TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 10:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ
ĐẠI
GVHD : TS. Bùi Văn Mưa
SVTH : Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên
TP. Hồ Chí Minh, tháng 5/2011
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 1
MỤC LỤC
Lời mở đầu 01
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I. Khái quát triết học Hy Lạp cổ đại 02
1. Điều kiện lịch sử ra đời 02
2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại 02
3. Những đặc điểm cơ bản 02
4. Những tư tưởng, trường phái triết học 03
II. Khái quát triết học Ấn Độ cồ đại 05
1. Điều kiện lịch sử ra đời 05
2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại 05
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 2
3. Những đặc điểm cơ bản 05
4. Những tư tưởng, trường phái triết học 06
Chương 2
SO SÁNH TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I. Sự tương đồng của triết học Hy Lạp cổ đại và triết học Ấn Độ cồ đại 08
II. Sự khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và triết học Ấn Độ cồ đại 13
Kết luận 25
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 3
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Triết học phần I: Đại cương về lịch sữ triết học”, TS. Bùi Văn Mưa,
Trường Đại Học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh- Khoa Lý Luận Chính Trị- Tiểu ban Triết
học, năm 2010
2. “Giáo trình triết học”, PGS. TS. Đoàn Quang Thọ, nhà xuất bản Chính
trị- Hành chính Hà Nội, năm 2010
3. Các website:
hRp://diendankienthuc.net/diendan/triet-hoc-phuong-dong/9676-triet-
hoc-an-do-co-trung-dai.html
hRp://www.humg.edu.vn/lyluanchinhtri/index.php?
opXon=com_content & task=view & id=372 & Itemid=265
hRp://tamlinhvahanhphuc.forumoXon.net/t88-topic
hRp://thongXnphapluatdansu.wordpress.com/2007/09/11/859899/
hRp://tamlinhvahanhphuc.forumoXon.net/t87-topic
hRp://tuoitrethanhhoa.vn/Forum/tabid/154/forumid/11/posXd/123/sco
pe/posts/Default.aspx
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 4
hRp://tuoitrethanhhoa.vn/Forum/tabid/154/forumid/11/posXd/123/sco
pe/posts/Default.aspx
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Khi nhắc đến khởi nguyên tiềm tàng của nền triết học nhân loại
chúng ta không thể không nói đến hai nền triết học lớn của thế giới, đó
chính là triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại. Có thể nói Hy Lạp cổ
đại và Ấn Độ cổ đại là những cái nôi của triết học thế giới, là khúc dạo
đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản hợp xướng của triết học, làm nền
tảng cho toàn bộ hệ thống triết học thế giới sau này. Nét nổi bật của triết
học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các vấn đề cơ bản của triết học mà
sau này các học thuyết triết học khác từng bước giải quyết theo nội dung
của thời đại mình Trong khi đó, triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra và giải
quyết những vấn đề của tư duy triết học. Việc tìm hiểu sự tương đồng và
khác nhau của triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại giúp chúng ta có
khái niệm gần như hoàn chỉnh về triết học phương Tây và triết học
phương Đông, những ảnh hưởng của nó đến thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng, từ đó chúng ta biết cách vận dụng những tinh hoa của hai
nền triết học này, nâng cao khả năng tư duy, nhận thức thế giới, con người
và xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu::
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 5
Bài viết không chỉ nêu lên hoàn cảnh ra đời, đặc điểm, những tư
tưởng cùng những trường phái của hai nền triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn
Độ cổ đại, mà mục đích chính của bài viết là làm rõ nét được những tương
đồng và khác biệt giữa hai nền triết học cổ đại này.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Bài viết hình thành trên cơ sở phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương
pháp phân tích tổng hợp và so sánh các nguồn tư liệu tham khảo với nhau
để có được kết quả chính xác nhất, tránh cách nhìn phiếm diện.
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I. KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Điều kiện lịch sử ra đời
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu
dài và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ. Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo ra cơ sở
cho sự phân hóa lao động và đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân
tay. Điều này thúc đẩy sự hình thành tầng lớp trí thức biết xây dựng và sử dụng
hiệu quả tư duy lý luận để nghiên cứu triết học và khoa học. Như vậy, có thể thấy
rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu - đó là kết quả nội sinh
của cả một dân tộc, một thời đại.
2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại trải qua 3 giai đọan: Giai đoạn hình thành, giai
đọan cực thịnh và giai đọan suy tàn. Trong đó sự đấu tranh giữa hai khuynh
hướng nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm của giai đọan cực thịnh đã
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 6
để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại.
3. Những đặc điểm cơ bản
- Thứ nhất: thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai
cấp chủ nô thống trị.
- Thứ hai: Có sự phân chia và sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường
phái duy vật - duy tâm, vô thần - hữu thần và gắn liền với cuộc đấu tranh chính
trị - tư tưởng
- Thứ ba: đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác.Các nhà triết học
Hy Lạp cổ là “những nhà biện chứng bẩm sinh”. Họ nghiên cứu và sử dụng phép
biện chứng để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý.
- Thứ tư: gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết
về các lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một
hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
- Thứ năm: coi trọng vấn đề về con người. Dù còn có nhiều bất đồng, song
nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của
tạo hóa
4. Các tư tưởng, trường phái triết học
4.1 Chủ nghĩa duy vật:
4.1.1 Trường phái Milét: Đóng góp chính quan trọng nhất của trường
phái Milét này là đã được đặt nền móng cho sự hình thành các khái niệm đó như
khái niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ sung và làm phong phú
thêm những khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh giữa các
mặt đối lập
4.1.2 Trường phái Héraclite: Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các
phán đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập mà
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 7
sau này Marx đã đề cập và đi sâu.
