1. Sơ lược về đầu tư gián tiếp nước ngoài FII và FII qua thị trường
chứng khoán
1.1. Khái niệm đầu tư gián tiếp nước ngoài
Theo luật đầu tư 2005 của Việt Nam thì đầu tư gián tiếp nước ngồi
là hình thức đầu tư mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu hay các giấy tờ có
giá khác; quỹ đầu tư chứng khốn hay các định chế tài chính trung gian
khác mà nhà đầu tư không tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Nguồn vốn FII là nguồn dinh dưỡng rất lớn nuôi dưỡng tinh thần
khởi nghiệp trong nước, đưa những doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận đến
nguồn vốn dồi dào kèm theo các điều kiện nâng chuẩn công bố thông tin,
yêu cầu minh bạch hóa và hàng loạt các chuẩn mực quốc tế khác. Thực tế
với thị trường tài chính và thị trường chứng khoán cho thấy sự tham gia
của các tổ chức và quỹ đầu tư quốc tế đã đẩy tính thanh khoản, chiều sâu
thị trường, tính hiệu quả cùng các yêu cầu chuẩn mực lên rất cao và rất
nhanh chỉ trong một thời gian rất ngắn.
1.2.
Khái niệm FII qua thị trường chứng khốn
Đầu tư nước ngồi qua thị trường chứng khốn (TTCK) là việc nhà
đầu tư nước ngồi có thể là cá nhân hoặc tổ chức bỏ tiền ra mua chứng
khoán của một tổ chức hay của nhà nước được phát hành trên TTCK
nhằm kiếm lời từ thu nhập cổ tức hay trái tức hoặc từ chênh lệch giá do
kinh doanh chứng khoán đem lại.
2. Tổng quan thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi thành lập đến
nay
2.1.
Tổng quan thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi thành lập
đến nay
TTCK là phong vũ biểu của nền kinh tế mỗi nước. Sự phát triển ổn
định của TTCK là tác nhân quan trọng cho nền kinh tế. TTCK Việt Nam
chính thức đi vào hoạt động từ khi ra đời trung tâm giao dịch chứng
khốn thành phố Hồ Chí Minh ngày 28/7/2000. Khi đó mới có một vài cổ
phiếu được giao dịch với số vốn 27 tỷ đồng và 6 cơng ty chứng khốn
thành viên. Hơn 6 năm đầu, mức vốn hóa của thị trường mới chỉ tăng lên
0,5 tỷ USD. Những năm gần đây, mức vốn hóa đã tăng lên. Theo số liệu
năm 2012 là 756 nghìn tỷ đồng, tăng 226 nghìn tỷ đồng so với năm 2011,
bằng 26% GDP.
Vốn FII đổ vào TTCK Việt Nam tăng lên đáng kể. Tính đến hết
năm 2012, nguồn vốn FII ròng chảy vào TTCK Việt Nam là 300 triệu
USD.
Chỉ số VN-index cũng chứng minh sự tăng trưởng nhanh chóng của
thị trường. Nếu trong phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/7/2000,VN-index
ở mức 100 điểm thì tháng 3-2007 đạt mức kỷ lục trên 1170 điểm. Số liệu
năm 2012 là 413,73 điểm.
2.2.
Một số quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài khi muốn tham
gia vào thị trường chứng khốn Việt Nam
Nhà đầu tư nước ngồi bao gồm cá nhân và tổ chức phải đăng kí
mã số giao dịch chứng khoán với Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt
Nam VSD để thực hiện đầu tư trên TTCK Việt Nam dưới các hình thức
sau:
a) Trực tiếp thực hiện giao dịch đầu tư chứng khốn, thơng qua việc
mua bán cổ phiếu, trái phiếu, các loại chứng khốn, đầu tư góp vốn... theo
quy định pháp luật chứng khoán và TTCK và các văn bản pháp luật liên
quan;
b) Gián tiếp đầu tư trên TTC K Việt Nam thông qua việc ủy thác
vốn cho công ty quản lý quỹ, chi nhánh tại Việt Nam của cơng ty quản lý
quỹ nước ngồi quản lý phù hợp với quy định của pháp luật liên quan.
Mỗi nhà đầu tư nước ngoài được cấp 01 mã số giao dịch chứng
khốn theo quy định. Cơng ty chứng khốn nước ngồi được cấp hai (02)
MSGD: mợt (01) mã sớ cho tài khoản tự doanh và một (01) mã số cho tài
khoản môi giới của công ty. Quỹ đầu tư nước ngồi quản lý bởi nhiều
cơng ty quản lý quỹ (Multiple Investment Managers Fund - MIMF) được
đăng ký nhiều MSGD theo nguyên tắc các danh mục đầu tư của quỹ quản
lý bởi một công ty cùng mợt cơng ty quản lý quỹ thì được đăng ký một
MSGD.
