Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHIỆM ANH VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.82 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

Tiểu luận triết học
Đề tài:
“CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHIỆM
ANH, NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ”
Người thực hiện : Đào Thị Kim Huyền
STT : 74 – Nhóm 8
Lớp : Cao học Đêm 5 – Khóa 21
Giảng viên hướng dẫn : TS. Bùi Văn Mưa
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2012
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
“Từ thế kỷ XVII trở đi, Tây Âu chuyển mình dữ dội sau ngàn năm yên
tĩnh”[3,60], đặc biệt là nước Anh, quốc gia tư bản lớn nhất lúc bấy giờ với những sự
phát triển mạnh mẽ của về kinh tế xã hội, khoa học và văn hóa trên mọi lĩnh vực.
Cùng với sự phát triển đó, một trong hai khuynh hướng triết học chủ đạo bấy giờ là
Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh đã để lại một dấu ấn rất sâu sắc trong khoa học
và văn hóa phương Tây. Và cũng có thể nói chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh đã
“Nở một nụ cười tươi rói” sau một ngàn năm thống trị của Thiên Chúa Giáo khi
công khai đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư biện giáo điều, tách triết học ra khỏi thần
học và giáo hội, mang tính cách mạng khoa học, tính chiến đấu cao, giải phóng con
người, cùng với những ưu điểm như: Khôi phục lại vai trò của triết học và khoa học,
nhìn nhận thế giới khách quan, đưa ra quy luật và cải tạo quy luật, phương pháp
nhận thức …Bên cạnh đó có những hạn chế là: Nhận thức vấn đề mang tính máy
móc siêu hình, nhìn nhận vấn đề chưa toàn diện…Vì vậy muốn làm rõ những nhận
định trên cần phải tiến hành tìm hiểu tư tưởng chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh
cũng như đưa những giá trị và hạn chế của chủ nghĩa này. Từ đó sẽ có những kiến
nghị tốt hơn cho vấn đề này.
Để hoàn thành bài tiểu luận này cần dựa vào tài liệu sau: 1) Bùi Văn Mưa


(chủ biên), Tài liệu Triết học (phần I & II)(dùng cho học viên cao học và nghiên cứu
sinh không thuộc ngành triết học), Lưu hành nội bộ,Tp.HCM, 2011 ; 2) Bùi Văn
Mưa, Triết học và bức tranh vật lý học về thế giới, NXB Đại học Quốc Gia,
Tp.HCM, 2008.
2
2Chương 12
2Chương 12
CHƯƠNG 1: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
KINH NGHIỆM ANH
Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh gồm 3 quan niệm chủ yếu là Ph. Bêcơn,
T.Hốpxơ và Gi.Lốccơ. Trong đó, “Ph.Bêcơn đặt nền móng, T.Hốpxơ phát triển theo
khuynh hướng kinh nghiệm và Gi.Lốccơ đẩy mạnh theo khuynh hướng duy
giác”[1,132]. Nội dung cơ bản của tư tưởng trường phái triết học được thể hiện cụ
thể như sau:
1.1 Những định hướng xây dựng triết học và khoa học mới.
Các triết gia thời kỳ bấy giờ đều chủ trương xây dựng triết học và khoa học mới
xuất phát từ 2 cơ sở là : tri thức là sức mạnh và lý luận thống nhất với thực tiễn.
 Theo Ph.Bêcơn: Phải xây dựng một nền triết học và khoa học mới
Triết học mới phải là “Khoa học của mọi khoa học, hoặc là cơ sở của mọi khoa
học”[1,132]. Có nhiệm vụ là “Xóa bỏ những sai lầm chủ quan, loại bỏ những niềm
tin mù quáng, nắm bắt trật tự của thế giới để xây dựng hiểu biết đúng đắn về thế
giới”[3,61].
Khoa học mới là “Lý luận thống nhất với thực tiễn”[1,133]. Có Nhiệm vụ là
“Phải lấy việc khám phá ra các quy luật của thế giới, lấy việc tăng cường quyền lực
tinh thần để con người làm chủ và cải tạo giới tự nhiên làm mục đích”[3,61].
 Và Tiếp tục kế thừa quan điểm thực tiễn và tri thức là sức mạnh của Ph.Bêcơn, theo
T.Hốpxơ thì “Triết học là hoạt động trí tuệ của con người nhằm khám phá ra bản
chất của sự vật”[4,224], và “Vấn đề trung tâm của triết học là con người”[1,138],
nên theo ông triết học bao gồm 2 bộ phận: triết học tự nhiên và triết học xã hội.
 Cuối cùng, Gi.Lốccơ “Kế thừa tư tưởng của Ph.Bêcơn cho rằng mọi nhận