4.1.3 Trường phái đa nguyên Empêđốc – Anaxago: Để giải thích tính
đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật, Empêđốc và Anaxago
cố vượt qua quan niệm đơn nguyên sự phát minh của các trường phái Milet,
trường phái Héraclite, xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới
vật chất đa dạng. Tuy nhiên quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, còn
hạn chế.
4.1.4 Trường phái nguyên tử luận Lơxíp- Đêmôcrít: là một hệ thống
quan điểm duy vật đầy đủ, nhất quán, trường phái nguyên tử làm cho chủ nghĩa
duy vật đạt được đỉnh cao. Nó xung đột mạnh với chủ nghĩa duy tâm của Xôcrát
Platông sau này.
4.2 Chủ nghĩa duy tâm:
4.2.1 Trường phái Pytago: Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng
“con số” là bản nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật. Chính trường phái
Pytago đã đặc nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học
Hy Lạp.
4.2.2 Trường phái Êlê: Do Xênôphan thành lập trên tinh thần duy vật,
nhưng sau đó được Pácmênít phát triển theo hướng duy lý ngả về duy tâm
4.2.3 Trường phái duy tâm khách quan của Xôcrát – Platông: do
Xôcrát đặt nền móng và Platông, học trò của ông hoàn thiện:
+ Xôcrát: Xuất phát từ đạo đức học duy lý, ông cho rằng, hiểu biết là cơ
sở của điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác; chỉ có cái thiện mới là cơ sở
của đạo đức, tiêu chuẩn của đức hạnh.
+ Platông: xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là
“thuyết ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều
tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.Quan điểm chính trị - xã hội
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 8
của Platông đầy mâu thuẫn và bảo thủ.
4.2.4 Triết học nhị nguyên của Arixtốt: Arixtốt là người tổng kết Triết
học Hy Lạp cổ đại, người đặt nền móng vững chắc cho chủ nghĩa duy lý, góp
phần thúc đẩy lý trí Hy Lạp nẩy nở, khoa học, văn minh phương Tây phát triển.
Quan niệm về sinh thể, con người, linh hồn & nhận thức:
+ Sinh thể (cả con người) đều có thể xác & linh hồn
+ Con người là sinh thể có lý trí, luôn khát vọng nhận thức, bản chất con
người sinh ra là để nhận thức.
+ Nhận thức là hoạt động bản tính của linh hồn, nhưng khi con người mới
sinh ra, linh hồn như một tấm bảng trắng.
Quan điểm về đạo đức, chính trị - xã hội:
+ XH tốt nhất phải dựa trên chế độ cộng hoà quý tộc, do chủ nô trung lưu
lãnh đạo.
+ Công bằng trong trao đổi sản phẩm là nền tảng của công bằng XH &
bình đẳng giữa các cá nhân…
+ Lý trí, lẽ phải là cơ sở của điều thiện, là nền tảng của phẩm hạnh
II. KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1. Điều kiện ra đời
1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội:
Xã hội Ấn Độ cổ đại là xã hội mang tính chất công xã nông thôn, toàn bộ
ruộng đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, sự phân chia đẳng cấp hết sức khắc
nghiệt. Xã hội có 4 đẳng cấp lớn: Tăng lữ (Bà la môn), Đẳng cấp quý tộc, Đẳng
cấp bình dân tự do, Đẳng cấp nô lệ. Xã hội Ấn Độ có nhiều tôn giáo: Đạo Ấn
(Thờ bò) (HinDu), Đạo Hồi (không ăn thịt heo), Đạo Thiên chúa, Đạo Cơ Đốc
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 9
1.2.Điều kiện về khoa học và văn hóa:
- Về tri thức khoa học, người Ấn Độ đã có những tri thức rất sớm và
phong phú về nhiều lĩnh vực như: thiên văn, lịch pháp, toàn học, y học, nông
nghiệp, kiến trúc…
- Nền văn hóa Ấn Độ mang đậm nét tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh có pha
trộn sự thần bí.
2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại
- Triết học thời kỳ Vêđa (khoảng thế kỷ XV đến VIII TCN): thời kỳ này
tập trung phản ánh ước vọng của người dân thường như mong mưa thuận gió
hòa, mong có thức ăn, có gia súc ; đồng thời phản ánh một tín ngưỡng ma thuật
và đa thần giáo, chưa có những khái quát triết học. Tuy nhiên qua các tập Vêđa
đã thể hiện sự phát triển của tư duy trừu tượng trong đó người ta đã thừa nhận
một nguyên lý vũ trụ với sức mạnh vô hạn, biểu hiện ra trong thiên nhiên, trong
tinh thần và các nghi lễ.
- Triết học thời kỳ cổ điển hay thời kỳ Bàlamôn – Phật giáo (khoảng thế
kỷ VI TCN đến thế kỷ VI): được hình thành và phát triển trong truyền thống
Vêđa nhưng các trường phái triết học Ấn Độ lại xung đột lẫn nhau
3. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
Thứ nhất, triết học ấn độ cổ đại phát triển rất phong phú nhưng không
mang tính cách mạng; các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống
triết học có trước, không đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra một hệ thống
triết học mới. Điều đó phản ánh sự trì trệ của xã hội ấn độ cổ đại.
