1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
***
LƯU VĂN KHẢI
NGHIÊN CỨU TIÊU THỤ MỘT SÔ NÔNG SẢN
THEO HỢP ĐỒNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Chuyên ngành: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Mã số: 60.31.10
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. PHẠM VÂN ĐÌNH
Hà Nội - 2012
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, nội dung, số liệu và kết quả nghiên cứu trong
luận văn là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi cũng xin cam kết chắc chắn rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực
hiện luận văn đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều
được chỉ rõ nguồn gốc, bản luận văn này là nỗ lực, kết quả làm việc của
cá nhân tôi.
Tác giả thực hiện luận văn
Lưu Văn Khải
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tiêu thụ một số nông sản
theo hợp đồng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” tôi đã nhận được sự giúp đỡ,
hướng dẫn chỉ bảo nhiệt tình, trách nhiệm của các thầy cô giáo thuộc khoa
Kinh tế và phát triển nông thôn, trường Đại học nông nghiệp Hà Nội, một số
cơ quan, ban ngành, các đồng nghiệp và bạn bè. Tôi xin trân trọng cảm ơn tất
cả sự quan tâm giúp đỡ quý báu đó.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo GS.TS.Phạm Vân Đình
đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin cảm ơn lãnh đạo UBND tỉnh Bắc Ninh, Sở Nông nghiệp &
PTNT Bắc Ninh, Cục Thống kê Bắc Ninh và các cơ quan, đơn vị có liên quan
đã tạo điều kiện cho tôi thu thập số liệu một cách hệ thống trong suốt thời
gian thực hiện luận văn.
Tôi xin cảm ơn gia đình và bè bạn đã động viên, khích lệ tôi trong suốt
quá trình học tập cũng như trong thời gian tôi tiến hành viết luận văn.
Tác giả thực hiện luận văn
Lưu Văn Khải
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục bảng v
Danh mục viết tắt vi
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1 Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 4
1.2.1 Mục tiêu chung 4
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 4
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu 4
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu 4
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 5
2.1 Cơ sở lý luận 5
2.1.1 Một số khái niệm 5
2.1.2 Một số mô hình tiêu thụ nông sản 7
2.1.3 Sản xuất và tiêu thụ theo hợp đồng trong nông nghiệp 11
2.1.4 Ý nghĩa của việc tiêu thụ nông sản theo hợp đồng 12
2.1.5 Tính tất yếu của hoạt động tiêu thụ nông sản 13
2.1.6 Các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất và tiêu thụ nông sản 15
2.1.7 Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ nông sản 17
2.2 Cơ sở thực tiễn 21
2.2.1 Tình hình tiêu thụ nông sản ở một số nước trên thế giới 21
2.2.2 Tình hình tiêu thụ nông sản của Việt Nam 27
3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 43
3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 43
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
iv
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 43
3.1.2 Điều kiện kinh tế, xã hội 45
3.1.3 Tình hình thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh 49
3.2 Phương pháp nghiên cứu 56
3.2.1 Phương pháp thu thập số liệu 56
3.2.2 Phương pháp phân tích 57
3.2.3 Phương pháp chuyên gia 57
3.3 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 58
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 59
4.1 Tình hình sản xuất nông nghiệp của tỉnh Bắc Ninh 59
4.2 Tình hình tiêu thụ nông sản theo hợp đồng tại tỉnh Bắc Ninh 66
4.2.1 Các mô hình ký kết tiêu thụ nông sản theo hợp đồng 66
4.2.2 Đặc điểm các bên tham gia ký hợp đồng tiêu thụ nông sản 73
4.2.3 Thực trạng tiêu thụ nông sản theo hợp đồng 76
4.2.4 Lợi ích của việc tiêu thụ nông sản theo hợp đồng 83
4.2.5 Đánh giá kết quả đạt được 88
4.2.6 Những hạn chế, yếu kém 90
4.2.7 Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém 91
4.2.8 Những bài học kinh nghiệm về tiêu thụ theo hợp đồng 94
4.3 Định hướng và các giải pháp tăng cường hoạt động trong tiêu thụ
nông sản theo hợp đồng 96
4.3.1 Định hướng 96
4.3.2 Giải pháp 98
5. KẾT LUẬN 106
5.1 Kết luận 106
5.2 Kiến nghị 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
v
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Diện tích, dân số, mật độ dân số và số đơn vị hành chính năm
2010 44
Bảng 3.2: Lao động đang làm việc trong ngành kinh tế quốc dân giai
đoạn 2005 - 2010 46
Bảng 3.3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh (GDP) bình quân thời kỳ 1997-
2010 50
Bảng 3.4: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh bình
quân thời kỳ 1997 - 2010 51
Bảng 3.5: Cơ cấu GDP của tỉnh phân theo khu vực kinh tế thời kỳ 1996-
2010 53
Bảng 3.6: Cơ cấu GDP của tỉnh phân theo thành phần kinh tế thời kỳ
1997 - 2010 54
Bảng 3.7: Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của
tỉnh thời kỳ 1997-2010 55
Bảng 4.1: Tình hình diện tích, năng suất cây trồng của tỉnh Bắc Ninh qua
3 năm 2008 – 2010 60
Bảng 4.2: Giá trị sản xuất nông nghiệp của tỉnh Bắc Ninh (2008 - 2010) 62
Bảng 4.3: Tình hình kinh tế trang trại của tỉnh Bắc Ninh (2008 - 2010) 64
Bảng 4.4: Tình hình tiêu thụ nông sản hàng hóa của hộ nông dân, trang
trại 65
Bảng 4.5: Số doanh nghiệp, trang trại, hộ nông dân tham gia TTNS theo
hợp đồng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 69
