá tính sáng tạo, thế giới quan và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.
Nguyễn Minh Châu, nhà văn quân đội, người từ trong cuộc chiến đi ra, một
trong những tác giả tiên phong thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người.
Ông không nhìn con người một chiều mà nhìn con người ở nhiều mối quan
hệ phức tạp. Con người tự thú con người thức tỉnh, con người sám hối, con
người bản năng tính dục. Con người luôn khao khát vươn tới cái chân – thiện
– mỹ, tiêu biểu là: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Phiên chợ Giát,
Dấu chân người lính, Khách ở quê ra…
Nhắc đến văn học đương đại không thể không nhắc đến Nguyễn Huy
Thiệp, một cây bút độc đáo, một hiện tượng văn học đã làm “vang bóng một

thời”. Với giọng văn sắc lạnh, gai góc, xương xẩu đến tàn nhẫn tác giả đã
đào bới, xới tung những mảng tối, những góc khuất của mỗi thời, của cuộc
đời và của xã hội. Nguyễn Huy thiệp trăn trở nhiều về đời tư và thế sự, tình
14
yêu và thù hận, sự sống và cái chết nhưng bao giờ cũng để ngỏ kết thúc.
Chính vì vậy nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp luôn luôn sống
trong những ốc đảo cô đơn, đau khổ đến tột cùng, đến bất tận, đó là nét đặc
sắc trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Với mỗi nhà văn có quá trình sáng tác trải dài qua nhiều giai đoạn thì
quan niệm nghệ thuật về con người cũng có nhiều biến đổi. Qúa trình này
diễn ra từ từ, thấm dần, ngấm dần trong tư tưởng và suy nghĩ của mỗi nhà
văn và được thể hiện trên nhiều trang viết. Quan niệm nghệ thuật về con
người luôn hướng con người trong mọi chiều sâu của nó, cho nên đây là tiêu
chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị nhân văn vốn có của văn học.
1.2.1. Con người đa diện
L. Tônxtôi từng ví “con người như dòng sông” Nước trong mọi con
sông như nhau và ở đâu cũng thế cả nhưng mỗi con sông khi thì hẹp, khi
chảy xiết, khi thì rộng, khi thì êm, khi thì trong veo, khi thì lạnh, khi thì đục,
khi thì ấm. Con người cũng như vậy. Mỗi con người mang trong mình những
mầm mống của mọi tính chất con người và khi thì thể hiện tính chất này, khi
thì thể hiện những tính chất khác và thường là hoàn toàn không giống bản
thân mình tuy vẫn cứ là chính mình”. Ý kiến này vừa chỉ ra tính chất phong
phú, phức tạp của con người với tư cách cá nhân, vừa cho thấy cả tính nhân
loại với tư cách “giống”, “loài” mà tự nhiên nhào nặn. Con người vốn phức
tạp như thế cho nên không thể dùng một tiêu chí giá trị cố định mà đo đếm
nó. Mọi sự lý tưởng hóa con người đều sẽ trở nên giả dối. Văn học chống
Pháp, chống Mỹ gắn với cảm hứng ngợi ca, con người xả thân vì nghĩa lớn,
ý nghĩa của cuộc đời gắn với cộng đồng, con người sống với cái “ta” to lớn.
So với giai đoạn văn học trước thì ở giai đoạn văn học sau 1975, con người
hiện lên đa diện, phức tạp và đầy bí ẩn. Con người ý thức nhìn lại chính

mình. Văn học không còn hô hào, nói về cái lớn lao mà đào sâu vào cái “tôi”
bản thể, cái lẩn khuất bên trong được khui mở. Bằng nhiều cách khác nhau,
15
các nhà văn đã hướng vào thế giới nội cảm, khám phá chiều sâu tâm linh,
thấy được trong mỗi cá nhân những cung bậc cảm xúc. Chính vì vậy, tiểu
thuyết nhanh nhạy trong cách tiếp cận và phản ánh cuộc sống con người dưới
cái nhìn đa kích.
