TỔNG QUAN VỀ BỨC TRANH ĐÓI NGHÈO TẠI KHU VỰC BẮC PHI
I. Một số khái niệm về nghèo đói và xóa đói giảm nghèo
1.Quan niệm về nghèo đói và các tiêu chí xác định đói nghèo trên thế giới.
1.1 Các quan niệm về nghèo đói
Nghèo đói là vấn đề luôn tồn tại ở hầu khắp các quốc gia trên thế
giới, do vậy chống nghèo đói là một trong những chính sách ưu tiên của Liên Hiệp
Quốc nhằm cải thiện đời sống những người đang sống trong tình trạng nghèo tuyệt
đối.
Do vấn đề nghèo đói diễn ra trên quy mô lớn nên hậu quả của nó đã tác động
xấu đến vấn đề sinh thái, môi trường và sự bất ổn về chính trị ở nhiều vùng trên thế
giới. Vấn đề nghèo đói không chỉ ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo mà còn có
nguy cơ lan rộng và tác động đến toàn cầu như tàn phá môi trường sinh thái, tình
trạng di cư dân ồ ạt, tiêu cực xã hội lan rộng…Vì vậy sự nghiệp chống nghèo đói
không chỉ của riêng mỗi nước hay mỗi khu vực mà là nhiệm vụ của tất cả các nước
trên thế giới. Hơn thế nữa chống đói nghèo là một trong những ưu tiên hàng đầu
của cộng đồng quốc tế trong thế kỷ XXI. Tuy nhiên quá trình thực hiện xóa đói
giảm nghèo ở mỗi quốc gia có khác nhau do trình độ phát triển kinh tế xã hội, điều
kiện địa lý tự nhiên, trình độ dân trí, văn hóa, chính trị… khác nhau. Ngay trong
một quốc gia thì mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử cũng khác nhau nhau nên quan
niệm về nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở mỗi quốc gia cũng khác nhau.Tuy
nhiên về bản chất của nghèo đói thì hầu như quốc gia nào cũng giống nhau.
Trên thế giới nghèo đói được xem xét ở nhiều khía cạnh và góc độ khác
nhau, trong đó về mặt kinh tế xã hội thì nghèo có nhiều định nghĩa: Nghèo về vật
chất, nghèo về tri thức, nghèo về văn hóa và nghèo về điều kiện sinh hoạt
Theo định nghĩa của tổ chức lao động quốc tế ILO thì “nghèo đói là sự thiếu
cơ hội lựa chọn tham gia vào sự phát triển cộng đồng”. Còn UNDP thì đưa ra định
nghĩa nghèo như sau:
Sự nghèo khổ của con người: Thiếu những quyền cơ bản của con người như
biết đọc biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ
Sự nghèo khổ về tiền tệ: Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi
tiêu tối thiểu.
Sự nghèo khổ chung: Mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định
như không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu lương thực và phi lương thực chủ
yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này hay nước
khác.
Theo định nghĩa của Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức vào tháng 9/1993 tại Bangkok (Thái Lan) các quốc gia trong khu
vực đã thống nhất cho rằng “nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không
được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa
nhận, tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của từng địa
phương”. Đây là khái niệm tương đối đầy đủ và bao quát nên có thể coi là định
nghĩa chung nhất và có tính hướng dẫn về phương pháp nhận diện nét chính yếu
phổ biến về nghèo đói của các quốc gia. Tuy nhiên các tiêu chí và chuẩn mực về
mặt lượng hóa vẫn chưa được xác định vì còn phải tính đến sự khác biệt về mặt
chênh lệch giữa các điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ phát triển của mỗi vùng
miền khác nhau.
Nghèo có hai dạng: nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối. Nghèo tuyệt đối là
tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn nhu cầu cơ bản, tối
thiểu để duy trì cuộc sống. Nhu cầu cơ bản, tối thiểu đó là mức bảo đảm tối thiểu
về ăn, mặc, nhà ở, nước sinh hoạt, y tế, giáo dục và vệ sinh môi trường.
Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức
trung bình của cộng đồng ở một thời kỳ nhất định. Như vậy nghèo đói là khái niệm
mang tính chất tương đối cả về không gian và thời gian
Nghèo tuyệt đối biểu hiện chủ yếu thông qua tình trạng một bộ phận dân cư
có thu nhập thấp, không cho phép thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu; trước hết là ăn-
gắn liền với dinh dưỡng. Nhu cầu này cũng có sự thay đổi, khác biệt từng quốc gia
và cũng được mở rộng dần. Còn nghèo tương đối gắn liền với sự chênh lệch về
mức sống của một bộ phận dân cư so với mức sống trung bình của địa phương ở
một thời kỳ nhất định. Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: Việc xóa dần nghèo
tuyệt đối là việc có thể làm, còn nghèo tương đối là hiện tượng thường có trong xã
hội và vấn đề cần quan tâm là rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu-nghèo. Khái
niệm nghèo tuyệt đối được sử dụng để so sánh mức độ nghèo khổ giữa các quốc
gia. Trên cơ sở đó người ta đưa ra khái niệm quốc gia nghèo là đất nước có thu
nhập bình quân đầu người rất thấp, nguồn lực cực kỳ hạn hẹp, cơ sở hạ tầng và môi
trường yếu kém, có vị trí không thuận lợi trong giao lưu với cộng đồng quốc tế.
Còn trong đấu tranh chống nạn nghèo đói người ta dùng khái niệm nghèo tuyệt đối.
1.2 Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của thế giới:
Để đánh giá nghèo đói, UNDP dùng cách tính dựa trên cơ sở phân phối thu
nhập theo đầu người hay theo nhóm dân cư. Thước đo này tính phân phối thu nhập
cho từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong thời gian nhất định, nó không
quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập hay môi trường sống của dân cư mà chia
đều cho mọi thành phần dân cư. Phương pháp tính là: Đem chia dân số của một
nước, một châu lục hoặc toàn cầu ra làm 5 nhóm, mỗi nhóm có 20% dân số bao
gồm: Rất giàu, giàu, trung bình, nghèo và rất nghèo. Theo cách tính này, vào
những năm 1990 thì 20% dân số giàu nhất chiếm 82,7% thu nhập toàn thế giới,
trong khi 20% nghèo nhất chỉ chiếm 1,4%. Như vậy nhóm giàu nhất gấp 59 lần
nhóm nghèo nhất
1
.