Thứ hai, triết học ấn độ cổ đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ sở tín
ngưỡng tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.
Thứ ba, các hệ thống triết học - tôn giáo ở ấn độ cổ đại đều quan tâm tới
vấn đề nhân sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 10
4. Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại
4.1. Tư tưởng triết học trong Upanisát: Sự xuất hiện của Upanishad
đánh dấu bước chuyển tiếp từ thế giới quan thần thoại tôn giáo sang tư duy triết
học. Tư tưởng đó được thể hiện trong các vấn đề chủ yếu sau: Brátman (đại ngã),
Átman (tiểu ngã), Giải thoát và thực trạng giải thoát.
4.2 Trường phái triết học chính thống: Trường phái Vêđanta.
Samkhya, Yôga, Mimansa, Nyaya, Vaisêsika
Nguyên nhân dẫn đến sự luân hồi của mỗi cá nhân là vì linh hồn cá biệt
nơi mỗi người thường bị những ham muốn dục vọng che lấp, nên linh hồn rơi
vào vòng ám muội của thế giới vật chất, thường biến, hữu hình, hữu hạn, không
giữ được bản lai thanh tịnh của mình.
Theo trường phái này, không thể giải thoát bằng cách lễ bái, tích lũy khổ
hạnh hay tin tưởng vào sự cứu rõi của đấng tối cao. Đối với họ, phương pháp đưa
đến sự giải thoát là phải chế dục theo pháp Yôga, diệt trừ nghiệp lực và phải thấu
triệt sáu nguyên lý tạo thành vũ trụ. Nếu thực hiện được như thế thì linh hồn cá
biệt mới đạt đến sự giải thoát hoàn toàn
4.3 Hệ thống triết học không chính thống
- Triết phái Jaina (Kỳ na giáo): Trường phái này mang đượm màu sắc
tôn giáo, ra đời vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên.
- Triết phái Lokayata (hay còn gọi là Carvaka): Triết học Lokayata
mang tính duy vật chủ nghĩa và vô thần tương đối triệt để, nhưng chỉ tồn tại trong
một thời gian tương đối ngắn Nó được trình bày trong chính kinh Vêđa, trong
các sử thi và cả trong kinh sách của Phật giáo. Thuyết ấy tuyên bố rằng chỉ có thể
biết là hiện hữu những gì ta tri giác được. Không có thế giới bên kia: chết là hết.
Niềm tin vào những cái như thế bị xem là tưởng tượng kỳ quái. Không có bằng
chứng hợp lý luận cho tính khả thi của cái không thể thấy; không thể dùng sự suy
ra như một nguồn có giá trị của tri thức mới vì không thể chứng minh nó một
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 11
cách vô điều kiện.
- Triết phái Budđhsam (Phật giáo): Là một trường phái triết học tôn giáo
lớn của Ấn Độ cố đại. Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo Ấn độ cổ
đại được thể hiện: thế giới quan (phản ánh trong ba pham trù : vô ngã, vô thường,
duyên khởi ) & nhân sinh quan tập trung vào tứ diệu ( 4 chân lý tuyệt diệu): khổ
đế, nhân đế, diệt đế, đạo đế.
CHƯƠNG 2
SO SÁNH TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI & ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I. SỰ TƯƠNG ĐỒNG CỦA TH ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TH HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Cả hai tư tưởng triết học chịu sự tác động từ điều kiện tự nhiên, lịch sử,
xã hội
Sự hình thành, phát triển của triết học nói chung và triết học Hy Lạp, Ấn
Độ nói riêng đều có tính quy luật của nó. Trong đó, các tính quy luật chung là: sự
hình thành, phát triển của triết học gắn liền với điều kiện kinh tế- xã hội, với cuộc
đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội, với các thành tựu khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội, với sự thâm nhập và đấu tranh giữa các trường phái
triết học với nhau.
Triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại cùng ra đời dựa trên những
thành tựu rực rỡ của các lĩnh vực văn hóa và khoa học tự nhiên, gắn bó mật thiết
với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau, nhằm
xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất. Tuy
Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại có điều kiện tự nhiên và lịch sử không giống nhau
nhưng tất cả điều ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và sự phát triển của Triết học.
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 12
Tại Ấn, không có một tôn giáo thuần nhất, cũng chẳng có một nền triết
học độc nhất; đúng hơn, với nhiều cách thức am hiểu và liên hệ với thế giới, triết
học Ấn Ðộ cũng như Ấn giáo, là một kho tàng chứa đựng các ý tưởng được bảo
lưu một cách rộng rãi, trong đó một số ý tưởng này cổ đại hơn một số ý tưởng
khác tới cả ngàn năm.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã biết gắn bó chặt chẽ triết học với khoa
học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau để hướng tới
việc xây dựng thế giới quan tổng thể, biến triết học thành "khoa học của các khoa
học".
Bên cạnh đó, cả hai nền Triết học này cùng ra đời trong bối cảnh xã hội có
sự phân chia giai cấp rất khắc nghiệt, đặc biệt là sự đàn áp tàn khốc đối với tầng
lớp nô lệ.
Đúng như Ph.Ăngghen nhận xét: “Không có chế độ nô lệ thì không có
quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp, không có chế độ nô
lệ thì không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là nền văn minh Hy Lạp và
đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”.