Bảng 4.6: Sản lượng và giá trị nông sản hàng hóa được tiêu thụ theo hợp
đồng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 71
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
vi
Bảng 4.7: Tình hình ký hợp đồng tiêu thụ nông sản giữa doanh nghiệp
với người sản xuất 72
Bảng 4.8: Một số chỉ tiêu cơ bản của nhóm hộ nông dân, trang trại 74
Bảng 4.9: Nhu cầu của hộ nông dân khi tham gia ký kết hợp đồng tiêu
thụ nông sản 75
Bảng 4.10: Số hợp đồng và doanh nghiệp tham gia ký kết tiêu thụ một số
loại nông sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh qua 3 năm 2008 -
2010 78
Bảng 4.11: Tình hình thực hiện các hợp đồng tiêu thụ một số loại nông
sản của tỉnh Bắc Ninh (2008 – 2010) 80
Bảng 4.12: Tỷ lệ sản lượng nông sản hàng hóa thực hiện so với sản
lượng ký kết 81
Bảng 4.13: Số hộ tham gia ký và thực hiện TTNS theo hợp đồng 82
Bảng 4.14: Số tiền các doanh nghiệp ứng trước bình quân một hộ năm
2010 83
Bảng 4.15: Dự định và nguyện vọng khác của hộ nông dân 85
Bảng 4.16: So sánh lợi ích của việc tiêu thụ nông sản qua hợp đồng và
không qua hợp đồng 88
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQ Bình quân
GTSX Giá trị sản xuất
CNH Công nghiệp hóa
HĐH Hiện đại hóa
HTX Hợp tác xã
DVNN Dịch vụ nông nghiệp
HĐ Hợp đồng
PTHĐ Phương thức hợp đồng
TTSP Tiêu thụ sản phẩm
TTNS Tiêu thụ nông sản
KTXH Kinh tế xã hội
KHKT Khoa học kỹ thuật
TĐPT Tốc độ phát triển
UBND Ủy ban nhân dân
DT Diện tích
NS Năng suất
SL Sản lượng
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
1
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Trong hơn 25 năm qua, từ khi nước ta thực hiện công cuộc đổi mới nền
kinh tế, nông nghiệp nước ta đã phát triển nhanh, toàn diện, ổn định trên
nhiều lĩnh vực, đã chuyển từ nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất
hàng hoá. Nhiều nông sản như gạo, cà phê, cao su, hạt điều, rau quả và các
sản phẩm chăn nuôi không những đáp ứng đủ cho nhu cầu trong nước mà còn
xuất khẩu. Tỷ trọng hàng hoá và tỷ trọng xuất khẩu nông sản nước ta tăng
nhanh. Nông nghiệp và thuỷ sản đã trở thành một trong những nguồn thu
ngoại tệ quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Tuy nhiên, sản
xuất và kinh doanh hàng nông sản của nước ta còn thấp, vẫn mang nặng tính
tự phát, sức cạnh tranh của nông nghiệp thấp, giá thành cao, chất lượng chưa
phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của thị trường, sự liên kết trong nông nghiệp
giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ chưa phát triển mạnh.
Nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền nông nghiệp hàng hoá hiện đại,
tạo điều kiện cho người sản xuất yên tâm đầu tư, ổn định trong đầu tư sản
xuất và tiêu thụ nông sản, tăng chất lượng và năng suất sản phẩm, hạ giá
thành, tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam, ngày 24 tháng 6 năm
2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg, về
“Chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng”.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư số
77/2002/BNN-TT, ngày 28/8/2002 về mẫu hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng
hoá; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Thông tư số 05/2002/TT-
NHNN, ngày 27/9/2002 về hướng dẫn việc cho vay vốn đối với người sản
xuất, doanh nghiệp ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá; Bộ Tài chính
ban hành Thông tư số 04/2003/TT-BTC, ngày 10 tháng 1 năm 2003 về hướng
dẫn một số vấn đề về tài chính thực hiện Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg,
ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
2
thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng. Thực hiện chính sách trên, nhiều
doanh nghiệp đã ký kết hợp đồng sản xuất và bao tiêu sản phẩm nông, lâm,
thuỷ sản với nông dân và đã thu được thành công bước đầu.
Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện còn có nhiều hạn chế, nhiều
địa phương chưa tập trung chỉ đạo kiên quyết việc triển khai thực hiện Quyết
định 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Để khắc phục tình trạng
này, ngày 25/8/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Chỉ thị số
25/2008/CT-TTg về việc tăng cường chỉ đạo tiêu thụ nông sản qua hợp đồng.
Một thực trạng diễn ra là doanh nghiệp, hộ nông dân chưa thực sự gắn bó
và thực hiện đúng cam kết đã ký; tỷ lệ nông sản hàng hoá được tiêu thụ thông
qua hợp đồng còn rất thấp; doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư tới vùng
nguyên liệu, chưa điều chỉnh kịp thời hợp đồng bảo đảm hài hoà lợi ích của
nông dân khi có biến động về giá cả; trong một số trường hợp, nông dân
không bán hoặc giao nông sản cho doanh nghiệp theo hợp đồng đã ký; xử lý
vi phạm hợp đồng không kịp thời và chưa triệt để; tình trạng tranh mua, tranh
bán vẫn xảy ra ngay khi đã có hợp đồng. Các bên tham gia hợp đồng đang
thiếu sự hỗ trợ của các ngành liên quan như Nông nghiệp, Viện nghiên cứu,
Ngân hàng, các ngành Tài chính và Thương mại khác… Do vậy hiệu quả kinh
tế của hình thức hợp đồng còn nhiều hạn chế vì thế chưa đủ điều kiện tạo ra
động lực thúc đẩy các doanh nghiệp và nông dân hăng hái tham gia ký kết
hợp đồng tiêu thụ nông sản phẩm.
Với những tồn tại nói trên, đã làm cho quan hệ liên kết trong sản xuất
nông nghiệp không phát triển mạnh mẽ, làm mất đi động lực của quá trình liên
kết, nhất là liên kết giữa người sản xuất và người tiêu thụ theo cơ chế thị trường.