thức đều bắt nguồn từ kinh nghiệm”[4,227]. Ông đã phát triển thêm theo khuynh
hướng duy giác và Gi.Lốccơ cho rằng “Mọi tri thức của con người đều bắt nguồn từ
cảm giác từ kinh nghiệm”[1,142].
3
3Chương 13
3Chương 13
Từ những định hướng này, trường phái tư tưởng triết học kinh nghiệm Anh được
thể hiện cụ thể như sau:
1.2 Quan niệm về thế giới và con người.
1.2.1 Quan niệm về thế giới.
 Ph.Bêcơn cho rằng “Để lý giải được tính muôn màu muôn vẻ của thế giới, chỉ
cần mỗi vật chất là đủ. Ông đã cải biến thuyết bốn nguyên nhân của Arixtốt theo
hướng duy vật”[7,1]. Ông cho rằng “Giới tự nhiên tồn tại khách quan, đa dạng và
thống nhất ”[1,133]:
Tính khách quan: “Thế giới tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào
tình cảm, uy tín, nhận thức (cái chủ quan) của con người. Triết học và khoa học
không thể biết cái gì về thế giới vật chất khách quan đó”[1,133]. Ông coi nguyên tắc
khách quan là nguyên tắc hàng đầu của khoa học và triết học mới để nhận thức đúng
đắn thế giới và ông phủ nhận hoàn toàn cái chủ quan.
Tính đa dạng: “Thế giới được lý giải một cách đúng đắn và đầy đủ nhờ vào quan
niệm về vật chất, về hình dạng, về vận động”[1,133]. Và ông lý giải rằng vật chất
“Là toàn thể các phần tử nhỏ với những tính chất khác nhau”[1,133], còn hình dạng
là “Nguyên nhân làm cho các sự vật trở thành khác nhau, là lý do đầy đủ để sự vật
xuất hiện, là bản chất chung của các sự vật cùng loại, là quy luật chi phối sự vận
động của chúng”[1,134], và vận đồng là “Bản năng là sinh khí của sự vật, là thuộc
tính quan trọng nhất của vật chất”[1,134]. Ph.Bêcơn còn cho rằng có 19 dạng vận
động, trong đó “Hình dạng là dạnh vận động mà nhờ vào nó các phần tử vật chất cấu
thành sự vật”[1,134], và “Đứng im cũng là dạng vận động”[1,134].
Tính thống nhất: “Do vật chất, hình dạng, vận động thống nhất với nhau nên
nhận thức bản chất của sự vật vật chất là khám phá ra hình dạng, là vạch ra các quy