Milan Kundra nói rằng “con người là hiền minh của lưỡng lự”. Trong
cuộc sống, con người luôn phải tự đấu tranh, tự dò dẫm trong muôn ngàn ngã
rẽ của cuộc đời. Nhà văn là người đau đời nhất vì thiên chức của nhà văn là
làm cho con người sống người hơn, bởi trong mỗi con người ta luôn thấy tồn
tại hai mặt đẹp - xấu, thiện - ác, cao thượng- thấp hèn, yêu – ghét, vui - buồn,
trong sáng - tối tăm, hạnh phúc - khổ đau, tự nhiên - xã hội. Ở đó con người
luôn đứng ở ranh giới mong manh, nếu không khéo sẽ bị kéo về phía con
người tự nhiên hoặc ngược lại, về phía con người xã hội. Đò ơi của Nguyễn
Quang Lập, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, Biển cứu rỗi của Võ
Thị Hảo thể hiện rất rõ điều này.
Hầu hết những sáng tác của Trung Trung Đỉnh tập trung từ sau đổi
mới. Khi hoàn cảnh đất nước đã có nhiều thay đổi. Thực tiễn ồ ạt và phức
tạp tuân theo những quy luật của một nền văn học dân chủ đã làm biến đổi
mạnh mẽ những quan niệm cũ. Trên cơ sở đó, tư duy sáng tạo của Trung
Trung Đỉnh đã có những thay đổi nhất là ở phương diện quan niệm nghệ
thuật về con người. Bên cạnh nhân vật người lính đã quá quen thuộc trong
tác phẩm của ông thì những số phận con người thành bại, được mất, bất trắc,
đổ vỡ trong cuộc sống đời thường, những tâm trạng giằng xé, những khắc
khoải nội tâm, những xung đột trong tư tưởng, nhận thức và tâm hồn, kể cả
bi kịch nỗi đau mất mát cô đơn, tâm linh tiềm thức với tư cách là một con
người cá thể là những vùng đất mà Trung Trung Đỉnh tập trung thể hiện.
Có lẽ xuất thân từ một người lính và trưởng thành trong chiến tranh
nên hầu như tác phẩm nào của Trung Trung Đỉnh cũng có nhân vật người

lính. Chỉ có điều người lính chiến thắng, người anh hùng vẹn toàn của văn
16
học trước đây giờ đã thay đổi. Bây giờ người lính cũng chỉ là con người bình
thường, thậm chí kém cỏi hơn người thường vì đã để lại phần tuổi trẻ ở chiến
trường, đã chưa kịp học lấy một nghề thực sự ngoài việc cầm súng. Và gay
go hơn là họ đã quen với những chuẩn mực ứng xử trong thời chiến, chưa hề
và không thể thích nghi ngay với cái thực tại phức tạp, gai góc nhiều cạm
bẫy, với những con người tưởng quen thân mà đa đoan, đa sự. Nhân vật
người cha trong Ngược chiều cái chết đã từng là người lính chiến thắng khi
lãnh đạo buôn làng đánh Mỹ nhưng trở về với cuộc sống đời thường, với vị
trí bí thư huyện ủy ông lại mắc những sai lầm ấu trĩ, những quan niệm cũ kỹ,
lỗi thời, do kinh nghiệm chỉ rút ra từ bản thân và tính bảo thủ, để rồi phải trả
giá bằng chính tính mạng của con trai mình - Rơ Lan Thương. Ông đã từng
tuyên bố rất mạnh là làm cách mạng bây giờ dù khó đến mấy cũng không
khó bằng đánh Pháp, đuổi Mỹ. Đánh được Pháp, Mỹ rồi thì việc gì cũng làm
được. Nhìn lại những tác phẩm viết về chiến tranh của ta trước đây, các nhân
vật thường khi có khuynh hướng một chiều, thường là quá tốt. Vì ý thức cổ
động kháng chiến một phần, phần khác là do quan niệm sơ lược về người
anh hùng … những đặc điểm đó bắt buộc chúng ta phải tạm gác những sự
thực đau lòng, những thất thiệt, những mặt tính cách nào đó của con người
không trực tiếp tạo nên chiến thắng. Khi hiện thực không đơn giản xuôi
chiều như trước thì quan niệm về con người cũng đa chiều và phức tạp hơn.