Nguyên nhân chủ yếu là do mối quan hệ hợp tác giữa các “nhà” chưa
thực sự gắn bó và thực hiện đúng cam kết, nhất là hộ nông dân với các doanh
nghiệp chế biến; thiếu động lực, chưa bảo đảm lợi ích trong quan hệ liên kết
giữa các “nhà”; sự liên kết thiếu bền vững; thiếu một cơ chế, chế tài để gắn
quyền, nghĩa vụ giữa các bên tham gia; vai trò của Nhà nước nói chung,
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
3
doanh nghiệp, ngân hàng, các tổ chức tín dụng nói riêng và chính quyền địa
phương các cấp chưa phát huy hết trách nhiệm, chưa tham gia đúng mức
trong hỗ trợ, giúp đỡ và quản lý trong quá trình liên kết, nhất là không nắm
được và không có biện pháp xử lý kịp thời, thích hợp để tạo sự liên kết bền
vững, hiệu quả; bên cạnh đó, một số nơi đã thực hiện liên kết còn mang tính
hình thức, đối phó; đồng thời chưa có một cơ quan đủ thẩm quyền để xử lý
những vi phạm hợp đồng giữa các bên đã ký kết… Đó là những nguyên nhân
chủ yếu làm phá vỡ hợp đồng đã ký kết giữa các bên, đặc biệt là giữa nông
dân sản xuất nguyên liệu với cơ sở chế biến. Điều đó vừa làm cho sản xuất
đình đốn, nông dân không bán được nông sản (được mùa, nhưng mất giá),
vừa làm cho các doanh nghiệp thiếu nguyên liệu chế biến trong khi đã ký hợp
đồng giao sản phẩm cho các đối tác, gây thiệt hại không nhỏ cho cả nhà nông,
doanh nghiệp và Nhà nước.
Nằm trong bối cảnh chung, tỉnh Bắc Ninh đã có chỉ đạo tích cực, xây
dựng chính sách khuyến khích thiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng. Trong
những năm qua, hoạt động tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng được chú ý
đẩy mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số bất cập chưa được giải
quyết, làm cho người dân không gắn bó với sản xuất, diện tích nông sản hàng
hoá ngày càng bị thu hẹp…
Đã có một số công trình nghiên cứu về tiêu thụ nông sản nhưng trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh, vấn đề này chưa được giải quyết một cách hệ thống, hơn
nữa vận dụng lý luận chung vào nghiên cứu ở Việt Nam nói chung và ở Bắc
Ninh nói riêng còn nhiều vấn đề cần phải được sang tỏ.
Xuất phát từ tình hình thực tế đó chúng tôi lựa chọn vấn đề: “Nghiên
cứu tiêu thụ một số nông sản theo hợp đồng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”
làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế của mình nhằm tìm hiểu, đánh giá và đề
xuất các giải pháp góp phần đẩy mạnh tiêu thụ nông sản theo hợp đồng trên
địa bàn của Tỉnh.
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
4
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng hoạt động tiêu thụ nông sản theo hợp đồng trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh
hoạt động tiêu thụ nông sản theo hợp đồng của tỉnh Bắc Ninh có hiệu quả hơn.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về
tiêu thụ nông sản theo hợp đồng.
- Đánh giá thực trạng hoạt động tiêu thụ một số nông sản theo hợp
đồng tại tỉnh Bắc Ninh.
- Đề xuất định hướng, giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ nông
sản theo hợp đồng trong thời gian tới.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động tiêu thụ một số nông sản phẩm ngành trồng
trọt, chăn nuôi theo hợp đồng với 2 nhóm chủ thể chính là người sản xuất
(hộ sản xuất, trang trại, hợp tác xã và tổ hợp tác) và các cơ sở chế biến
kinh doanh nông sản (các doanh nghiệp kinh doanh nông sản, các HTX
chế biến nông sản).
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Nghiên cứu hoạt động tiêu thụ theo hợp đồng một số nông
sản chính (lúa giống, khoai tây, dưa chuột xuất khẩu, đậu tương, lợn siêu nạc)
của hộ, trang trại, hợp tác xã và tổ hợp tác.
- Không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
- Thời gian: Các tài liệu thứ cấp được thu thập từ năm 2008 đến năm
2010 và khảo sát thực trạng hoạt động tiêu thụ nông sản theo hợp đồng tại
tỉnh Bắc Ninh năm 2010.
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
5
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm
- Theo nghĩa hẹp, quá trình tiêu thụ sản phẩm gắn liền với sự thanh
toán giữa người mua và người bán và sự chuyển quyền sở hữu hàng hoá.
- Theo nghĩa rộng thì tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế bao
gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu tìm hiểu thị trường, xác định nhu cầu
khách hàng, đặt hàng và tổ chức sản xuất, thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ,
xúc tiến bán hàng… nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất.
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị của hàng hoá, quá trình
chuyển hoá hình thái giá trị của hàng hoá từ hàng sang tiền. Sản phẩm được
coi là tiêu thụ khi được khách hàng chấp nhận thanh toán tiền hàng. Tiêu thụ
sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố
quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.[22]
Tiêu thụ sản phẩm nhằm thực hiện mục đích của sản xuất hàng hoá là
sản phẩm sản xuất để bán và thu lợi nhuận.
