TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Tên đề tài:
Tên đề tài:
GVHD:
GVHD:
TS. Bùi Văn Mưa
TS. Bùi Văn Mưa
Lớp:
Lớp:
CHKT K21 – Đêm 5
CHKT K21 – Đêm 5
Nhóm:
Nhóm:
04
04
HVTH:
HVTH:
Nguyễn Thị Phương Dung
Nguyễn Thị Phương Dung
TP. Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2012
TP. Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2012
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
MỤC LỤC
MỤC LỤC
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHÁP
GIA
1.1. Khái quát sự hình thành của phái Pháp gia………………………2-3
1.2. Những tư tưởng cơ bản triết học Pháp gia……………………… 3-11
1.2.1. Những tư tưởng trước Hàn Phi……………………………… 3-6
1.2.2. Tư tưởng của Hàn Phi…………………………………………7-11
Chương 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC PHÁP GIA
2.1. Những giá trị của tư tưởng triết học Pháp gia……………………12
2.2. Những hạn chế của tư tưởng triết học Pháp gia…………………13-14
PHẦN KẾT LUẬN 15
Tài liệu tham khảo
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong sự phát triển phong phú và sôi động của trào lưu tư tưởng “Bách gia
chư tử” ở Trung Hoa thời kỳ cổ đại, học thuyết Pháp trị xuất hiện trên vũ đài
chính trị như là đại biểu đến sau cùng nhưng đã nhanh chóng được đón nhận, trở
thành vũ khí lý luận sắc bén của nhà Tần trong việc quyết định cục diện hỗn loạn
và thống nhất Trung quốc. Muộn màng nhưng bắt kịp yêu cầu lịch sử, nhanh
chóng chiếm lĩnh vũ đài chính trị và cũng sớm ra đi cùng với sụp đổ của nhà
Tần; như tia chớp loé sáng trong cơn giông, tuy ngắn ngủi nhưng tư tưởng Pháp
trị đã khắc đậm dấu ấn vào lịch sử.
Ra đời cách đây trên hai nghìn năm, mặc dù còn có nhiều hạn chế do lịch sử,
do bản chất giai cấp nhưng học thuyết Pháp trị của Trung Quốc cổ đại vẫn toát
lên nhiều giá trị tư tưởng quý báu mà học thuyết Nhà nước pháp quyền sau này
đã tiếp thụ được, những giá trị tư tưởng này đã đóng một vai trò tích cực trong
lịch sử Trung Quốc. Trong tiểu luận này, thông qua việc tìm hiểu những nội dung
cơ bản của trường phái triết học Pháp gia, tác giả muốn nêu ra những giá trị cũng
như các mặt hạn chế của nó.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô khoa lý luận chính trị, tiểu ban triết
học, trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đặc biệt là Thầy TS. Bùi
Văn Mưa (chủ biên), TS. Trần Nguyên Ký, PGS TS. Lê Thanh Sinh, TS. Nguyễn
Ngọc Thu, TS. Bùi Bá Linh, TS. Bùi Xuân Thanh đã biên soạn bộ tài liệu Triết
học, phần I – Đại Cương về lịch sử triết học như nguồn tài liệu chính giúp hoàn
thành bài tiểu luận này.
Nhiệm vụ của đề tài nhằm làm rõ những giá trị và xem xét các mặt còn hạn
chế của tư tưởng triết học Pháp gia. Do đó, nội dung chính sẽ xoay quanh các vai
trò, tầm ảnh hưởng của tư tưởng triết học Pháp gia, đồng thời tìm hiểu các khía
cạnh hạn chế của tư tưởng triết học này.
Chương 1: NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHÁP GIA
HV: Nguyễn Thị Phương Dung 1
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
1.1. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH CỦA PHÁI PHÁP GIA:
Thời Xuân Thu – Chiến Quốc là thời kỳ xã hội Trung Hoa trải qua những biến
động lịch sử lớn lao. Thực chất của biến động ấy là bước chuyển từ hình thái xã
hội nô lệ đang suy tàn sang hình thái xã hội phong kiến tập quyền ở Trung Quốc,
làm trật tự, cương thường xã hội đảo lộn, đạo đức luân lý suy đồi.
Trong bối cảnh đó, nhiều hệ thống triết học đã ra đời và phát triển nhằm đưa
ra những phương cách giải quyết khác nhau cho những vấn đề thực tiễn chính trị
– đạo đức – xã hội mà thời đại đặt ra. Đây là thời đại tư tưởng được giải phóng,
tri thức được phổ cập, nhiều học giả đưa ra học thuyết của mình nhằm góp phần
biến đổi xã hội, khắc phục tình trạng loạn lạc bấy lâu nay. Có hàng trăm học giả
với hàng trăm tác phẩm ra đời, cho nên, thời này còn được gọi là thời Bách gia
chư tử. Trong hàng trăm học phái đó có sáu học phái lớn là Âm dương gia, Nho
gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia. Trong đó, tư tưởng Pháp gia mà đại
biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự thống nhất đất nước
và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Mặc dù tư tưởng này chỉ
nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa
đến tận ngày nay.