Trong khi Ấn độ cũng trải qua rất nhiều thời kỳ bị xâm lăng bởi nhiều
quốc gia và các dân tộc, tạo nên sự da dạng của đủ loại hình tôn giáo, từ mê tín
sâu sắc, với những lý thuyết trái ngược nhau và các vị thánh, khất sĩ, ẩn sĩ, hiền
giả và người vô tín ngưỡng. Theo thống kê năm 2001, người Ấn theo Ấn giáo
80.5%, Hồi giáo 13.4 %, Kitô giáo 2.3%, Sikh 1.9%, các tôn giáo khác 1.8%,
không xác định 0.1%.
2. Tương đồng trong xem xét nguồn gốc thế giới tự nhiên, sự ra đời của vạn
vật
Hai nền triết học đều có những trường phái chịu ảnh hưởng của thần
thánh, tôn giáo. Quan điểm là linh hồn con người tồn tại và trải qua luân hồi. Thế
giới tự nhiên là do thần thánh sáng tạo, sắp xếp, có nguồn gốc thần bí.
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 13
Ấn Độ: Upanishad đã đưa ra cách giải thích duy tâm về nguồn gốc của thế
giới, coi Brahman - "Tinh thần vũ trụ tối cao" - là thực thể duy nhất, có trước
nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới này đều nảy sinh ra và
nhập về với nó sau khi chết. Atman - Linh hồn con người chỉ là sự biểu hiện, là
một bộ phận của "Tinh thần vũ trụ tối cao". Cơ thể con người chỉ là vỏ bọc của
linh hồn, là nơi trú ngụ của linh hồn, là hiện thân của "Tinh thần vũ trụ tối cao"
tuyệt đối, bất tử Brahman. Vì toàn bộ vũ trụ là Brahman nên về bản chất linh hồn
là đồng nhất với "Linh hồn tối cao".
Hy Lạp: Trường phái duy tâm của Pytago ủng hộ quan điểm duy tâm –
tôn giáo của phương đông, coi linh hồn tồn tại bất tử, độc lập với thể xác và chịu
luân hồi. Trường phái Xôcrát-Platông cho rằng hiện tượng tự nhiên do thần thánh
sáng tạo và an bài. Ý niệm của Platông là lý tính, tồn tại trên trời, chân thực tuyệt
đối. Thế giới sự vật là sự sao chép của ý niệm, sinh ra từ ý niệm, do thần Tạo hóa
mô phỏng từ ý niệm. Hai nền triết học đều có những trường phái cho rằng thế
giới tạo thành từ vật chất, không tồn tại thần thánh.
• Ấn Độ:
Trường phái Nyaga với thuyết nguyên tử luận, cho rằng thế giới vật chất
được cấu thành từ các nguyên tử kết hợp lại.
Trường phái Vaisêsika cũng ủng hộ thuyết nguyên tử luận.
• Hy Lạp:
Trường phái duy vật cho rằng khởi nguyên vũ trụ hình thành bởi các yếu
tố vật chất. Talet cho rằng nước là khởi nguyên của sự vật. Heraclit cho rằng lửa
tạo ra van vật. Êmpêđốc nhận định vạn vật tạo bởi đất nước, không khí, kết hợp
với lực tình yêu và hận thù.
Thuyết nguyên tử luận của Lơxíp – Đêmôcrit nhận định vũ trụ được cấu
thành từ nguyên tử và chân không. Nguyên tử tụ lại hình thành sự vật, tan rã thì
sự vật mất. Không có thần thánh sáng tạo ra sự vật.
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 14
3. Tương đồng trong nhận thức, thế giới quan duy vật và vô thần có tính
biện chứng sâu sắc.
• Ấn Độ:
Nhận thức luận của Nyaga thừa nhận đối tượng nhận thức tồn tại khách
quan cần phải tìm tòi thông qua bốn phương thức là cảm giác, kết luận, tương tự
và bằng chứng.
Phái Nyaga và Vaisêsika đều xây dựng những phương thức logic học.
• Hy Lạp:
Đêmôcrit đề cao nhận thức lí tính, xuất phát từ nhận thức cảm tính, để tìm
ra nhận thức lí tính
Đêmôcrit cũng tiến hành xây dựng những phương pháp nhận thức logic
học như quy nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa.
4. Ấn độ và Hy Lạp cổ đại có cả hai trường phái duy vật và duy tâm :
• Ấn Độ:
Duy vật : Gaimini,Gotama,Kanada,
Duy tâm : Upanisad(bratman,atman)
• Hy Lạp:
Duy vật : Talet,Anaximen,Hecraclit,Democrit,…
Duy tâm : Pitago,Pacmenic,Xocrat ,Platong,…
5. Tương đồng trong mối quan tâm về con người và đều tìm cách đem lại
cho con người cuộc sống hạnh phúc:
Trải qua nhiều thời kỳ phát triển, tất cả đều nghiên cứu về vai trò của con
người và tự nhiên, mỗi thời kỳ có một sự quan tâm khác biệt nhưng cùng tô màu
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 15
vẽ sắc cho các nền triết ấy. Vì vậy, đây chính là nền tảng, tiền đề cho sự phát
triển của 2 nền triết học này trong các giai đoạn sau.