Do đó nhân vật người lính được khám phá, thể hiện toàn diện hơn với cả hai
phần sáng và tối, cao cả và thấp hèn, mạnh mẽ và nhỏ bé. Ron, Xoay, Luân,
Hà trong Tiễn biệt những ngày buồn, họ thuộc tuýp người duy cảm. Đều là
những người lính khoác ba lô từ các mặt trận trở về thủ đô, rồi tiếp tục lao
vào một cuộc chiến đấu khác, một cuộc chiến đấu vô cùng phức tạp mà
người lính không thể hình dung hết đó là cuộc chiến cơm, áo, gạo, tiền. Nhà
văn tập trung vào khai thác bản tính thiện, bản tính cao đẹp của người lính.
Họ kiên quyết không chịu khuất phục cái ác. Họ tin tưởng tuyệt đối vào bản

17
tính thiện của cuộc đời. Một nhóm bạn quanh năm suốt tháng chỉ tin vào tình
cảm. Trong suy nghĩ của những con người này, mọi vấn đề chỉ được giải
quyết tốt đẹp bằng tình cảm. Tình cảm cứu rỗi con người và họ chiến đấu
đến cùng bằng niềm tin ấy. Té ra cuộc sống quả có đúng là thế, nhưng thực
tình thì nó không đơn giản thế. Ví như vì lòng tốt mà Xoay vô tình phát hiện
ra vàng của bà Điếc là vàng giả, anh thực sự đau đớn hô hoán lên, giá như
anh khôn khéo hơn thì có trăm ngàn cách làm yên lòng được cuộc đời đau
khổ của bà. Ví như việc đi xin việc cho Sương, các anh thực tế hơn, linh hoạt
hơn thì mọi việc có lẽ đã khác. Xoay đã phải chạy trốn thực tại khi anh cảm
thấy bế tắc. Rồi bà Mão, người chị nuôi cũ trở về bằng thân tàn ma dại, chỉ
vì suốt đoạn đời cuối bà không xác định được cho đúng hoàn cảnh của mình,
nên mới ném tiền, ném bạc, ném toàn bộ cơ ngơi vào cúng lễ, bói toán. Rồi
anh Ron, một thời làm thủ kho liêm khiết, với những đức tính như cẩn thận,
sạch sẽ do nhiều năm phục vụ cấp trên, cái uy thì thật là oai. Song anh lại là
người chỉ biết chấp hành, không biết tự lo cho tương lai của mình bằng cách
học hành nâng cao kiến thức, thói sính giấy khen, thích khoe mình làm việc
ở mãi trên cơ quan đầu não, cái gì cũng ỉ vào cấp trên, ỉ vào tổ chức, đến khi
vợ ốm, con đau, cơ chế cũ lỗi thời, cơ chế mới chưa hình thành, trình độ văn
hóa thấp, trình độ chuyên môn chẳng có gì, anh thành kẻ ngồi chơi xơi nước.
Có thể nói, Ron là nhân vật có số phận bi thảm nhất trong tác phẩm, con
chết, bị ép về mất sức, sụp đổ niềm tin. Với độ lùi về thời gian, với sự thay
đổi về quan niệm con người, văn học sau năm 1975 muốn nhìn thẳng vào số
phận người lính một cách điềm tĩnh và trung thực. Cuộc chiến thời bình với
cơm, áo, gạo, tiền, danh vọng, địa vị cũng ác liệt không kém gì thời chiến
nếu con người không tỉnh táo để kịp thích ứng và thay đổi.
Chiến tranh là môi trường thử thách con người một cách ghê gớm.