Quản Trọng, thế kỷ VI trước Công Nguyên (TCN), được coi là người đầu tiên
bàn về vai trò của pháp luật như là phương cách trị nước, là người nước Tề, vốn
xuất thân từ giới bình dân nhưng rất có tài chính trị. Ông chủ trương phép trị
nước phải đề cao “Luật, hình, lệnh, chính”. Tuy nhiên, trong khi đề cao luật
pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa, liêm….trong phép trị nước. Như vậy
có thể thấy rằng Quản Trọng chính là thuỷ tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là
cầu nối Nho gia với Pháp gia.
Sau Quản Trọng phải kể đến Thân Bất hại (401 – 337 TCN), ông đưa ra chủ
trương ly khai “Đạo đức” chống “Lễ” và đề cao “Thuật” trong phép trị nước.
Một đại biểu nữa của phái Pháp gia trong thời kỳ này là Thận Đáo (370 – 290
TCN), ông cho rằng pháp luật phải khách quan như vật “vô vi” và điều đó loại
trừ thiên kiến chủ quan, riêng tư của người cầm quyền. Phải nói rằng đây là một
HV: Nguyễn Thị Phương Dung 2
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
tư tưởng khá tiến bộ mà sau này Hàn Phi đã tiếp thu và hoàn thiện. Trong phép
trị nước, đặc biệt Thận Đáo đề cao vai trò của “Thế”.
Cùng thời với Thận Đáo, có một người cũng nêu cao tư tưởng Pháp trị, đó là
Thương Ưởng. Trong phép trị nước Thương Ưởng đề cao “Pháp” theo nguyên
tắc “Dĩ hình khử hình” (dùng hình phạt để trừ bỏ hình phạm). Theo ông, pháp
luật phải nghiêm và ban bố cho dân ai cũng biết, kẻ trên người dưới đều phải thi
hành, ai có tội thì phạt và phạt cho thật nặng.
Cuối cùng phải kể đến Hàn Phi, người có công tổng kết và hoàn thiện tư tưởng
trị nước của Pháp gia. Hàn Phi đề cao vai trò của pháp trị, theo ông, thời thế hoàn
cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo “Đạo đức” của Nho
gia, “Kiêm ái” của Mặc gia, “Vô vi nhi trị” của Đạo gia như trước nữa mà cần
phải dùng Pháp trị. Ông đưa ra quan điểm tiến hoá về lịch sử thì mỗi xã hội có
những đặc điểm dấu ấn riêng. Do vậy, không có một phương pháp cai trị vĩnh
viễn, cũng như không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống chính
trị tồn tại hàng ngàn năm. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng Pháp
gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy
giờ.
1.2. NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN TRIẾT HỌC PHÁP GIA:
1.2.1. Những tư tưởng trước Hàn Phi:
Nho, Mặc, Lão, Trang ắt có tư tưởng chính trị riêng và bất đồng, nhưng cùng
giống nhau ở quan điểm lấy dân chúng làm cơ sở để luận bàn chính trị. Còn một
nhóm nhà tư tưởng chuyên lấy vua hay quốc gia làm cơ sở mà luận bàn chính trị,
và được người đương thời gọi là pháp thuật chi sĩ (các nhà pháp, thuật) mà thiên
Cô Phẫn trong Hàn Phi Tử đã nhắc đến, còn người đời Hán gọi là Pháp gia. Học
thuyết Pháp gia thịnh hành ở nước Tề và Tấn. Pháp gia có ba phái: trọng thế,
trọng thuật, trọng pháp.
Phái trọng thế là của Thận Đáo, người nước Triệu, sinh khoảng 370 TCN (Liệt
Vương), mất khoảng 290 TCN (Noãn Vương), học đạo Lão Tử, viết 42 thiên
sách, bị thất truyền. Hán Thư Nghệ Văn Chí xếp ông vào phái Pháp gia. Ông
được Thân Bất Hại và Hàn Phi khen là giỏi. Hàn Phi dẫn lời Thận Đáo: “Phi
HV: Nguyễn Thị Phương Dung 3
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
long thừa vân, đằng xa du vụ. Vân bãi vụ tễ, nhi long tà dữ dần nghĩ đồng hỹ, tắc
thất kỳ sở thừa dã. Hiền nhân nhi truất ư bất tiếu giả, tắc quyền khinh dị ty dã.
Bất tiếu nhi năng phục ư hiền giả, tắc quyền trọng vị tôn giã. Nghiêu vi thất phu,
bất năng trị tam nhân. Nhi Kiệt vi thiên tử, năng loạn thiên hạ. Ngô dĩ thử tri thế
vị chi túc thị, nhi hiền trí chi bất túc mộ dã. Phù nỗ nhược nhi thỉ cao dã, kích ư
phong dã. Thân bất tiếu nhi lệnh hành giả, đắc trở ư chúng dã. Nghiêu giáo ư lệ
thuộc nhi dân bất thính; chí ư nam diện nhi vương thiên hạ, lệnh tắc hành, cấm
tắc chỉ. Do thử quan chi, hiền trí vị túc dĩ phục chúng, nhi thế vị túc dĩ truất hiền
giả dã
(1)
, (Hàn Phi Tử, Nan Thế).
Và: “Nếu có vua thông minh ở ngôi cao là bậc có quyền thế cai trị, ắt quần
chúng không dám làm quấy, cho nên quần thần không dám lừa vua. Chẳng phải
là yêu vua, mà là sợ uy thế của vua, trăm họ tranh nhau phục vụ vua. Chẳng phải
là yêu vua, mà là sợ pháp lệnh của vua. Cho nên, vua thông minh nắm được sự
tất thắng, đem ra cai trị thì dân phục vụ, đem ra cư xử thì uy thế được tôn trọng,
đem ra ấn định chính sách thì quần thần tuân phục. Vì thế khi ra lệnh thì thần dân
thi hành, hễ cấm thì thần dân ngưng, tức vua tôn quý và thần dân hèn mọn.