Thực tế cho thấy, thích ứng với mỗi cơ chế quản lý kinh tế khác nhau,
công tác tiêu thụ sản phẩm được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, vấn đề tiêu thụ sản phẩm được thực
hiện hết sức đơn giản. Nhà nước cấp chỉ tiêu cung ứng vật tư cho các đơn vị
sản xuất theo số lượng đa xác định trước và quan hệ giữa các ngành và các bộ
phận trọng nền kinh tế chủ yếu là quan hệ dọc, được kế hoạch hoá bằng chế
độ cấp phát giao nộp sản phẩm hiện vật. Các doanh nghiệp chủ yếu thực hiện
chức năng sản xuất, việc bảo đảm các yếu tố vật chất đầu vào như nguyên vật
liệu, nhiên liệu… được cấp trên bao cấp theo các chỉ tiêu cấp phát. Hoạt động
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong thời kỳ này được thực hiện theo kế
hoạch giao nộp sản phẩm với giá cả và địa chỉ do Nhà nước quy định sẵn. Do
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
6
không có môi trường cạnh tranh chất lượng hàng hoá ngày càng giảm sút,
mẫu mã kiểu dáng ngày càng đơn điệu. Như vậy trong nền kinh tế tập trung,
mọi việc từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm đều do Nhà nước quyết định, tiêu
thụ sản phẩm chỉ là việc tổ chức bán sản phẩm hàng hoá sản xuất ra theo kế
hoạch và giá cả được ấn định từ trước. Còn trong nền kinh tế thị trường, tiêu
thụ là mục đích cơ bản của sản xuất hàng hoá, hàng hoá sản xuất ra có tiêu thụ
được thì doanh nghiệp mới thu được lợi nhuận, mới hoàn thành được vòng
chu chuyển vốn kinh doanh và thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng.
Trong thời kỳ này, tiêu thụ sản phẩm gắn người sản xuất với người tiêu dùng,
nó giúp cho người sản xuất nắm bắt kịp thời những thông tin phản hồi để tổ
chức sản xuất với số lượng, chất lượng và thời gian hợp lý, đồng thời khách
hàng được tìm hiểu kỹ về hàng hoá tăng khả năng thoả mãn nhu cầu. Chuyển
sang cơ chế kinh tế thị trường các doanh nghiệp luôn đối mặt với môi trường
kinh doanh biến động không ngừng và có rất nhiều rủi ro cũng như thách
thức. Áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng và khâu tiêu thụ sản phẩm được
coi là một trong những khó khăn hàng đầu hiện nay của các doanh nghiệp
thuộc tất cả các thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp sản xuất phải tự
chịu trách nhiệm với tất cả các quyết định sản xuất kinh doanh của mình. Do
vậy mà hiện nay, tiêu thụ sản phẩm đã trở thành vấn đề sống còn của mọi
doanh nghiệp.
- Tiêu thụ nông sản theo hợp đồng là quá trình thoả thuận, ký kết giữa
hai hoặc nhiều bên tham gia nhằm bảo đảm nông sản hàng hoá sản xuất ra
được tiêu thụ, thanh toán theo đúng thời gian, địa điểm, số lượng, chất lượng
và mang lại lợi ích cho các bên tham gia.
- Hợp đồng kinh tế là sự thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch
giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa,
dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và các thỏa thuận
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
7
khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình.
2.1.2 Một số mô hình tiêu thụ nông sản
+ Mô hình tập trung
Mô hình tập trung là mô hình các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ trực
tiếp ký hợp đồng với các trang trại, hộ sản xuất [12]. Hợp đồng này chỉ có hai
bên tham gia trực tiếp là doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ và các hộ nông dân.
Các doanh nghiệp đặt hàng cho các hộ sản xuất nông sản để doanh nghiệp chế
biến, đóng gói và tiêu thụ sản phẩm. Trong những hợp đồng kiểu này, lượng
sản phẩm doanh nghiệp đặt hàng các hộ nông dân được phân bổ ngay từ đầu
mùa vụ và chất lượng được giám sát một cách chặt chẽ.
Doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản cung cấp các loại vật tư đầu
vào, hướng dẫn kỹ thuật, giám sát việc sản xuất của nông dân và mua lại toàn
bộ sản phẩm. Nông dân cung cấp đất đai, công lao động, sản xuất theo đúng
quy trình do doanh nghiệp đưa ra và bán lại toàn bộ sản phẩm cho doanh
nghiệp. Trong loại hợp đồng này, người nông dân ít có quyền quyết định vấn
đề sản xuất mặc dù họ vẫn là người trực tiếp sản xuất. Người ký hợp đồng với
nông dân sẽ quy định cụ thể về các yếu tố đầu vào cần sử dụng và phương
thức canh tác, kể cả người mua chịu trách nhiệm công tác hướng dẫn kỹ thuật
canh tác và thường xuyên kiểm tra thực tế trên đồng ruộng. Đây chính là hình
thức “sản xuất gia công” “hay “sản xuất theo đơn đặt hàng” của doanh
nghiệp.
Mô hình này thường chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp có nhà máy chế
biến đủ khả năng mua hết sản phẩm của các hộ nông dân và hộ sản xuất có
quy mô lớn thì khi đó họ cần sản xuất theo hợp đồng để bảo đảm nông sản
tiêu thụ hết. Ngoài ra, mô hình này còn áp dụng cho trường hợp có “tính
chuyên biệt (đặc thù) về tài sản” như con người, vật chất, địa điểm… [9].
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
8
Mô hình tập trung bảo đảm nông dân tiêu thụ được nông sản, doanh
nghiệp có nguyên liệu phục vụ cho chế biến. Ngoài ra mô hình này hình thành
sự liên kết giữa doanh nghiệp và hộ nông dân tạo ra vùng sản xuất tập trung
với chất lượng cao, an toàn theo quy trình sản xuất nông nghiệp an toàn, đạt
tiêu chuẩn quốc tế về an toàn vệ sinh thực phẩm, nhằm góp phần nâng cao sức
canh tranh cho doanh nghiệp và tạo sự phát triển bền vững cho hộ nông dân.