Nhưng hòa bình với cuộc sống đời thường cũng không ít người sa ngã trước
cám dỗ của vật chất và danh vọng. Khoái (Tiễn biệt những ngày buồn) cũng
18

là một người lính trở về sau chiến tranh nhưng anh ta lại là một con người
lọc lõi, biết lợi dung thời cơ để đi lên, sống ích kỷ, không tin vào bất cứ điều
gì, kể cả những điều mà người khác rất tin.
Gặm nhấm quá khứ, luôn tìm về quá khứ như là chốn bình yên nhất để
trốn tránh thực tại nghiệt ngã, nhưng nhân vật người lính trong tiểu thuyết
Sống khó hơn là chết của Trung Trung Đỉnh cũng không thoát khỏi sự dằn
vặt đau đớn, những đấu tranh nội tâm gay gắt giữa cái tốt –xấu, con người
bản năng, tự nhiên - con người xã hội, những xót xa và cả sự bất lực trước
hiện thực đang diễn ra. Trong con người tưởng chừng như cao thượng, tốt
đẹp vẫn có sự thấp hèn, vẫn tồn tại sự ích kỷ hẹp hòi. Số phận của những
người lính tham gia chiến tranh còn sống sót trở về chưa hẳn tất đã may mắn
hơn những người đồng đội của mình đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường.
Người thì đuối sức hết hơi trong cuộc đua cơm áo gạo tiền, người thì nén
mình lại trong khuôn khổ một cuộc sống điều độ xo ro thảm hại với cái công
thức “chân ngoài chân trong”. Có kẻ thoái hóa biến chất, dấn sâu vào hưởng
lạc với cái lý sự xem ra khá đảm bảo: sống thì phải biết hưởng thụ biết hi
sinh. Phần hi sinh ta đã làm rồi bây giờ phải hưởng thụ. Số khác thì cố quên
ngay đi những gì tưởng như là máu thịt với người lính “chiến trường”. Tín
trong Tiễn biệt những ngày buồn nói bằng giọng mỉa mai “sao lúc nào các
bố cũng chiến trường mãi được nhỉ? người ta đã quên nó từ lâu rồi. Dẹp lối
tư duy cũ mèm ấy đi” [21;252].
Như vậy nhân vật người lính trong cái nhìn thế sự đã được khám phá
từ nhiều khía cạnh mới. Sau năm 1975, từ một quan niệm phi sử thi, từ một
cái nhìn đa chiều về hiện thực, nhân vật người lính không còn được thể hiện
với tinh thần lãng mạn, nguyên phiến như trước. Cái nhìn phi sử thi đã đặt
người lính trong mối quan hệ đa chiều với hiện thực để từ đó hiện ra những
vấn đề mới nảy sinh từ cuộc sống.