Do đó, thiên Minh Pháp nói: “Minh chủ tại thượng vị, hữu thất trị chi thế, tắc
quần thần bất càm vi phi. Thị cố quần thần chi bất cảm khi chủ giả, phi dĩ ái chủ
dã, dĩ uý chủ chi uy thế dã.
(1): “Rồng bay cưỡi mây, rắn lượn trong sương mù. Mây tan, mù tạnh thì rồng và rắn khác gì con sâu cái kiến vì mất thế dựa. Người
hiền bị kẻ hư hỏng khuất phục, là do quyền mình ít và địa vị mình thấp. Kẻ hư hỏng mà khuất phục được người hiền, là do quyền nó
nhiều và địa vị nó cao. Nghiêu khi còn là kẻ thất phu thì không trị nổi ba người, mà Kiệt là thiên tử thì có thể làm loạn cả thiên hạ.
Tôi từ đó biết rằng quyền thế và địa vị đủ để trông cậy, còn hiền tài và mưu trí thì không đủ để ái mộ. Cái cung nỏ yếu mà mũi tên
bay cao là nhờ sức gió tác động vào. Thân ta hư hỏng nhưng mệnh lệnh của ta được thi hành là nhờ đám đông giúp. Khi Nghiêu còn
là thuộc hạ, ông dạy dân thì dân không nghe; đến khi ông ngoảnh mặt hướng nam làm vua thiên hạ, hễ ban lệnh thì dân thi hành, hễ
cấm thì dân ngưng. Do đó mà xét, hiền tài và mưu trí chưa đủ thuyết phục dân chúng, nhưng quyền thế và địa vị thì đủ để thuyết
phục người hiền”.
Bách tính chi tranh dụng, phi dĩ ái chủ dã, dĩ uý chi pháp lệnh dã. Cố minh
chủ thao tất thắng chi số, dĩ trị tất dụng chi dân; xử tất tôn chi thế, dĩ chế tất
phục chi thần. Cố lệnh hành cấm chỉ, chủ tôn nhi thần ty. Cố Minh Pháp viết:
“Tôn quân Ty thần, phi kế thân dã, dĩ thế thắng dã”
(2)
. (Quản Tử, Minh Pháp
Giải). Vậy, lời trên của Quản Tử (Quản Trọng tên Di Ngô, hiền tướng của Tề
HV: Nguyễn Thị Phương Dung 4
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
Hoàn Công - một trong Ngũ Bá) cũng nói lên sự trọng thế, tức cũng cùng quan
điểm với phái Thận Đáo, đã cho rằng vua một nước phải có uy thế thì mới có thể
sai khiến được dân chúng.
Thủ lãnh phái trọng thuật (xem trọng thuật cai trị) là Thân Bất Hại. Sử ký
chép: “Thân Bất Hại là người đất Kinh, vốn là một viên quan nhỏ của nước
Trịnh, nhờ có học thuật nên thành thân cận với Hàn Chiêu Hầu; Chiêu Hầu dùng
Thân Bất Hại làm tướng quốc. Thân Bất Hại bên trong lo sửa đổi chính sự, lễ
giáo; bên ngoài lo đối phó với chư hầu. Suốt trong mười lăm năm, cho đến khi
Thân Tử mất, nước được bình yên, binh mạnh, không nước nào xâm lấn nước
Hàn. Học thuyết của Thân Tử gốc ở Hoàng Đế, Lão Tử, nhưng lấy hình, danh
làm chủ.
Thủ lãnh của phái trọng pháp (xem trọng pháp luật là Công Tôn Ưởng (Vệ
Ưởng), không rõ sinh năm nào, mất vào khoảng 338 TCN (Hiển Vương). Vệ
Ưởng vốn thích cái học hình, danh, và làm trung thứ tử cho tể tướng Công Thúc
Toa của nước Nguỵ. Trước khi mất, Công Thúc Toa biết Ưởng là nhân tài, nên
mới tiến cử ông cho Nguỵ Huệ Vương và dặn nếu không dùng thì phải giết đi;
nhưng Huệ Vương xem thường Ưởng, nên không dùng và cũng không giết (về
sau Huệ Vương hối tiếc về việc này).
Vệ Ưởng bèn sang Tần, và nhờ Cảnh Giám giới thiệu với Tần Hiếu Công. Vệ
Ưởng thuyết về đế đạo và vương đạo thì Hiếu Công chán, đến khi ông thuyết về
bá đạo thì Hiếu Công thích chí và dùng Vệ Ưởng làm tướng.
(2): “Vua tôn quý và thần dân hèn mọn; vua không mưu tính để thân với dân, mà dùng quyền thế để thắng họ”.
Mười năm làm tướng cho Tần, Vệ Ưởng ấn định chính sách làm Tần giàu
mạnh lên, dựa trên cơ sở pháp lệnh nghiêm minh. Pháp lệnh mà Thương Ưởng
đã ban hành quá nghiêm khắc, nhất là đối với giới quý tộc và đại thần, nên khiến
họ căm hận; vì vậy sau khi Tần Hiếu Công mất, Thương Quân bị Tần Huệ
Vương truy đuổi và bắt giết bằng ngũ mã phân thây (Xa liệt) vào năm 338 TCN,
(Theo Sử Ký Tư Mã Thiên, Thương Quân Liệt Truyện), [3, 29].
