Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.29 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 – NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRƯỜNG PHÁI
TRIẾT HỌC ĐẠO GIA 2
1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của Đạo gia 2
2. Một số tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia 3
2.1 Tư tưởng triết học trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử 3
2.1.1 Lý luận về Đạo và Đức, quan niệm biện chứng về thế giới của Lão Tử
3
2.1.2 Thuyết vô vi và triết lý sống thuận theo tự nhiên của Đạo gia 5
2.2 Trang Tử và sự phát triển của Đạo Gia 7
CHƯƠNG 2 – NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI
TRIẾT HỌC ĐẠO GIA 9
1. Những giá trị 9
2. Những hạn chế 10
KẾT LUẬN 13
CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO 14
Tư Tưởng Triết Học Đạo Gia
MỞ ĐẦU
Từ ngàn xưa, nước ta tuy là một nước bé nhỏ nghèo nàn, lại chịu nhiều cực
khổ lầm than trước sự xâm lăng, đô hộ của phương Bắc, nhưng dân tộc ta luôn
tôn trọng đạo lý, một thứ đạo mà tổ tiên ta gọi là "đạo làm người", dù sống chết
cũng không xa rời. Bởi thế nên ngay từ thế kỷ thứ II, thứ III, khi đất nước còn nội
thuộc nhà Hán, đã có đến 3 tôn giáo lớn được du nhập và truyền bá ở nước ta,
được nhiều tầng lớp dân ta đón nhận, từ vua quan cho đến thứ dân. Đó là Nho
giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Cả ba tôn giáo đều mang tính nhân bản rất đậm nét
nên được lòng người đón nhận như một chỗ dựa, một niềm tin. Nó vừa gần gũi
cho người ta với tới lại vừa cao xa để người ta ngưỡng vọng.
Trong khuôn khổ bài tiểu luận này, tôi chỉ xin trình bày một vài nét tư tương
triết học Đạo giáo hay Đạo gia, mà tôi nghĩ đây là một triết lý sống gần gủi, phù


hợp với tính cách con người Việt Nam chúng ta, đó là tính vị tha, bao dung, độ
lượng, xóa bỏ được cái ta vị kỷ, nhỏ bé và những tư lợi nhỏ nhen, đề cao các giá
trị tinh thần.
Trong bài viết này, tôi đã sử dụng và tham khảo những tài liệu chính sau:
1) Bùi Văn Mưa chủ biên, Triết học – Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học
(tài liệu dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên
ngành triết học của trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh), 2011;
2) Hàn Sinh Tuyên, Lê Anh Minh dịch- Tư tưởng Đạo Gia- NXB Tam Giáo
Đồng Nguyên 2008 ; 3) Nguyễn Hiến Lê Giới thiệu và chú dịch- Trang Tử và
Nam Hoa Kinh- NXB: Văn hoá - Thông tin Năm xuất bản: 1994 cùng một số
trang web, tài liệu khác
Kết quả nghiên cứu của tiểu luận có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ cho
việc nghiên cứu, tham khảo về tư tưởng nhân sinh quan triết học về Đạo giáo.
Tuy nhiên, với tính chất là một tiểu luận trong quá trình lĩnh hội kiến thức bộ
môn Triết học cùng với lượng tài liệu tham khảo còn hạn chế, tiểu luận này chắc
chắn còn có nhiều thiếu sót. Rất mong quý đọc giả thông cảm và chỉ tham khảo
tài liệu này cho những nghiên cứu, khảo sát tỉ mỉ về sau. Xin chân thành cảm ơn!
Thực hiện: Nguyễn Hải Minh Đăng Trang 2
Tư Tưởng Triết Học Đạo Gia
CHƯƠNG 1: NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA
TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC ĐẠO GIA
1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của Đạo Gia :
Truyền thuyết kể rằng tác giả của Đạo Đức Kinh là Lão Tử, một tiên tri
từng là người coi sổ sách của hoàng đế tại thành cổ Lạc Dương. Chứng kiến thời
kỳ Chiến quốc suy vi triền miên, Lão Tử quyết định đi về miền tây hướng vào sa
mạc. Ở đèo Hàm Cốc, Doãn Hỷ, một người canh cổng thành, biết Lão Tử nổi
danh là bậc hiền triết đã xin ông ghi lại những lời dạy tinh hoa. Thế là Đạo Đức
Kinh ra đời với nguyên bản là 5.000 chữ Hán.
Quyển Đạo Đức Kinh được nhiều triết gia Tây phương ngưỡng mộ , như
René Bertrand đã viết: "Ông chỉ viết có một cuốn sách rất vắn tắt "Đạo Đức