• Ấn Độ: giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực nhân sinh (bản chất, ý nghĩa
cuộc sống, nguồn gốc nỗi khổ).Triết học Ấn Độ quan tâm đến nhiều vấn đề,
nhưng vấn đề chủ yếu là vấn đề con người, bởi vậy, nó là triết lý nhân sinh. Điểm
đặc biệt trong triết học Ấn Độ là nó phân con người thành những yếu tố cấu
thành, trong đó cái tâm có ý nghĩa quyết định. Từ đó, hướng chủ yếu của nó là đi
nghiên cứu, phân tích cái tâm con người.Triết học Ấn Độ cho rằng muốn hiểu thế
giới trước hết phải hiểu mình đã và khi đã hiểu mình thì hiểu tất cả vì bản thể vũ
trụ có trong mỗi con người.
Triết học Phật Giáo thừa nhận quan niệm "Luân hồi" và "Nghiệp" trong
Upanishad, Phật giáo đặc biệt chú trọng triết lý nhân sinh, đặt mục tiêu tìm kiếm
sự giải thoát cho chúng sinh khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái
tồn tại Niết bàn (Nirvana).
• Hy Lạp: tìm hiểu, lí giải quan hệ linh hồn – thể xác, đời sống đạo đức,
chính trị, xã hội của con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều
quan điểm khác nhau về con người, cố lí giải vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể
xác, về đời sống đạo đức- chính trị- xã hội của họ. Dù có nhiều bất đồng, song
nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quí nhất của
tạo hóa.
6. Bên cạnh những ưu điểm, hai nền triết học đều chưa rõ ràng, chưa hệ
thống hóa và giải thích được nguồn gốc, tính chất vai trò của phạm trù đối
với nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Quan niệm về vật chất của phái Samkhuya còn có nhiều hạn chế. Họ cho
rằng dạng vật chất đầu tiên là không nhận biết được và giải thích về hình thành
vạn vật còn chưa đúng đắn đó là quan niệm về sự hình thành thế giới hữu hình đa
dạng từ thế giới vô hình, đồng nhất.Đêmôcrít đã không lý giải được nguồn gốc
của vận động, không biết được linh hồn là hiện tượng tinh thần.Và sai lầm của
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 16
Dênông là tuyệt đối hóa và tách tính gián đoạn ra khỏi tính liên tục của vận động,
không thấy rằng vận động là quá trình thống nhất biện chứng giữa vận động và
đứng im, tính liên tục và tính gián đoạn.
7. Cả hai nền triết học đều đề cao lao động trí óc đã thúc đẩy hình thành
tầng lớp tri thức, họ đã sử dụng tư duy lý luận để nghiên cứu thế giới và xây
dựng nền triết học và khoa học đồ sộ, sâu sắc.
8. Trong quá trình nhận thức, suy tư triết lý, đôi khi đã đạt tới ý tưởng siêu
thực, vượt qua tầm suy nghĩ, nhận thức giác quan đạt tới những phán đoán
siêu hình về sự tồn tại.
II. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TH ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TH HY LẠP CỔ ĐẠI
Ấn Độ cổ đại Hy Lạp cổ đại
1.Triết học có sự đan xen với tôn giáo
Do chịu ảnh hưởng lớn của những tư
tưởng tôn giáo, nên nội dung tư tưởng
triết học Ấn Độ cổ, trung đại thể hiện
nét đặt thù khi trình bày các nội dung
triết học chung. Trong đời sống tinh
thần của người Ấn Độ, bên cạnh tôn
giáo, triết học có một vai trò khá quan
trọng. Chính vì sự gần gũi đó mà triết
học Ấn Độ gắn liền với các tôn giáo.
Đúng như lời nhận xét của
Radhakrishnan:"Triết học Ấn Độ mang
đượm màu sắc chủ nghĩa duy linh,
chính chủ nghĩa duy linh đã cho Ấn Độ
khả năng chống lại các cuộc chiến
tranh của thù trong giặc ngoài. Trong
1.Triết học gắn bó mật thiết với khoa
học tự nhiên:
Quá trình lịch sử lâu dài với không ít
những thăng trầm của vùng đất Hy Lạp
cổ đại gắn liền với sự phát triển kinh tế
- xã hội và tư tưởng triết học của nó
trong đó sự phân chia xã hội thành giai
cấp , sự phân công lao động xã hội
thành lao động trí óc và lao động chân
tay đã dẫn tới sự hình thành một đội
ngũ các nhà trí thức chuyên nghiệp
chuyên nghiên cứu về khoa học, triết
học. Sự xuất hiện của những trí thức
khoa học và triết học trong thời kỳ này
đã tạo nên một bước ngoặt lớn về nhận
thức của con người, phá vỡ ý thức hệ
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 17
suốt quá trình lịch sử của mình, đất
nước Ấn Độ tồn tại vì một mục đích:
Đấu tranh cho chân lý và chống lại mọi
sai lầm Lịch sử tư tưởng Ấn Độ đã và
đang minh chứng về những cuộc kiếm
tìm vô tận của trí tuệ trong quá khứ,
hiện tại và tương lai".