Sau khi đăng ký MSGD, cơng ty chứng khốn nước ngoài, doanh
nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài, được mở (02) hai tài khoản lưu
ký chứng khoán (TKLKCK) tại ngân hàng lưu ký. Quỹ đầu tư nước ngoài
quản lý bởi nhiều công ty quản lý quỹ (MIMF) được mở nhiều TKLKCK
theo ngun tắc cứ mỡi mợt MSGD được cấp thì được mở một TKLKCK
tại ngân hàng lưu ký. Các nhà đầu tư nước ngoài khác chỉ được phép mở
duy nhất một TKLKCK tại ngân hàng lưu ký.
Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài mở tài khoản lưu ký tại một
thành viên lưu ký khác, nhà đầu tư nước ngoài phải đóng tài khoản lưu ký
đã mở, chuyển tồn bộ số dư trên tài khoản này sang tài khoản mới.
Việc chỉ định, thay đổi thành viên lưu ký của nhà đầu tư nước
ngồi, cơng ty chứng khốn nơi nhà đầu tư nước ngoài mở tài khoản giao
dịch, người đại diện giao dịch và các thay đổi thông tin khác của nhà đầu
tư, phải được VSD chấp thuận bằng văn bản.
Một trong những nội dung chính của Quyết định số 55 của Thủ
tướng Chính phủ, ban hành ngày 15/4/2009 là kể từ ngày 1/6/2009, nhà
đầu tư nước ngồi mua, bán chứng khốn trên thị trường chứng khoán
Việt Nam được nắm giữ tối đa 49% tổng số cổ phiếu của công ty cổ phần
đại chúng.
3. Thực trạng FII vào thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi thành
lập đến nay
3.1. Giai đoạn từ khi thành lập ngày 28/7/2000 đến năm 2004: Sơ
khởi
Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, mặc dù Việt Nam được
đánh giá là một trong những nước ít bị ảnh hưởng nhất nhưng tình hình
đầu tư gián tiếp nước ngồi vẫn không sáng sủa hơn. Trong thời gian 1998
- 2002, khơng những khơng có một quỹ đầu tư mới nào được thành lập
mà các quỹ thành lập trước đó lại đua nhau rút vốn hoặc giảm quy mô
hoạt động.
Mãi cho đến tháng 4-2002, nguồn vốn này xuất hiện trở lại với sự
mở đầu của Quỹ Mekong Enterprise Fund (MEF) với số vốn 18,5 triệu
USD và dưới sự quản lý của Công ty Quản lý quỹ Mekong Capital.
Kể từ năm 2004, hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài bắt đầu
chuyển sang trang mới khi có 13 quỹ đầu tư mới được thành lập với tổng
số vốn lên đến 908 triệu USD, nâng tổng nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài vào Việt Nam đạt trên 1,1 tỷ USD.
Bảng 3.1: Tài khoản giao dịch của các NĐTNN giai đoạn 20012004
Năm
Tài khoản giao dịch của NĐTNN
2001
2002
2003
2004
45
72
99
203
Giá trị giao dịch
(triệu USD)
0,9
9,4
15,8
53,1
Nguồn: Tạp chí chứng khốn Việt Nam, số 8/2004
Bảng số liệu trên đã thể hiện rất rõ là tình hình tham gia giao dịch
của NĐTNN trên TTCK Việt Nam có dấu hiệu rất khả quan, qua các năm
đều tăng và năm 2004 đã tăng vượt bậc so với năm 2000. Trong đó,
NĐTNN chính thức tham gia trên TTCK Việt Nam tại phiên 102 ngày
2/4/2001. Phiên này đã được ghi vào lịch sử của TTCK Việt Nam khi lần
đầu tiên ông David Huw - nhà đầu tư người Anh mua 100 cổ phiếu TMS.
Biểu đồ 3.1: Tài khoản giao dịch của các NĐTNN giai đoạn 2001 đến 2004
Trong giai đoạn này, VN-Index lên tới đỉnh điểm 571,04 điểm giao dịch
tại phiên giao dịch thứ 137 ngày 26/6/2001 và rớt xuống điểm đáy 130,09
điểm ngày 24/10/2003, sau đó rơi vào giai đoạn trầm lắng gần đến cuối
năm 2005 được thể hiện qua biểu đồ sau đây.