HV: Nguyễn Thị Phương Dung 5
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
Hàn Phi Tử nói: “Có người hỏi: “Giữa Thân Bất Hại và Công Tôn Ưởng, lời
của ai cần gấp cho nước hơn? Đáp: “Không thể nói được. Người không ăn mười
ngày sẽ chết. Trời rét lớn, không mặc áo thì cũng chết. Hỏi ăn và mặc cái nào cần
hơn, thì không thể thiếu một trong hai, vì chúng đều là thứ để nuôi sống. Nay
Thân Bất Hại nói thuật cai trị (ổn định ở trên), còn Công Tôn Ưởng nói pháp luật
(ổn định ở dưới). Thuật cai trị là căn cứ trách nhiệm mà giao chức quan, tuỳ tên
gọi mà yêu cầu sự thực, nắm quyền sinh sát, hiểu rõ năng lực của bầy tôi. Đó là
điều vua nắm lấy. Pháp luật là mệnh lệnh ban bố nơi của quan, hình phạt tất ở
lòng dân, thưởng kẻ cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ trái lệnh. Đó là điều bầy tôi
noi theo. Vua không có thuật cai trị tức là hư nát ở trên; bầy tôi không có pháp
luật tức là loạn ở dưới. Thuật và pháp không thể thiếu một; chúng là công cụ của
đế vương vậy”. “Vấn giả viết: “Thân Bất Hại, Công Tôn Ưởng, thử nhị gia chi
ngôn thục cấp chi quốc?” Ứng chi viết: “Thị bất khả trình dã. Nhân bất thực,
thập nhật tắc tử. Đại hàn chi long, bất y diệc tử. Vị chi y thực thục cấp nhân, tắc
thị bất khả nhất vô dã, giai dưỡng sinh chi cụ dã. Kim Thân Bất Hại ngôn thuật,
nhi Công Tôn Ưởng vi pháp. Thuật giả, nhân nhiệm nhi thụ quan, tuần danh nhi
trách thực, thao sát sinh chi bính, khoá quần thần chi năng giả dã. Thử nhân chủ
chi sở chấp dã. Pháp giả, hiến lệnh trứ ư quan phủ, hình phạt tất ư dân tâm,
thưởng tồn hồ thận pháp, nhi phạt gia hồ gian lệnh giả dã. Thử thần chi sở sư
dã. Quân vô thuật tắc tệ ư thượng, thần vô pháp tắc loạn ư hạ. Thử bất khả nhất
vô, giai đế vương chi cụ dã”. (Hàn Phi Tử, Định Pháp). Vậy, thuật là cách vua
dùng để chế ngự bầy tôi; pháp là lệnh mà bầy tôi phải tuân theo để quản lý thứ
dân, [3, 31].
1.2.2. Tư tưởng của Hàn Phi:
Hàn Phi Tử khoảng 280 – 233 TCN, là một vị công tử, vương thất nhà Hàn ở
miền Tây tỉnh Hà Nam bây giờ. “Hàn Phi cùng với Lý Tư học ở Tuân Khanh, Tư
tự coi không bằng Phi”
(3)
. Cũng như Tuân Tử, ông cho rằng bản tính con người
ta là ác nhưng lại khác thầy, không chủ trương dùng lễ nghĩa, đạo đức để cải biến
con người, mà dùng hình pháp để trị nước, yên dân. Ông dâng thư bày tỏ cách trị
nước cho vua Hàn, nhưng vua Hàn không nghe. Vua Tần khi đọc sách của Hàn
HV: Nguyễn Thị Phương Dung 6
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
Phi, tỏ ý rất ngưỡng mộ đã trọng dụng ông. Lý Tư đang làm tể tướng nước Tần,
biết Hàn Phi vốn tài hơn mình, đã dèm pha với vua Tần bắt Hàn Phi bỏ ngục và
ép uống thuốc độc chết trong ngục năm 233 TCN.
Hàn Phi có tật nói lắp, nhưng là một nhà tư tưởng, nhà văn có tài. Theo “Hán
thư, Nghệ văn chí” ông đã viết một cuốn sách gồm 35 thiên, khoảng hơn 10 vạn
từ, có tên là “Hàn Phi Tử”, trong đó biểu hiện cơ bản của ông về thời thế, lịch sử
xã hội, đạo đức và hình pháp – đỉnh cao của lý luận về luật pháp của Pháp gia.
Nếu như Thận Đáo đề cao “Thế”, Thân Bất Hại đề cao “Thuật”, Thương
Ưởng đề cao “Pháp” trong phép trị nước thì Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi
trọng cả ba yếu tố đó. Ông cho rằng “Pháp”, “Thế”, “Thuật” là ba yếu tố thống
nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước của pháp luật. Trong sự thống
nhất đó, “Pháp” là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ;
“Thế” là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, còn “Thuật” là phương pháp
cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là “công cụ của bậc
đế vương” (Hàn Phi Tử, Dương xác).
- Sự trọng yếu của Pháp luật:
“Pháp” làm một phạm trù của triết học Trung Quốc cổ đại, có thể hiện theo
nghĩa hẹp, là luật lệ, quy định, là điều luật, hiến lệnh có tính chất khuôn mẫu mà
mọi người không phân biệt vua tôi, trên dưới, sang hèn đều phải tuân thủ.
