Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

THUYẾT ÂM DƯƠNG - NGŨ HÀNH VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA HỌC THUYẾT ĐỐI VỚI NỀN Y HỌC CỦA PHƯƠNG ĐÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.05 KB, 41 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
PHÒNG ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI SỐ 5:
GVHD : TS. BÙI VĂN
MƯA
HVTH : Nguyễn Phương Thảo
NHÓM : 6
STT : 100
LỚP : K20 – ĐÊM 1
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 1
TP.HCM 05/2011

PHẦN MỞ ĐẦU 8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 8
1.1. Thế nào là "Âm dương": 9
1.1. Thế nào là "Âm dương": 9
1.2. Thuyết Âm – Dương: 9
1.2. Thuyết Âm – Dương: 9
1.3. Thế nào là Ngũ hành: 9
1.3. Thế nào là Ngũ hành: 9
1.4. Thuyết Ngũ hành: 10
1.4. Thuyết Ngũ hành: 10
1.5. Mối quan hệ giữa Âm dương và Ngũ hành: 11
1.5. Mối quan hệ giữa Âm dương và Ngũ hành: 11
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH ĐỐI VỚI
LĨNH VỰC Y HỌC CỦA PHƯƠNG ĐÔNG 13
2.1. Nguồn gốc Y học Phương Đông: 13
2.1. Nguồn gốc Y học Phương Đông: 13
2.2. Sự vận dụng thuyết Âm dương – Ngũ hành vào lĩnh vực y học của người Phương Đông: 13
2.2. Sự vận dụng thuyết Âm dương – Ngũ hành vào lĩnh vực y học của người Phương Đông: 13


2.2.1.Âm dương Ngũ hành và Cơ thể: 13
2.2.1. Âm dương Ngũ hành và Cơ thể: 13
2.2.2.Âm dương Ngũ hành và Sinh lý(3): 15
2.2.2. Âm dương Ngũ hành và Sinh lý(3): 15
2.2.3.Âm dương Ngũ hành và Bệnh lý: 17
2.2.3. Âm dương Ngũ hành và Bệnh lý: 17
2.2.4.Âm dương Ngũ hành và Chẩn bệnh: 19
2.2.4. Âm dương Ngũ hành và Chẩn bệnh: 19
2.2.5.Âm dương Ngũ hành và Dược liệu: 21
2.2.5. Âm dương Ngũ hành và Dược liệu: 21
2.2.6.Âm dương Ngũ hành và Châm Cứu: 22
2.2.6. Âm dương Ngũ hành và Châm Cứu: 22
2.2.7.Âm dương Ngũ hành và Điều trị: 24
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 2
2.2.7. Âm dương Ngũ hành và Điều trị: 24
2.2.8.Âm dương Ngũ hành và Phòng Bệnh: 25
2.2.8. Âm dương Ngũ hành và Phòng Bệnh: 25
2.2.9.Điều hòa Âm dương Ngũ hành: 26
2.2.9. Điều hòa Âm dương Ngũ hành: 26
CHƯƠNG 3: ĐÔNG Y TRƯỚC NHỮNG THÁCH THỨC THỜI HIỆN ĐẠI 28
1. NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA NỀN ĐÔNG Y: 28
ƯU DIỂM 28
HẠN CHẾ 28
NỀN ĐÔNG Y ĐÃ XÂY DỰNG NÊN MỘT HỆ THỐNG Y HỌC VỚI NHỮNG MỐI
QUAN HỆ CHẶT CHẼ TƯƠNG SINH, TƯƠNG KHẮC GIỮA CÁC CƠ QUAN, BỘ
PHẬN TRONG CƠ THỂ CON NGƯỜI 28
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN LÂU ĐỜI ĐÚC KẾT NHIỀU KINH NGHIỆM CÁC THẾ
HỆ ĐỂ LẠI 28
TỒN TẠI TRONG DÂN GIAN, NHIỀU NGƯỜI BIẾT. DỄ NHỚ, DỄ ỨNG DỤNG.28
DƯỢC LIỆU THƯỜNG LÀ CÂY CỎ GẦN GŨI, DỄ TÌM 28

CÓ THỂ CHẨN BỆNH NHANH DỰA VÀO ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ THAY ĐỔI BÊN
NGOÀI CỦA CƠ THỂ. KHÔNG PHẢI DÙNG CÁC PHƯƠNG PHÁP PHỨC TẠP,
TỐN NHIỀU CHI PHÍ, THỜI GIAN 28
LIỆU PHÁP CHÂM CỨU TRONG ĐÔNG Y NHẸ NHÀNG, HIỆU QUẢ. ÍT TỐN
CHI PHÍ, THỜI GIAN, ÍT GÂY ÁP LỰC TÂM LÝ ĐỐI VỚI NGƯỜI BỆNH 28
CÁCH CHẨN BỆNH VÀ ĐIỀU TRỊ LINH HOẠT, PHONG PHÚ PHÙ HỢP VỚI
THỰC BỆNH CỦA BỆNH NHÂN. 28
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ LÝ LUẬN CỦA ĐÔNG Y CHƯA DỰA VÀO THỰC
NGHIỆM KHOA HỌC MÀ CHỈ DO KINH NGHIỆM VÀ SUY LUẬN 28
CÁCH PHÂN CHIA ÂM DƯƠNG, NGŨ HÀNH CHỈ MANG TÍNH TƯƠNG ĐỐI,
THAY ĐỔI THEO CHỨC NĂNG, HÌNH DẠNG, CÔNG DỤNG, MÀU SẮC 28
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRONG NỘI BỘ NGÀNH ĐÔNG Y CÒN CHƯA NHẤT
QUÁN 28
NẾU KHÔNG CÓ HIỂU BIẾT SÂU SẮC VỀ CÁC TRIỆU CHỨNG BỆNH SẼ DỄ
GÂY NHẦM LẪN, DẪN ĐẾN CÀNG TRỊ BỆNH CÀNG TRẦM TRỌNG HƠN 28
DO THIẾU KỸ THUẬT HIỆN ĐẠI NÊN CÒN HẠN CHẾ TRONG PHƯƠNG PHÁP
CHẨN BỆNH VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH. ĐỐI VỚI MỘT SỐ CĂN BỆNH PHỨC TẠP
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 3
CẦN SỰ CAN THIỆP CỦA KHOA HỌC HIỆN ĐẠI ĐỂ CHẨN ĐOÁN CHÍNH
XÁC, PHẪU THUẬT HIỆU QUẢ 28
2. ĐÔNG Y VÀ TÂY Y HIỆN ĐẠI: 28
TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI NGÀY NAY, SỰ XUẤT HIỆN CỦA TÂY Y VỚI
NHIỀU PHƯƠNG PHÁP CHẨN BỆNH VÀ ĐIỀU TRỊ HIỆN ĐẠI LÀ MỘT THÁCH
THỨC LỚN ĐỐI VỚI ĐÔNG Y. TÂY Y PHÁT TRIỂN TRÊN CƠ SỞ GIẢI PHẪU
HỌC CƠ THỂ LÀ MỘT BƯỚC NGOẶC LỚN TRONG LĨNH VỰC CHĂM SÓC
SỨC KHOẺ NHÂN LOẠI. VỚI NHỮNG ĐIỂM NỔI BẬT LOGIC VỀ PHƯƠNG
PHÁP LUẬN ĐƯỢC KIỂM CHỨNG KHOA HỌC RÕ RÀNG, TÂY Y TRỞ NÊN
ĐÁNG TIN CẬY VÀ NGÀY CÀNG PHỔ BIẾN TRÊN KHẮP THẾ GIỚI. VỚI SỰ
CẠNH TRANH NÀY ĐÃ XUẤT HIỆN NHỮNG LUỒNG Ý KIẾN KHÁC NHAU VỀ
ĐÔNG Y. MỘT SỐ Ý KIẾN PHÊ PHÁN NỀN Y HỌC ĐÔNG Y VỚI TRIẾT LÝ ÂM