+ Mô hình trang trại hạt nhân
Mô hình trang trại hạt nhân tương tự như mô hình tập trung, nhưng bên
mua sản phẩm là doanh nghiệp nắm quyền sở hữu đất đai, chuồng trại, vườn
cây. Bên bán sản phẩm chỉ thực hiện hoạt động sản xuất tạo ra sản phẩm và
bán sản phẩm cho doanh nghiệp. Chủ thể tham gia trực tiếp vào mô hình này
cũng chỉ bao gồm doanh nghiệp và các trang trại, trong đó, các trang trại do
nông dân sản xuất thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Do đó, các hộ nông
dân trực tiếp sản xuất nông sản trên đất của doanh nghiệp có thể xem là người
lao động trong doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, hình thức khoán trong các nông, lâm trường quốc doanh
cũng là mô hình trang trại hạt nhân. Các hình thức khoán này được hình thành
theo Nghị định của Chính phủ số 01/CP ngày 4 tháng 1 năm 1995 trước đây
và hiện nay là giao khoán đất nông nghiệp, đất rừng sản xuất và đất có mặt
nước nuôi trồng thuỷ sản trong các nông, lâm trường quốc doanh theo Nghị
định của Chính phủ số 135/2005/NĐ-CP ngày 8 tháng 11 năm 2005.
Nông dân sản xuất nông sản trên đất của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
giao đất và cả cây trồng (cây lâu năm), vật nuôi cho từng hộ nông dân, cung
cấp vật tư đầu vào, hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân, nông dân chăm sóc cây
trồng vật nuôi theo đúng quy trình của doanh nghiệp và giao lại toàn bộ sản
phẩm cho doanh nghiệp. Đây chính là mô hình “khoán liên doanh”, trong
trường hợp “tái lập trang trại gia đình… trong lòng doanh nghiệp nông nghiệp
quy mô lớn có từ hai cấp quản lý trở lên” [4]. Người sản xuất và người mua
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
9
ký một hợp đồng gọi là “hợp đồng giao khoán”. Trong đó, hợp đồng quy
định: Doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp giữ vai trò định hướng sản xuất,
hướng dẫn kỹ thuật (khuyến nông), cung ứng dịch vụ đầu vào, đầu ra…, giám
sát các hoạt động kinh doanh sản xuất trên vườn cây, đàn gia súc giao
khoán… Quan hệ giữa doanh nghiệp giao khoán và bên nhận khoán được
thiết lập theo nguyên tắc thị trường, thuận mua, vừa bán [9]. Bản chất của mô
hình này chính là trang trại dự phần hay công ty dự phần trong nông nghiệp.
Doanh nghiệp có trang trại quy mô lớn, có nhà máy chế biến, đủ tiềm lực
tài chính và kỹ thuật để cung cấp cho nông dân. Mô hình này phù hợp với các
cây lâu năm và chăn nuôi gia súc, gia cầm theo kiểu tập trung, quy mô lớn.
Mô hình này cũng có ý nghĩa và tác dụng như mô hình tập trung.
Ngoài ra mô hình này góp phần nâng cao hiệu quả của các trang trại có quy
mô và đầu tư lớn.
+ Mô hình đa chủ thể
Mô hình đa chủ thể tham gia hợp đồng sản xuất và tiêu thụ nông sản ở
Việt Nam thường gọi là mô hình “liên kết 4 nhà”. Tham gia mô hình này bao
gồm nhiều chủ thể khác nhau như Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp,
hợp tác xã, hộ nông dân. Đặc điểm của mô hình này là các chủ thể khác nhau
sẽ có trách nhiệm và vai trò khác nhau. Trong đó, doanh nghiệp đóng vai trò
hạt nhân gắn kết nhà khoa học với nông dân, gắn kết nhà tài chính với nông
dân và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Doanh nghiệp là người quyết định
việc tiêu thụ sản phẩm của nông dân, nên họ biết được thị trường cần gì để đặt
hàng cho nông dân sản xuất. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng chính là người đặt
hàng cho các nhà khoa học, ngân hàng, cung cấp các dịch vụ cho mình và cho
nông dân. Vai trò của Nhà nước là xử lý các mối quan hệ giữa các bên ký kết
hợp đồng, quy hoạch vùng sản xuất, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết
những vấn đề khó khăn nảy sinh do thị trường, thiên tai gây ra và vận động,
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
10
giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức, kỹ năng cho các bên tham gia sản
xuất theo hợp đồng.
Đặc trưng của mô hình này là mối quan hệ đa chiều. Cơ chế hoạt
động của mô hình này là sự liên kết và phối hợp nhiều chủ thể khác nhau
cùng chia sẻ lợi ích, rủi ro và quyền quyết định. Doanh nghiệp chế biến, tiêu
thụ là hạt nhân ký hợp đồng trực tiếp với các trang trại để thu mua nông sản.
Ngân hàng căn cứ vào hợp đồng giữa doanh nghiệp và các trang trại để cho
vay đầu tư phát triển sản xuất, phát triển thị trường. Doanh nghiệp đặt hàng
nhà khoa học để giải quyết các vấn đề ký thuật sản xuất nảy sinh. Các tổ chức
dân sự xã hội như hiệp hội ngành hàng sẽ vận động, theo dõi, giám sát các
hợp đồng giữa doanh nghiệp và trang trại. Nhà nước căn cứ vào hợp đồng để
xử lý các mâu thuẫn phát sinh.
Trong điều kiện sản xuất nông nghiệp manh mún, lạc hậu, bản thân
nông dân “không thể tự giải quyết 3 vấn đề của nền nông nghiệp hàng hoá là
thị trường, công nghệ và vốn, do quy mô kinh doanh quá nhỏ” [5] thì mô hình
đa chủ thể có thể áp dụng. Mô hình đa chủ thể được phát triển mạnh ở những
quốc gia đang phát triển như Mexico, Kenya, Trung Quốc.