Biểu đồ 3.2: Chỉ số VN-Index từ tháng 7/2000 đến năm 2005
Nguồn: />hart.aspx
Tuy có sự tăng trưởng rõ rệt trong 4 năm hoạt động, nhưng giai
đoạn này thị trường chứng khốn Việt Nam vẫn chưa thu hút được đơng
đảo các NĐTNN. Dòng vốn đầu tư gián tiếp chảy vào nước ta còn khá
khiêm tốn. Từ năm 2005 trở về trước, nguồn FII này có tăng nhưng quy
mơ cịn nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với dòng vốn FDI. Cụ thể là năm 2001
tỷ trọng vốn FII/FDI chỉ 1,2%, năm 2003 là 2,3% và tăng lên 3,7% năm
2004. Hơn thế nữa, các nhà đầu tư tham gia vào TTCK hiện nay chủ yếu
là nhà đầu tư cá nhân với số lượng tham gia quá ít so với tiềm lực tài
chính trong dân và so với các loại hình đầu tư khác như đầu tư vào bất
động sản hay gửi tiết kiệm.
Hầu hết các nhà đầu tư có vốn ít và chịu ảnh hưởng nhiều bởi yếu
tố tâm lí, nhất là khi thị trường thăng giáng thất thường. Các nhà đầu tư có
tổ chức cịn q ít và tính chuyên nghiệp chưa cao, đồng thời nguồn vốn
đầu tư vào thị trường cũng chưa ổn định.
Như vậy, có thể nói đây là giai đoạn mang tính chất thăm dị thị
trường của các NĐTNN, do quy mơ TTCK Việt Nam cịn quá nhỏ bé và
chính sách đối với NĐTNN chưa thực sự cởi mở, bên cạnh đó, cơ chế lưu
ký, giao dịch cịn nhiều phức tạp. Bên cạnh đó là do hoạt động chưa đạt
mức độ tăng trưởng mạnh của thị trường chứng khoán, cũng như giai
đoạn nằm ngang kéo dài q lâu của chỉ số chứng khốn đã khiến cho
khơng chỉ nhà đầu tư trong nước mà cả nhà đầu tư nước ngồi cũng khơng
đánh giá cao về tiềm năng hồi phục và phát triển của giá cả cổ phiếu. Tuy
nhiên, các NĐTNN tham gia vào TTCK Việt Nam chủ yếu là đầu tư dài
hạn nên đã góp phần kích cầu và ổn định cho thị trường. Đối tượng này
cũng được xem là một trong những yếu tố tích cực góp phần cân bằng và
hâm nóng thị trường vào thời điểm thị trường suy giảm, họ cũng có tâm lý
chờ đợi và nghe ngóng đối với những chính sách, quy định pháp lý liên
quan đến hoạt động giao dịch chứng khốn của họ.
Ngồi những lợi ích đã mang lại thì việc ĐTNN tham gia vào
TTCK Việt Nam cũng đã đặt ra một vấn đề tồn tại mà các cơ quan quản lý
TTCK cần phải xem xét chính là tâm lý đầu tư chạy theo các NĐTNN của
các nhà đầu tư trong nước.
3.2. Giai đoạn 2005 – 2007
Bắt đầu từ sau năm 2004, dòng vốn đầu tư nước ngồi (FII) vào thị
trường chứng khốn Việt Nam tăng nhanh, đây cũng là giai đoạn đánh dấu
sự bùng nổ các quỹ đầu tư nước ngoài về cả số lượng lẫn quy mơ vốn.
Dịng vốn đầu tư nước ngồi vào thị trường chứng khốn Việt Nam đã có
sự phát triển đáng kể bắt đầu từ năm 2005 và tăng đột biến vào năm 20062007.
Năm 2005, đầu tư gián tiếp ròng đổ vào Việt Nam đạt 861 triệu
USD. Đây là năm đánh dấu những cải cách quan trọng trong quản lý kinh
tế của chính phủ Việt Nam để kích thích sự phát triển của thị trường
chứng khốn nói chung và dịng vốn đầu tư nước ngồi nói riêng. Bước
tiến đáng kể đó là việc Tăng room cho nhà đầu tư nước ngồi thơng qua
quyết định số 238/2005/QĐ-TTg ngày 29/9/2005 của Thủ tướng Chính
phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngồi vào thị trường chứng khốn Việt
Nam, các tổ chức, cá nhân nước ngồi mua, bán chứng khốn trên TTCK
Việt Nam được nắm giữ tối đa 49% tổng số cổ phiếu niêm yết, đăng kí
giao dịch.