19
Không chỉ viết về những người lính trở về sau chiến tranh, tiểu thuyết
Trung Trung Đỉnh thời kỳ đổi mới còn đào xới biết bao vấn đề phức tạp của

hiện thực. Đó là những số phận bi kịch, là khát vọng vươn lên, những lầm
lẫn và xác tín, những băn khoăn trăn trở về trạng thái sống của con người,
những lỗ thủng về nhân cách mà không phải một sớm một chiều có thể hàn
gắn được. Cuối những năm 80, chúng ta đã có Đứng trước biển, Gặp gỡ cuối
năm, Đám cưới không có giấy giá thú, Mùa lá rụng trong vườn, Thời xa
vắng … Vẫn mạch cảm hứng ấy, đầu thập niên 90 chúng ta lại có Bến không
chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma…là những cuốn tiểu thuyết đi sâu vào
những số phận cá nhân với bi kịch của mối quan hệ cá nhân và cộng đồng,
quan hệ trong một gia đình …Ngõ lỗ thủng cũng trong nguồn cảm hứng về
thân phận con người với một loạt những nhân vật: Gù, Hạnh, ông tiến sĩ, nhà
báo…cùng chung sống trong một cái ngõ. Thật khó để tìm thấy nhân vật
hoàn hảo trong tiểu thuyết này. Bởi ai cũng mang trong mình một vài tật xấu
như Hạnh dám sống thực, thẳng thắn nhiệt tình nhưng lại đi bồ bịch để kiếm
tiền, ông tiến sĩ thì nói toàn những điều triết lý nhưng bên trong lại là sự dối
trá, tên đàn ông giả hiệu, kẻ lừa dối tinh tế. Vợ ông lại là con người thật thà,
ngu dốt, trong sáng và thông minh, độc ác và yếu đuối… Những nhân vật
trong tiểu thuyết Ngõ lỗ thủng này đem lại cho chúng ta tiếng cười pha chút
xót xa. Họ thuộc đầy đủ những kiểu người trong xã hội: trí thức, người lao
động, xã hội đen …và không ai hoàn hảo. Mâu thuẫn giữa tốt - xấu, thiện -
ác, chân chất - thực dụng, tầng lớp trí thức - người lao động, ngay thẳng, thật
thà - tính toán, ích kỷ và những nghịch cảnh trớ trêu trong xã hội càng
được dịp phơi bày. Ngõ lỗ thủng đâu chỉ làm nơi qua lại công viên kiếm
sống cho cư dân của cái xóm liều tụ bạ quanh đó mà "lỗ thủng" còn nằm
ngay trong nhân cách từng con người sống tại đó. Có cả ông tiến sĩ thất thế
đi làm nhà báo cũng mang trong mình "lỗ thủng" của một tri thức dối trá và
bất lực trước thời cuộc. Tiểu thuyết Ngõ lỗ thủng cho ta một cái nhìn sòng
20
phẳng về thân phận con người trong cuộc chuyển giao giữa bao cấp sang cơ
chế thị trường. Để từ đó nhìn nhận chính xác hơn về con người.
Con người và số phận của những kiếp người luôn là nỗi trăn trở, day

dứt trong tâm thức của nhà văn. Đi đến tận cùng của sự lý giải nhà văn vẫn
không định nghĩa và hiểu hết được về con người. " Thực tình tôi không thể
hiểu được con người. Tôi cứ tưởng con người có lý trí, có tình cảm, hai thứ
ấy bổ sung cho nhau tạo ra phép ứng xử. Ai ngờ họ luôn luôn tìm cách thỏa
mãn nỗi lòng mình, khát vọng của mình. Mà khát vọng của họ thì vô cùng vô
tận. Họ có một đồng là nghĩ ngay tới đồng thứ hai, thứ ba. Họ trở thành kẻ
coi rẻ đồng tiền sau khi họ quá hy vọng vào nó, nhưng sự thực thì cái hy
vọng ấy là con số ngược lại với niềm mong ước. Vì sao lại bi thảm thế?
Chẳng lẽ những đồng tiền tự nó đẻ ra được sự xảo trá? Hay bản tính của
con người mang sẵn sự tham lam xảo trá mỹ miều? Kẻ có nhiều tiền mơ ước
có nhiều tiền hơn, nhưng không thoát khỏi bị kẻ nhiều hơn mình lừa lọc. Kẻ
có ít tiền khao khát việc làm, khao khát miếng ăn. Có việc làm, có miếng ăn
rồi, họ tiếp tục khao khát tiền bạc, giàu sang và quyền lực. Tất cả những
điều đó lúc nào cũng sáng vằng vặc trong tâm khảm con người. Ấy vậy mà
rồi con người vẫn cứ ra sức phấn đấu, tìm mọi lối để tự vươn lên, ai cũng
muốn giương cao ngọn cờ nhân cách. Ôi nhân cách! Nhân cách! Con người
đã tìm cách tiêu hủy nó, tôn tạo nó vào trong binh lửa của những cuộc chiến
tranh! [23;43]. Nỗi đau, sự trăn trở về nhân tình thế thái, về bản chất của con
người luôn ám ảnh nhà văn khiến ông day dứt khôn nguôi.