DƯƠNG, NGŨ HÀNH THIẾU TÍNH KHOA HỌC BIỆN CHỨNG, THIẾU KIỂM
ĐỊNH KHOA HỌC. TUY NHIÊN MỘT SỐ KHÁC LẠI ỦNG HỘ SỰ TỒN TẠI VÀ
PHÁT TRIỂN CỦA NỀN ĐÔNG Y. 28
TRONG THỰC TẾ, VỚI BỀ DÀY LỊCH SỬ CỦA MÌNH, ĐÔNG Y ẨN CHỨA
NHIỀU KIẾN THỨC, KINH NGHIỆM CỦA NHIỀU THẾ HỆ THẦY THUỐC Y
ĐỨC. NHÀ KHOA HỌC ĐỨC, GIÁO SƯ BOACTER TẠI ĐẠI HỌC MUNICH
VIẾT: “ĐÔNG Y ĐƯỢC XÂY DỰNG TRÊN MỘT CƠ SỞ QUY NẠP VÀ TỔNG
HỢP, MỘT SỐ LƯỢNG LỚN NHỮNG BIẾN ĐỔI SINH LÝ VÀ BỆNH LÝ MÀ
CÁC THẦY THUỐC ĐÃ PHÁT HIỆN Ở NGƯỜI BỆNH QUA HÀNG NGÀN NĂM.
HỆ THỐNG TẠNG TƯỢNG CỦA ĐÔNG Y LÀ MỘT MÔ HÌNH PHỨC TẠP BAO
GỒM NHIỀU CHỨC NĂNG LIÊN QUAN, TÁC ĐỘNG QUA LẠI VỚI NHAU, VẬN
ĐỘNG THEO NHƯNG QUY LUẬT CÓ TÍNH TUẦN HOÀN. CHỈ DỰA VÀO GIẢI
PHẪU HỌC, KHÔNG XÂY DỰNG NỔI MỘT HỆ THỐNG NHƯ VẬY”. NHÌN LẠI
LỊCH SỬ CHÚNG TA KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN NHỮNG THÀNH QUẢ MÀ
ĐÔNG Y ĐÃ MANG LẠI. TẠI TRUNG QUỐC, THỜI KỲ DỊCH BỆNH SARS LÂY
LAN, NGƯỜI TA ĐÃ PHẢI DÙNG ĐẾN CẢ TÂY Y VÀ ĐÔNG Y KẾT HỢP. KẾT
QUẢ CHO THẤY, TỶ LỆ CHẾT DO BỆNH SARS TẠI HỒNG KÔNG (NƠI CHỈ
SỬ DỤNG TÂY Y) LÀ 17% TRONG KHI TẠI QUẢNG CHÂU (KẾT HỢP ĐÔNG -
TÂY Y) LÀ 3,6%. TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN GIAN KHỔ CỦA ĐẤT NƯỚC,
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 4
BỘ ĐỘI TA PHẢI TRÚ TRONG RỪNG NÚI HOANG VẮNG . CHÍNH NHỜ
“THẦY TẠI NHÀ, THUỐC TẠI VƯỜN” ĐÃ CƯÚ NGUY CHO CÁC ANH HÙNG
CÓ THÊM SỨC MẠNH RA CHIẾN TRẬN 29
ĐÔNG Y VÀ TÂY Y DÙ KHÁC NHAU VỀ NỀN TẢNG LÝ LUẬN VÀ HOÀN
CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI NHƯNG ĐỀU MANG MỘT NHIỆM VỤ THIÊNG LIÊNG
CỨU NGƯỜI. MỖI NỀN Y HỌC ĐỀU CÓ NHỮNG ƯU VÀ KHUYẾT ĐIỂM
RIÊNG, CHÚNG TA NÊN KẾT HỢP CHÚNG LẠI VỚI NHAU ĐỂ CÓ HIỆU QUẢ
TRỊ LIỆU TỐT NHẤT. TẠI MỘT SỐ NƠI TRÊN THẾ GIỚI ĐÔNG Y VÀ TÂY Y
ĐÃ BẮT TAY NHAU TRÊN CON ĐƯỜNG CHỮA BỆNH CỨU NGƯỜI. NƯỚC
NHẬT TỪ CHỖ CẤM ĐÔNG Y HOẠT ĐỘNG SỚM NHẤT(1895) ĐÃ TRỞ THÀNH