(3): “Hàn Phi Tử”, bản dịch của Phan Ngọc, NXB Văn Học, Hà Nội 1990.
Theo nghĩa rộng, pháp có thể hiểu như là thể chế, chế độ xã hội. Hàn Phi Tử
trong thiên “Định pháp” đã viết về pháp như sau: “Luật pháp là những hiến lệnh
soạn ra dành riêng ở quan phủ; hình phạt ắt phải tuỳ lòng người. Thưởng thì dành
riêng cho ai tôn trọng luật pháp và phạt thì áp dụng cho những kẻ trái lệnh vậy”.
Ở thiên “Nạn tam” ông nói rõ hơn về pháp rằng: “Những công cụ quan trọng
của vị nhân chủ, ngoài pháp với thuật ra không có gì khác. Pháp là những điều
luật biên chép rõ trong đồ thư, bày ra nơi quan phủ, ban bố trong nhân
dân….Pháp không có gì bằng rõ ràng, minh bạch (mạc nhược pháp minh).
HV: Nguyễn Thị Phương Dung 7
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
“Pháp” là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ danh phận, tỏ rõ thị phi,
phân rõ tốt xấu. để mọi người biết rõ bổn phận, trách nhiệm của mình, biết rõ
điều gì phải làm và điều gì không được làm. Pháp đã ban bố thì phải thi hành một
cách nghiêm minh, chuyên nhất, thủ tín và trọng thưởng, nghiêm phạt.
“Cho nên bậc minh chủ sai khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban
ơn ở trong pháp, không có hành động nào trái pháp” (Hàn Phi Tử, Hữu độ), [4,
341].
Trong phương pháp trị nước, cùng với luật pháp minh bạch, chặt chẽ, khách
quan, được ghi vào đồ thư, bày nơi quan phủ, ban bố rộng rãi trong dân…là
“thế”. “Thế” là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Địa vị đó
của kẻ trị vì là độc tôn, mọi người phải tuân theo, gọi là “tôn quân quyền”.
Muốn thi hành pháp lệnh phải có “thế”. “Thế” trong phép trị nước theo Hàn
Phi quan trọng đến mức có thể thay thế cho vai trò của bậc hiền nhân. “Chỉ có
bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò bậc hiền
vậy” (Hàn Phi Tử, Nạn thế). “Thế” được Hàn Phi ví như nỏ yếu nhờ gió kích mà
tên bay xa, như rồng bay được là nhờ mây….Do vậy thế và pháp trong pháp trị
không tách rời nhau. Trong việc trị dân, địa vị, quyền thế của vua mới là trọng
yếu, còn đức không quan trọng.
Nhưng làm thế nào vua có thể điều khiển được một nước thực hiện nghiêm
minh pháp luật đã hạn, bởi quyền thế và địa vị của mình? Pháp gia cho rằng vua
phải sử dụng “công cụ đế vương” là “thuật”.
“Thuật” là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược điều khiển công việc
và dùng người, khiến người triệt để, tận tâm thực hiện hiến lệnh của vua mà
không hiểu vua dùng họ như thế nào. Đó cũng là công cụ của thuật. Nên Hàn Phi
mới nói “vua dùng luật như trời, dùng thuật như quỷ”, là vậy.
Nếu như “pháp” được công bố rộng rãi trong thần dân, thì “thuật” là cơ trí
ngầm, là thủ đoạn mưu lược của vua. “Vua mà không có thuật thì hư hỏng ở trên,
bề tôi không có pháp thì rối loạn ở bên dưới. hai cái đó không thể thiếu một và
đều là công cụ của đế vương” (Hàn Phi Tử, Định pháp), [4, 343].
- Chính danh và thực:
HV: Nguyễn Thị Phương Dung 8
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
Thuật trong pháp trị của Hàn Phi cũng như các Pháp gia là “chính danh”, là
“theo danh mà trách thực” (Hàn Phi Tử, Dương xác). Đây cũng là tư tưởng mà
Khổng Tử đặc biệt chú trọng trong triết học chính trị của mình. Nhưng nếu ở
Khổng Tử “chính danh” là yêu cầu mong mỏi mọi người trong xã hội làm trong
bổn phận của mình, thì ở Hàn Phi “chính danh” là phương sách trong thuật lãnh
đạo của vua, là mọi người phải làm vì vua.
“Thực” theo Pháp gia là người giữ những chức vụ trong chính quyền hay bổn
phận của mọi người công dân trong xã hội; còn “danh” là những chức vị về
những nhiệm vụ ấy. Vua cứ theo danh mà trách thực. Chỉ cần xem danh và thực
có hợp nhau không là có thể phân biệt được phải trái, tốt xấu, công, tội. Danh và
thực hợp nhau là phải, thì chính danh. Danh và thực không hợp nhau là trái, là
không chính danh. Khi phải trái, đúng sai đã phân biệt thì cứ theo đó mà trọng
thưởng, nghiêm phạt công minh. Như vậy, theo thuật “lấy danh trách thực” từ
dân đến quan, trong xã hội mọi người đều nhất nhất tự động nhận rõ bổn phận,
nhiệm vụ của mình mà thi hành, không ai dám làm sai, làm vượt quá hay không
tròn danh phận, vua không cần phải làm gì cả mà không gì không được làm; điều
này chẳng khác gì tư tưởng “vô vi nhi trị” của Lão Tử cả.