Kinh" -vài dòng chữ hợp thành cuốn sách ấy chứa đựng tất cả sự khôn ngoan trên
trái đất này” và E.V Zenker đã viết "Lão Tử đâu phải chỉ sống cho nước Trung
Hoa và thời buổi của ông mà thôi; ông là một bậc thầy thuần túy nhất và sâu sắc
nhất của nhân loại". Tuy nhiên, do những lời dạy trong Đạo Đức Kinh quá uyên
thâm, nên ít người thời Lão Tử có thể hiểu được, mãi đến Trang Tử (khoảng 369
- 286 TCN) học thuyết của Lão Tử mới lại được người đời chú ý. Ông Trang Tử
sinh sau Đức Lão Tử mấy chục năm, không tiếp xúc với Đức Lão Tử mà cũng đã
tiếp thu trọn vẹn tư tưởng của Đức lão Tử và làm cho Đạo giáo khởi sắc thêm
lên: chỉ xuyên qua một cuốn Nam Hoa Kinh.
Học thuyết Lão-Trang mang tính triết học hơn là tôn giáo, gần gũi với quy
luật thiên nhiên và giúp ta hướng về đại ngã, quên đi cái ta tầm thường nhỏ bé. Ở
đây không có cái mà người ta gọi là Thượng Đế như ở đạo Thiên Chúa, nhưng
vẫn có những quy luật thiên nhiên đại thể rất gần với khoa học tự nhiên, như là
luật nhân quả, luật bảo tồn vật chất và năng lượng. Dựa vào những quy luật này
con người không còn sợ mất mát, cũng không còn sợ chết và trở nên dũng cảm
khi làm những việc ích lợi cho cộng đồng
2. Một số tư tưởng triết học cơ bản của Đạo Gia:
Thực hiện: Nguyễn Hải Minh Đăng Trang 3
Tư Tưởng Triết Học Đạo Gia
2.1 Tư tưởng triết học trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử:
2.1.1 Lý luận về Đạo và Đức, quan niệm biện chứng về thế giới của Lão Tử :
Đạo khả đạo, phi thường Đạo
Danh khả danh, phi thường Danh
Vô danh, thiên địa chi thủy
Hữu danh vạn vật chi mẫu
Cố thường vô, dục dĩ quan kì diệu
Thường hữu, dục dĩ quan kì hiếu
Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh
Đồng vị chi huyền
Huyền chi hựu huyền

Chúng diệu chi môn
[Dịch] [1, 8]
Đạo mà có thể giảng giải được không
phải là đạo thường hằng. Tên mà có thể
gọi được không phải là tên thường
hằng. Không tên là khởi đầu của trời
đất, có tên là mẹ của muôn vật. Cho
nên thường không để nhìn thấy cái có
vi diệu trong cái không. Thường có để
nhìn thấy cái không vi diệu trong cái
có. Hai cái đó cùng một nguồn gốc,
nhưng tên khác nhau, đều gọi là huyền.
(Cái) huyền ấy thâm sâu hơn cả những
gì thâm sâu; chính là cửa phát sinh ra
những điều huyền diệu
Những lời lẽ khó hiểu trên trích ra từ bài thơ dài 5000 chữ nói về Đạo được
viết ra cách đây gần 2.500 năm của Lão Tử. Triết lý của Lão Tử được xoáy sâu
vào một chữ ĐẠO. Lão Tử quan niệm Đạo là Mẹ của vũ trụ và vạn vật, một khái
niệm không thể mô phỏng hay hình dung bằng lý trí mà chỉ có thể cảm nhận
bằng tâm linh. Đạo là một khoảng hư không rộng lớn vô biên, tồn tại trong thời
gian vô thủy vô chung, từ đó phát sinh ra hai khí âm dương đối lập và vạn vật
trong vũ trụ được chuyển động theo một số quy luật đại thể, như "vật cùng tắc
biến, vật cực tắc phản", "âm dương hổ tương song hành", "trong âm có dương
trong dương có âm" Những quy luật này cũng là nền tảng của triết lý Đông
Phương.
Thực hiện: Nguyễn Hải Minh Đăng Trang 4
Tư Tưởng Triết Học Đạo Gia
“Đạo” của Lão Tử có tính khách quan, tự nhiên thuần phác; do vậy, trời đất
hóa sinh phó mặc tự nhiên, con người không thể can thiệp. Nhưng trong sự vĩnh
hằng của bản thể vũ trụ có chứa sự lưu chuyển sinh hóa, tức là trong hằng có