Bản thể luận thần thoại tôn giáo: Tự
nhiên, xã hội nơi sinh trưởng và tồn tại
của con người luôn ẩn giấu những điều
bí ẩn, kỳ diệu, luôn gây cho con người
nhiều tai họa. Để giải thích những hiện
tượng có thật ấy, người Ấn Độ đã sáng
tạo nên một thế giới các vị thần có tính
chất tự nhiên. Các vị thần được người
Ấn Độ thờ phụng đầu tiên tượng trưng
cho sức mạnh của các lực lượng, sự vật
tự nhiên đó là trời đất, mặt trời, mặt
trăng, lửa, ánh sáng, gió, mưa…Người
Ấn Độ giải thích rằng vũ trụ tồn tại ba
thế lực có liên hệ mật thiết với nhau là
thiên giới, trần thế, địa ngục. Họ lý giải
tự nhiên qua biểu tượng thế giới thần
linh hiện diện khắp nơi, chia nhau chi
phối sự biến đổi của vũ trụ theo sự điều
khiển của nguyên lý rita. Họ tin tưởng
gửi gắm tâm hồn, cuộc sống tự nhiên
của mình vào thế giới các vị thần ấy.
Các thần linh trong kinh Vêđa trú ngụ
thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nền
sản xuất, những tri thức về khoa học tự
nhiên phát triển mạnh, được trình bày
trong hệ thống triết học - tự nhiên của
các nhà triết học cổ đại, bên cạnh đó,
khoa học thời bấy giờ chưa phân ngành
nên các nhà triết học đồng thời cũng là
các nhà Toán học, nhà Vật lý học như
Talét, Pytago, Ácximét, Ơclít, Từ các
yếu tố đó có thể khẳng định rằng, triết
học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời
đã có sự gắn bó với nhu cầu thực tiễn
và gắn với khoa học.
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật
thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp
mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác
nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế
giới như một hình ảnh chỉnh thể thống
nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra
trong nó. Do trình độ tư duy lý luận
còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa
đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự
nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà
nó nghiên cứu tự nhiên trong tổng thể
để dựng nên bức tranh tổng quát về thế
giới. Vì vậy, các nhà triết học đồng
thời là các nhà khoa học tự nhiên, họ
quan sát trực tiếp các hiện tượng tự
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 18
khắp ba cõi: Hạ giới, Trung gian,
Thiên giới.
Trường phái Vêđanta thừa nhận sự tồn
tại của brátman- linh hồn vũ trụ là thực
tại tinh thần tối cao, là bản chất, là
nguồn sống vĩnh hằng, là cội nguồn chi
phối mọi sự hình thành và hủy diệt của
mọi cái trong thế giới.
nhiên để rút ra những kết luận triết học.
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 19
2. Triết học có sự đan xen giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
giữa phép biện chứng và phép siêu
hình
Những nhà tư tưởng của phái Samkhya
sơ kỳ đã bộc lộ những tư tưởng có tính
duy vật và ít nhiều biện chứng về bản
nguyên hiện hữu. Họ đưa ra học thuyết
về sự tồn tại của kết quả trong nguyên
nhân trước khi nó xuất hiện và học
thuyết về sự chuyển hóa thực tế của
nguyên nhân trong kết quả. Họ cho
rằng loại nào có nguyên nhân của loại
ấy với luận điểm nổi tiếng " Trồng Sali
được Sali, trồng Vrihi được Vrihi". Từ
đó, trong quan niệm về sự hình thành
sự vật, họ cho rằng nếu vạn vật của thế
giới này là vật chất thì yếu tố tạo nên
vạn vật với tính cách là nguyên nhân
cũng phải là vật chất; đó là "vật chất
đầu tiên"(Prakriti) - một dạng vật chất
không thể dùng cảm giác mà có thể biết
được. Thế giới vật chất là thể thống
nhất của ba yếu tố: Sattva (nhẹ, sáng,
vui tươi); Rajas (kích thích, động);
Tamas (nặng, ỳ). Khi ba yếu tố trên ở
trạng thái cân bằng thì Prakriti ở trạng
thái chưa biểu hiện - tức là trạng thái
không thể trực quan được. Nhưng khi
2 Triết học Hy Lạp có sự phân chia
và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái duy vật – duy tâm, vô
thần – hữu thần
Hêraclit đã đứng trên lập trường duy
vật cổ đại để giải quyết vấn đề“cơ sở
đầu tiên” của thế giới từ một dạng vật
chất cụ thể. Ông cho rằng lửa chính là
bản nguyên của thế giới, là cơ sở duy
nhất và phổ biến của tất cả mọi sự vật,
hiện tượng tự nhiên. Những đóng góp
của Hêraclit thể hiện trong quan niệm
của ông về bản nguyên của thế giới,
việc ông xây dựng phép biện chứng và
thiết lập lý luận nhận thức. Lý luận
nhận thức của ông mang tính chất duy
vật và biện chứng sơ khai nhưng về
bản chất là đúng đắn.
Dù triết học của ông còn mang tính thô
sơ, chất phác, nhưng với những thành
tựu triết học rực rỡ của mình, Đêmôcrit
đã đưa chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ
đại lên một đỉnh cao mới.
Platông là một nhà triết học duy tâm
khách quan. Khác với các nhà triết học
duy vật, Platôn không xuất phát từ vật
chất để giải thích nguồn gốc của thế
giới, ông không khẳng định thế giới
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 20
sự cân bằng bị phá vỡ thì đó là điểm
khởi đầu của sự sinh thành vạn vật của
vũ trụ.
Trái lại, các nhà tư tưởng của phái
Samkhya hậu kỳ lại có khuynh hướng
nhị nguyên luận khi thừa nhận sự tồn
tại song song của hai yếu tố đầu tiên là
vật chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa).