Những điều kiện thuận lợi hơn về mặt chính sách vào năm 2005
cũng như thơng tin về việc Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO đã thúc đẩy
hoạt động đầu tư nước ngoài và số lượng nhà đầu tư nước ngoài tăng
mạnh trong năm 2006. Theo đó, thị trường có khoảng 1.700 nhà đầu tư
nước ngoài và nắm giữ khoảng 25- 30% số lượng cổ phiếu của các cơng
ty niêm yết, trong đó có một số nhà đầu tư chứng khoán quốc tế như JP
Morgan; Merryll Lynch.; Citigroup Global Group, HSBC. Đến cuối năm
2006 qui mô vốn đầu tư ước đạt 1,313 tỷ USD, gấp 1,5 lần so với năm
2005. Số lượng các quỹ đầu tư cũng tăng nhanh lên 23 quỹ trong năm này.
Bước sang năm 2007, là một năm phát triển vượt bậc của thị trường
chứng khoán, số lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài là
gần 7.900 tài khoản ( cá nhân là gần 7.400 tài khoản và tổ chức là 500 tài
khoản ), tăng gấp 4,67 lần so với năm 2006. Nhà đầu tư nước ngoài hiện
đang nắm giữ từ 25-30% cổ phần của công ty niêm yết, và doanh số giao
dịch chiếm khoản 18% giao dịch toàn thị trường. Giá trị danh mục đầu tư
của nhà đầu tư nước ngồi trên thị trường chính thức ước đạt 6,2 tỷ USD (
nếu tính cả thị trường khơng chính thức ước đạt gần 20 tỷ USB ), tăng
hơn 4 lần so với cuối năm 2006.
3.3.
Giai đoạn từ năm 2010 đến nay
Kể từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007, lượng vốn
đầu tư nước ngoài đổ vào thị trường chứng khốn có xu hướng tăng nhanh
trong giai đoạn 2008-2010. Nhìn vào biểu đồ 1.1, ta có thể thấy, dịng vốn
đầu tư rịng của khối ngoại năm 2008 đạt 513,428 triệu USD tăng 64,48%
so với năm 2007. Thì đến năm 2010, đạt 1.056,027 triệu USD, tăng gấp
2.4 lần so với năm 2007.
Dòng FII vào thị trường Chứng khốn Việt Nam tăng mạnh một
phần là nhờ có sự tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững của nền kinh tế
Việt Nam và sự cải thiện trong môi trường pháp luật, thương mại. Tuy
nhiên, việc ban hành Luật Chứng khốn năm 2007 mới là lý do chính của
sự gia tăng đầu tư gián tiếp vào Việt Nam.
Thêm vào đó, vị thế chính trị ngày càng cao của Việt Nam trên thị
trường thế giới và q trình cổ phần hóa mạnh mẽ các doanh nghiệp nhà
nước cũng là nguyên nhân thúc đẩy luồng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt
Nam, làm cho các nhà đầu tư yên tâm khi bỏ vốn vào thị trường này.
Biểu đồ 1: Dòng vốn đầu tư nước ngồi rịng vào thị trường chứng
khốn Việt Nam giai đoạn 2008 – 2012 (Đơn vị: triệu USD)
(Nguồn: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước)
Sau khi đạt đỉnh cao vào năm 2010 thì năm 2011 là một năm thất
bát với dịng vốn đầu tư đổ vào thị trường chứng khốn của Việt Nam.
Năm 2011, lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngồi vào thị trường chứng
khốn tụt dốc xuống cịn ở mức 240 triệu USD. Nguyên nhân của sự sụt
giảm này có thể là do với những biến động của kinh tế vĩ mô trong năm
2011 cho thấy TTCK Việt Nam năm 2011 có nhiều khó khăn nhất định do
các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại từ các chính sách kinh tế vĩ mơ của Việt
Nam (đặc biệt là chính sách tiền tệ) trong cộng đồng nhà đầu tư nước
ngoài khá lớn. Đặc biệt là trong 2 tháng đầu năm 2011 khi NHTW thực
hiện chính sách phá giá VND so với USD thì lượng tài sản đầu tư “mất
đi” của các quỹ đầu tư ước tính khoảng 324 triệu USD.
Một vấn đề lo ngại khác tác động tới tâm lý nhà đầu tư nước ngồi
đó là yếu tố lạm phát và thâm hụt cán cân thương mại và cán cân thanh
toán quốc tế, trong điều kiện dự trữ ngoại hối mỏng (nếu xem xét trên số
tuần nhập khẩu thì hiện nay quá thấp) gây bất ổn cho khu vực doanh
nghiệp (đặc biệt là lĩnh vực xuất khẩu của VN chiếm tỷ trọng khoảng 70%
vào tăng trưởng GDP). Vì vậy, dịng vốn đầu tư nước ngồi năm 2011
giảm mạnh.