Mô hình này có ý nghĩa và tác dụng trong việc chuyển giao khoa học
kỹ thuật hiện đại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Sản xuất theo mô
hình này sẽ tạo ra vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá lớn theo tiêu chuẩn
quốc tế, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
+ Mô hình trung gian
Đây là mô hình doanh nghiệp ký hợp đồng mua sản phẩm của nông dân
thông qua các đầu mối trung gian như hợp tác xã, tổ hợp tác, nhóm nông dân
hoặc người đại diện cho một số hộ nông dân. Đặc điểm của mô hình này là
doanh nghiệp không kí kết hợp đồng trực tiếp với nông dân mà thay vào đó
doanh nghiệp thuê các tổ chức trung gian thực hiện vai trò của mình.
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
11
Mỗi cá nhân hoặc tổ chức trung gian này có trách nhiệm kiểm soát và
giám sát hoạt động sản xuất của nông dân và chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt
động trong trang trại từ gieo hạt đến thu hoạch theo quy định của doanh
nghiệp và họ được hưởng hoa hồng cho việc kiểm soát và giám sát.
Mô hình này tồn tại khi nền sản xuất nông nghiệp còn manh mún và
phân tán. Doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản khó thực hiện việc ký
hợp đồng cung cấp vật tư, hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân vì để thực hiện
ký hợp đồng cho từng hộ nông dân thì chi phí giao dịch tăng cao và bản thân
họ không đủ năng lực kiểm soát trực tiếp quá trình sản xuất của từng hộ
nông dân.
Mô hình này góp phần làm giảm chi phí giao dịch nhờ đầu mối hợp
đồng giảm đi và việc kiểm soát sản xuất và chất lượng sản phẩm của doanh
nghiệp cũng dễ dàng hơn. Người trung gian đóng vai trò cho đại diện cho
nông dân, tạo nên sức mạnh tập thể để thương lượng với doanh nghiệp.
Mô hình liên kết kinh tế là một hoặc một tập hợp những vấn đề tổ chức,
hình thức, phương thức và biện pháp của mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể
kinh tế trong một thời gian, không gian nhất định để đạt được lợi ích kinh tế
cho các đối tượng tham gia.
Liên kết 4 nhà trong nông nghiệp là sự thoả thuận, hợp tác và hỗ trợ
nhau để cùng phát triển giữa Nhà nông, Nhà khoa học, Nhà doanh nghiệp,
Nhà nước (chủ yếu các tổ chức tín dụng, ngân hàng, quản lý của chính quyền,
tham gia củ đoàn thể xã hội,…) trong đó có sự phân công và hợp tác để vừa
phát triển sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm và mang lại lợi ích hài hoà cho các
bên trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp theo cơ chế thị trường.
2.1.3 Sản xuất và tiêu thụ theo hợp đồng trong nông nghiệp
Eaton và Sheperd (2001) định nghĩa sản xuất và tiêu thụ theo hợp đồng
là “thoả thuận giữa những người nông dân với các doanh nghiệp chế biến
hoặc doanh nghiệp kinh doanh trong việc sản xuất và cung cấp các sản phẩm
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
12
nông nghiệp dựa trên thoả thuận giao hàng trong tương lai, giá cả đã được định
trước” [23].
Theo Sykuta và Parcell (2003), sản xuất và tiêu thụ theo hợp đồng
trong nông nghiệp đưa ra những luật lệ cho việc giao dịch nông sản qua việc
phân bổ thật rõ ba yếu tố chính: lợi ích, rủi ro và quyền quyết định. Như vậy,
bản chất của sản xuất và tiêu thụ theo hợp đồng hoàn toàn khác với hình thức
giao ngay mang tính truyền thống (đó là mua bán trực tiếp hoạc thông qua các
chợ) hoặc giao dịch giao sau (đó là mua, bán nông sản thông qua Sở giao dịch
hàng hoá). Điểm khác biệt về bản chất của ba hình thức giao dịch này chính là
cơ chế hình thành giá. Đối với giao dịch ngay, giá thoả thuận trên hợp đồng
phản ánh cung cầu thị trường hiện tại; đối với giao dịch sau, giá cả phản ánh
cung cầu thị trường tương lai; đối với sản xuất và tiêu thụ theo hợp đồng, giá
cả phản ánh lợi ích, rủi ro và quyền quyết định của người mua và người bán.
Điều này có nghĩa là, giá đã được thoả thuận phải bảo đảm người bán thu
được lợi ích nhất định và người mua có thể mua hàng với mức giá có thể chấp
nhận được; cho dù vào thời điểm giao hàng, giá thị trường có thể cao hơn
hoặc thấp hơn giá thoả thuận.
Có thể phân loại sản xuất và tiêu thụ theo hợp đồng theo cấu trúc tổ
chức của hợp đồng. Cấu trúc tổ chức sản xuất và tiêu thụ theo hợp đồng phụ
thuộc vào quy trình sinh học của sản phẩm nông nghiệp, nguồn lực của doanh
nghiệp chế biến, tiêu thụ và tính chất của mối quan hệ giữa nông dân và
doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ. Eaton và Shepherd (2001) đã chia các hình
thức sản xuất và tiêu thụ theo hợp đồng trong nông nghiệp thành 5 mô hình là
mô hình tập trung, mô hình trang trại tập trung, mô hình phi chính thức, mô
hình đa thành phần và mô hình trung gian.
2.1.4 Ý nghĩa của việc tiêu thụ nông sản theo hợp đồng
Tăng cường liên minh công nông: Việc chuyển đổi phương thức sản
xuất nông nghiệp từ tự túc tự cấp sang sản xuất hàng hoá thì việc liên minh
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
13
công nông có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó giúp cho quá trình sản xuất chế
biến tiêu thụ được hiệu quả hơn.