luật vận động chi phối chúng”[1,134].
4
4Chương 14
4Chương 14
 Thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới như Ph.Bêcơn, T.Hốpxơ cho rằng
“Giới tự nhiên không do thượng đế hay thần thánh tạo ra, nó đã tồn tại và sẽ tiếp tục
tồn tại có trước con người”[1,139].
Theo quan điểm duy danh, ông cho rằng giới tự nhiên là “Toàn thể các vật thể
riêng lẻ, và chỉ có các vật thể riêng lẻ mới tồn tại khách quan, mọi sự vật đều quy về
quan hệ số lượng cơ học, toán học, vì thế là một thế giới không thuộc tính, không
màu sắc”[1,139]. Đây là một bước lùi so với bức tranh thế giới nhiều tính chất nhiều
màu sắc của Ph.Bêcơn. Nhưng ông đã triệt để hơn so với Ph.Bêcơn khi quan niệm
về giới tự nhiên, về quan hệ giữa triết học và thần học theo ông thì “Cần phải tách
thần học ra khỏi triết học”[1,138]
1.2.2 Quan niệm về con người.
 Ph.Bêcơn cho rằng “Con người là sản phẩm của thế giới, nó bao gồm thể xác và linh
hồn và đều được cấu tạo từ vật chất. Khoa học nghiên cứu con người và linh hồn là
khoa học tự nhiên”[1,133].
 Còn theo T.Hốpxơ thì ông quan niệm “Vấn đề trung tâm của triết học là vấn
đề con người”[1,138] và“Con người và cả động vật là những cổ máy phức tạp, hành
vi hoạt động đều do sự tác động ở bên ngoài gây nên”[1,139]. Và “Cảm giác của
linh hồn không ảnh hưởng đến chuyển động và sức đẩy trong bộ ốc hay trái
tim”[1,139].
T.Hốpxơ cho rằng “Có sự khác biệt nhất định giữa các vật thể phi linh hồn và
các cỗ máy tự động có linh hồn”[1,139]. Ông đã “Phủ nhận sự tồn tại linh hồn như
một thực thể tinh thần bất tử, ông chỉ thừa nhận thể xác và những hoạt động mang
tính cơ học của nó”[1,139]. Và nói “Thượng đế và lòng tin tôn giáo chỉ là những sản
phẩm của trí tưởng tượng dồi dào của con người”[1,139].
1.3 Quan niệm về nhận thức và phương pháp nhận thức.
1.3.1 Quan niệm về nhận thức.

5
5Chương 15
5Chương 15
 Ph.Bêcơn cho rằng quá trình nhận thức xảy ra bắt đầu từ thế giới khách quan, thông
qua kinh nghiệm cảm tính, tiến đến tư duy lý tính để xây dựng các tri thức khách
quan về thế giới.
“Cảm giác kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức”[1,134]: theo
ông thì “Khoa học phải là khoa học thực nghiệm sử dụng tư duy tổng hợp và
phương pháp quy nạp để khái quát các dữ kiện do kinh nghiệm mang lại nhằm khám
phá ra các quy luật, bản chất của thế giới khách quan, đa dạng và thống
nhất”[1,134]. Còn Tri thức khoa học luôn mang tính khách quan, hoàn toàn không
phụ thuộc vào tình cảm, ý chí, lợi ích chủ quan của con người.
Lý luận về ảo tưởng: Theo Ph.Bêcơn “Quá trình nhận thức của con người bị chi
phối bởi những yếu tố chủ quan như mắc phải các ảo tưởng: ảo tưởng loài, hang
động, thị trường và nhà hát nên mắc sai lầm”[1,135]. Và trong các ảo tưởng này thì
ảo tưởng nhà hát là nguy hiểm nhất, đưa đến nhận thức con người sai lầm nhất.
Và để khắc phục những các ảo tưởng này, phải khách quan hóa hoạt động nhận
thức.“Điều này được thực hiện bằng cách tiếp cận trực tiếp thế giới tự nhiên mà
không thông qua uy tín, sách vở, lòng tin, tín điều…”[1,135] mà phải “Tiếp cận
bằng quan sát, làm thí nghiệm, hoàn thiện công cụ nhận thức, nhân cách cá tính cá
nhân của từng con người, và đặc biệt là biết sử dụng phép quy nạp khoa học, biết
tổng hợp và khái quát hóa một cách đúng đắn các tài liệu kinh nghiệm cảm tính
riêng lẻ”[1,136].
 T.Hốpxơ thì cho rằng “Mọi quá trình nhận thức đều dựa trên ý tưởng, mọi ý tưởng
đều có cội nguồn từ cảm giác về thế giới bên ngoài”[1,140].
“Quá trình nhận thức chỉ là những thao tác trên những cảm giác về những sự vật
riêng lẻ trong thế giới nên sản phẩm mà nhận thức mang lại chỉ kinh nghiệm tri thức
về những sự kiện mang tính sự kiện, đơn nhất hay đang xảy ra”[1,140] nên nhận
thức mang lại chỉ là “ Kinh nghiệm – tri thức về những sự kiện kinh nghiệm riêng
lẻ”[1,140].