Hiện nay, Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ
giàu, nghèo của các quốc gia dựa vào mức thu nhập quốc dân bình quân tính theo
đầu người trong một năm với 2 cách tính đó là: Phương pháp Atlas tức là tính theo
tỷ giá hối đoái và tính theo USD. Phương pháp PPP (purchasing power parity), là
phương pháp tính theo sức mua tương đương và cũng tính bằng USD.
Theo phương pháp Atlas, năm 1990 người ta chia mức bình quân của các
nước trên toàn thế giới làm 6 loại:
+ Trên 25.000 USD/người/năm là nước cực giàu
+ Từ 20.000 đến dưới 25.000 USD/người/năm là nước giàu.
+ Từ 10.000 đến dưới 20.000USD/người/năm là nước khá giàu.
+ Từ 2.500 đến dưới 10.000USD/người/năm là nước trung bình.
+ Từ 500 đến dưới 2.500USD/người/năm là nước nghèo.
+ Dưới 500USD/người/năm là nước cực nghèo.
Theo phương pháp thứ hai, WB muốn tìm ra mức chuẩn nghèo đói chung
cho toàn thế giới. Trên cơ sở điều tra thu nhập, chi tiêu của hộ gia đình và giá cả
hàng hóa, thực hiện phương pháp tính "rổ hàng hóa" sức mua tương đương để tính
được mức thu nhập dân cư giữa các quốc gia có thể so sánh. WB đã tính mức năng
lượng tối thiểu cần thiết cho một người để sống là 2.150calo/ngày. Với mức giá
chung của thế giới để đảm bảo mức năng lượng đó cần khoảng 1USD/người/ngày.
Từ đó, năm 1995 WB đã đưa ra chuẩn mực nghèo khổ chung của toàn cầu là thu
nhập bình quân đầu người dưới 370USD/người/năm. Với mức trên WB ước tính có
trên 1,2 tỷ người trên thế giới đang sống trong nghèo đói.
Tuy nhiên, theo quan điểm chung của nhiều nước, hộ nghèo là hộ có thu
nhập dưới 1/3 mức trung bình của xã hội. Do đặc điểm của nền kinh tế-xã hội và
1 World Bank – Unified Approach to Measuring poverty and Inequality
sức mua của đồng tiền khác nhau, chuẩn nghèo đói theo thu nhập (tính theo USD)
cũng khác nhau ở từng quốc gia. Ở một số nước có thu nhập cao, chuẩn nghèo
được xác định là 14USD/người/ngày. Trong khi đó chuẩn nghèo của Malaysia là
28USD/người/tháng. Srilanca là 17USD/người/tháng. Bangladet là 11USD/ người/
tháng
2
Chỉ tiêu thu nhập quốc dân tính theo đầu người là chỉ tiêu chính mà hiện nay
nhiều nước và nhiều tổ chức quốc tế đang dùng để xác định giàu nghèo. Nhưng
cũng cần thấy rằng nghèo đói còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác như văn
hóa, chính trị, xã hội.Trong thực tế nhiều nước phát triển có thu nhập bình quân
theo đầu người cao nhưng vẫnchưa đạt được sự phát triển toàn diện; Tình trạng
thất nghiệp, nghèo đói, thiếu việc làm, ô nhiễm môi trường và những bất công khác
vẫn còn phổ biến, khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng lên, xu hướng này
không chỉ xảy ra ở những nước nghèo mà còn ở những nước khá và giàu. Qua đó
có thể thấy rằng: nghèo khổ trong xã hội không chỉ là hậu quả của mức thu nhập
thấp hay cao mà còn là kết quả của phân phối thu nhập và thực hiện công bằng xã
hội. Vì vậy, để đánh giá vấn đề nghèo đói, bên cạnh tiêu chí thu nhập quốc dân
bình quân, UNDP còn đưa ra chỉ số con người (HDI) bao gồm hệ thống ba chỉ tiêu:
tuổi thọ, tình trạng biết chữ của người lớn, thu nhập bình quân đầu người trong
năm. Đây là chỉ tiêu cho phép đánh giá đầy đủ và toàn diện về sự phát triển và
trình độ văn minh của mỗi quốc gia, nhìn nhận các nước giàu nghèo tương đối
chính xác và khách quan.
2. Các khái niệm về xóa đói giảm nghèo.
2 Databank. Worldbank.org/data/view/malaysia
2.1 Khái niệm
Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng
bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ % và số lượng người nghèo
giảm. Nói một cách khác, giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân cư nghèo
lên một mức sống cao hơn. Ở khía cạnh khác, giảm nghèo là chuyển từ tình trạng
có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để cải
thiện đời sống mọi mặt của mỗi người. Nói giảm nghèo trong đó luôn bao hàm xóa
đói và cũng giống như khái niệm nghèo, khái niệm giảm nghèo chỉ là tương đối.
Bởi nghèo có thể tái sinh mỗi khi quan niệm nghèo và chuẩn nghèo thay đổi. Hoặc
có những biến động khác tác động đến như: khủng hoảng, lạm phát, thiên tai
vv Vì vậy, việc đánh giá mức độ giảm nghèo cần được xem xét trong một không
gian và thời gian nhất định
3
.
2.2 Nội dung của xóa đói giảm nghèo
- Thứ nhất là tăng thu nhập cho người nghèo, vùng nghèo: Khi đánh giá
vấn đề nghèo đói, các tổ chức quốc tế cũng như các nước khác nhau lựa chọn
phương pháp và chỉ tiêu đánh giá cơ bản giống nhau. Song cách xác định và mức
độ cụ thể có những khía cạnh khác nhau. Để làm căn cứ tính toán mức nghèo đói
người ta đều thống nhất dựa vào hai loại chỉ tiêu sau:
3 Do cách nhìn nhận và đánh giá nguồn gốc của nghèo đói khác nhau, nên cũng có nhiều quan niệm về
giảm nghèo khác nhau. Nếu hiểu nghèo là dạng đình đốn của phương thức sản xuất đã bị lạc hậu nhưng vẫn còn tồn
tại thì giảm nghèo là quá trình chuyển đổi sang phương thức sản xuất tiến bộ hơn. Nếu hiểu nghèo là do phân phối
thặng dư trong xã hội một cách bất công đối với người lao động, do chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa thì giảm nghèo
là quá trình xóa bỏ chế độ sở hữu và chế độ phân phối này. Nếu hiểu nghèo là do sự bùng nổ gia tăng dân số vượt
quá tốc độ phát triển kinh tế thì phải tìm mọi cách để giảm gia tăng dân số lại một cách hợp lý. Còn nếu hiểu nghèo
là do tình trạng thất nghiệp gia tăng hoặc rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế thì giảm nghèo chính là tạo việc
làm, tạo cho xã hội ổn định và phát triển.
+ Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân người/tháng hoặc năm và được đo
bằng chỉ tiêu giá trị hoặc hiện vật quy đổi.
+ Chỉ tiêu phụ: Dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc, y tế, giáo dục và các điều
kiện đi lại.
Như vậy, tăng thu nhập cho đối tượng nghèo là nội dung cần được quan tâm
nhất đối với việc xóa đói giảm nghèo. Phần lớn người nghèo ở các nước đang phát
triển phụ thuộc vào thu nhập từ sức lao động, từ công việc trên mảnh đất của họ, từ
tiền lương hay từ những hình thức lao động khác. Tình trạng thiếu việc làm và
năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập của người lao động thấp là khá phổ biến
đối với người nghèo. Vì vậy, để tăng thu nhập cho người nghèo phải có giải pháp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất để hỗ trợ tăng năng suất lao động và
tạo việc làm cho người nghèo là cơ bản nhất.
- Thứ hai là tăng khả năng tiếp cận các nguồn lực phát triển đối với người
nghèo, vùng nghèo.
+ Phần lớn người nghèo tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, nhất là
vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Những nơi này thường là xa các trung tâm kinh
tế và dịch vụ xã hội.
Hệ thống cơ sở hạ tầng thiếu và yếu hơn so với những vùng khác. Phổ biến
là tình trạng thiếu điện, thiếu nước tưới, nước sinh hoạt, thiếu thông tin, thiếu chợ
đầu mối, giao thông đi lại khó khăn vv Do đó, năng suất lao động thấp, trong khi
đó giá cả của sản phẩm do người sản xuất bán lại rẻ do vận chuyển khó khăn. Cơ
hội tự vươn lên của người nghèo ở những vùng này lại càng khó khăn hơn.
+ Nghèo thường gắn liền với dân trí thấp; do nghèo mà không có điều kiện
đầu tư cho con cái học hành để nâng cao trình độ hiểu biết. Dân trí thấp thì không
có khả năng để tiếp thu tiến bộ của khoa học kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất và
không có khả năng tiếp cận với những tiến bộ văn minh của nhân loại nên dẫn đến
nghèo về mọi mặt (kinh tế và tinh thần, chính trị). Vì vậy, để giảm nghèo phải
nâng cao trình độ dân trí, nâng cao sự hiểu biết cho người nghèo là giải pháp có
tính chiến lược lâu dài.
+ Một nội dung quan trọng nữa của công tác xóa đói giảm nghèo là phải
tạo điều kiện để giúp người nghèo tiếp cận có hiệu quả với các dịch vụ y tế, dịch
vụ tài chính, tín dụng và tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ.vv Hỗ trợ
người nghèo về y tế để họ có điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt hơn, hạn chế được
bệnh tật, từ đó có điều kiện tái sản xuất sức lao động, đây là yếu tố quan trọng để
tăng trưởng và phát triển. Người nghèo là những người có thu nhập thấp nên những
lao động nghèo thường thiếu vốn để kinh doanh, thiếu kinh nghiệm sản xuất, thiếu
thông tin thị trường và thiếu kiến thức về khoa học công nghệ. Do vậy, hoạt động
xóa đói giảm nghèo phải hỗ trợ cho người nghèo có được sự tiếp cận tốt hơn những
yếu tố trên.
- Xóa đói giảm nghèo phải mang tính bền vững: Trong thực tiễn xóa đói giảm
nghèo có tình trạng khá phổ biến là có rất nhiều hộ gia đình sau khi thoát nghèo
một thời gian do nhiều nguyên nhân khác nhau như: gặp rủi ro trong kinh doanh,
ốm đau, do tác động của phân hóa giàu – nghèo của quá trình phát triển v.v lại trở
thành những hộ nghèo. Vì vậy, nhiệm vụ của công tác xóa đói giảm nghèo không
chỉ hỗ trợ để người nghèo sinh tồn và vượt qua ngưỡng cửa nghèo một cách thụ
động mà phải có giải pháp tích cực để bản thân người nghèo chủ động tự vươn lên
thoát nghèo vững chắc tiến tới trở thành hộ khá, hộ giàu.
3. Các nhân tố tác động đến xóa đói giảm nghèo
Có nhiều nhân tố tác động đến nghèo đói và hoạt động xóa đói giảm nghèo
khác nhau. Tác động của những nhân tố này có thể làm cho môi trường phát triển
thuận lợi hoặc khó khăn. Nếu môi trường phát triển khó khăn thì ở đó tình trạng
nghèo đói sẽ cao và diễn biến phức tạp, hoạt động xóa đói giảm nghèo sẽ trở nên
khó khăn hơn. Ngược lại nếu môi trường phát triển thuận lợi thì ở đó tỷ lệ nghèo
đói có thể sẽ thấp và hoạt động xóa đói giảm nghèo cũng có phần thuận lợi hơn.
Khi nghiên cứu tác động của các nhân tố đến vấn đề nghèo đói người ta có thể chia
thành những nhóm nhân tố cụ thể khác nhau như: nhóm nhân tố thuộc về điều kiện
tự nhiên, nhóm nhân tố thuộc về kinh tế, nhóm nhân tố xã hội, nhóm nhân tố chính
sách xã hội.
3.1 Những nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý không thuận lợi, giao thông đi lại khó khăn là một
trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nghèo đói cao ở các vùng, địa
phương ở vào vị trí địa lý này. Do điều kiện địa lý như vậy, họ dễ rơi vào thế cô
lập với bên ngoài, khó tiếp cận được với các nguồn lực của phát triển như: tín
dụng, khoa học kĩ thuật, công nghệ, thị trường vv nên việc phát triển cơ sở hạ
tầng, nhất là phát triển hệ thống giao thông có ý nghĩa to lớn đối với việc xóa đói
giảm nghèo.