biến, trong cái vô hạn của đạo có sự hữu hạn của đời người. Với Lão Tử, đời
người cũng là một phần của tự nhiên, con người sẽ trở về với đạo sau khi đã trải
qua cuộc đại chuyển hóa. Do vậy con người không thể làm chủ tự nhiên bằng
ham muốn, bằng hành động tự giác và có ý chí. Dục vọng của con người là vô
tận, là trái với tự nhiên. Đó là lý do vì sao Lão và Trang đều coi hám danh cầu lợi
là đi ngược lại với tính thuần phác của tự nhiên. Lời khuyên của Lão Tử là dễ
dàng, không cần phải gồng mình, không cần cố gắng làm cho mọi việc trở nên
phức tạp. Đơn giản là hãy giữ cho bản thân mình hài hòa với bản chất của vốn có
của mình…
Đức là biểu hiện cụ thể của Đạo trong từng sự vật. Đạo sinh ra vạn vật,
nhưng làm cho vật nào thành ra vật ấy là tồn tại được trong vũ trụ là do Đức.
“Đạo Đức phải đi cặp nhau. Đạo là dương, Đức là âm. Âm dương phải tương
cảm tương ứng, điều hòa mới thành đặng.” [2] Ở đâu có Đạo, ở đó có Đức. Duy
cái sanh là do Đạo, cái chứa là do Đức. Nhờ có Đức mà người thành người, vật
thành vật. Con người do đây mà tu theo Đạo, phát huy cái Đạo tự hữu thì Đức
càng thêm tiến, sáng tỏ hơn dưới hình thức ích lợi mà người khác có thể cảm
nhận được, nhưng sau đó Đức lại ẩn tàng
Đạo Đức của Đạo gia, là một phạm trù vũ trụ quan khi giải thích về bản thể
của vũ trụ, Lão Tử sáng tạo ra phạm trù “Hữu”, “ Vô”. “Vô” là nguyên lý vô
hình, là gốc của trời đất, “Hữu” là nguyên lý hữu hình, là mẹ của vạn vật. Bản
thể vũ trụ là vĩnh hằng nhưng trong thế giới không có gì tĩnh tại. Vạn vật luôn
luôn lưu động, chuyển hóa lẫn nhau, phát sinh từ Đạo rồi trở về với Đạo. Thế
giới vạn vật đều có sẵn một năng lực nội tại, tự sinh tự hóa vận động không
ngừng. Sự sinh hóa ấy là cuộc đại chuyển tiếp giữa vũ trụ và vạn vật, là trạng thái
của “Đạo” theo trật tự của tạo hóa. Thuộc tính khách quan đó khiến cho đất trời
Thực hiện: Nguyễn Hải Minh Đăng Trang 5
Tư Tưởng Triết Học Đạo Gia
sinh hóa phó mặc tự nhiên không một lực lượng nào có thể can thiệp.Vũ trụ vận
hành theo theo hai qui luật:
 Qui luật quân bình: luôn giữ cho vạn vật thăng bằng theo một trật tự