NƯỚC XUẤT KHẨU ĐÔNG DƯỢC HÀNG ĐẦU THẾ GIỚI VÀO NĂM 1980.
NƯỚC ĐỨC, NƯỚC PHÁP LÀ HAI NƯỚC CÓ NỀN TÂY Y MẠNH LẠI LÀ HAI
NƯỚC DÙNG CÂY CỎ LÀM DƯỢC LIỆU CHỮA BỆNH NHIỀU NHẤT THẾ
GIỚI. ĐẤT NƯỚC TRUNG QUỐC RỘNG LỚN CŨNG LÀ NƠI CHỦ TRƯƠNG
PHÁT TRIỂN SONG HÀNH CẢ ĐÔNG VÀ TÂY Y 29
TẠI NƯỚC TA, TỪ SAU KHI ĐẤT NƯỚC GIẢI PHÓNG, HỒ CHỦ TỊCH VÀ
ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG NỀN Y TẾ ĐỘC LẬP
TRÊN CƠ SỞ KHOA HỌC, DÂN TỘC VÀ ĐẠI CHÚNG, VỚI PHƯƠNG CHÂM
KẾT HỢP ĐÔNG TÂY Y. HIỆN NAY, TẠI CÁC TRƯỜNG DẠY ĐÔNG Y, HỌC
VIÊN ĐƯỢC TRANG BỊ THÊM CÁC KIẾN THỨC KHOA HỌC CƠ BẢN, CƠ SỞ
CỦA TÂY Y, CÁC Y THUẬT VÀ THUỐC TÂY. CÒN TẠI CÁC TRƯỜNG ĐÀO
TẠO TÂY Y , ĐỀU CÓ KHOA ĐÔNG Y VÀ VÀ ĐÔNG DƯỢC. ĐÂY LÀ CHƯƠNG
TRÌNH HỌC CHÍNH KHÓA BẮT BUỘC ĐỂ TỐT NGHIỆP BÁC SĨ HAY DƯỢC
SĨ 30
30
KẾT LUẬN 30
TRIẾT HỌC LÀ SỰ PHẢN ÁNH LỊCH SỬ VÀ XÃ HỘI CỦA THỜI ĐẠI NÓ RA
ĐỜI. RẢI QUA HÀNG NGHÀN NĂM TỒN TẠI PHÁT TRIỂN, CON NGƯỜI ĐÃ
TỪNG BƯỚC KHÁM PHÁ THẾ GIỚI VỚI NHỮNG QUAN ĐIỂM SIÊU HÌNH VÀ
DUY VẬT BIỆN CHỨNG. SỰ THẬT VỀ THẾ GIỚI, VỀ CUỘC SỐNG CỦA VẠN
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 5
LOÀI TRÊN TRÁI ĐẤT NÀY LÀ MỘT ĐIỀU HUYỀN BÍ THÚC ĐẨY CON
NGƯỜI KHAO KHÁT ĐI TÌM. NHỮNG NHÀ TRIẾT HỌC LÀ NHỮNG NGƯỜI
TIÊN PHONG LÝ GIẢI THẾ GIỚI THEO CÁCH CỦA HỌ. CÁC HỆ THỐNG
TRIẾT LÝ DÙ ĐẦY CHẤT DUY TÂM SIÊU HÌNH HAY RẤT THỰC TẾ KHOA
HỌC ĐỀU LÀ NHỮNG GỢI Ý CHO NHỮNG NHÀ TRIẾT HỌC THẾ HỆ SAU. TA
HỌC Ở HỌ CÁCH TƯ DUY LOGIC, SỰ SÁNG TẠO VÀ SUY LUẬN TỪ NHIỀU
HƯỚNG CỦA MỘT VẤN ĐỀ. NHƯ THUYẾT ÂM DƯƠNG, NGŨ HÀNH, DÙ
CHƯA ĐƯỢC KIỂM CHỨNG KHOA HỌC THỰC NGHIỆM NHƯNG NHỮNG
ĐÓNG GÓP CỦA NÓ CHO CUỘC SỐNG NÀY THẬT ĐÁNG KỂ. KHÔNG CHỈ

LÀ NHỮNG ỨNG DỤNG RẤT THỰC TẾ TRONG Y HỌC, KIẾN TRÚC, NGHỆ
THUẬT, NÓ CÒN CHO TA MỘT BÀI HỌC VỀ CÁCH NHÌN NHẬN ĐA HƯỚNG
CỦA MỘT VẤN ĐỀ. MỌI HIỆN TƯỢNG ĐỀU CÓ TỐT, CÓ XẤU, CÓ TƯƠNG
SINH THÌ ẮT CÓ TƯƠNG KHẮC. HIỂU ĐƯỢC ĐIỀU ĐÓ, CON NGƯỜI SẼ BIẾT
SỐNG MỘT CÁCH ĐIỀU ĐỘ TRUNG HÒA, CÂN ĐỐI VÀ HOÀN HẢO. 30
NGÀY HÔM NAY, CON NGƯỜI VẪN BƯỚC TRÊN CON ĐƯỜNG ĐI TÌM CHÂN
LÝ. TÔI TIN RẰNG CÓ MỘT QUY LUẬT KHÁCH QUAN NÀO ĐÓ ĐÃ CHI
PHỐI CUỘC SỐNG CỦA VẠN LOÀI TRÊN TRÁI ĐẤT NÀY VÀ XA HƠN NỮA
LÀ TOÀN THỂ VŨ TRỤ. NHỮNG BIẾN ĐỘNG CỦA CUỘC SỐNG ĐÃ ĐẾN TỪ
ĐÂU, VÌ SAO NÓ TỒN TẠI NƠI NÀY MÀ KHÔNG LÀ MỘT NƠI NÀO KHÁC?
NGUYÊN NHÂN TẬN CÙNG CỦA MỌI SỰ VIỆC LÀ GÌ? TRONG VÔ VÀN HỆ
THỐNG TRIẾT HỌC, BIẾT ĐÂU CHÂN LÝ ĐÃ HÉ MỞ NHƯNG CHÚNG TA
CHƯA ĐỦ SÁNG SUỐT ĐỂ NHẬN RA, HOẶC NÓ VẪN LÀ MỘT ĐIỀU BÍ MẬT
CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN. DÙ THẾ NÀO, MỘT NGÀY NÀO ĐÓ, CON NGƯỜI
CŨNG SẼ THỰC SỰ TIẾN BỘ ĐỂ KHÁM PHÁ RA CHÂN LÝ ĐÚNG ĐẮN NHẤT.
31
PHỤ LỤC 1: BỆNH SỐT 32
PHỤ LỤC 2: CHỨNG ÂM HỎA THƯƠNG 32
PHỤ LỤC 3: CÁCH SỬ DỤNG THUỐC THEO HỌC THUYẾT 33
ÂM DƯƠNG 34
PHỤ LỤC 4: BỆNH VỀ PHẾ 36
PHỤ LỤC 5: BIỂU ĐỔ TỒNG KẾT ÂM DƯƠNG 36
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 6
PHỤ LỤC 6: BIỂU ĐỔ TỒNG KẾT NGŨ HÀNH TRONG Y HỌC 37
PHỤ LỤC 7: HÌNH VẼ & BIỂU TƯỢNG 38
PHỤ LỤC 8: TRÍCH DẪN 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn Đề tài:

Kể từ sau khi xuất hiện tác phẩm “Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn” và với ảnh
hưởng mạnh mẽ của tác phẩm này, thuyết Âm dương - Ngũ hành ngày càng được
các nhà tư tưởng phát triển và vận dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có
lĩnh vực Y học ở Trung Quốc và một số nước phương Đông khác. Y học cổ truyền
phương Đông đã dựa trên cơ sở lý luận thuyết Âm dương - Ngũ hành để phòng trị
bệnh và nâng cao sức khỏe cho nhân dân. Chính vì thế, việc tìm hiểu học thuyết Âm
dương - Ngũ hành là một việc cần thiết để lý giải những đặc trưng của triết học cũng
như nền Y học Phương Đông.
2. Mục tiêu của Đề tài:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là: trên cơ sở làm sáng tỏ thuyết Âm dương
Ngũ hành của triết học Phương Đông và ảnh hưởng của nó đối với nền y học, đề tài
còn đi sâu nghiên cứu các ứng dụng thực tế của nó trong việc điều trị và chẩn bệnh
hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Thuyết Âm dương – Ngũ hành và sự ảnh hưởng của nó đến nền y học
Phương Đông.
4. Phương Pháp Nghiên Cứu:
4.1. Cơ sở phương pháp luận:
Đề tài được triển khai dựa trên nội dung của thuyết Âm dương - Ngũ hành và
giá trị của nền y học Phương Đông.
4.2. Các phương pháp cụ thể:
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày đề tài, các phương pháp nghiên cứu
đã được sử dụng như: Phương pháp lịch sử, Phương pháp phân tích tổng hợp,…
5. Kết cấu của đề tài: Gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Ảnh hưởng của Âm dương Ngũ hành đối với Y học
Chương 3: Âm dương Ngũ hành và biện chứng trong Y học
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 8
1.1. Thế nào là "Âm dương":

Âm và Dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian
cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như
trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và Dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống
nhất, trong Dương có mầm mống của Âm và ngược lại. (Hình 1- Trang 34)
1.2. Thuyết Âm – Dương:
Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, bản thân vũ trụ,
cũng như vạn vật trong nó, được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của hai lực
lượng đối lập nhau là Âm và Dương. Và mọi tai họa trong vũ trụ sở dĩ xảy ra cũng là
do sự không điều hòa được hai lực lượng ấy.
Âm là phạm trù đối lập với Dương, phản ánh những yếu tố (sự vật, hiện
tượng, tính chất, quan hệ …) và khuynh hướng như: giống cái, đất, mẹ, vợ, nhu,
thuận, tối, ẩm, phía dưới, bên phải, số chẵn, tĩnh, tiêu cực,…
Dương là phạm trù đối lập với Âm, phản ánh những yếu tố (sự vật, hiện
tượng, tính chất, quan hệ, …) và khuynh hướng như: gống đực, trời, cha, chồng,
cương, cường, sáng, khô, phía trên, bên trái, số lẻ, động, tích cực,…
Âm và Dương không chỉ phản ánh hai loại lực lượng mà còn phản ánh hai
loại khuynh hướng đối lập, không tách rời nhau, ôm lấy nhau, xoắn vào nhau; vì
vậy, trong Âm có Dương, và trong Dương có Âm. Đó cũng chính là sự thống nhất
giữa cái động và cái tĩnh, trong động có tĩnh và trong tĩnh có động và chúng chỉ
khác ở chỗ, bản tính của Dương là hiếu động, còn bản tính của Âm là hiếu tĩnh. Do
thống nhất, giao cảm với nhau mà Âm và Dương có động, mà động thì sinh ra biến;
biến tới cùng thì hóa để được thông; có thông thì mới tồn vĩnh cửu được. Như vậy,
sự thống nhất và tác động của hai lực lượng, khuynh hướng đối lập Âm và Dương
tạo ra sự sinh thành biến hóa của vận vật; nhưng vạn vật khi biến tới cùng thì quay
trở lại cái ban đầu.
Âm và Dương tác động chuyển hóa lẫn nhau; Dương cực thì Âm sinh, Dương
tiến thì Âm lùi, Dương thịnh thì Âm suy…; và ngược lại.
1.3. Thế nào là Ngũ hành:
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 9
Theo thuyết duy vật cổ đại, tất cả mọi vật chất cụ thể được tạo nên trong thế

giới này đều do năm yếu tố ban đầu là “nước, lửa, đất, cây cỏ và kim loại” tức Ngũ
hành “thủy, hỏa, thổ, mộc, kim”. (Hình 2- Trang 34)
Ngũ hành sinh: thuộc lẽ thiên nhiên, nhờ nước cây xanh mọc lớn lên (thủy
sinh mộc), cây cỏ làm mồi nhen lửa đỏ (mộc sinh hỏa, tro tàn tích lại đất vàng thêm
(hỏa sinh thổ), lòng đất tạo nên kim loại trắng (thổ sinh kim), kim loại vào lò chảy
nước đen (kim sinh thủy).
Ngũ hành tương khắc: lẽ xưa nay rễ cỏ đâm xuyên lớp đất dày (mộc khắc
thổ), đất đắp đê cao ngăn nước lũ (thổ khắc thủy), nước dội nhiều nhanh dập lửa
ngay (thủy khắc hỏa), lửa lò nung chảy đồng sắt thép (hỏa khắc kim), thép cứng rèn
dao chặt cỏ cây (kim khắc mộc).
1.4. Thuyết Ngũ hành:
Học thuyết Ngũ hành chủ yếu nói về mối quan hệ phức tạp thể hiện ở quy
luật sinh - khắc - chế - hoá và bổ xung cho thuyết Âm Dương hoàn bị hơn.
Tinh thần cơ bản của thuyết Ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ
nhau gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh và khắc
lại kết hợp với hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ nhằm biểu thị mọi sự biến
hoá phức tạp của sự vật.
Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng, đem
Ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa
lẫn nhau.
Mộc sinh Hoả = Can sinh Tâm
Hoả sinh Thổ = Tâm sinh Tỳ
Thổ sinh Kim = Tỳ sinh Phế
Kim sinh Thuỷ = Phế sinh Thận
Thuỷ sinh Mộc = Thận sinh Can.
Trong luật tương sinh của Ngũ hành còn bao hàm ý nữa là hành nào cũng có
quan hệ vệ hai phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 10
Trong quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biều hiện cái ý thăng bằng,
giữ gìn lẫn nhau.