“Con người là tổng hòa của những mối quan hệ xã hội”. Con người
luôn phức tạp, lưỡng diện và không nhất quán. Vì thế không thể dùng một
tiêu chí giá trị cố định để đo đếm được. Mọi sự lý tưởng hóa sẽ trở nên giả
dối. Văn xuôi sau năm 1975 đã đi đúng hướng trong việc khai thác và thể
hiện số phận con người cá nhân. Không hề lý tưởng hóa con người, Trung
Trung Đỉnh đã cho ta thấy sự phức tạp, đa chiều của con người với cái nhìn
ở nhiều tọa độ và chiều kích khác nhau.
21
1.2.2. Con người từ chiều sâu tâm linh
Sau năm 1975, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Những quy luật
thời bình sớm muộn sẽ chi phối văn học. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân diễn ra

mạnh mẽ đòi hỏi phải nhìn nhận lại nhiều điều. Diễn đạt điều này, văn xuôi
sau năm 1975 vừa đề cao kinh nghiệm cá nhân, vừa mong muốn đối thoại
với quan niệm còn giản đơn, phiến diện, chủ quan duy ý chí của văn xuôi
thời kỳ trước. “Con người là sản phẩm của tự nhiên”. Con người hành động
có khi theo ý thức, của lý trí tỉnh táo, có khi lại bị chi phối của tiếng nói tâm
linh, của vô thức bản năng. Rất khó để định tính hay định lượng cho con
người mà không làm tổn thương đến bản chất người của nó.
Con người trong tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh được khám phá ở
nhiều bình diện, không chỉ là con người được ý thức ở bình diện xã hội mà
còn được ý thức ở bình diện tâm linh. Từ cách nhìn con người qua quan hệ
một chiều với lịch sử, con người đã được nhìn trong nhiều mối quan hệ: với
xã hội, với tự nhiên, với con người và với chính mình. Trước đây với cảm
hứng sử thi, văn học chủ yếu quan tâm đến con người với vai trò xã hội trong
tư cách là động lực cách mạng. Giờ đây vẫn là những con người xã hội song
hiện thực xã hội đã thay đổi, đa chiều và chưa hoàn kết. Khoa học ngày càng
phát triển, nhu cầu khám phá về con người ngày càng lớn. Và trong hành
trình tự tìm hiểu, khám phá bản thân dường như con người chưa bao giờ
dừng lại. Nhà văn Nguyễn Khải đã viết: “Cái thế giới tinh thần của con
người là vô cùng phức tạp, vì sự vận động của nó luôn nhằm tới cái thật cao,
thật xa. Càng có tuổi thì nhu cầu càng hướng tới tận thiên, tận mĩ thậm chí cả
cái vô cùng nữa càng mãnh liệt. Gần như là một day dứt một khoắc khoải.”
(Nguyễn Khải – mấy lời nói lại, nói thêm. Báo Văn nghệ 12/3/1988). Văn
xuôi sau năm 1975, coi trọng khả năng thức tỉnh chân lý, coi trọng phân tích
nhận thức đời sống và hứng thú nghiên cứu khiến cho cái nhìn của văn
chương về con người trở nên tỉnh hơn, duy lý hơn. Nhưng nhờ vậy mà nó lại
22
thâm nhập vào cả cõi mờ xa của ý thức và vô thức, vùng bí ẩn của tâm linh.
Văn học đi tìm “những con người khác nhau” bên trong con người để khám
phá những miền bí ẩn của cõi tâm linh. Yếu tố tâm linh như linh tính giấc
mộng không có trong văn học giai đoạn trước nhưng nó không thuộc vào

một quan niệm đa chiều phức tạp. Nó có mục đích làm nổi bật bản chất
người hơn là nói về cái bí ẩn của con người bên trong con người. Trong khi
đó, xu hướng đổi mới nổi bật của văn học sau 1975 là quan niệm mới về con
người - con người cá nhân phức tạp và đầy bí ẩn và có lẽ cái vỉa tầng bí ẩn
khó lý giải nhất là đời sống tâm linh của mỗi con người.