điều hòa tự nhiên, không có gì thái quá, bất cập, cái gì khuyết sẽ tìm
được đầy, cái gì cong sẽ thẳng, cái gì cũ sẽ mới, cái gì ít sẽ được nhiều,
cái nhiều sẽ mất. Biểu tượng của luật quân bình là nước. Nước có bản
tính mềm mại, gặp chỗ trống thì chảy vào, gặp chỗ đầy dư thì chảy ra,
lánh cao mà tìm thấp. Vì thế nó ngày đêm chảy mãi không ngừng, lên
trên thành mưa thấm nhuần vạn vật, xuống dưới thì thành sông lạch
tưới mát muôn loài
 Qui luật phản phục: là sự phát triển cực điểm thì quay lại phương
hướng cũ, theo Lão Tử trong quá trình vận động, biến đổi, khuynh
hướng tất yếu của vạn vật là trở về trong Đạo, trở về với tĩnh lặng, hư
không theo luật "phản phục". Lão Tử gọi luật đó là "trở lại của đạo".
2.1.2 Thuyết vô vi và triết lý sống thuận theo tự nhiên của Đạo gia:
Với Lão Tử, hạnh phúc của đời người có được là nhờ biết thuận tự nhiên,
bằng lòng với thực tại, là nhờ “vô vi” nhưng không gì không làm. Với Trang Tử,
hạnh phúc của bậc chân nhân là đạt đến tự do tinh thần tuyệt đối, biết sống theo
bản tính tự nhiên, được phát triển những năng lực, sở thích tự nhiên của bản thân
và tạo vật.
“Vô vi” dịch theo nghĩa đen là không làm gì. Nhưng hơn 2000 năm nay,
người Trung Hoa vẫn hiểu nó theo nghĩa hành động một cách tự nhiên, không
làm gì trái, không can thiệp vào guồng máy tự nhiên, không giả tạo hay cưỡng
ép. “Đạo đức là cái luật tự nhiên”. Nếu không thuận theo lẽ đạo ấy mà đem ý chí
dục vọng con người ra cưỡng ép vạn vật tất sẽ chuốc lấy khổ đau thất bại. Vì vậy,
con người không nên làm mất cái đức tự nhiên thuần phác vốn có của tạo vật,
ham muốn những gì trái với bản tính tự nhiên của mình
Thực hiện: Nguyễn Hải Minh Đăng Trang 6
Tư Tưởng Triết Học Đạo Gia
 Quan niệm về mặt chính trị của Lão Tử:
Bởi chán ghét thế cuộc nhiễu nhương, nhân sự chỉ đua đòi lợi lộc, Lão Tử
chủ trương chính trị “vô vi”mặc cho mọi việc thuận theo quy luật tự nhiên.
Người trị nước cần phải theo lẽ tự nhiên thì sẽ thành công. Lão Tử còn chống lại

những chuẩn mực đạo đức và thể chế pháp luật, coi đó là sự áp đặt cưỡng chế đối
với bản tính tự nhiên của con người, là nguyên nhân của sự giả dối và điều ác.
Chống lại luân lý cứng nhắc của Nho gia, Lão Tử cho rằng “nhân, lễ, nghĩa” chỉ
là giả dối, trái tự nhiên; những kẻ thực hành điều ấy đều xa rời Đạo bởi người
sống theo Đạo vô vi không xem quý ngay đến cả bản thân mình.
Quốc gia lý tưởng trong nhãn quan của Lão Tử là một quốc gia nhỏ mà
trong đó nhân dân sống thuận với thiên nhiên, biết vừa đủ mà không ham biết
nhiều, không muốn tư dục, không ganh đua bề ngoài, mà chỉ sống theo đạo vô vi.
Trong quốc gia lý tưởng này, người dân sống chất phác, hiền lành, thuần phục
với thiên nhiên; bởi vì hài lòng với cuộc sống thiên nhiên, con người không lìa xa
nơi sinh trưởng, không có lòng tham để tranh giành quyền lợi.
 Quan niệm về mặt xã hội:
Ông chủ trương con người cần phải trở lại trạng thái tự nhiên chất phác của
trẻ con, “cần phải có trái tim ngu”. Ông chủ trương “học ở những người không
học”, và cho rằng “vứt bỏ thánh trí nhân dân sẽ có lợi gấp trăm lần, vứt bỏ nghĩa
nhân, nhân dân sẽ trở lại hiếu từ”
Lão tử phủ định mọi quan niệm luân lý, quan niệm tốt xấu và mọi thứ văn
hóa tinh thần của xã hội hiện thực mà trở lại với cái chất phác vô danh, trở lại ý
thức của trẻ con không phân biệt tốt xấu, phải trái. Từ đó ông cho rằng mọi sản
xuất tinh thần, mọi văn hóa tinh thần đều là “ý muốn thừa và hành vi vô dụng”
Lão tử có tư tưởng phản kinh nghiệm, phản tri thức. Sở dĩ phải phản kinh
nghiệm, phản tri thức theo Lão tử có hai lý do: một là kinh nghiệm và tri thức
khiến người ta lo hay lo âu, cho nên bảo “ Tuyệt học vô ưu”
2
, hai là kinh nghiệm
Thực hiện: Nguyễn Hải Minh Đăng Trang 7
Tư Tưởng Triết Học Đạo Gia
và tri thức gây trở ngại cho việc tu Đạo, bởi lẽ hiếu biết chừng nào thì càng thúc
đẩy lòng ham muốn đòi hỏi của người ta đồng thời cũng dể làm cho người ta nảy
sinh cảm giác bất mãn với hiện tại.