6
6Chương 16
6Chương 16
T.Hốpxơ còn khẳng định “Chân lý không phải tính chất gắn liền với các vật
riêng lẻ mà là tính chất của các suy diễn về sự vật do tư duy chúng ta tiến
hành”[1,141].
 Còn Gi.Lốccơ thì kế thừa tư tưởng của Ph.Bêcơn cho rằng mọi nhận thức đều bắt
đầu từ kinh nghiệm, Gi. Lốccơ phát triển thêm là “Mọi kinh nghiệm đều bắt đầu từ
cảm giác”[4,227]. Cảm giác được hình thành khi con người tiếp cận với thế giới
xung quanh.
Gi.Lốccơ cho rằng kinh nghiệm có 2 loại là kinh nghiệm: Kinh nghiệm bên
ngoài là “Kết quả của sự tập hợp các cảm giác do sự tác động của sự vật khách quan
lên giác quan con người”[1,143]. Kinh nghiệm bên trong là “Kết quả cử sự tập hợp
các cảm giác bên trong con người, nó có nguồn gốc từ thế giới vật chất khác
quan”[1,43].
Về tư tưởng con người theo ông có hai loại tư tưởng: “Tư tưởng đơn giản là tổng
đơn thuần các cảm giác của con người”[1,143] và “Tư tưởng phức tạp xuất hiện khi
có sự hoạt động tích cực của lý trí”[1,143].
1.3.2 Quan điểm về phương pháp nhận thức.
 Ph.Bêcơn cho rằng từ trước đến nay, tư duy cũ chỉ sử dụng chủ yếu phương pháp
con nhện và phương pháp con kiến. Đây là phương pháp nhận thức sai lầm. Và ông
khắc phục hai phương pháp này bằng tư duy mới là “Nhà khoa học phải là nhà khoa
học thực nghiệm biết sử dụng điêu luyện phương pháp con ong”[1,136].
Ph.Bêcơn đã đưa ra phương pháp lập bảng (có mặt ghi dấu “+”, vắng mặt ghi
dấu“-”, có mặt nhiều ghi nhiều dấu“+”). Sau này S.Minlơ đã hệ thống hóa thành 4
phương pháp Minlơ (phương pháp tương đồng, khác biệt, đồng biến và phần dư) để
khám phá ra mối liên hệ nhân quả mang tính quy luật chi phối các sự vật hiện tượng
trong thế giới khách quan.
Ông đòi hỏi quá trình nghiên cứu - nhận thức đúng đắn cần phải trải qua ba bước:
7

7Chương 17
7Chương 17
- Dựa vào giác quan, thông qua quan sát, thí nghiệm, tiếp cận thế giới tự nhiên đa
dạng và sinh động để thu được những tài liệu kinh nghiệm cảm tính.
- So sánh, đối chiếu, hệ thống hóa, tổng hợp những tài liệu kinh nghiệm cảm tính
này để xây dựng các sự kiện khoa học và phát hiện ra mối quan hệ nhân quả giữa
chúng.
- Bằng quy nạp khoa học,khái quát các sự kiện khoa học, phát hiện ra mối liên hệ
nhân quả, xây dựng giả thuyết khoa học để lý giải các hiện tượng đang nghiên cứu,
từ giả thuyết này rút ra các hệ quả tất yếu của chúng. Bằng những quan sát, làm thì
nghiệm mới, kiểm tra các hệ quả đó, nếu đúng thì giả thuyết khoa học trở thành
nguyên lý, định luật tổng quát (của khoa học thực nghiệm), nếu sai thì lập lại giả
thuyết mới.
Theo Ph.Bêcơn thì “Quá trình nhận thức đòi hỏi phải xuất phát từ kinh nghiệm
cảm tính, còn kinh nghiệm cảm tính lại xuất phát từ thế giới khách quan”[1,137].
Ông coi “Tư duy tổng hợp và phép quy nạp khoa học là những công cụ hiệu quả để
xây dựng khoa học thực nghiệm và chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm nhằm khám phá
ra các quy luật của thế giới để con người chinh phục nó và bắt nó phục vụ lợi ích
cho chính mình”[1,137].
1.4 Quan niệm về chính trị xã hội.
 Ph.Bêcơn “Đòi hỏi phải xây dựng một nhà nước tập quyền đủ mạnh để chống lại
mọi đặc quyền, đặc lợi của tầng lớp quý tộc bảo thủ”[1,137]. Và “Phát triển một nền
công nghiệp thương nghiệp dựa trên sức mạnh của tri thức khoa học và tiến bộ khoa
học”[1,138]. Ông chủ trương cải tạo xã hội bằng con đường khai sáng khoa học kỹ
thuật, giáo dục và đào tạo mà không cần sự đấu tranh của nhân dân.
 Còn T.Hốpxơ cho rằng có hai trạng thái tồn tại trong xã hội loài người:
“Trạng thái tự nhiên là tính ích kỷ, hiếu thắng thống trị”[1,141] còn “Trạng thái
công dân là tại đó bản tính tự nhiên của con người bị ức chế bởi bản tính xã
hội”[1,141]. Và căn cứ vào bản tính xã hội, con người lặp ra nhà nước cùng bộ máy
8