Yếu tố tinh thần (Purusa) mang tính
phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó
truyền sinh khí, năng lượng và biến hóa
vào yếu tố vật chất. ở con người, khi
tinh thần chiếu rọi vào Sattva thì sinh ra
trí tuệ; khi tinh thần chiếu rọi vào Rajas
thì sinh ra vận động; khi tinh thần chiếu
rọi vào Tamas thì sinh ra hình thể.
Về bản chất con người, phái Samkhya
cho rằng con người có sự ý thức về
mình. Chính vì vậy mà họ nảy sinh ra
những lo lắng, ham muốn và hành động
để đạt đến cái "tôi". Do đó tinh thần
con người không thoát ra được, luôn bị
chìm đắm trong vòng luân hồi, khổ
não. Muốn giải thoát, con người phải
dùng phương pháp Yoga.
Các nhà triết học Mimansa dựa vào tư
tưởng triết học - tôn giáo của Véđa,
nhưng coi Véđa như các tập công thức
hay thần chú về nghi lễ. Mimansa sơ kỳ
này là thế giới vật chất và duy nhất. Lý
luận nhận thức và học thuyết về linh
hồn của Platôn được xây dựng trên cơ
sở bản thể luận duy tâm khách quan mà
cốt lõi của chúng là học thuyết về ý
niệm và học thuyết về sự tồn tại độc
lập của linh hồn bất tử. Ông cho rằng,
nhận thức cảm tính không phải là
nguồn gốc của tri thức chân thực, mà
tri thức chân thực - nhận thức ý niệm -
chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý
tính và thể hiện trong khái niệm. Cuộc
đấu tranh giữa trào lưu triết học duy
vật của Đêmôcrit và trào lưu triết học
duy tâm của Platông.
Trường phái Milê: Trường phái duy
vật đơn nguyên do ba nhà triết học duy
vật là Talét, Anaximăngđrơ, Anaximen
xây dựng nhằm làm sáng rõ bản
nguyên vật chất của thế giới. Những
quan niệm triết học duy vật của trường
phái Milê tuy còn mộc mạc, thô sơ
nhưng có ý nghĩa vô thần chống lại thế
giới quan thần thoại đương thời và đã
chứa đựng những yếu tố biện chứng
chất phác.
Trường phái duy tâm khách quan của
Xôcrát- Platông: Băng thuyết ý niệm,
Platông lý giải sự sinh thành thế giới sự
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 21
không thừa nhận sự tồn tại của thần.
Theo Sabara thì chúng ta thiếu chứng
cứ về sự tồn tại của thần và cảm giác
không nhận thức được thần. Nhưng
cảm giác lại được coi là nguồn gốc của
mọi tri thức khác. Phái Mimansa không
phản đối việc coi thần linh như cái tên
hay âm thanh cần thiết cho các câu thần
chú của nghi lễ. Nghi lễ không phải là
hành động khẩn cầu, sùng bái thần linh,
mà nghi lễ tự nó có sức mạnh, có thể
đưa lại hiệu quả. Họ hiểu nghi lễ như
một hành động ma thuật.
vật, con người và hoạt động của linh
hồn…Thần linh, tức linh hồn vũ trụ,
xuất hiện dưới dạng các tinh tú và chỉ
được nhận thức bằng chính linh hồn vũ
trụ trong con người và mang lại sự
sống cho tất cả chim, cá, thú, con
người và cả bản thân thần linh. Đối với
Platông, thần linh là thước đo của vạn
vật. Còn con người là sự kết hợp của
thể xác khả tử với linh hồn bất tử. Linh
hồn của con người là sản phẩm của
linh hồn vũ trụ được Thượng đế tạo ra
từ lâu. Có thể nói triết học Hy Lạp cổ
đại rất nhất quán, kiên định một quan
điểm, một lập trường.
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 22
3. Triết học Ấn Độ cổ đại lấy nhân
sinh quan làm gốc, đặc biệt là vấn đề
luân hồi, nghiệp báo, sau đó mới là
vũ trụ quan, bản thể luận:
Triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra nhiều
vấn đề thuộc về lĩnh vực nhân sinh (bản
chất, ý nghĩa đời sống, nguồn gốc nổi
khổ của con người) nhằm tìm kiếm
phương tiện, con đường, cách thức giải
thoát chúng sinh ra khỏi điều kiện tự
nhiên và kinh tế - xã hội khắc nghiệt
Kinh upanisát- đây là một trong những
bộ kinh quan trọng nhất của kinh Véđa,
được biên soạn qua nhiều thế kỷ
( khoảng từ thế kỷ X đến thế kỷ V
tr.CN) bởi các tông phái, các đạo sĩ
trong những hoàn cảnh và địa phương
khác nhau.
Upanishad bàn tới vấn đề "luân hồi",
"nghiệp báo". Vì Atman "linh hồn" tồn
tại trong thể xác con người trần tục nên
ý thức con người lầm tưởng rằng "linh
hồn" đó khác với "linh hồn vũ trụ" bất
tử. Những cảm giác, ham muốn dục
vọng và hành động của con người
nhằm thỏa mãn những ham muốn đó
trong đời sống trần tục đã gây ra những
hậu quả, gieo đau khổ ở kiếp này và cả
3. Triết học Hy Lạp cổ đại đi từ thế
giới quan, vũ trụ quan, bản thể
luận…từ đó xây dựng nhân sinh
quan con người
Các nhà triết học Hy Lạp đầu tiên có
khuynh hướng chung là suy tư về bản
chất và khởi thuỷ của thế giới. Họ lấy
một thực thể bản nguyên tượng trưng
làm nguồn gốc của tất cả mọi vật.