- Đất canh tác ít, đất cằn cỗi, khó canh tác, năng suất cây trồng, vật nuôi đều
thấp làm sản xuất trong nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với những
vùng thuần nông. Thiếu đất sản xuất ảnh hưởng đến khả năng bảo đảm lương thực
của người nghèo và khả năng đa dạng hóa sản xuất để hướng tới những loại cây
trồng có giá trị kinh tế cao, dẫn đến thu nhập của người nông dân thấp, việc tích
lũy và tái sản xuất mở rộng bị hạn chế hoặc không có. Bởi thế người nghèo lại tiếp
tục nghèo.
- Địa hình phức tạp, bị chia cắt nhiều bởi sông suối và núi đá, đất dốc
Những vùng có địa hình như vậy việc tổ chức sản xuất sẽ gặp nhiều khó khăn, đất
bị xói mòn, dễ bị khô hạn, chi phí sản xuất cao, hiệu quả sản xuất rất thấp
4
, đời
sống của người dân đa phần là khổ cực, hoạt động xóa đói giảm nghèo cũng gặp
nhiều trở ngại.
4 Ví dụ như một số nước gần sa mạc Sahara như Sudan
- Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, hay gặp thiên tai như: hạn hán, lũ lụt, mưa
bão, nạn cát bay, cát lấp vv
3.2 Nhóm nhân tố thuộc về kinh tế không thuận lợi
Ảnh hưởng không thuận lợi của những nhân tố thuộc về kinh tế đối với xóa
đói giảm nghèo bao gồm: Quy mô của nền kinh tế nhỏ bé, cơ cấu kinh tế lạc hậu,
tốc độ tăng trưởng chậm, thu nhập của dân cư thấp, khả năng huy động nguồn lực
vật chất cho xóa đói giảm nghèo khó khăn, thị trường bị bó hẹp là những yếu tố
hạn chế đến việc xóa đói giảm nghèo ở khu vực này.
- Quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố cơ bản để nhà nước
tăng các nguồn thu và tích lũy tạo sức mạnh vật chất để hình thành và triển khai
các chương trình hỗ trợ vật chất, tài chính . Người nghèo và cộng đồng nghèo nhờ
đó có sự vươn lên thoát khỏi nghèo đói. Vì vậy, quy mô nền kinh tế lớn và tăng
trưởng kinh tế cao, bền vững là điều kiện quan trọng để thực hiện xóa đói giảm
nghèo trên quy mô diện rộng. Ngược lại nếu quy mô nền kinh tế nhỏ bé thì lượng
tuyệt đối về tích lũy sẽ nhỏ; tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm thì khả năng tăng quy
mô tích lũy sẽ gặp trở ngại, nguồn lực dành cho xóa đói giảm nghèo sẽ khó khăn.
Bên cạnh đó lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, cơ cấu kinh tế chậm tiến bộ, sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu với trình độ canh tác lạc hậu; cơ cấu sản xuất trong
nội bộ các ngành kinh tế chậm đổi mới, hàm lượng khoa học - kỹ thuật trong sản
phẩm thấp thì giá trị gia tăng trong giá trị sản phẩm sẽ nhỏ, khó cạnh tranh thị
trường dẫn đến năng suất lao động thấp, tốc độ tăng trưởng kém, khả năng tích
lũy cho tái sản xuất mở rộng và huy động nguồn lực cho xóa đói giảm nghèo sẽ
hạn chế. Vì vậy để xóa đói giảm nghèo thành côngphải tìm kiếm giải pháp để
nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo hướng tiến bộ, chuyển đổi cơ
cấu sản xuất trong nội bộ ngành để tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng và giá trị
cao, cạnh tranh thị trường tốt vv đảm bảo tăng tốc độ tăng trưởng và mở rộng
quy mô của nền kinh tế; từ đó tăng nguồn lực để thực hiện các mục tiêu xóa đói
giảm nghèo.
3.3 Nhóm nhân tố thuộc về xã hội
- Những nhân tố xã hội tác động đến nghèo đói và hoạt động xóa
đói giảm ghèo bao gồm: Dân số và lao động, trình độ dân trí, đầu tư cho giáo dục,
chăm sóc sức khỏe, phong tục, tập quán, vấn đề cán bộ và tổ chức bộ máy quản lý,
điều hành. Tình trạng nghèo đói liên quan chặt chẽ với sự gia tăng dân số và cơ cấu
dân cư. Theo điều tra, bình quân nhân khẩu phải nuôi trên một lao động chính của
các hộ nghèo thường cao hơn các hộ giàu. Nghèo đói, dân trí thấp dẫn đến sinh đẻ
nhiều và đến lượt nó, sinh đẻ nhiều dẫn thu nhập của hộ gia đình sẽ giảm càng làm
cho đời sống khó khăn hơn. Ngược lại nhân khẩu trong gia đình tăng nên mức thu
nhập bình quân đầu người của hộ giảm. Sức khỏe của người mẹ đẻ nhiều cũng suy
giảm và tác động đến sức khỏe của những đứa con sau khi sinh làm cho sức lao
động giảm dần, nguy cơ nghèo đói sẽ tăng cao. Trên góc độ quốc gia, dân số tăng
nhanh thì mức gia tăng thu nhập bình quân đầu người sẽ giảm. Với một nguồn lực
hạn chế phải cân đối cho một lượng dân cư lớn hơn thì sẽ khó khăn cho việc huy
động nguồn lực để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Nếu cơ cấu
dân số trẻ nhiều thì áp lực đầu tư cho giáo dục sẽ lớn, đầu tư cho phát triển sản
xuất sẽ giảm dẫn đến tăng trưởng chậm.
- Xét yếu tố lao động: Nếu cơ cấu dân cư có tỷ lệ lao động thấp, một lao
động chính phải nuôi nhiều người ăn theo, cùng với cơ cấu lao động phân bổ chủ
yếu về sản xuất nông nghiệp, tỷ lệ lao động công nghiệp và dịch vụ ít, thì đó là một
bất lợi lớn cho việc tăng nhanh mức thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ tích lũy sẽ
thấp. Do vậy, khó khăn cho việc xây dựng và phát triển các quỹ xóa đói giảm
nghèo.
Chất lượng nguồn lao động
5
là một yếu tố rất đáng quan tâm đối với quá
trình phát triển nói chung và xóa đói giảm nghèo nói riêng. Chất lượng nguồn lao
động sẽ tác động trực tiếp tới khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ mới.