“ Theo Lão Tử, mâu thuẫn trong xã hội được thủ tiêu bằng cách đẩy mạnh
một trong hai mặt đối lập để tạo ra sự chuyển hóa theo quy luật phản phục (quay
trở lại cái ban đầu), hay cắt bỏ một trong hai mặt đối lập để làm cho mặt đối lập
kia tự mất đi theo qui luật quân bình (cân bằng nhau). Với quan niệm này ông
cho rằng trong đời sống xã hội, nếu dẹp bỏ trí tuệ thì dân sẽ chất phác; nếu không
tôn trọng người hiền thì dân sẽ không tranh nhau; nếu không coi trọng của cải
quý báu thì dân sẽ không có trộm cắp “ [3, 68]
2.2 Trang Tử và sự phát triển của Đạo gia:
Trang Tử được coi là nhà tư tưởng lớn về đạo học trong triết học cổ Trung
Quốc, người có công mài dũa viên ngọc “Đạo” của Lão Tử làm hiện lên đầy đủ
vẻ lấp lánh huyền hoặc của nó.
Tôn chỉ trong nguyên tắc trình bày những quan điểm triết học của Trang Tử
là: “Có lời là vì ý, được ý hãy quên lời”. Nguyên tắc này bao quát toàn bộ tư
tưởng triết học của ông, làm cho nó mơ hồ, huyền hoặc, nửa sáng, nửa tối, vừa
hư vừa thực, để rồi người đọc như mơ như tỉnh, chỉ cảm nhận mà không diễn đạt
hết bằng lời.
Tác phẩm của Trang Tử được lưu truyền đến nay, chỉ còn bộ Nam Hoa kinh
với 33 thiên còn lại, được chia làm ba phần lớn, gọi là Nội thiên, Ngoại thiên và
Tạp thiên. Trong Nam Hoa Kinh Trang tử trình bày vũ trụ quan của ông để rút ra
một luật thiên nhiên: luật vạn vật tuyệt đối bình đẳng, không có quí tiện, không
có thị phi, và một phép xử thế: không tranh luận, để cứu một cái tệ đương thời, là
triết gia nào cũng đả đảo các triết gia khác, tự cho mình mới thực nắm được chân

Thực hiện: Nguyễn Hải Minh Đăng Trang 8
Tư Tưởng Triết Học Đạo Gia
Trang tử bảo: “Không ai biết chủ thể của vũ trụ là gì. Ví thử có một chủ thể
đi thì chúng ta cũng không thấy cái dấu hiệu, vết tích gì của nó. Thấy tác dụng
mà không thấy hình thể của nó” [4, 75]. Ông không chấp nhận có một vật hữu
hình sinh ra vạn vật. Không có một Thượng đế như Nho gia và Mặc gia quan
niệm. Mới đầu chỉ có một cái gì đó, có lẽ là luật thiên nhiên, mà ông gọi là Đạo.

Đạo siêu thời gian, vô hình sắc, mà biến hoá vô cùng.
Theo Trang Tử Đạo gồm vạn vật, vạn vật hợp nhất vào Đạo, chúng ta chỉ là
một phần tử của Đạo, không thể biết được Đạo, không thể chỉ rõ, giảng nó là cái
gì. Trang Tử chủ trương theo thuyết “Bất khả tri” Tuy không hiểu được Đạo,
nhưng hạng đại trí, đạt Đạo, biết rằng vạn vật hợp nhất ở trong Đạo, nên không
phân biệt vật này, vật khác, mình với vật: “Vật nào cũng là vật khác mà cũng là
chính nó. Phân biệt vật và mình thì không thấy được lẽ đó, hoà đồng với vật thì
thấy được. Cho nên mới bảo cái kia là tự cái này mà ra, mà cái này cũng tự cái
kia mà có. Mình là người khác, người khác cũng là mình”
Những quan điểm chính trị xã hội của Trang Tử đã phản ánh đúng đắn tư
tưởng và địa vị giai cấp của ông ở thời kỳ xã hội loạn lạc. Ông đại diện cho tầng
lớp quý tộc sa sút, mất địa vị xã hội, nên hoài nghi ở hiện thực, lo sợ trước tương
lai, quay lưng với thực trạng xã hội đương thời để trốn tránh vào tự nhiên, hoài
cổ. Mong muốn cứu đời nhưng ông lại phủ nhận mọi hoạt động thực tiễn của con
người để cuối cùng tìm đến quyền lực, sức mạnh của tự nhiên – “đạo”, và chính
ông đã tuyệt đối hóa nó để biến thành sức mạnh siêu nhiên thần bí.
Thực hiện: Nguyễn Hải Minh Đăng Trang 9
Tư Tưởng Triết Học Đạo Gia
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA
TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC ĐẠO GIA
1. Những giá trị :
Trong hệ thống triết học Lão Tử, học thuyết về “đạo” có một vị trí cực kì
quan trọng. Nó là nền tảng chi phối xuyên suốt các vấn đề trong triết học của ông
và hầu hết các quan điểm về vũ trụ, nhân sinh của người Trung Hoa cổ đại. Thuật
ngữ “đạo” có lẽ được sử dụng từ thời trước Lão Tử. Các văn bản cổ của Trung
Hoa như Thượng thư, Kinh thi …thường nói đến “đạo” với nhiều ý nghĩa khác
nhau, như “thiên đạo”, “nhân đạo”, “đại đạo”, v.v Tuy nhiên, đến Lão Tử “đạo”
trở thành một khái niệm có nội dung sâu sắc và hệ thống hơn. Quan niệm về Đạo
của trường phái Đạo gia thể hiện một trình độ khái quát cao của tư duy về những
vấn đề bản nguyên thế giới được xem xét trong tính chỉnh thể thống nhất của nó.