Chẳng hạn đối với Talet đó là nước,
đối với Anaximăngđrơ đó là cái vô hạn
bất định, đối với Anaxago đó là tinh
thần. Pytago tìm cái chìa khoá phổ quát
của hiện thực trong các con số,
Pacmênic cho rằng bản chất của thực
thể nằm trong tồn tại; Lơxip và
Đêmôcrit phỏng đoán mọi sự vật đều
được tạo thành từ những nguyên tử, là
những phần tử nhỏ nhất, không thể
phân chia được nữa và số lượng của
chúng là vô hạn. Hêraclit đưa ra quan
niệm mọi sự vật của thế giới luôn thay
đổi, sự kết hợp của các yếu tố vật chất
là vô hạn, vì vậy cái bất biến trong thế
giới chỉ có thể được thừa nhận chính là
sự biến đổi, chuyển hoá vĩnh hằng đó.
Từ thế giới quan, các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại mới đi đến vấn đề nhân sinh
quan, đạo đức, xã hội. Các nhà ngụy
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 23
kiếp sau, gọi là "nghiệp báo" (Karma).
Do vậy, linh hồn bất tử cứ bị giam hãm
vào hết thể xác này đến thể xác khác, bị
che lấp, ràng buộc bởi thế giới hiện
tượng như ảo ảnh, gọi là sự "luân hồi"
(Samsara), không nhận ra và không trở
về đồng nhất với chân bản của mình là
Brahman được.
Muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi
vòng vây hãm của luân hồi, nghiệp báo
để đạt tới đồng nhất với "Tinh thần vũ
trụ tối cao" tuyệt đối thì con người phải
dốc lòng toàn tâm tu luyện hành động
và tu luyện tri thức. Bằng nhận thức
trực giác, thực nghiệm tâm linh, con
người mới nhận ra chân bản của mình,
khi đó linh hồn bất tử mới đồng nhất
được với "linh hồn vũ trụ tối cao" và
bắt đầu "siêu thoát" (moksa).
biện thì thiên về cá nhân hơn, đã nhiệt
thành với việc giáo dục các nhà lãnh
đạo, những người sẽ gây ảnh hưởng xã
hội và sử dụng xã hội như là phương
tiện để đạt các mục đích riêng của
mình Mỗi con người là thước đo sự
vật cho mình, không phải chỉ sự vật
được nhận thức, mà cả sự vật thuộc
thiện, ác trong xã hội. Platông và
Xôcrat chống lại "chủ nghĩa cá nhân"
và "chủ nghĩa tương đối" cực đoan này
của các nhà ngụy biện. Con người,
thước đo sự vật, không phải là cá nhân
riêng biệt mà là phổ quát. Cấu trúc xã
hội và cấu trúc linh hồn (hay tự ngã)
của con người phản ảnh lẫn nhau và
phụ thuộc lẫn nhau.
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 24
4. Triết học Ấn Độ cổ đại nhấn mạnh
sự thống nhất trong mối quan hệ
giữa con người và vũ trụ theo nguyên
tắc “thiên nhân hợp nhất”
Xu hướng chính của Upanishad là
nhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm,
tôn giáo trong kinh Vêđa về cái gọi là
“tinh thần sáng tạo tối cao” sáng tạo và
chi phối thế giới này. Để trả lời câu hỏi
cái gì là thực tại cao nhất, là căn
nguyên của tất cả mà khi nhận thức
được nó, người ta sẽ nhận thức được
mọi cái còn lại và có thể giải thoát
được linh hồn khỏi sự lo âu khổ nào
của đời sống trần tục và ràng buộc của
thế giới này là “tinh thần vũ trụ tối cao”
Brahman, là thực thể duy nhất, có trước
nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ
đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và
nhập về với nó sau khi chết. Tóm lại
Brahman là tinh thần vũ trụ, là đấng
sáng tạo duy nhất, là đại ngã, đại đinh,
là vũ trụ xung quanh cái tồn tại thực sự,
là khách thể.
Còn Atman là tinh thần con người, là
tiểu ngã, là cái có thể mô hình hoá, là
chủ thể và chẳng qua chỉ là linh hồn vũ
trụ cư trú trong con người mà thôi.
Linh hồn con người (Atman) chỉ là sự
4. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại
tách chủ thể với khách thể để nhận
xét khách quan
Các nhà triết học Hy Lạp đã nhấn
mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi
con người là chủ thể để nghiên cứu,
chinh phục vũ trụ - thế giới khách
quan. Đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế
giới – tính chất hướng ngoại; còn vấn
đề con người chỉ được nghiên cứu để
giải thích thế giới mà thôi. Cho nên
triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện đậm
nét về bản thể luận của vũ trụ. Platông
đã chia thế giới thành thế giới ý niệm
(lý tính, tồn tại trên trời, mang tính phổ
biến, chân thực tuyệt đối, bất biến, vĩnh
hằng, duy nhất…) và thế giới sự vật
(cảm tính, tồn tại dưới đất, mang tính
cá biệt, ảo giả, tương đối, khả biến,
thoáng qua, đa tạp…). Bằng thuyết ý
niệm này, ông đã lý giải sự sinh thành
của thế giới sự vật, con người và hoạt
động của linh hồn…
SVTH: Huỳnh Thị Quỳnh Tuyên 25