8Chương 18
8Chương 18
chính phủ mà ở đó “Bản thân mỗi con người – công dân của nhà nước phải có nghĩa
vụ tuân thủ tuân thủ các chuẩn mực của nhà nước. Nhà thờ cũng phải phục tùng nhà
nhà nước chứ không phải ngược lại”[1,142]. Và với quan niệm trên ta thấy Hốpxơ
đang còn quan niệm tự nhiên về nhà nước và xã hôi nhưng có sự tiến bộ là đấu tranh
chống lại thế quyền của giai cấp phong kiến và thần quyền của nhà thờ.
9
9Chương 19
9Chương 19
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
KINH NGHIỆM ANH.
Từ những tư tưởng cơ bản của các nhà triết gia thuộc trường phái chủ nghĩa duy vật
kinh nghiệm Anh trên ta thấy được những giá trị cũng như những hạn chế như sau:
2.1 Những giá trị của chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh.
 Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh đã dựa trên hai tư tưởng chủ đạo là “tri thức là
sức mạnh và lý luận phải gắn với thực tiễn”.
Thời kỳ trước đó (trước Ph.Bêcơn) người ta coi thường tri thức và đề cao đức tin
(xem đức tin là sức mạnh) và đề cao lý luận, lý lẽ xuông. Nhưng Ph.Bêcơn đã khẳng
định khi xây dựng quan điểm triết học là phải căn cứ vào hai tư tưởng chủ đạo trên,
phải xây dựng một nền triết học mới (tri thức là sức mạnh) gắn liền với khoa học
mới (lý luận phải gắn liền với thực tiễn). Ông đã nhận thấy vai trò đặc biệt quan
trọng của khoa học và triết học và sự cần thiết phải đẩy mạnh sự phát triển của
chúng như một nền tảng lý luận của công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Và
mặc dù có thể thời kỳ lúc này hai tư tưởng trên vẫn chưa đúng nhưng so với hiện
nay thì tư tưởng trên là đúng. Và hiện nay nguyên tắc thống nhất lý luận với thực
tiễn là một trong những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin.
 Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh đã tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa duy
tâm – tôn giáo, kinh viện và giáo điều.
Sau hơn một ngàn năm không ánh sáng, với sự thống trị của tôn giáo, chủ nghĩa