Có nhiều cách hiểu, nhiều cách thể hiện, nhưng có thể thấy trong tiểu
thuyết sau 1975 một số khía cạnh của lĩnh vực tâm linh như: sự giao cảm và
ràng buộc vô hình giữa con người với vũ trụ, với thiên nhiên; khả năng giao
tiếp và thấu hiểu giữa những con người tinh thần; khả năng biết trước (tiên
tri, linh cảm) đời sống nội tâm với những tiềm thức, vô thức bản năng thiên
phú của mỗi người. Con người duy lý hành động theo sự mách bảo của ý
thức sáng rõ, theo cái lý tất yếu của đời sống mà kinh nghiệm thu nhận được.
Con người tâm linh hướng về những sức mạnh bí ẩn, những đối tượng siêu
thực, ít có khả năng hiện hữu và hành động của nó thường khó giải thích,
nhưng lại rất mãnh liệt. Các nhân vật chính trong tiểu thuyết Chim én bay;
Nỗi buồn chiến tranh, Ăn mày dĩ vãng… được thể hiện nổi bật ở phương
diện tâm linh. Họ là những con người đã trải qua những cảm xúc cực điểm
trong chiến tranh, với những thương tổn nặng nề về nhân tính. Giữa sinh
hoạt thường nhật thời bình họ vẫn luôn bị quá khứ ám ảnh. Từ chính ký ức
chiến tranh, họ đau đớn, xót xa, tuyệt vọng, cô đơn hoặc giả tự hào, sảng
khoái đôi khi là sự phân thân. Cùng một lúc họ sống bằng nhiều cuộc đời,
sống bằng nhiều chiều của thời gian. Nhân vật Kiên (Nỗi buồn chiến tranh)
trở về sau cuộc chiến phần nhiều chỉ sống bằng thế giới tâm linh. Trong
chiến tranh, đối mặt với bao đau khổ, bao chia lìa, mất mát và chết chóc,
23
Kiên sống bằng những kỷ niệm huy hoàng, chói rỡ của một tình yêu đầu đời,
với rung động trong trẻo, đau đớn mãnh liệt. Kỷ niệm đó dắt tay anh đi qua
cõi chết trở về. Hầu như hiện thực trong tác phẩm là hiện thực tâm linh. Nó
không phải là chính hiện thực khách quan mà là hiện thực khách quan trong
ánh sáng tâm linh Kiên, chập chờn ảo mộng. Thể hiện con người tâm linh

như vậy, thực sự đem lại bề dày, bề sâu cho cuộc đời mỗi nhân vật. Hơn nữa
với quan niệm đó – những yếu tố của nghệ thuật tiểu thuyết cũng có nhiều
thay đổi.
Với Trung Trung Đỉnh trước sau ông cũng không thoát nổi cuộc chiến
tranh, viết gì rồi cũng quay về cái đó. Đó là nỗi ám ảnh lớn nhất trong đời
ông. Bởi toàn bộ tuổi trẻ của ông đã nằm lại nơi chiến trường. Trong giấc
mơ của mình, hằng đêm Xoay (Tiễn biệt những ngày buồn) vẫn nghe được
những lời tâm sự của các liệt sĩ “Đánh mất bản thân mình rồi thì còn ai cứu
được”. Các nhân vật của ông dường như lúc nào cũng sống bằng nhiều chiều
của thời gian: hư - thực, quá khứ - hiện tại - tương lai. Thường thì khi con
người rơi vào trạng thái khủng hoảng về niềm tin hay ý thức được về điều ác,
nó sẽ bắt gặp tiếng nói của tâm linh. Như Thương (Ngược chiều cái chết),
Xoay (Tiễn biệt những ngày buồn), nhân vật nhà văn (Sống khó hơn là chết),
Bình (Ngõ lỗ thủng). Ký ức về chiến tranh và đặc biệt từ sau cái chết của Rơ
Lan Thương luôn ám ảnh nhân vật “tôi” và người cha của anh trong mỗi
giấc mơ. Mong muốn xây dựng một vùng đất Tây Nguyên sau chiến tranh
thật cao đẹp nhưng để làm được nó người ta đã phải trải qua rất nhiều những
khó khăn, sự đấu tranh giành giật địa vị, đấu tranh với chính tính bảo thủ, cố
chấp và sự kém cỏi của bản thân mình thậm chí là cả tính mạng con người.