II. Thực trạng đói nghèo ở Bắc Phi
1. Một số nét sơ qua về khu vực Bắc Phi
Bắc Phi là khu vực cực bắc của lục địa châu Phi, ngăn cách với khu vực
châu Phi hạ Sahara bởi sa mạc Sahara. Về mặt địa lý, theo định nghĩa của Liên
Hiệp quốc thì Bắc Phi gồm: (1) Algeria, (2) Ai Cập, (3) Libya, (4) Morocco, (5)
Bắc Sudan, (6) Nam Sudan, (7) Tunisia, (8) Tây Sahara.
Bản đồ: Khu vực Bắc Phi
5 Chất lượng nguồn lao động bao gồm: trình độ tay nghề, sức khỏe, thái độ lao động của người lao động.
Cư dân sống ở Bắc Phi thường được chia theo các khu vực địa lý: vùng
Maghred, vùng thung lũng sông Nil và vùng Sahara. Cư dân vùng Maghreb và
Sahara nói nhiều thổ ngữ thuộc tiếng Berber và tiếng Ả rập khác nhau và gần như
toàn bộ theo đạo Hồi. Nền văn hóa của vùng Maghreb và Sahara là sự kết hợp
giữa văn hóa Berber bản xứ và văn hóa Ả rập.
Thung lũng sông Nil ở phía bắc Sudan là nơi ra đời của những nên văn minh
cổ đại như Ai Cập và Kussh. Người Ai Cập qua nhiều thế kỷ đã chuyển đổi ngôn
ngữ của họ từ tiếng Ai Cập sang tiếng Ai Cập hiện đại (cả hai đều thuộc hệ ngôn
ngữ Á Âu), trong khi vẫn duy trì những bản sắc văn hóa lịch sử vốn đã tách biệt họ
hẳn với các nhóm cư dân khác trong vùng. Hầu hết cư dân Ai Cập là những người
Hồi giáo Sunni và có một thiểu số khá quan trọng người Thiên chúa giáo Ai
Cập có mối quan hệ lịch sử sâu sắc với chính thống giáo Ethiopia. Ở vùng Nubia,
kéo dài từ Ai Cập sang Sudan, phần lớn dân số nói tiếng Nubia cổ, nhưng cũng
theo đạo Hồi. Phần phía bắc Sudan chủ yếu gồm cư dân Hồi giáo Ả Rập, nhưng xa
hơn về phía nam thung lũng sông Nil, khu vực văn hóa phi Hồi giáo của cư dân
Nilotic và Nubia bắt đầu. Sudan là đất nước lớn nhất và đa văn hóa nhất trong tất
cả các quốc gia Bắc Phi.
Bắc Phi trước đây có một số lượng dân Do Thái khá lớn, rất nhiều người
trong số đó di cư sang Pháp hoặc Israel khi các quốc gia Bắc Phi giành được độc
lập. Một số nhỏ hơn di cư sang Canada.
Cuộc chinh phục của người Hồi giáo Ả Rập lan đến Bắc Phi vào năm 640.
Năm 670, hầu hết Bắc Phi đều nằm dưới sự cai trị của người Hồi giáo. Người
Berber bản xứ cũng lập nên những chính thể của mình ở những nơi như Fez,
Maroc và Sijilimasa. Trong thế kỷ 11, một phong trào cải cách bao gồm những
thành viên tự gọi là Almoravid tiến hành một cuộc thánh chiến chống lại những
vương quốc phía nam ở savanna. Phong trào này thống nhất xung quanh niềm tin
vào đạo hồi và tiến dần xuống vùng hạ Sahara. Sau thời Trung cổ, khu vực này
nằm dưới sự kiểm soát của Đế quốc Ottoman, trừ Maroc. Sau thế kỷ 19, vùng Bắc
Phi trở thành thuộc địa của Pháp, Anh, Tây Ban Nha và Ý Trong những năm
1950 và 1960 tất cả vùng Bắc Phi lần lượt giành được độc lập. Hiện vẫn còn tranh
chấp ở vùng Tây Sahara giữa Maroc và phong trào Polisario Front được Algérie
ủng hộ.
Khu vực Bắc Phi cũng được biết đến là với những mảnh đất trồng trọt màu
mỡ dọc hai bờ sông Nil và vùng bờ biển Địa Trung Hải. Khu vực này nổi tiếng với
các loại cây trồng như ngũ cốc, gạo, bông và những cây lấy gỗ như cây tuyết tùng.
Ngoài ra còn một số loại cây trồng điển hình của vùng Địa Trung Hải như câu ôliu,
chà là và các loại cây họ cam quýt cũng rất phát triển trong vùng. Thung lũng sông
Nil hết sức màu mỡ và là nơi sinh sống của hầu hết cư dân Ai Cập.
Khu vực Bắc Phi có dân số khoảng 200 triệu người (Bảng 1.1) trong đó
khoảng 60% người dân sống tại các quốc gia có thu nhập trung bình và 40%%
thuộc nhóm có thu nhập thấp. Khi biến động Mùa xuân Arab
6
diễn ra vào cuối năm
2010, đầu năm 2011, khu vực Bắc Phi được xem là khu vực cơ cấu dân số trẻ,
được giáo dục tốt nhưng lại gặp phải rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong vấn đề
giải quyết việc làm. Ngoài ra, thời điểm này cũng là lúc cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu mới kết thúc và còn để lại nhiều hệ lụy lớn đối
với các nền kinh tế trong khu vực.
Bảng 1.1. Dân số khu vực MENA
Tên quốc gia /
vùng lãnh thổ
Dân số Tên quốc gia / vùng
lãnh thổ
Dân số
1. Algeria
2. Ai Cập
3. Libya
35 423 000
79 090 000
6 420 000
5. Tunisia
6. Sudan (Bắc Sudan
+ Nam Sudan)
10 433 000
34 000 000
6 Mùa xuân Arab là làn sóng cách mạng với các cuộc nổi dậy, diễu hành và biểu tình phản đối chưa có tiền lệ tại các
quốc gia ở thế giới Ả Rập
như Tunisia, Algeria, Ai Cập, Yemen, Jordan, Mauritanie, Ả Rập Saudi, Oman, Sudan,
Syria, Iraq, Libya và Marocco.
4. Morocco 32 200 000 7. Tây Sahara 513 000
Tổng dân số Bắc Phi: 198079 000 người
Nguồn: Tổng hợp theo số liệu của World Bank, 2011.