duy tâm: lúc đó khoa học bị xóa sổ, lòng tin là sức mạnh (không phải lý trí), chân lý
là kinh thánh, con người yêu, tôn thờ một đấng tối cao là thượng đế… Đến nay thời
kì chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm được Ph.Bêcơn sáng lập ra có thể có “Chiến thắng
rực rở hơn” khi công khai chống lại chủ nghĩa kinh viện, duy tâm, giáo điều. Những
tư tưởng của Ph.Bêcơn có ý nghĩa chống lại chủ nghĩa tôn giáo. Ông cho rằng “Triết
học và khoa học cũ trước đây thì mang tính tư biện giáo điều, lề thói lý luận xuông
xa rời cuộc sống thực tiễn”[1,132], vì vậy cần khắc phục những nhược điểm trên khi
10
10Chương 110
10Chương 110
xây dựng triết học mới, khoa học mới. Tuy nhiên ông không đứng vững trên lập
trường duy vật vô thần, ông vẫn quan niệm “Chân lý hai mặt” là thừa nhận sự tồn tại
của Thượng đế, thừa nhận thần học bên cạnh khoa học, chỉ là khoa học và thần học
không nên can thiệp vào công việc của nhau. Và với T.Hốpxơ thì ông thể hiện rõ
quan điểm của mình là cần phải tách rời thần học ra khỏi triết học, khắc phục tính
chất thần học trong hệ thống triết học. Đây là một quan điểm đúng đắn của trường
phái chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh trong thời đại lúc bấy giờ.
 Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh (cụ thể là quan điểm của Ph.Bêcơn) lần đầu
tiên nêu ra nguyên tắc khách quan trong xem xét, nhận thức vấn đề.
Nguyên tắc khách quan là nguyên tắc thứ nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng
của C.Mác (sau này), đây là một nguyên tắc rất quan trọng trong triết học. Và lúc
này Ph.Bêcơn đã nhận thấy được sự quan trọng của nguyên tắc này (nhưng nói
chính xác hơn là chủ nghĩa khách quan trong trào lưu triết học này), ông quan niệm
rằng “Quá trình nhận thức phải xuất phát từ kinh nghiệm cảm tính, còn kinh nghiệm
cảm tính lại xuất phát từ thế giới khách quan, nguyên tắc khách quan là nguyên tắc
hàng đầu của khoa học và triết học mới để nhận thức đúng đắn thế giới”
 Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh (cụ thể là quan điểm của Ph.Bêcơn) đã thực
hiện được đơn đặt hàng lịch sử do lịch sử đề ra vào thời đại lúc bấy giờ.
Triết học là giải quyết những đơn đặt hàng do lịch sử đề ra trong từng giai đoạn
lịch sử. Ph.Bêcơn đã làm được điều này khi quan niệm về nhận thức và phương

pháp nhận thức.
Ông cho rằng quá trình nhận thức xảy ra bắt đầu từ thế giới khách quan từ những
kinh nghiệm cảm tính, cảm tính quan trọng hơn lý tính, cảm giác kinh nghiệm là
nguồn gốc của mọi lý tính. Và theo ông khoa học phải là khoa học thực nghiệm, đề
cao thực nghiệm coi thường lý thuyết, tri thức là tri thức khoa học thực nghiệm và
phải mang tính khách quan. Ông là người mang lại công cụ nhận thức cho mọi
người lúc bấy giờ.
11
11Chương 111
11Chương 111
Ông là người đầu tiên đặt ra vấn đề hiểu biết qui luật và cải tạo quy luật ( nhận
thức và phương pháp luận).
Nhận ra được những sai lầm về các loại ảo tưởng và cần phải hạn chế những ảo
tưởng này.
Nhận ra hạn chế của các phương pháp cũ như phương pháp con kiến và con
nhện. đề nghị và sử dụng thành thạo điêu luyện phương pháp con ong.
 Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh có giá trị đạo đức và nhân vân:
Triết học thời kỳ này gắn liền với vấn đề con người và giải phóng con người. tất
cả các khoa học đi đến một mục đích, tức là làm sao để chúng ta đi đến sự hoàn
thiện cao nhất của con người. Sự phát triển to lớn của sản xuất và khoa học đã
chứng minh sức mạnh vĩ đại của con người trong hoạt động thực tiễn cải tạo tự
nhiên và xã hội theo nhu cầu của mình.
Mặc dù trong triết học thời kỳ này con người mới được đề cập đến chủ yếu ở
khía cạnh cá thể, còn mặt bản chất xã hội con người chưa được đề cao, nhưng vị trí,
vai trò của con người rất nổi bật. Các nhà triết học khẳng định không có thần thánh
và chúa, chỉ có con người là chủ nhân của thiên nhiên.
 Triết học duy vật kinh nghiệm “Có giá trị đối với khoa học trong thời đại ngày nay
vừa mang tính siêu hình vừa mang tính máy móc”[3,63].
Thật vậy với sự phát triển mạnh và được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội
của khoa học cơ học (cơ học cổ điển của Newton). “Cơ học đã vượt ra ngoài lĩnh