Đề cao tính tự nhiên, thuần phát của “đạo”, Lão Tử không thừa nhận sự
biến hóa của thế giới tuân theo mục đích định sẵn của thế lực siêu tự nhiên nào
đó. Ông cũng phản đối việc lấy hành động tự giác và có ý chí của con người gán
cho giới tự nhiên. Ông kêu gọi “dứt thánh, bỏ tri”, “bão pháp tự nhiên”, kịch liệt
chống lại tính chất “hữu vi”của các trường phái Nho, Mặc. Quan điểm ấy của
ông cũng chống lại mục đích của chủ nghĩa duy tâm. Ông đã cố gắng tìm ra tính
quy luật khách quan của vạn vật vận động và biến hóa, dạy mọi người phải hành
động theo quy luật tự nhiên
Phần quý giá nhất trong triết học của Lão Tử, đó là phép biện chứng chất
phác. Lão Tử cho rằng, toàn bộ vũ trụ vạn vật do sự chi phối của “đạo” luôn luôn
trong quá trình vận động, biến hóa không ngừng, không nghỉ. Ông nói: “Có
những vật tiến lên phía trước, có những vật rơi lại phía sau, có những vật lớn lên,
có những vật suy đi, có những vật đang hình thành, có những vật đang đi tới chỗ
tiêu diệt…” [5, Chương 29]. Theo Lão Tử mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều
bao hàm hai mặt đối lập dựa vào nhau liên hệ, tương tác lẫn nhau. Như: “Thiên
hạ đều biết đẹp là đẹp, nên có cái là xấu, đều biết thiện là thiện nên có cái ác.
Thực hiện: Nguyễn Hải Minh Đăng Trang 10
Tư Tưởng Triết Học Đạo Gia
Cho nên, có không cùng sinh ra nhau, khó dễ cũng làm thành nhau, dài ngắn
cũng so sánh với nhau, cao thấp cũng nghiêng úp nhau, âm thanh cùng hòa trộn
lẫn nhau, trước sau cùng theo nhau – Thiên hạ giai tri vi mỹ, tư ác dĩ, giai vi
thiện; cố hữu vô tương sinh, nan dị tương hành, trường đoản tương giao, cao hạ
tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy” [5, Chương 2], hay:
“Họa là chỗ tựa của phúc, phúc là chỗ náo của họa. Ai biết được đau là cái cuối
cùng của phúc họa” [5, Chương 58].
Phần đặc sắc trong triết học Trang Tử là phép biện chứng tự phát. Trang Tử
đã xem xét vũ trụ, tự nhiên bằng quan điểm biện chứng, mà nổi bật là tư tưởng về
sự vận động, biến hóa không ngừng của thế giới. Cũng giống như Héraclite, ông
cho rằng mọi sự vật có sự liên hệ khăng khít với nhau, luôn chuyển hóa cho
nhau: “Vạn vật không đồng nhau, thế thì cái gì khiến nó liên lạc được với