Khu vực Bắc Phi là khu vực sở hữu trữ lượng dầu mỏ lớn trên thế giới và
nguồn tài nguyên dầu mỏ bắt đầu được khai thác, đưa vào sử dụng kể từ đầu thế kỷ
XX. Đánh giá chung cho thấy Bắc Phi sở hữu trữ lượng dầu mỏ lớn, hầu hết các
mỏ dầu đều dễ khai thác, có điều kiện vận chuyển thuận lợi, gần các nguồn tiêu
thụ. Đây là các đặc điểm rất đặc biệt thể hiện sự thuận lợi của khu vực Bắc Phi
trong con đường phát triển dựa vào nguồn tài nguyên dầu khí thời kỳ hiện đại các
năm cuối Thế kỷ XX, đầu Thế kỷ XXI.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi các mỏ dầu tại Bắc Phi được đưa vào khai
thác và sử dụng, nguồn tài nguyên đặc biệt này đã làm thay đổi sâu sắc diện mạo
phát triển của cả khu vực, khiến cho một số nước Bắc Phi nhanh chóng trở thành
địa bàn thu hút sự quan tâm lớn của quốc tế, đặc biệt là của các cường quốc tiêu
thụ nhiều dầu, khiến cho các vấn đề quan hệ quốc tế trong khu vực trở nên rất phức
tạp với sự cạnh tranh ảnh hưởng của rất nhiều quốc gia, tổ chức có lợi ích khác
nhau liên quan tới dầu mỏ. Dầu mỏ và khoáng sản đã và đang mang lại cho một số
nước khu vực Bắc Phi những lợi ích khổng lồ, được coi như một tài sản vô giá góp
phần giúp cho cả khu vực phát triển mạnh mẽ hơn.
Biểu đồ 1.2. Trữ lượng dầu mỏ đã được minh chứng trên thế giới
(Đơn vị: tỷ thùng)
Phần còn lại của
thế giới
Bắc Phi
Trung Đông
Nguồn: Số liệu thống kê của BP (businessinsider.html)
Những giếng dầu nằm rải rác ở các vùng sa mạc thuộc Libya và Algérie.
Dầu mỏ của Libya đặc biệt có giá vì có hàm lượng lưu huỳnh thấp, đồng nghĩa với
việc gây ra ít ô nhiễm hơn so với các loại dầu mỏ thường.
Kinh tế: Trong vài năm gần đây, khu vực Bắc Phi đã xảy ra rất nhiều những
sự kiện trên các mặt kinh tế, chính trị và những sự kiện này đã ảnh hưởng không
nhỏ đến tình hình kinh tế của các nước Bắc Phi trên nhiều bình diện khác nhau. Về
mặt tích cực thì việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong những năm 1990 cũng đã làm
giảm một khối lượng đáng kể các công ty nhà nước mà thay vào đó là các công ty
tư nhân. Hơn thế nữa, một số nước thuộc khu vực Bắc Phi đã là thành viên của tổ
chức Thương mại Thế giới WTO như Ai Cập, Morocco, Tunisia. Dầu mỏ tăng giá
trong thời gian gần đây đã mang lại nguồn lợi không nhỏ nền kinh của Sudan và
Algeria.
Gần đây nhất là sự kiện biến động chính trị, xã hội của phong trào Mùa xuân
Arab diễn ra một cách dồn dập tại nhiều nước Bắc Phi với chính phủ nhiều quốc
gia đã sụp đổ và nhiều quốc gia khác phải tiến hành cải cách toàn diện, tình hình
phát triển kinh tế, chính trị. Đòi hỏi mạnh mẽ của người dân về chuyển đổi, cải
cách, tự do hóa đã dẫn tới sự thay đổi ở nhiều mức độ khác nhau. Ngoài sự sụp đổ
của chính phủ đương nhiệm tại các quốc gia như Tunisia, Ai Cập, Libya, v.v… thì
nhiều chế độ quân chủ khác như Morocco, v.v… cũng đã thực hiện các biện pháp
cải cách sâu rộng cả về kinh tế và chính trị. Tất cả những thay đổi trên đã giúp cho
khu vực Bắc Phi có những phát triển mới với nhiều nét đáng chú ý. Nhưng bên
cạnh đó các nước Bắc Phi cung phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức
Những thách thức trên các mặt kinh tế chính trị xã hội của Bắc Phi có tác
động qua lại lẫn nhau như: tỷ lệ thất nghiệp cao, đặc biệt là thất nghiệp của thanh
niên và của phụ nữ, khu vực tư nhân phát triển yếu, quản trị doanh nghiệp và quản
lý nhà nước yếu kém, năng lực cạnh tranh thấp, tham nhũng phổ biến, v.v… Bối
cảnh phát triển của nhiều sự kiện những năm gần đây đã và đang tạo ra những cơ
hội tốt để chính phủ các quốc gia Bắc Phi cải thiện hiệu quả kinh tế, nâng cao
năng lực quản lý và khai thác tốt hơn tiềm năng sẵn có hiện nay đồng thời thực
hiện tốt việc xóa đói giảm nghèo ở mỗi quốc gia.
2. Thực trạng nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở Bắc Phi
Bắc Phi là khu vực có tỷ lệ nghèo tương đối thấp so với nhiều khu vực khác
trên thế giới – khoảng 22,6% dân số trong khu vực sống dưới mức dưới 2
USD/ngày trong năm 2005 tương đương khu vực châu Mỹ La Tinh và vùng
Caribean, thấp hơn khu vực Đông Á nhưng cao hơn so với khu vực châu Âu và
Trung Á
7
. Tuy nhiên sự cân bằng xã hội ở khu vực này tương đối mong manh.
Tỷ lệ hộ nghèo ở Bắc Phi đã giảm so với những năm 1990 – 2005, mặc dù
với tốc độ chậm hơn so với các nước Mỹ Latin và các nước châu Âu. Mặc dù vậy
số lượng người nghèo vẫn không giảm kể từ những năm 1990 vì dân số phát triển
nhanh và hiện tại vẫn có khoảng 45,2 triệu người sống dưới mức 2 USD/ngày. Nếu
căn cứ trên những dự báo triển vọng kinh tế vĩ mô và lịch sử thì vấn đề xóa đói
giảm nghèo sẽ giảm ở hầu hết các nước do tốc độ tăng trưởng GDP vẫn ở mức
7 Tổng hợp của tác giả dựa trên số liệu của WB
dương. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tài chính năm 2011 đã làm thêm khoảng 2,6
triệu người lâm vào cảnh nghèo đói.