Nhưng làm thế nào vua biết được danh và thực có hợp nhau hay không mà
thưởng cho đúng công và phạt cho đúng tội? Hàn Phi nói vua có hai cách: Một là
vua trực tiếp đi kiểm tra, thẩm định kết quả của bề tôi đã làm. Hai là vua dùng
người khác có đủ khả năng tài đức hoặc được vua giao, hoặc tự mình nhận nhiệm
vụ, thay mặt vua thẩm định kết quả công việc. Người thay mặt vua đi thẩm định,
kiểm tra kết quả công việc đã làm, cũng phải tuân theo luật “lấy danh trách thực”
mà vua đã dùng với mọi người khác.
- Thưởng phạt nghiêm minh:
Đi đôi với thuật “lấy danh trách thực”, việc thưởng phạt nghiêm minh cũng
là công cụ quan trọng của nhà vua trong thuật trị nước. Trọng thưởng, nghiêm
phạt được Hàn Phi coi như là hai tay của nhà vua, hay hai cái cán của thuật cầm
quyền: nó biểu hiện cái thế và là phương cách hữu hiệu trong thuật của vua, vì nó
đánh trúng vào tâm lý “hám lợi, tránh hại” của con người.
HV: Nguyễn Thị Phương Dung 9
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
“Đấng minh chủ chế ngự được bề tôi, chỉ nhờ hai cái cán mà thôi. Hai cái
cán là hình và đức, đức là gì? Giết chóc là hình, khen thưởng là đức. Người làm
bề tôi sợ hình phạt, thích khen thưởng. Vì thế bậc nhân chủ dùng hình thì bề tôi
sợ mà theo về lợi” (Hàn Phi Tử, Nhị bính). Đặc biệt trong phương pháp trị, Hàn
Phi Tử phản đối việc thi hành nhân nghĩa và sự mê tín, vì thi hành nhân nghĩa
không thể thực hiện nghiêm pháp luật được. Ông viết: “Ban ơn cho kẻ nghèo khó
thành ra kẻ không có công mà được thưởng, không nhẫn tâm giết phạt thì sự bạo
loạn không hết…Cho nên người có lòng nhân mà ở ngôi cao thì kẻ dưới phóng
túng mà phạm cấm rồi mong được tha thứ. Người tàn bạo mà ngồi ở ngôi cao thì
pháp lệnh bậy bạ, dân oán mà sinh lòng làm loạn. Cho nên nói kẻ nhân và kẻ tàn
bạo đều là hạng người mất nước” (Hàn Phi Tử, Bất thuyết), [4, 345].
- Triết lý vô vi của Pháp gia:
Trong thuật trị nước, ngoài thực hiện “chính danh” thưởng phạt, còn một
nguyên tắc quan trọng nữa, mà hầu như trong thiên nào Hàn Phi Tử cũng nhắc
tới, đó là: vua phải giữ kín tâm ý, sở thích của mình, không được tin ai. Không
cho bề tôi biết mình nghĩ gì, muốn gì, yêu gì và ghét gì; để bề tôi lợi dụng, dèm
pha, xu nịnh, tô vẽ, “biểu lộ cái khác với bản tính của mình” với vua, dòm ngó để
tìm cách hại vua và chiếm ngôi vua (Hàn Phi Tử, Chủ đạo, Hữu độ, Gian hiếp
thí thần). Tốt nhất là vua “Bỏ điều ham muốn, bỏ điều mình ghét mới thấy rõ
lòng dạ bề tôi. Bỏ kinh nghiệm, bỏ khôn ngoan của mình thì bầy tôi sẽ tự đề
phòng” (Hàn Phi Tử, Chủ đạo). “Làm vua phải bỏ lòng thích, lòng ghét đi thì bề
tôi không biết được lòng vua thì không bị che lấp”, [4, 346].
Đó chính là đạo lấy cái vô khiến cái hữu, dùng sự trống tĩnh khiến cái danh tự
nó được lập ra, sự việc tự nó được xác định. Vậy bỏ kinh nghiệm, hiểu biết, khôn
ngoan là vượt lên trên sự hiểu biết, là sáng suốt vô vi, là thượng trí. Nhà vua khi
đó chẳng cần làm gì mà bề tôi cứ tự giác, tận tâm làm mọi việc theo ý muốn của
vua.
- Tính ác:
Hàn Phi phát huy thuyết “Tính ác” của Tuân Tử, đưa ra thuyết luân lý cá nhân
vị lợi để khẳng định tính đúng đắn của phép trị nước bằng pháp luật của ông.
HV: Nguyễn Thị Phương Dung 10
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
Qua đó, ông cũng đã đóng góp vào lý luận nghiên cứu bản tính và tâm lý con
người trong triết học Trung Quốc thời bấy giờ. Hàn Phi cho rằng: con người sinh
ra là ích kỷ, vị lợi, là “thích điều lợi và tìm nó, ghét cái hại và tránh nó, đó là tính
con người” (Hàn Phi Tử, Gian hiếp thi thần). Vì thế người ta “luôn chỉ lo mưu
lợi cho riêng mình” (Hàn Phi Tử, Cố phẫn).