Luật tương khắc:
Mộc khắc Thổ = Can khắc Tỳ
Thổ khắc Thuỷ = Tỳ khắc Thận
Thuỷ khắc Hoả = Thận khắc Tâm
Hoả khắc Kim = Tâm khắc Phế
Kim khắc Mộc = Phế khắc Can
Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng nhau, trong tình trạng bình thường sự
tương khắc có tác dụng duy trì sự thăng bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì
làm cho sự biến hoá trở lại khác thường. Trong tương khắc, mỗi hành cũng lại có hai
quan hệ: giữa cái thắng nó và cái nó thắng. Hiện tượng tương khắc không tồn tại đơn
độc; trong tương khắc đã có ngụ ý tương sinh, do đó vạn vật tồn tại và phát triển.
Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Trong chế
hoá bao gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này gắn liền
với nhau nhằm biểu thị sự cân bằng trong vạn vật; nhưng nếu có hiện tượng sinh
khắc thái quá hoặc không đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác thường. Quy luật chế hoá
Ngũ hành là:
- Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc.
- Hỏa khắc kim, kim sinh thủy, thủy khắc hỏa.
- Thổ khắc thủy, thủy sinh mộc, mộc khắc thổ.
- Kim khắc mộc, mộc sinh hỏa, hỏa khắc kim.
- Thủy khắc hỏa, hỏa sinh thổ, thổ khắc thủy.
1.5. Mối quan hệ giữa Âm dương và Ngũ hành:
Thời Chiến quốc, Trâu Diễn đã kết hợp hai học thuyết này để giải thích các
sự vật, sự việc, qua đó giúp lĩnh vực khoa học tự nhiên được phát triển. Cuối thời
Chiến Quốc, đầu thời Tần Hán có hai xu hướng khác nhau bàn về sự kết hợp giữa
thuyết Âm dương và thuyết Ngũ hành.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 11
- Hướng thứ nhất: Đổng Trọng Thư kết hợp Âm dương Ngũ hành giữa
con người và tự nhiên có một mối quan hệ thần bí.
- Hướng thứ hai: Tác phẩm "Hoàng Đế Nội kinh" đã sử dụng triết học

Âm dương Ngũ hành làm hệ thống lý luận của y học
Từ đó, các nhà y học phương Đông đã vận dụng hai học thuyết này như một
lý luận cơ bản cho nền y học phương Đông. Các nhà y học phương Đông cho rằng:
“Cơ thể con người có rất nhiều bộ phận (tạng phủ kinh lạc ), mỗi bộ phận đều có
Dương và Âm lại được phân loại vào Ngũ hành, cho nên chỉ dùng riêng một học
thuyết để giải thích và phân tích vấn đề của con người có lúc sẽ không được toàn
diện. Chỉ khi nào kết hợp cả hai học thuyết thì mới có thể thu được kết quả đầy đủ.
Như Ngũ tạng, Lục phủ thì tạng là âm, phủ là dương, muốn giải thích sự phát triển
của tạng (phủ) thì dùng học thuyết Âm dương để thuyết minh. Nếu nói về quan hệ
sinh lý bệnh lý giữa tạng phủ thì dùng học thuyết Ngũ hành để thuyết minh vì giữa
ngũ tạng có quan hệ tương sinh tương khắc, hợp lại là quy luật chế hoá, tương thừa
tương vũ”.
(1)

Vì thế, Y học phương Đông cũng như các lĩnh vực khác đều phải theo Âm
dương để phân rõ Ngũ hành và theo Ngũ hành để phân biệt Âm dương. Họ đã vận
dụng kết hợp cả Âm dương Ngũ hành khi bàn đến thực tế lâm sàng mới có thể phân
tích sâu sắc kỹ càng hơn về những vấn đề trong Y học và các lĩnh vực khác. Có thể
thấy trên cơ bản Âm dương hợp với Ngũ hành thành một khâu hoàn chỉnh, giữa Âm
dương với Ngũ hành có mối quan hệ không thể tách rời.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 12
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ
HÀNH ĐỐI VỚI LĨNH VỰC Y HỌC CỦA PHƯƠNG ĐÔNG
2.1. Nguồn gốc Y học Phương Đông:
Đông y bắt nguồn từ lưu vực sông Hoàng Hà Trung Quốc đã dựng thành hệ
thống học thuật về nhận thức lý luận trong nền y học phương Đông: Âm dương, Ngũ
hành. Âm dương, Ngũ hành cân bằng thì cơ thể khỏe mạnh, việc chữa bệnh nhằm
lập lại trạng thái cân bằng của các yếu tố đó. Các nhà y học phương Đông dựa vào
hai học thuyết Âm dương và Ngũ hành đã dưa ra 3 học thuyết sau:
Học thuyết vận khí lại được gọi là ngũ vận (mộc vận, hỏa vận, thổ vận, kim