Vấn đề nghèo đói ở khu vực Bắc Phi vẫn còn rất nan giải do bị ảnh hưởng
bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bản chất của nghèo đói là tập trung ở các
nhóm cuối cùng được hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa hầu hết các
gia đình nghèo là các gia đình có đông người phụ thuộc, mù chữ, …
Sự gia tăng của vấn đề bất bình đẳng cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến vấn
đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo.
Theo số liệu mới cập nhật của Ngân hàng Thế giới năm 2012 về tỷ lệ nghèo
đói. Chuẩn nghèo quốc tế dựa trên hai chỉ số nghèo là 1,25 USD và 2
USD/ngày/người
8
. Số liệu mới cho thấy tỷ lệ nghèo trên toàn thế giới ở mức
1,25USD/ngày/người đã giảm đáng kể từ 43,1% xuống còn 22,4% trong những
năm từ 1990 đến 2008. Tuy nhiên, do sự gia tăng dân số nên số lượng người nghèo
giảm ít hơn. Do vậy số người nghèo năm 2008 vẫn lên đến con số 1,29 triệu người
so với 1,9 triệu người trong năm 1990. So với tất cả các khu vực trên thế giới thì
Đông Á là khu vực đã giảm được cả tỷ lệ nghèo và số lượng người nghèo. Số
lượng người nghèo theo mức chuẩn thấp 1,25USD/ngày đã giảm từ 56% năm 1990
xuống còn 14% năm 2008 và số lượng người nghèo cũng giảm từ 926 triệu xuống
còn 284 triệu người trong cùng khoảng thời gian trên. Ngược lại số người nghèo ở
khu vực châu Phi cận Sahara giảm rất chậm và tỷ lệ người nghèo đã giảm lần đầu
tiên trong năm 2008 kể từ những năm 1990.
Nhưng tỷ lệ người nghèo ở khu vực Bắc Phi theo chuẩn nghèo
1,25USD/người là rất thấp và chiếm 2,7% trong năm 2008 (so với mức thấp 6,5%
ở khu vực châu Mỹ la tinh và khu vực Caribean). Theo ước tính của Ngân hàng
Thế giới trong năm 1990 tỷ lệ nghèo ở khu vực này là 5,7%. Như vậy có thể nói
khu vực Bắc Phi là một trong những khu vực tương đối thành công trong cuộc
8 đo bằng PPP 2005
chiến chống đói nghèo. Trong số 20 nước nghèo nhất thế giới có mức chuẩn nghèo
dưới 1,25 USD thì không có nước nào thuộc khu vực Bắc Phi. Mức chuẩn nghèo 2
USD/ngày/người là mức chuẩn nghèo trung bình cho tất cả các nước đang phát
triển và là mức thích hợp hơn với khu vực Bắc Phi. Trong năm 2008 khu vực Bắc
Phi có khoảng 14% dân số sống dưới mức 2 USD/ngày. Đây là mức tương đối thấp
so với nhiều vùng trên thế giới, ngang với khu vực Mỹ Latin và Caribean và chỉ
cao hơn so với khu vực châu Âu và Trung Á. Hơn thế nữa vẫn ở mức chuẩn nghèo
này thì nghèo đói ở khu vực đã giảm dần theo thời gian. Trong năm 1990 thì
khoảng ¼ dân số khu vực sống dưới mức 2USD/ngày thì đến năm 2008 mức
nghèo đói đã giảm xuống còn 14%. Số người nghèo ở khu vực này cũng giảm đáng
kể. Mặc dù tốc độ tăng trương dân số tăng nhanh, nhưng số lượng nghười nghèo
cũng giảm từ 53 triệu người năm 1990 xuống còn 44,4 triệu người vào năm 2008.
Tuy nhiên những con số tổng hợp trên đã không phản ánh một cách chính
xác nhất tỷ lệ nghèo đói cũng như mức sống trong khu vực. Ví dụ như ở Tunisia
thì tỷ lệ nghèo rất thấp dưới một con số trong khi đó có những nước như Yemen
khoảng 1/3 dân số sống dưới mức nghèo khổ. Hơn thế nữa người dân khu vực này
cũng rất dễ bị tái nghèo khi mà tỷ lệ dân sống sấp xỉ mức nghèo đói cũng tương đối
cao như Ai Cập là 17%, Morocco 50%. Bắc Phi cũng là khu vực thường xảy ra
xung đột và nội chiến như Lybia, Ai Cập…nên các nước này thường rất nhạy cảm
với những cú sốc kinh tế.
Nghèo ở các nước Bắc Phi chủ yếu tập trung theo vùng đặc biệt vùng nông
thôn , khoảng 25% dân số trong khu vực được ước tính là nghèo và trong đó
khoảng 58% là sống ở vùng nông thôn. Trong những năm qua giảm nghèo ở khu
vực nông thôn thường chậm hơn ở những khu vực thành thị. Tuy nhiên theo những
số liệu trong bảng thì sự khác biệt và chênh lệch ở các vùng trong mỗi nước là rất
lớn. Ví dụ điển hình như vùng thượng Ai cập có tỷ lệ nghèo cao hơn so với vùng
đồng bằng. Nước có tỷ lệ nghèo cao nhất là Sudan với khoảng 60% dân số sống
trong nghèo đói và nước được xem là có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất khu vực Bắc Phi
là Tunisia với tỷ lệ nghèo đói chỉ khoảng 4,1% dân số. (bảng 2.1)
Bảng 2.1: Nghèo đói ở một số quốc gia khu vực Bắc Phi
Chỉ số HPI-1 Chỉ số HDI Tỷ lệ nghèo
đói
Tỷ lệ nghèo
khu vực nông
thôn
Algeria 21,5 0,722 12,1 14,7
Ai Cập 20 0,659 16,7 23,3
Morocco 33,4 0,631 14,2 22
Sudan 31,3 0,512 60 85
Tunisia 17,9 0,753 4,1 8,3
Nguồn: Tổng hợp theo số liệu của CIA The World Factbook
Vấn đề an ninh lương thực cũng là một thách thức không nhỏ trong công
cuộc xóa đói giảm nghèo : Theo định nghĩa của Tổ chức Lương thực thế giới FAO
thì an ninh lương thực được đảm bảo khi tất cả mọi người có thế tiếp cận nguồn
thực phẩm và dinh dưỡng để đáp ứng nhu cầu cơ thể”. Đảm bảo an ninh lương
thực cũng là mục tiêu của mọi quốc gia nhất là trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo.