Thực hiện quan hệ hợp tác: Thông qua liên kết tăng cường quan hệ hợp
tác giữa các bên, giúp cho quan hệ cung cầu phù hợp và hiệu quả hơn.
Giải quyết quan hệ phân phối: Thông qua liên kết vấn đề phân phối thu
nhập, trách nhiệm quyền hạn của các bên tham gia liên kết được cụ thể hơn,
hàng hoá đến tay người tiêu dùng nhanh hơn.
Thúc đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật: Liên kết giúp cho việc vận
dụng và sử dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất, đem lại hiệu
quả cao hơn, chất lượng sản phẩm làm ra tốt hơn.
Tạo ra sự gắn kết giữa các “nhà”: Khi các nhà cùng tham gia vào liên
kết thì hiệu quả thu được sẽ cao hơn, đồng bộ hơn trong thực hiện. Với sự
tham gia của Nhà nước thì tình trạng chồng chéo về cơ chế chính sách được
hạn chế tối đa thay vào đó là một loạt chính sách đồng bộ trong sản xuất và
tiêu thụ. Các nhà khoa học với những đóng góp về khoa học kỹ thuật mới đã
dần thay thế cho những kỹ thuật lạc hậu không hiệu quả, các giống cây, giống
con có năng suất thấp… Với các doanh nghiệp và người nông dân thông qua
liên kết giúp họ yên tâm hơn trong sản xuất, mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, ổn
định các yếu tố đầu vào và thị trường đầu ra, giảm thiểu các rủi ro cũng như
chia sẻ các rủi ro trong sản xuất… Với sự liên kết như vậy sẽ đạt được hiệu quả
cao nhất trong sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm nông sản.
Nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hoá giúp
cho nền kinh tế nói chung và nền nông nghiệp nói riêng ngày một phát triển
bền vững phù hợp với quá trình hội nhập và phát triển nền kinh tế nước ta
theo định hướng XHCN.
2.1.5 Tính tất yếu của hoạt động tiêu thụ nông sản
Sản xuất nông nghiệp ở nước ta những năm qua có bước phát triển tạo
nên sản phẩm hàng hóa. Nhờ ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật, công
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
14
nghệ vào sản xuất, năng suất cây trồng, vật nuôi và chất lượng hàng nông sản
ngày càng nâng cao.
Trước đây, với phương thức sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, sản phẩm
nông nghiệp chỉ xuất hiện trên thị trường theo mùa vụ tại các địa bàn khép
kín, nay nông dân đã thâm canh, tăng vụ, sử dụng giống mới để tạo ra những
sản phẩm đa dạng, phong phú, có mặt ở các vùng, miền. Sản lượng nông sản
tăng nhanh không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, mà còn góp
phần tăng kim ngạch xuất khẩu. Đời sống của nông dân ở nhiều vùng ngày
càng được cải thiện.
Tuy nhiên vấn đề đáng lo ngại là tình trạng thiếu bền vững trong sản
xuất nông nghiệp ở nước ta. Nông sản xuất hiện trên thị trường lúc nhiều, lúc
ít, nơi thừa, nơi thiếu, bấp bênh, đặc biệt là khâu tiêu thụ, chế biến, bảo quản
nông sản sau thu hoạch còn bất cập. Phần lớn hàng nông sản xuất khẩu nước
ta còn xuất dưới dạng thô, chưa qua chế biến, chất lượng không đồng đều, dẫn
đến giá thấp, chưa tạo được thị trường bền vững.
Việc tiêu thụ nông sản còn thả nổi chưa được quan tâm thỏa đáng.
Vào thời điểm thu hoạch rộ, nông dân bị tư thương ép giá, nhiều khi giá
bán sản phẩm thấp hơn giá thành không đủ chi phí về phân bón, thuốc bảo vệ
thực vật… Thêm nữa, do chưa có biện pháp bảo quản nông sản sau thu hoạch,
cho nên tỷ lệ hao hụt, hư hỏng, biến chất của nông sản còn cao.
Để nông nghiệp phát triển bền vững, hiệu quả, bảo đảm đời sống ổn
định của nông dân, Nhà nước cần quan tâm hơn nữa khâu tiêu thụ nông sản.
Cần mở rộng mô hình liên kết chặt chẽ giữa sản xuất, gắn với tiêu thụ, chế
biến nông sản. Các doanh nghiệp Nhà nước cần tổ chức tốt mạng lưới tiêu thụ
nông sản cho nông dân, không để tư thương thao túng. Cần tăng cường việc
nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ vào khâu bảo quản nông
sản giảm tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch và nâng cao chất lượng hàng nông sản.
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
15
2.1.6 Các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất và tiêu thụ nông sản
Tham gia các hoạt động trong tiêu thụ nông sản hàng hoá nói chung có
rất nhiều các chủ thể (nhiều “nhà”). Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy thường
có 4 nhóm chủ thể sản đây:
+ Các cơ sở sản xuất: Có thể bao gồm hộ gia đình, hộ trang trại, tổ hợp
tác, hợp tác xã, doanh nghiệp sản xuất… Đây là chủ thể chính và trực tiếp
tham gia vào hoạt động tiêu thụ nông sản, họ là người được sử dụng đất đai
của mình để sản xuất hay góp cổ phần, liên doanh, liên kết với doanh nghiệp
hoặc cho các doanh nghiệp khác thuê đất để sản xuất. Họ có thể được hỗ trợ
về giống, kỹ thuật canh tác, bảo quản và bao tiêu sản phẩm ổn định lâu dài từ
phía doanh nghiệp chế biến.