Tuy thế, bản chất ích kỷ, vị lợi của con người ta, chưa thể hiện ra là tính thiện
hay tính ác. Điều thiện hay ác, tốt hay xấu của con người chỉ được thể hiện qua
hành động nhằm thoả mãn ham muốn, lợi ích của mình; và, điều này theo Hàn
Phi, nó lại phụ thuộc vào hoàn cảnh, đời sống. Ông viết: “Việc giúp đỡ lẫn nhau
của người nguyên thuỷ, không phải do bẩm sinh họ có phẩm chất đạo đức thương
người, mà do lúc đó có nhiều của cải; hiện nay, sở dĩ người này cướp đoạt của
người kia cũng không phải là vì họ sinh ra là thù ghét người khác, mà là do của
cải ít” (Hàn Phi Tử, Ngũ đố), [4, 337].
Chương 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC PHÁP GIA
2.1. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHÁP GIA:
Tư tưởng Pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc
cổ đại, với Quản Trọng là người khởi xướng. Sự thống nhất và phát triển đất
nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng Pháp trị phải phát triển lên
một trình độ mới trong đó tư tưởng về “Pháp”, “Thế”, “Thuật”, vừa được phát
triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi
đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó:
Là một trong những trường phái triết học lớn của Trung Quốc cổ đại.
HV: Nguyễn Thị Phương Dung 11
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
Chủ trương dùng luật lệ, hình pháp khách quan như đạo tự nhiên làm phép
tắc tiêu chuẩn điều chỉnh hành vi của con người.
Là công cụ chủ yếu của nhà nước trong cuộc đấu tranh chống lại các lực
lượng xã hội bảo thủ, củng cố chế độ phong kiến ở Trung Quốc thời Chiến
Quốc.
Nó còn là sự kế thừa những tư tưởng về “đạo”, “đức” của Lão giáo, tư tưởng
“chính danh” của Nho gia, là sự tổng hợp giữa “pháp”, “thế” và “thuật” trong
phép trị nước.
Là tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đã tiến hành đấu tranh quyết
liệt chống lại tàn dư của chế độ truyền thống công xã gia trưởng, đặc biệt là
chống lại tư tưởng bảo thủ và tư tưởng mê tín tôn giáo đương thời.
Học thuyết của Pháp gia và Hàn Phi Tử đã được nhà Tần ra sức vận dụng và
kết cục đã đưa nước Tần đến thành công trong việc kết thúc cục diện phân
tán cát cứ, thống nhật được đất nước Trung Hoa sau những năm dài chiến
tranh khốc liệt. Từ thời Hán về sau, dù Pháp gia không chính thức được công
nhận, nhưng những tư tưởng có giá trị của phái này đã được các học phái
khác hấp thụ để bổ sung, hoàn chỉnh quan điểm của mình.
2.2. NHỮNG H ẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHÁP GIA:
Chúng ta có thể thấy tư tưởng triết học Pháp gia quả là có nhiều tiến bộ và giá
trị lịch sử, song tư tưởng đó cũng có những mặt hạn chế của nó:
Sự khiếm khuyết chính của học phái Pháp gia là về quyền Lập pháp; Pháp
gia không tìm thấy một khởi điểm chính xác, đúng đắn. Pháp gia cũng công
nhận rằng nhà vua lập ra pháp luật, cùng thiết lập pháp luật để tự trị lấy
mình, đặt kiểu mẫu, mực thước để tự mình noi theo. Nhưng còn vấn đề Lập
pháp từ đâu sinh ra, lấy cái gì làm nên cơ sở, thì Pháp gia cũng trả lời là tự
nhà cầm quyền, do nơi vua chúa.
Pháp gia luôn luôn so sánh luật pháp với cái cân, những đồ đo lường. Với
pháp luật, người ta đo con người, cũng như người ta đo vải lụa với cái thước,
người ta cân nặng nhẹ với cái cân, nhưng lụa vải, vật nặng nhẹ, đều là những
HV: Nguyễn Thị Phương Dung 12
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
vật vô tri vô giác, không sinh hoá. Còn con người là vật sinh hoá, có ý chí tự
do, luôn luôn biến hoá, cách tân. Muốn dùng một tiêu chuẩn khách quan để
thẩm định hành vi của con người thì thật là một vấn đề không có thể giải
quyết được. Sự vật trong vũ trụ cần phải có một tiêu chuẩn để đo lường.
Nhưng mà đo lường đồ vật khác với đo lường con người. Muốn đo lường
lòng người cần phải có một thứ tiêu chuẩn đặc biệt thuộc về cảm tính, ấy là
tâm chuẩn. Những quy tắc của Nho gia, Khổng học đều căn cứ và lòng
“thứ”. “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân = Cái gì ta không muốn thì đừng bắt ta
phải chịu”. Đấy là những quy tắc thuộc về cảm tính, gọi là tâm củ, đối với
những quy tắc lấy ở vật thì về lý thuyết có thể nói một khi đã công nhận thì
chúng được ấn định, không mấy ai còn chối cãi, nhưng đối với những quy tắc
của tình cảm, đối với tâm củ lấy ở lòng người, cần phải “thoán luận” và
“công sát” = Bàn cãi luân phiên và kiểm soát công khai, [6, 333].
Những biện chứng của Pháp gia về Nhà nước giống hệt với những quan điểm
của các nhà quân phiệt và quan liêu ngày nay chống với chế độ dân chính.
Ngày nay, mỗi khi người ta đề nghị với các nhà cầm quyền về một nền dân
chính thì họ đều trả lời một mực rằng “trình độ của dân còn thấp kém lắm!”.