vận, và thủy vận) lục khí (phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa), là học thuyết nghiên cứu
và tìm hiểu ảnh hưởng của biến đổi về thiên văn, khí tượng, khí hậu của giới tự
nhiên đối với sức khoẻ và bệnh tật của cơ thể. Học thuyết này là lịch pháp thiên văn
tính ra biến đổi khí hậu trong năm và quy luật xảy ra bệnh tật.
Học thuyết tượng tạng, chủ yếu nghiên cứu về công năng sinh lý và biến đổi
bệnh lý của ngũ tạng (tâm, can, tì, phế, thận), lục phủ (ruột non, ruột già, dạ dày,
bàng quang, túi mật, tam tiêu) và (não, tủy, xương, mạch, mật, nữ tử bao).
Học thuyết kinh lạc có liên quan chặt chẽ với học thuyết tượng tạng. Kinh lạc
là đường qua lại vận hành khí huyết trong cơ thể, có tác dụng nối liền bên trong và
bên ngoài, che phủ toàn thân. Dưới tình hình bệnh lý, công năng hệ thống kinh lạc
xảy ra biển đổi, sẽ xuất hiện triệu chứng bệnh và đặc trưng cơ thể tương ứng, thông
qua những biểu hiện này, có thể chẩn đoán bệnh tật tạng phủ trong cơ thể.
2.2. Sự vận dụng thuyết Âm dương – Ngũ hành vào lĩnh vực y học của
người Phương Đông:
2.2.1. Âm dương Ngũ hành và Cơ thể:
2.2.1.1. Âm dương và cơ thể:
a. Trên là Âm, dưới là Dương:
Theo cách phân chia này thì đầu là “Âm” và chân là “Dương”.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 13
Theo các nhà nghiên cứu: Ở tư thế nằm, đầu thấp, chân cao sẽ dễ nhớ và tiếp
thu nhanh hơn, họ cho rằng vì máu dồn về não giúp não làm việc tốt hơn.
Người khỏe mạnh, trên mát (âm), dưới ấm (dương), tức Thủy giao xuống
dưới, Hỏa giao lên trên, gọi là Thủy hỏa ký tế.
Ngược lại, khi bị bệnh thì trên nóng (dương) dưới lạnh (âm), tức là Thủy hỏa
không tương giao với nhau gọi là Thủy hỏa vị tế.
b. Bên trái là Dương, Bên phải là Âm:
Một cách tự nhiên, hầu như bao giờ chân trái cũng khởi động trước. Theo các
nhà nghiên cứu, khi chuyển động trái đất tạo nên 1 dòng điện gọi là địa từ lực lôi
cuốn mọi vật - địa từ lực này mang đặc tính âm. Theo nguyên tắc vật lý, 2 vật cùng
cực đẩy nhau, khác cực hút nhau. Lực của trái đất là Âm, do đó sẽ hút lực Dương, vì

thế có thể coi như chân trái mang đặc tính Dương. Điều này rất có giá trị trong việc
điều trị bằng châm cứu khi phải chọn huyệt để châm.
c. Trong (Bụng, Ngực) là Âm, Ngoài (Lưng) là Dương:
“Thiên Ngũ Tạng Sinh Thành Luận” ghi: "Phù ngôn chi Âm dương, Nội vi
Âm, ngoại vi Dương, Phúc vi Âm, Bối vi Dương" (Nói về Âm dương, trong thuộc
Âm, ngoài thuộc Dương, bụng thuộc Âm, lưng thuộc Dương).
Ngay từ trong bào thai, sự sắp xếp theo thứ tự trên cũng khá rõ: Bào thai
nam, Dương khí tụ ở lưng nên thường quay lưng ra, do đó bụng người mẹ thường có
dạng tròn và cứng. Trái lại, bào thai nữ, Âm khí tụ ở ngực nên thường quay mặt ra
ngoài, do đó bụng người mẹ thường có dạng hình bầu dục (gáo nước) và mềm.
d. Âm dương và Tạng Phủ
(2)
:
“Thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" ghi: "Lục phủ giai vi dương, Ngũ
tạng giai vi âm" (Lục phủ thuộc dương, Ngũ tạng thuộc âm). Như thế Tâm, Can, Tỳ,
Phế, Thận thuộc Âm, còn Tiểu Trường, Đởm, Vị, Đại Trường, Bàng quang, Tam
Tiêu thuộc Dương. Tâm Bào, được coi như 1 tạng mới, nên thuộc âm.
Có thể tạm hiểu như sau: theo "Kinh Dịch", mỗi vật thể, hiện tượng đều do
2 yếu tố: THỂ (hình thể) và DỤNG (công dụng, chức năng) tạo nên. Xét một vật
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 14
nào đó, có thể có hình dạng (thể) là Âm nhưng lại có công dụng là Dương hoặc
ngược lại, “Thể” là Dương nhưng “Dụng” là Âm.
2.2.1.2. Ngũ hành và Tạng phủ:
Nếu đem đồ hình Thái cực, áp dụng vào khuôn mặt, nhìn từ sau ra trước, ta
thấy:
- Trán thuộc Tâm.
- Cằm thuộc Thận.
- Má bên trái thuộc Can.
- Má bên phải thuộc Phế.
- Mũi thuộc Tỳ (trung ương).

Việc phân chia này giúp ích rất nhiều trong
việc chẩn bệnh. Thí dụ: Nhìn thấy dấu hiệu báo bệnh ở vùng cằm có thể nghĩ đến
bệnh lý ở thận,
Nếu xếp đồ hình dọc theo cơ thể con người ta thấy:
- Từ ngực trở lên thuộc Tâm.
- Từ thắt lưng xuống thuộc Thận.
- Nửa bên trái thuộc Can.
- Nửa bên phải thuộc Phế.
- Bụng thuộc Tỳ.
Sự phân chia này giúp rất nhiều trong việc
chẩn bệnh, Thí dụ: Có nhiều người chỉ cảm thấy
lạnh nửa bên người,
Những người liệt nửa bên trái thường kèm theo đau nửa đầu, chảy nước mắt
sống (những biểu hiện của Can) Liệt nửa phải thường kèm theo nói khó khăn,
khó đi cầu (những biểu hiện của Phế, Đại trường)
2.2.2. Âm dương Ngũ hành và Sinh lý
(3)
:
2.2.2.1. Âm dương và Sinh lý:
Sự thay đổi của âm khí và dương khí trong cơ thể con người phụ thuộc vào
thiên nhiên. Sự biến đổi này sẽ gây ra những chuyển biến về mặt tâm, sinh lý của
con người; và tình trạng sức khỏe của con người sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất vào thời
điểm giao mùa, đặc biệt là những người mang sẵn bệnh tật trong cơ thể trở nên yếu
ớt hơn, bệnh dễ phát tác hơn.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 15
- Mùa xuân là mùa dương khí trong trời đất bắt đầu hội tụ và tăng lên.
- Mùa hè là mùa dương khí ở mức cực đại và âm khí yếu.
- Mùa thu là thời điểm âm khí trong trời đất và trong cơ thể con người bắt đầu
có sự thay đổi lên cao dần, trong khi đó mức dương khí thấp dần.
- Mùa đông là mùa âm khí ở mức cực đại và dương khí ở cực tiểu.