vực thực tiễn, thấm sâu vào cung cách suy nghĩ, lý giải của con người về mọi cái
xảy ra trong thế giới”[3,63]. Và từ đó triết học duy vật vừa mang tính siêu hình vừa
mang tính máy móc đã trở thành “cơ sở lý luận tổng quát để giải quyết các vấn đề
mang tính thế giới quan vào thời đại lúc bấy giờ”[3,63].
 Những tư tưởng của Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh vẫn còn giá trị và được áp
dụng trong các ngành khoa học ngày nay.
12
12Chương 112
12Chương 112
Lý luận nhận thức của trường phái triết học này đã có đóng góp rất lớn đối với
sự phát triển của khoa học lúc bấy giờ và cho đến hiện nay. Vào thời đại lúc bấy giờ,
sau khi Ph.Bêcơn đưa ra phương pháp lập bảng và được S.Minlơ hệ thống hóa thành
Bốn phương pháp Minlơ đã “làm mưa làm gió” trong thời gian rất dài về sau
(khoảng gần 400 năm) và cho đến nay phương pháp này vẫn được áp dụng trong các
ngành khoa học như an ninh, hình sự, và y học.
2.2 Những hạn chế của chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh.
Bên cạnh những giá trị trên trường phái triết học này còn thể hiện những hạn chế
sau:
 Quan niệm về vai trò của triết học là “Khoa học của mọi khoa học”.
Hiện nay vai trò của triết học cũng như là một trong những ngành khoa học khác,
nhưng triết học là cơ sở lý luận chung cho các ngành khoa học khác. Nhưng vào thời
của Ph.Bê cơn thì cho rằng triết học là khoa học của mọi khoa học, quan điểm này
tuy rằng vào thời của ông đúng nhưng hiện nay không còn đúng nữa, TH là một
trong những môn khoa học và các môn khoa học khác dựa trên môn học này).
 Tuyệt đối hóa nguyên tắc khách quan mà coi thường yếu tố chủ quan trong nhận
thức, xem xét vấn đề.
Nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng là yêu cầu phải đề cao
phát huy tối đa yếu tố khách quan, bên cạnh đó cũng đề cao yếu tố chủ quan. Tuy
nhiên vào thời Ph.Bêcơn tuy ông là người đầu tiên đặt vấn đề nguyên tắc khách
quan nhưng ông là nhà tư sản sống trong thời đại chủ nghĩa siêu hình nên nhìn thấy

khách quan là khách quan, chủ quan là chủ quan, không đề cao cái chủ quan, loại bỏ
chủ nghĩa chủ quan ra khỏi khách quan.
 Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh mang tính siêu hình, máy móc không
triệt để.
Có thể nói rằng “Hạn chế lớn nhất không thể tránh khỏi của triết học duy vật thời
cận đại là phương pháp siêu hình”[3,64]. Và chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh
13
13Chương 113
13Chương 113
cũng không thể tránh được điều này. Thật vậy, “Mặc dù những thành tựu khoa học
tự nhiên thời cận đại được phát hiện ra trong thời đại thống trị của phương pháp siêu
hình nhưng chúng lại phản ánh các yếu tố biện chứng của tự nhiên”[3,64]. Tuy
nhiên, cũng chính do triết học thời này mang tính siêu hình nên đã làm mờ đi yếu tố
biện chứng chứa trong các thành tựu đó.
Quan điểm siêu hình còn được thể hiện: quá nhấn mạnh đến phương pháp,
phương pháp quy nạp, “Ph.Bêcơn coi phương pháp là ngọn đuốc soi đường cho
người đi trong đêm tối”[3,68]. Khi phân tích chia các chỉnh thể ra thành những bộ
phận nhỏ khác nhau mà không để ý đến mối liên hệ giữa các bộ phận đó, điều này
đã thành công trong nghiên cứu khoa học và khoa học thực nghiệm, vì vậy cho đây
là phương pháp tối ưu. Dẫn đến các nhà triết học thuộc trường phái này đã tối ưu
phương pháp này trong nhận thức nói chung và nói riêng.
Thế giới quan duy vật siêu hình bên cạnh ưu điểm là loại bỏ vai trò của thần học,
đã thừa nhận bản chất của thế giới nhưng vẫn coi vật chất cụ thể là vật chất đầu tiên
tạo ra vũ trụ và con người. Trong khi đó để hiểu đúng về vật chất thì “ Vật chất là
một phạm trù triết học dùng để dùng để chỉ thực tại khách quan dược đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh
và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác”[2,18].
Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh rất đề cao giá trị của con người nhưng lại
coi con người như một cổ máy và do không hiểu đúng về con người nên các nhà
triết học duy vật thời này đã không hiểu đúng vai trò của con người trong thế giới