nhau?”. Người cùng với tạo hóa hợp làm một rồi,mọi vật đều vận động theo một
quy luật tất yếu, bất di bất dịch như một vòng tròn lưu chuyển vô cùng tận, dưới
sự tác động của “đạo” mà Trang Tử gọi là “Thiên quân” hay “đạo trời”. Thiên
quân là trật tự trong sự quân bình với những vòng tròn bất tận không đầu không
cuối, không to không nhỏ. Ông viết: “Vạn vật đều là một giống cả, không cùng
hình mà thay nhau, trước sau như cái vòng tròn, không phân biệt luân loại nên
gọi là Thiên quân” (Nam Hoa kinh, Tề vật luận).
Tư tưởng của Đạo gia chủ nghĩa "vô vi" là rất sâu sắc và độc đáo. Với trình
độ tư duy lí luận cao, những quan điểm ấy của Đạo gia đã đóng góp đáng kể vào
sự phát triển tư tưởng triết học phương Đông. Trong cái "lờ mờ", "hỗn độn" và
gợi mở, tư tưởng Đạo gia đã làm cho người đời sau kinh ngạc, thán phục trước
sức mạnh của tư duy trừu tượng.
2. Những hạn chế:
Do đề cao vai trò của tư duy trừu tượng và tính chất huyền vi của “đạo”,
nên quan niệm về nhận thức của Lão Tử mang đậm màu sắc của chủ nghĩa duy
tâm tiên nghiệm. Theo ông, đối tượng của nhận thức không phải là thế giới vạn
vật cùng với quy luật của nó mà là “đạo”. Phải nhận thức “đạo” dựa vào sự thể
Thực hiện: Nguyễn Hải Minh Đăng Trang 11
Tư Tưởng Triết Học Đạo Gia
nghiệm trực quan, không cần thông qua kinh nghiệm thực tiễn. Ông nói: “Không
ra khỏi nhà mà biết được đại sự của thiên hạ. Không nhìn ra cửa sổ mà thấy được
đạo trời. Thánh nhân càng đi xa thì biết được đạo càng ít”. Do đó, thánh nhân
không ra ngoài mà biết, không thấy mà gọi được tên, không làm mà nên tất cả”
[5, Chương 47]. Theo quan điểm của ông, thông thường cái gọi là tri thức là đều
có hại đối với “đạo”, phải loại bỏ. Cho nên Lão Tử chủ trương “dứt thánh bỏ trí”,
“tuyệt học vô ưu” [5, Chương 48], nhằm đạt đến trạng thái hỗn nhiên, vô tri vô
giác, trở về với đức tính của trẻ thơ, tức trở về với cảnh giới gọi là “quy chân
phản phác”. Có như vậy mới xem là đức đạo.
Trong học thuyết về quy luật vận động của vạn vật, Lão Tử chỉ mới thấy các
mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng nương tựa nhau một cách hình thức, giản

đơn. Lão Tử quan niệm sự chuyển hóa của các mặt đối lập chỉ là sự thay thế,
chuyển đổi vị trí cho nhau một cách tuần tự, kế tiếp, phản phục, quân bình, không
có sự đấu tranh phủ định, bài trừ, thâm nhập vào nhau một cách biện chứng. Do
vậy, sự vận động, biến đổi của sự vật hiện tượng không có bước nhảy vọt, không
có sự thay đổi về chất, mà chỉ là quá trình lập đi lập lại, có tính chất tuần hoàn
buồn tẻ.
Tư tưởng biện chứng của Lão Tử tuy đã vẽ nên đúng đắn bức tranh sinh
động của hiện thực, nhưng về căn bản nó vẫn mang tính chất tự phát, ngây thơ,
dựa trên những kinh nghiệm có tính trực quan cảm tính và chủ yếu là mô tả sự
biến chuyển của sự vật, hiện tượng xảy ra trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Nó chưa có cơ sở để vạch ra sự hạn chế bị quy định bởi tính chất thời đại lịch sử
mà còn do sự hạn chế bởi trình độ nhận thức còn thấp kém ở Trung Quốc thời
bấy giờ.
Về tư tưởng bản thể luận, học thuyết Đạo gia coi Bản nguyên của vũ trụ là
Đạo, Đạo tạo ra vạn vật vì vậy có phần nào làm lu mờ vai trò của thần thánh, của
lực lượng siêu nhiên nhưng vẫn còn mang tính trực quan, ước đoán, chưa chứng
minh, chưa có luận điểm thuyết phục. Quan niệm biên dịch của vũ trụ là sản
Thực hiện: Nguyễn Hải Minh Đăng Trang 12
Tư Tưởng Triết Học Đạo Gia
phẩm của phương pháp quan sát tự nhiên, một phương pháp chung để thu nhận
tri thức, kinh nghiệm nhưng còn đơn giản và hạn chế.
Trang Tử lại tuyệt đối hóa sự vận động, biến đổi để tất cả chỉ là tương đối,
và chính chủ nghĩa tương đối ở ông đã xóa nhòa mọi mâu thuẫn, mọi mặt đối lập.
Ông viết: “Phải cũng là một vẻ vô cùng, trái cũng là một lẽ vô cùng, cho nên nói
rằng không gì bằng lấy ánh sáng Phải trái mà rõ rệt, ấy đạo sở dĩ hỏng là vì thế”
[4, Tề vật luận].
Xóa nhòa mọi mặt đối lập tương phản trong sự vật, cũng như giữa các sự
vật, không còn phân biệt vật ta, phải trái, tốt xấu, sống chết, Trang Tử đã bỏ mất
cái sinh động của phép biện chứng, không tìm thấy động lực thực sự của sự vận
động biến đổi. Đồng nhất cái chung và cái riêng, nội dung và hình thức, vận động