Các nhà Pháp gia cũng nói: “Không thể dùng tri thức của dân được, tri thức
của chúng là tri thức con nít…Đứa con nít không biết chịu đựng đau khổ nhỏ
để thu lượm lấy cái lợi lớn”. (Hàn Phi Tử, Hiến Học), [6, 335]. Nếu dân là
con nít hoàn toàn thì những người thiết lập luật pháp cho dân cũng là những
đứa con nít. Vậy làm thế nào để phân biệt đứa con nít này khác với đứa con
nít kia về trí thức để giao đứa này trách nhiệm lập pháp và cấm đứa kia
không được bàn cãi, thảo luận? Pháp gia quan niệm rằng kẻ bị trị với kẻ
thống trị là hai giai cấp căn bản khác nhau. Họ cho rằng giai cấp thống trị
gồm những người có tài cao, còn giai cấp bị trị thì hèn thấp – theo Tính Ác.
Vậy ra, Pháp gia không biết rằng, một chính phủ hoàn hảo xuất hiện chừng
nào trong nhân loại có tài năng hợp tác với nhau để hỗ tương, khuyến khích
lẫn nhau và gây nên sự tiến bộ chung. Như vậy kẻ thống trị đồng cũng là kẻ
bị trị và trái lại.
HV: Nguyễn Thị Phương Dung 13
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
Pháp gia luôn luôn lấy cân với thước để chứng minh pháp luật. Nhưng họ
quên một điều là những đồ vật có thể cân đo được thì tự nó không hành động
được, không thay đổi được, còn những dân bị trị lại có thể. Pháp gia đồng
nhất con người với máy móc, cho nên nếu lấy pháp mà trị, luật pháp có tính
cách như “Giới số”, khiến nó không còn giấu diếm được chân tướng nữa.
Nhưng Pháp gia không nghĩ đến một điều là nhân tính khác vật tính.
Theo Khổng Nho thì đòi trị dân theo Lễ và đối với thời đại ấy là một thái độ
cách mệnh. Tư tưởng Pháp gia không biết có sự phân biệt giai cấp như
Khổng Nho, tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và trước nhà
vua. Nhưng đáng lẽ như Khổng Nho, tìm cách nâng cao dân chúng lên một
mực nhân cách cao hơn thì Pháp gia lại kéo quý tộc xuống mực thấp hơn,
huỷ bỏ lễ văn và chỉ tin vào sự thưởng phạt nhất luật cho tất cả mọi người,
quân tử cũng như tiểu nhân. Tư tưởng của Khổng Nho muốn hưởng thượng
tuy cũng rất thực tiễn, còn tư tưởng của Pháp gia có tính cách thực tế, thiển
cận, duy vật.
PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, Pháp gia là trường phái tư tưởng thực dụng, sản phẩm của sự biến đổi
xã hội thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Nó là đại biểu cho lợi ích của tầng lớp địa
chủ mới trỗi dậy, đáp ứng yêu cầu củng cố chế độ tập quyền trung ương của nền
chuyên chính quân chủ, đại diện tư tưởng của tầng lớp phong kiến mới hình
thành trong những quốc gia lúc bấy giờ.
Những tư tưởng về pháp trị của Pháp gia đã có những đóng góp to lớn cho sự
phát triển của tư tưởng Trung Quốc cổ đại và nhất là cho sự nghiệp thống nhất
đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng trong bối cảnh xã hội
Trung Hoa cuối thời Chiến quốc, tư tưởng chính trị của Pháp gia mà tiêu biểu
nhất là Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của
lịch sử. Là học thuyết đạt đến đỉnh cao tư tưởng chính trị – pháp lý thời cổ đại,
học thuyết Pháp trị góp phần tô điểm thêm những giá trị tư tưởng đặc sắc phương
HV: Nguyễn Thị Phương Dung 14
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
Đông trong kho tàng chung của nhân loại và đang tiếp tục khẳng định những ý
nghĩa tích cực của nó với thực tiễn đương đại hôm nay. Tư tưởng Pháp gia vẫn
còn nhiều yếu tố có giá trị có thể vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền
Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
HV: Nguyễn Thị Phương Dung 15
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Kim Bình (Đại học Đà Nẵng), Tư tưởng trị nước của Pháp
gia và vai trò của nó trong lịch sử, Đăng trên Tạp chí Khoa học và Công
nghệ, Đại học Đà Nẵng, Số 3 (26), Năm 2008.
2. PGS.TS Doãn Chính, Từ điển triết học Trung Quốc, NXB Chính trị Quốc
gia, Năm 2009.
3. Võ Thiện Điển (Cử nhân triết Đông), Hàn Phi Tử và sự thống nhất Trung
Quốc cổ đại, NXB Văn hoá – Thông tin, Năm 2010.
4. Phùng Hữu Lan, Lịch sử triết học Trung Quốc – Tập 1: Thời Đại Tử Học,
NXB Khoa học – Xã hội, Năm 2006.
5. TS Bùi Văn Mưa (Chủ biên), Triết học – Phần 1: Đại cương về lịch sử
triết học, Tài liệu dùng cho Học viên cao học và nghiên cứu sinh, Lưu
hành nội bộ, Năm 2011.
6. GS Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử triết học Phương Đông, NXB Từ điển
Bách khoa, Năm 2006.