2.2.2.2. Ngũ hành và Sinh lý:
a. Quan niệm cổ truyền:
Ứng dụng Ngũ hành vào mặt sinh lý con người là đem ngũ tạng sánh với Ngũ
hành, dựa vào đặc tính sinh lý của ngũ tạng để tìm ra sự liên hệ với Ngũ hành.
Can và Hành mộc: tính của cây gỗ thì cứng cỏi giống như chức năng của
Can là 1 vị tướng, vì thế dùng hành Mộc ví với can.
Tâm và Hành hỏa: Lửa cháy thì bốc lên, giống như Tâm bốc lên mặt và
lưỡi, vì thế dùng hành Hỏa ví với Tâm.
Tỳ và Hành thổ: Đất là mẹ đẻ của muôn vật giống là con người sinh tồn
được là nhờ vào các chất dinh dưỡng do Tỳ vị cung cấp, vì thế dùng Hành thổ ví với
Tỳ.
Phế và Hành kim: Kim loại thường phát ra âm thanh giống như con người
phát ra tiếng nói nhờ Phế, vì thế dùng hành Kim ví với Phế.
Thận và Hành thủy: Nước có tác dụng đi xuống, thấm nhuần mọi chỗ;
giống như nước uống vào, một phần thấm vào cơ thể, phần còn lại theo đường tiểu
bài tiết ra ngoài, vì vậy đem hành Thủy ví với Thận.
b. Quan điểm hiện đại:
Dựa theo công năng cơ thể, tìm sự tương ứng với hành nào đó trong Ngũ
hành để giải thích sự biến chuyển của Ngũ hành.
Hành Mộc và sự vận động: Đó là sự vận động của các cơ bắp, các sợi cơ ở
khắp cơ thể.
Hành Hỏa và sự phát nhiệt: Đó là sự sản sinh nhiệt năng do sự chuyển hóa
của các tế bào.
Hành Thổ và sự bài tiết: Đó là sự vận động đưa chất ra ngoài cơ thể.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 16
Hành Kim và sự hấp thụ: Đó là sự vận động thu hút các chất vào cơ thể.
Hành Thủy và sự tàng trữ: Đó là sự vận động tàng trữ các chất trong cơ thể
để dùng khi cần thiết.
c. Giữa 2 quan niệm cổ điển và hiện đại có 1 số điều khác biệt:
Nếu đứng về quan niệm cổ điển, mỗi hành chỉ ảnh hưởng đến một ngũ tạng.

Thí dụ: Can Mộc, Tâm Hỏa, Tỳ Thổ, Phế Kim và Thận Thủy.
Theo quan niệm hiện đại, mỗi hành đều ảnh hưởng và chi phối đến ngũ tạng.
Ngoài ra, mỗi hành đều có 2 mặt mâu thuẫn và thống nhất là Âm dương, do
đó ta có: Âm Mộc, Dương Mộc, Âm Hỏa, Dương Hỏa, Âm Thổ, Dương Thổ, Âm
Kim, Dương Kim, Âm Thủy, Dương Thủy. Việc phân biệt này sẽ giúp ích rất nhiều
trong việc chọn huyệt để điều trị thích hợp.
2.2.3. Âm dương Ngũ hành và Bệnh lý:
2.2.3.1. Âm dương và Bệnh lý:
a. Quá trình phát sinh bệnh:
Mỗi hiện tượng đều có 2 mặt: 1 Dương (hưng phấn) và 1 Âm (ức chế). Nếu 1
trong 2 tác động trên mạnh hoặc suy kém khác thường làm cho mất trạng thái quân
bình Âm dương, sẽ dẫn tới tình trạng bệnh lý gọi là thiên suy hoặc thiên thắng (Xem
hình 4, phụ lục 7 – Trang 34)
• Thiên Thắng : Dương thắng quá, gây chứng nhiệt (sốt, tiểu đỏ ). Âm thắng
gây chứng hàn (lạnh, tiêu chảy ).
• Thiên Suy : Dương hư (lão suy, hưng phấn, thần kinh giảm ). Âm hư (mất
nước, ức chế thần kinh giảm ).
Tuy nhiên, nếu Âm suy quá thì Âm bị bệnh sinh ra chứng nội nhiệt, gọi là
Âm hư sinh nội nhiệt. Nếu Dương suy quá thì Dương bị bệnh và sinh ra chứng hàn ở
ngoài, gọi là Dương hư sinh ngoại hàn.
Khi 1 mặt Âm hay Dương ngày càng thịnh và không ngừng phát triển về 1
phía đối lập, bệnh sẽ diễn biến theo hướng: Nhiệt quá hóa Hàn (nhiệt cực sinh hàn)
như sốt cao kéo dài gây mất nước Hoặc Hàn quá hóa nhiệt (Hàn cực sinh nhiệt)
như tiêu chảy, nôn mửa kéo dài gây mất nước, điện giải làm nhiễm độc thần kinh
gây sốt.
b. Hư chứng, Thực chứng:
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 17
Bệnh tật (sự rối loạn Âm dương) phát sinh ra do nhiều nguyên nhân: Dương
thực, Âm thực (hưng phấn) hoặc Dương hư, Âm hư (ức chế).
Thí dụ: triệu chứng sốt, chứng âm hư Hỏa thượng (Xem phụ lục1–Trang 27)