Hằng đêm những ký ức đó lại ám ảnh hiện về. Con người luôn sống với hiện
tại nhưng quá khứ cũng là một phần cuộc sống không thể tách rời. Nhân vật
đồng tiền và nhà văn trong hành trình đi khám phá lòng tốt của con người, đi
đến tận cùng của những số phận mà vẫn không thể lý giải nổi, để rồi cuối
24
cùng của cuộc hành trình ấy họ lại quay về với quá khứ như một bản năng vô
thức. “Nhà văn nhăn nhó phì ra: Sao lại nói về chiến tranh vào lúc này. Tôi
thấy nhà văn của tôi đang vò đầu bứt tai, đó là động tác biểu hiện sự bức
xúc để tự vươn lên vượt qua nỗi ẩn ức sâu xa đang ám ảnh anh ta. Chẳng là
anh ta đã từng là lính, từng từ trong binh lửa sống sót trở về. Cái gì anh ta
cũng nhìn nhận bằng quá khứ. Ngay cả con ma men vênh vang với đời bằng

những đồng tiền, nhằm thỏa mãn mối hận thù manh mún anh ta cũng bảo
hắn là sản phẩm của cuộc chiến tranh vừa qua” [23;43]. Qủa thật với Trung
Trung Đỉnh, chiến tranh và ký ức về nó là một phần cuộc sống của ông
không thể tách rời.
Thế giới tâm linh của con người là một vùng bí ẩn, sâu kín nhất, một
cái gì đó không thành tên mà người ta cố dẹp bỏ, giấu kín. Bình (Ngõ lỗ
thủng) thấy mình đang sống trong một cõi cô đơn rùng rợn giữa những con
người mà ít nhiều trong mình đều mang những “lỗ thủng” nhân cách. Cô
đơn, hối hận, tuyệt vọng để rồi hằng đêm Bình lại hốt hoảng vùng dậy khi
nhận ra tiếng nói từ trong mộng mị. Trong những lần mộng mị anh lại thấy
tiếng kêu cứu của mỗi con người đang dắt díu nhau đi trong bóng tối, thấy
chính mình bị đóng đinh câu rút, “lũ người ma quỷ vây chặt lấy tôi và tôi rơi
xuống một vực thẳm đầy rắn rết” [20;60]. Tác giả vừa viết vừa hoàn thiện
quá trình tự nhận thức, như là lộn trái con người mình ra để đong đếm, phán
xét, để rồi vượt lên chính bản thân mình.
“Trở về với cơ chế tâm linh là một hành trình văn học về nguồn, một
cuộc về nguồn đầy hứa hẹn”. Sức mạnh tâm linh có khi có tác dụng làm thanh
lọc tâm hồn con người, làm cho nó đẹp đẽ hơn, cao quý hơn. Chính những
nhân vật trong tiểu tuyết Trung Trung Đỉnh mỗi khi bế tắc, hụt hẫng, tuyệt
vọng, đều tìm về với ký ức của một thời oanh liệt. Ở đó họ thấy nhẹ nhõm, an
bình và tĩnh lặng và có dịp để chiêm nghiệm về bản thân và cuộc đời. Điều đó
giúp họ có thêm sức mạnh cho cuộc sống hiện tại nhiều cám dỗ, để giữ cho
25

×