mà học đang sống (sau này C.Mác đã khẳng định đúng vị trí và vai trò của con
người).
Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh nói riêng và các nhà duy vật trong thời kỳ
này do mang nặng tư duy máy móc nên không hiểu thế giới là một quá trình với bản
tính là sự phát triển của vật chất trong mối liên hệ đa dạng và phức tạp của nó.
14
14Chương 114
14Chương 114
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh với tư tưởng chủ đạo của các nhà triết
học gia như Ph.Bêcơn là người đặt nền móng, T.Hốpxơ phát triển theo khuynh
hướng kinh nghiệm và Gi.Lốccơ đấy mạnh theo khuynh hướng duy giác đã thực
hiện được đơn đặt hàng của lịch sử triết học vào thời đại phương tây cận đại (thế kỷ
XVII-XVIII) với những giá trị như “Công khai đấu tranh chóng chủ nghĩa duy tâm
và thần học một cách hiệu quả, thúc đẩy trào lưu triết học duy vật cùng khoa học
phát triển mạnh mẽ, đẩy mạnh quá trình nhận thưc thế giới”[3,64], có giá trị đạo đức
và nhân văn trong vấn đề giải phóng con người, đã để lại những phương pháp mà
đến nay vẫn còn được sử dụng trong các ngành khoa học. Đặc biệt, tuyên bố “Tri
thức là sức mạnh” mà Ph.Bêcơn đưa ra đã trở thành tuyên ngôn của thời đại. Khẳng
định về vai trò của tri thức khoa học trong đời sống xã hội suốt mấy thế kỷ qua vẫn
tiếp tục được triển khai bởi các trào lưu triết học ở phương Tây. Sau gần 400 năm,
tinh thần triết học Ph.Bêcơn nói riêng và chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh nói
chung vẫn đang được chứng minh trong thời đại chúng ta.
Bên cạnh đó, tư tưởng của trường phái triết học này do mang tính siêu hình
và quá máy móc nên vẫn còn nhiều hạn chế và chưa triệt để. Do đặc điểm của khoa
học tự nhiên thời kì này là khoa học tự nhiên - thực nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu
dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận thức trong sự trừu tượng tách rời, cô
lập, không vận động, không phát triển, nếu có nói đến vận động thì chủ yếu là vận
động cơ giới, máy móc. Và đây là hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa duy vật kinh
nghiệm Anh.

15
15Chương 115
15Chương 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học-Phần 1-Đại cương về lịch sử triết học, Lưu
hành nội bộ, Tp.HCM, 2011.
2. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học-Phần 2-Các chuyên đề về triết học Mác-
Lênin, Lưu hành nội bộ, Tp.HCM, 2011.
3. Bùi Văn Mưa, Triết học và bức tranh vật lý học về thế giới, Nxb Đại học Quốc
gia Thành Phố Hồ Chí Minh, 2008.
4. Bùi Thanh Quất, Vũ Tình, Lịch sử triết học, Nxb Giáo dục, 2001.
5. Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, 1998.
6. Will Durant. Câu chuyện triết học qua chân dung Platon, Aristote, Bacon, Kant,
Spinoza, Voltaire, Spencer, Nxb Đà Nẵng, 2000.
7. Trang Web: Http://diendankienthuc.net/diendan/triet-hoc-phuong-tay/9954-triet-
hoc-tay-au-thoi-phuc-hung-va-can-dai.htm
16
16Chương 116

×