Mức độ an ninh lương thực được đo lường bằng rất nhiều chỉ tiêu
9
và Bắc Phi được
xem là khu vực đạt được an ninh lương thực ở mức độ tương đối tốt với lượng tiêu
thụ calories bình quân đầu người đạt 3029 calo so với mức trung bình thế giới là
2798 calo. Mức độ suy dinh dưỡng khoảng 8,7% vẫn tốt hơn mức trung bình thế
giới là 14%. Tuy nhiên vấn đề an ninh lương thực vẫn là một thách thức lớn trong
khu vực khi mà tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng vẫn cao khoảng 14,1%
và tỷ lệ này ở một số nước có thu nhập trung bình như Algeria và Morocco là 10%.
Quan trọng hơn nữa đó là sự khác biệt đáng kể trong mức tiêu thụ calo ở các nước
9 Các chỉ tiêu đảm bảo an ninh lương thực bao gồm: sẵn có lương thực,tiếp cận lương thực và ổn định lương thực
trong khu vực. Nhóm nước kém phát triển như Sudan…có mức tiêu thụ calories
trên đầu người rất thấp, chỉ khoảng 2150 calo. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em
cũng ở mức cao khoảng 25% ở các nước kém phát triển trong khu vực. Hơn thế
nữa để đạt được mục tiêu MDG thì một số nước kém phát triển trong khu vực phải
tăng cường mức độ an ninh lương thực.
Liệu Bắc Phi có đạt được mục tiêu thiên niên kỷ MDG hay không?
Theo thống kê của ngân hàng thế giới thì Bắc Phi là một trong bốn khu vực
đã được được mục tiêu thiên niên kỷ
10
. Mục tiêu thiên niên kỷ là một loạt các cam
kết xung quanh 7 mục tiêu đã được các nước ký kết sẽ đạt được trong năm 2015.
Mỗi mục tiêu bao gồm nhiều chỉ tiêu và được đánh giá thành công thông qua 48
chỉ số cụ thể. Mục tiêu được đặt ra bắt đầu từ năm 1990 và kết thúc vào năm 2015.
Ví dụ MDG1 là xóa đói giảm nghèo bao gồm hai chỉ tiêu: trong 15 năm sẽ giảm
một nửa số người nghèo và giảm một nửa số người bị thiếu đói. Mục đích của phần
này là đánh giá những tiến bộ đạt được MDG ở các nước Bắc Phi thông qua việc
phân tích các chỉ số từ năm 1990 cho đến năm có số liệu gần đây nhất, điển hình là
năm 2007 để đánh giá đúng nửa chặng đường thực hiện MDG. Do đó tiến độ thực
hiện được so sánh với một nửa trong số các chỉ tiêu đặt ra trong các mục tiêu trong
MDG. Tuy nhiên vì có nhiều số liệu còn thiếu nên phần này chỉ tập trung vào 5 chỉ
tiêu chính là:
Chỉ tiêu 5: Giảm tỷ lệ người dân sử dụng mức năng lượng ở mức tối thiểu để đạt
mục tiêu MDG 1 “ Xóa đói giảm nghèo”.
Chỉ tiêu 6: Tăng tỷ lệ nhập học cho học sinh tiểu học góp phần thực hiện MDG 2
“Phổ cập giáo dục tiểu học”
Chỉ tiêu số 13: Giảm tỷ lệ trẻ tử vong dưới 5 tuổi
Chỉ tiêu số 30: Tăng tỷ lệ dân số được sử dụng nguồn nước sạch nhằm đảm bảo
bền vững môi trường.
10 MDG Report 2013 – World Bank
Chỉ tiêu số 31: Tăng tỉ lệ dân số được sử dụng những công trình vệ sinh đã được
cải thiện góp phần thực hiện MDG 7 “Đảm bảo môi trường bền vững”
Các chỉ số tổng hợp đã cho thấy việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ của khu
vực Bắc Phi tương đối tốt so với nhiều khu vực còn lại trên thế giới. Ví dụ trong
năm 2004 tỷ lệ trẻ em tử vong dưới 5 tuổi đã giảm đáng kể từ 91/1000 trẻ xuống
còn 46/1000 trẻ. Có thể nói, vấn đề tiếp cận với giáo dục, nước và an toàn vệ sinh
môi trường của các nước Bắc Phi nhìn chung đã có những tiến triển phù hợp với
các mục tiêu Thiên niên kỷ. Tuy nhiên tỷ lệ người bị suy dinh dưỡng chỉ có xu
hướng giảm nhẹ từ 9,3% lên 8,9%, thấp hơn so với chỉ tiêu đặt ra của MDG. Điều
này có nghĩa là trong vấn đề đảm bảo dinh dưỡng cho người dân, Bắc Phi mới chỉ
đi được ¼ quãng đường thay vì một nửa chặng đường. So với một số chỉ tiêu khác
trong MDG thì việc giảm thiểu tình trạng suy dinh dưỡng chậm hơn mục tiêu đặt
ra cho thấy vấn đề an ninh lương thực ở một số nước chưa được thực hiện đồng bộ
và có hiệu quả. Các chỉ số tổng hợp về việc thực hiện MDG đang có xu hướng phát
triển rất tốt mặc dù hơi chậm so với mục tiêu đặt ra. Hơn thế tình hình thực hiện
MDG cũng rất khác nhau ở các nước. Có thể chia thành ba nhóm nước thực hiện
mục tiêu thiên niên kỷ theo mức độ tốt, bình thường và không thể đạt được MDG
như sau:
Nhóm 1: Bao gồm những nước thực hiện chỉ tiêu MDG tương đối tốt, có thể đạt
hoặc vượt mức thực hiện MDG: Ai Cập, Morocco, Tunisia
Nhóm 2: Những nước thực hiện chỉ số tương đối tốt nhưng vẫn chưa đạt được mục
tiêu MDG: Algeria
Nhóm 3: Những nước thực hiện MDG rất chậm và là những nước kém phát triển
như Sudan, Western Shahara
Có thể thấy khu vực Bắc Phi không đạt được nhiều tiến bộ trong công cuộc
xóa đói giảm nghèo một phần là do tình hình cải cách chính trị chậm chạp, xung
đột và chậm tham gia và tiến trình toàn cầu hóa.