Thông qua hợp đồng, người sản xuất ngay từ đầu vụ sản xuất cần xác
định rõ lượng vật tư nông nghiệp cần đầu tư, các biện pháp kỹ thuật, giá cả
hợp lý, các khoản bảo hiểm giá nông sản… để yên tâm sản xuất. Xác định
trách nhiệm của mình, người sản xuất cần chủ động, mạnh dạn hưởng ứng
chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đầu tư phát triển sản xuất, giảm giá
thành, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, gom đủ nguồn hàng theo đúng
thời hạn hợp đồng với doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp: Đây là chủ thể thứ hai và cũng là chủ thể chính tham
gia hoạt động liên kết. Doanh nghiệp có liên quan trực tiếp và cần xác định rõ
trách nhiệm cụ thể đối với người sản xuất như cung ứng vật tư nông nghiệp,
áp dụng công nghệ cao, công nghệ sạch, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ
thuật (KHKT) vào sản xuất để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao
tính chủ động về hoạt động quản lý, điều hành sản xuất có hiệu quả, có biện
pháp hướng dẫn người sản xuất có ý thức trách nhiệm tạo ra nguồn hàng ổn
định và bảo đảm chất lượng để phục vụ sản xuất chế biến, tiêu thụ trong nước
và xuất khẩu.
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
16
- Nhà nước: Để phát triển hình thức liên kết sản xuất - tiêu thụ giữa
doanh nghiệp và người nông dân, các cấp chính quyền ngoài công tác quản lý,
chỉ đạo sản xuất cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách, thể chế để tạo điều
kiện cho cả hai phía, đồng thời khuyến khích các hộ nông dân hình thành các
hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện làm vệ tinh cho các doanh nghiệp. Ngoài
ra, Nhà nước còn có thể đứng lên làm trọng tài để giải quyết các vụ tranh
chấp, hay vi phạm hợp đồng giữa người sản xuất, doanh nghiệp và các chủ thể
khác có liên quan.
Về tài chính, tín dụng: Nhà nước tạo điều kiện cho người sản xuất kinh
doanh ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm được vay vốn từ các ngân hàng thương
mại để đầu tư phát triển sản xuất, cải tiến thủ tục vay vốn từ Quỹ hỗ trợ phát
triển để các doanh nghiệp thuộc diện vay vốn được thuận lợi, đồng thời tăng
mức vốn vay đầu tư ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển để đầu tư xây dựng vùng
nguyên liệu tập trung, tiêu thụ nông sản hàng hoá.
Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp liên kết sản xuất và tiêu thụ nông
sản với nông dân thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư,
nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, cung cấp thông tin định hướng cho
kinh doanh, công tác kiểm soát chất lượng, xuất xứ hàng nông sản và đăng ký
kinh doanh nông sản, tìm kiếm và mở rộng thị trường…
- Các cơ sở, cá nhân hoạt động nghiên cứu chuyển giao: Trong sản
xuất, để tạo nên những sản phẩm vừa có năng suất, chất lượng và có giá trị
kinh tế cao, vừa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng cũng như đơn đặt
hàng của các doanh nghiệp, nhà khoa học có vai trò hết sức quan trọng. Các
nhà khoa học sẽ đóng góp công sức và chất sám của mình để thực hiện các
hợp đồng theo đơn đặt hàng của các nhà doanh nghiệp cũng như của người
sản xuất.
Nhà khoa học không bó hẹp hoạt động trong phòng nghiên cứu mà
năng động, chuyên nghiệp trong việc bắt tay với nhà nông, doanh nghiệp để
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế…………………………….
17
hỗ trợ họ trong sản xuất, thu hoạch, bảo quản nông sản; cần có tiếng nói tích
cực để tham mưu cho các nhà quản lý nhằm có những dự báo, tính toán, quy
hoạch cụ thể và chủ động trong chỉ đạo sản xuất, tiêu thụ.
2.1.7 Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ nông sản
2.1.7.1 Trình độ của nền sản xuất
Sản xuất hàng hoá càng cao thì nhu cầu tiêu thụ nông sản càng lớn.
Trên thực tế, bất cứ nền sản xuất của nước nào mang tính tự cấp, tự túc sẽ
không xuất hiện quá trình liên kết, hợp tác, nếu có cũng mang tính giản đơn;
trong sản xuất nông nghiệp thể hiện rất rõ yếu tố này. Ở Việt Nam, trình độ
sản xuất nông nghiệp ở các vùng khác nhau, thì mức độ hợp tác, liên kết cũng
khác nhau. Rõ nhất là vùng núi phía Bắc điều kiện sản xuất khó khăn, manh
mún và chủ yếu là sản xuất tự túc, tự cấp nên tính liên kết kinh tế rất ít và
chậm được triển khai thực hiện trên thực tế; trong khi đó, vùng đồng bằng
sông Cửu Long là vùng sản xuất hàng hoá lớn của cả nước về nông nghiệp,
luôn có nhu cầu liên kết cao từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.
2.2.7.2 Thị trường
Nơi nào thị trường hàng hoá phát triển càng mạnh thì quá trình liên kết,
hợp tác càng diễn ra sôi động. Trên thực tế sản xuất, ở mỗi vùng, mỗi địa bàn
có những điều kiện khác nhau. Thông qua thị trường để thực hiện giá trị sản
xuất của mình, điều đó quyết định sản xuất sản phẩm hay không và bán được
giá cao hay giá thấp? Nơi nào thị trường hàng hoá phát triển thấp thì giá bán
càng bất lợi cho nhà sản xuất; ngược lại thị trường sôi động, nông sản hàng
hoá giao dịch nhiều, thì nơi ấy tạo lập được giá đúng với bản chất của thị
trường. Để đáp ứng cho yêu cầu của thị trường trong điều kiện của người
nông dân còn khó khăn, nhất là thiếu các yếu tố “đầu vào, đầu ra” của sản
xuất, khi ấy buộc người nông dân phải thực hiện liên kết với các nhà có điều
kiện cung cấp các dịch vụ “đầu vào, đầu ra”; càng nhiều hộ có nhu cầu cung
cấp dịch vụ thì quá trình liên kết, hợp tác càng diễn ra sôi động.