và đứng im, Trang Tử đã đi từ phép biện chứng đến chủ nghĩa chiết trung, ngụy
biện.
Tóm lại, phép biện chứng của Trang Tử mang tính chất tự phát, nó không
phải là một hệ thống mà chỉ là những yếu tố tản mạn, rời rạc. Nó chỉ dừng lại ở
mặt hình thức, còn về nội dung thì lại là thuật ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung.
Những đặc điểm này đã dẫn đến tính thần bí và huyền hoặc trong tư tưởng của
ông.
Thực hiện: Nguyễn Hải Minh Đăng Trang 13
Tư Tưởng Triết Học Đạo Gia
KEÁT LUAÄN
Sự ra đời của học thuyết Lão Trang là một phản ứng tất yếu đối với cục diện
xã hội thời Xuân Thu- Chiến Quốc. Trong đại cục rối loạn ấy, người sáng lập
Nho gia mong muốn vãn hồi cảnh thái bình thời Nghiêu- Thuấn bằng luân lý, kỷ
cương còn người khai sinh ra trường phái Đạo gia lại đưa ra học thuyết đối lập,
chủ trương buông thả tự nhiên, quay về với thời kỳ hồn nhiên đơn giản và chật
phác cuả lịch sử.
Tôn trọng quy luật tự nhiên và tuân theo quy luật tư nhiên mà tồn tại là một
quan điểm lớn nhất của Đạo gia. Như Ăng-ghen đã nêu : Con người phải tuân
theo quy luật, khi tuân theo quy luật tưởng như mất tự do nhưng thực tế lại tự do.
Đó cũng chính là cái ý nghĩa tôn trọng quy luật tự nhiên của sự vật đã được thể
hiện trong tư tưởng của Đạo gia.
Những tư tưởng đúng đắn về Đạo, về Đức, về phép biện chứng , về vô vi
trong hệ thống triết học của Đạo gia làm phát sinh nhiều tư tưởng triết học đặc
sắc của nền triết học phương Đông nói chung và triết học Trung Hoa nói riêng
Việc đi sâu nghiên cứu đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ của
Đạo gia giúp ta hiểu rõ được tư tưởng của Đạo qua đó có những hành động đúng
đắn, tìm được cách sống hợp lý và giúp ích cho xã hội. Và chúng ta nên hiểu theo
Đạo để làm điều thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn
không những cho bản thân mà còn cho cả những người khác và cho xã hội
Thực hiện: Nguyễn Hải Minh Đăng Trang 14

Tư Tưởng Triết Học Đạo Gia
CHUÙ THÍCH VAØ TAØI LIEÄU THAM KHAÛO
[1]: Hàn Sinh Tuyên, Lê Anh Minh dịch- Tư tưởng Đạo Gia- NXB Tam Giáo
Đồng Nguyên 2008.
[2]: Wikipedia, />[3]: Bùi Văn Mưa chủ biên, Triết học – Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học.
[4]: Nguyễn Hiến Lê dịch, Trang Tử và Nam Hoa Kinh –NXB Văn hóa thông
tin 1994.
[5] : Thu Giang- Nguyễn Duy Cần, Đạo Đức Kinh, Hà Nội 8/2007.
Thực hiện: Nguyễn Hải Minh Đăng Trang 15

×