Năm 2012 là một năm kinh tế gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên nó
cũng đánh dấu sự phục hồi nhẹ của dịng vốn đầu tư gián tiếp vào thị
trường chứng khốn Việt Nam, đạt giá trị ròng là 300 triệu USD tăng 25%
so với năm 2011.
Năm 2013 Theo Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam (VSD),
đến hết tháng 4-2013, VSD đã cấp mã số giao dịch chứng khoán cho
16.238 nhà đầu tư nước ngồi, trong đó có 2.054 nhà đầu tư tổ chức và
14.184 nhà đầu tư cá nhân.
Đáng chú ý, lượng nhà đầu tư nước ngoài được cấp mã số giao dịch
trong 3-2013 lớn nhất trong vòng 2 năm qua, khi có 103 nhà đầu tư cá
nhân và 26 nhà đầu tư tổ chức được cấp mã số giao dịch. Sang tháng 4 đã
có thêm 96 nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm 22 tổ chức và 74 cá nhân đầu
tư nước ngoài được VSD cấp mã số giao dịch chứng khoán tại Việt Nam.
Theo số liệu được Bộ Tài chính, FII thuần trong cả quý I/2013 là
133 triệu USD.
Hầu hết các chuyên gia tài chính đều nhận định những thơng tin
trên là dấu hiệu tích cực trong việc thu hút thêm vốn FII vào Việt Nam dù
kinh tế trong và ngồi nước vẫn khó khăn. Theo ơng Huỳnh Anh Tuấn Tổng giám đốc Cơng ty chứng khốn (CK) SJC, thương vụ đầu tư mới nói
trên là thông tin tốt cho những NĐTNN đang quan tâm đến thị trường
VN.
Dù đã có những dấu hiệu tích cực về vốn đầu tư FII nhưng VN vẫn
đang đối diện với nhiều khó khăn trong việc thu hút nhiều hơn dịng vốn
này. Một trong những khó khăn đó là VN khơng cịn là thị trường mới nổi
của thập niên 1990 với sức hấp dẫn khá lớn trong mắt các NĐTNN. Bên
cạnh đó, VN đang phải cạnh tranh khốc liệt với các quốc gia trong khu
vực, đặc biệt là Myanmar đang nổi lên trong việc thu hút NĐTNN khắp
năm châu.
Chuyên gia tài chính Nguyễn Trí Hiếu nhận định, dịng vốn ngoại
tham gia vào thị trường CK thời gian qua là của những nhà đầu tư đã hiểu
rõ về VN, sẵn sàng nhảy vào thị trường để tìm kiếm cơ hội sinh lời nhanh
nhất. Nhưng dịng vốn đó khơng nhiều và phần lớn các NĐTNN vẫn đứng
ngồi và tiếp tục tìm hiểu những động thái sắp tới của Chính phủ VN.
4. Đánh giá thành tựu, hạn chế của thị trường chứng khốn Việt Nam
trong những năm qua
4.1. Thành tựu
Quy mơ thị trường tăng nhanh. Doanh nghiệp và Chính phủ đã sử
dụng TTCK như một kênh đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư và nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
TTCK góp phần tạo nên sự thành cơng trong việc cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước.
Góp phần đa dạng hóa và phát triển của các định chế tài chính trung
gian.
4.2.
Hạn chế
Thị trường chứng khốn Việt Nam có đa số các cổ phiếu với thanh
khoản kém và chỉ có khoảng tầm 20 cổ phiếu có vốn hóa thị trường và
thanh khoản cao.
Pháp chế của thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa cho phép
giao dịch cổ phiếu trong ngày và chưa có phương tiện cho vay và vay
chứng khốn để cho phép các thành viên, các nhà tạo lập thị trường và các
nhà đầu tư chuyên nghiệp có thể mua và bán khống dễ dàng trong việc
quản lý rủi ro trạng thái.
Mức biến động giá các cổ phiếu niêm yết trên thị trường Việt Nam
khá cao so với các thị trường chứng khốn trong khu vực vì chính sách vĩ
mơ như lãi suất, ngoại hối hay thuế vẫn chưa thật sự ổn định.
Chính sách quản lý rủi ro thị trường của nhiều cơng ty chứng khốn
vẫn chưa đủ chuẩn để tham gia vào thị trường chứng khốn phái sinh, địi
hỏi nhiều kiến thức và kinh nghiệm quản lý rủi ro để phòng ngừa các sự
cố liên quan đến các sự kiện gây biến động giá cao.