c. Âm dương thực giả:
Trên lâm sàng, nhiều hội chứng dễ gây lẫn lộn Âm dương, nếu không chẩn
bệnh 1 cách kỹ lưỡng, đó là các hội chứng chân giả.
Dương cực tựa Âm : Do nhiệt độ tới chỗ cùng cực, phục vào trong cơ thể gây
ra người lạnh, hôn mê giống như âm chứng, chỉ khác ở chỗ là trong lạnh nhưng
không thích đắp ấm, thần khí tuy hôn mê nhưng sắc mặt vẫn tươi, mạch tuy Trầm
nhưng Hoạt và có lực  Khi trị liệu phải dùng thuốc Hàn.
Âm cực tựa Dương : Do hàn tà đến chỗ cùng cực, đẩy Dương hỏa ở trong ra
ngoài, gây ra mình nóng, buồn phiền, khát nước, giống như Dương chứng nhưng chỉ
khác ở chỗ mình nóng mà thích đắp chăn ấm, miệng khát mà uống nước lạnh vào lại
mửa ra ngay. Mạch thường Trầm Tế, không lực  Khi trị liệu, phải dùng thuốc
nhiệt (ôn nóng), nếu dùng lầm thuốc hàn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.
d. Âm Thăng Dương Giáng:
Huyết thuộc Âm, phải thăng (đi lên), nếu huyết hư không đi lên được, phần
trên không được huyết nuôi dưỡng, gây chóng mặt, hoa mắt nguyên nhân do âm
hư, cần bổ âm.
Khí thuộc Dương, phải giáng (đi xuống), khí không làm tròn chức năng, thay
vì đi xuống lại đi lên, gọi là khí nghịch gây ra chứng hen suyễn, khó thở, nguyên
nhân do khí nghịch, cần điều chỉnh ở khí.
2.2.3.2. Ngũ hành và Bệnh lý:
Ứng dụng Ngũ hành vào bệnh lý, chủ yếu vận dụng quy luật Sinh Khắc,
Tương Thừa, Tương Vũ, Phản sinh khắc, để giải thích các quan hệ bệnh lý khi 1 cơ
quan, tạng phủ nào đó có sự xáo trộn gây ra mất thăng bằng: thái quá (hưng phấn)
hoặc bất cập (ức chế). Ngoài ra, có thể dùng các biểu hiện của Ngũ hành để tìm ra sự
xáo trộn ở các Hành, Tạng phủ, cơ quan.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 18
Tuy nhiên, cần lưu ý là sự thay đổi của 1 hành, luôn luôn đưa tới sự thay đổi
của cả 5 hành, nhất là trong các hội chứng bệnh. Do đó, mối quan hệ giữa các hành
là mối quan hệ giữa 5 hành Mỗi hành khi có sự xáo trộn (Hưng phấn hoặc ức chế),
có thể do 5 nguyên nhân: Chính tàm Hư tà, Thực tà, Vi tà và Tặc tà.

2.2.4. Âm dương Ngũ hành và Chẩn bệnh:
Chẩn đoán bệnh chính xác là yếu tố then chốt điều trị bệnh, từ đó ta sẽ dễ
nhắm tới cách chữa một khi đã hiểu rõ các triệu chứng chính.
2.2.4.1. Âm dương và Chẩn bệnh:
Âm dương mất điều hoà đã là gốc của sự biến hoá bệnh lý. Việc chẩn đoán
bệnh tật cần phải dựa vào sự biến hoá của Âm dương. Dù dùng cách biện chứng nào
(theo tạng phủ, theo kinh lạc, theo khí huyết tân dịch, theo lục kinh, theo vệ khí dinh
huyết, theo tam tiêu) cũng đều quy về bát cương là biểu, lý, hàn, nhiệt, hư, thực và
Âm dương (tổng cương). Biểu chứng, nhiệt chứng, thực chứng đều thuộc về Dương.
Lý chứng, hàn chứng, hư chứng đều thuộc về Âm. Cho nên bệnh tình tuy thiên biến
vạn hoá song không ra ngoài phạm vi của Âm dương.
Thiên Âm dương ứng tượng đại luận sách Tố Vấn ở Thiên 5 nói: "Người giỏi
chẩn bệnh khi xem sắc án mạch trước tiên phải phân biệt cho được Âm dương".
Hiểu biết Âm dương là mấu chốt chủ yếu của việc chẩn đoán. Trên cơ sở chẩn đoán
phải điều trị theo nguyên tắc trị bệnh phải tìm cái gốc của nó. Ý là phải tìm ra sự
thiên thắng thịnh suy của Âm dương để tiến hành điều trị làm cho Âm dương trở lại
thăng bằng.
Thiên chí chân yếu đại luận sách Tố Vấn Thiên 74 nói: "Cẩn thận tìm xem
Âm dương mất cân bằng ở đâu để điều hoà cho thăng bằng ở đó là được", có thể
thấy điều hoà Âm dương là nguyên tắc chung của việc chữa bệnh, theo tinh thần
bệnh dương chữa âm, bệnh âm chữa dương. Đó là phép chữa thẳng vào mặt âm, mặt
dương để khôi phục lại thăng bằng Âm dương cho bệnh nhân.
2.2.4.2. Ngũ hành và Chẩn bệnh:
Căn cứ vào các triệu chứng xuất hiện qua Ngũ hành như: Ngũ sắc, Ngũ vị,
Ngũ quan, Ngũ chí để tìm ra tạng phủ tương ứng bệnh.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 19
Theo y học phương Đông, Ngũ hành gồm 5 yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa,
Thổ gắn liền với 5 cơ quan: trán, mũi, cằm, 2 má và gắn liền với sự vận động đang
xảy ra bên trong cơ thể như: tim, phổi, thậm chí cả trí não và trạng thái tinh thần
• Trán:

Trán là nhân tố Hỏa, liên quan mật thiết đến tim, ruột non và yếu tố tinh thần.
Khi khám vùng trán, nhìn thấy trán màu đỏ hoặc lờ mờ những mạch máu đỏ
xuất hiện bất thường, chứng tỏ tim của bạn có vấn đề.
Da trán đổi màu cũng cho thấy cảm xúc thay đổi gần đây, như bạn đang đau
buồn hoặc mất kiểm soát vì điều gì phiền lòng trong cuộc sống. Điều này rất dễ nhận
ra với những người hay có tâm trạng dễ xáo trộn, họ sẽ có những nếp nhăn trên trán,
giữa 2 lông mày.
• Mũi:
Mũi bạn là nhân tố Thổ, là cơ quan biểu hiện tình trạng sức khỏe của dạ dày,
lá lách và tuyến tụy.
Dấu hiệu bất thường qua các mụn 2 bên cánh mũi. Nó cho thấy bữa ăn của
bạn ngày hôm trước như: bạn ăn quá nhiều đồ cay, rán kỹ, đồ béo hoặc đồ có chứa
nhiều đạm?  Kết quả là bạn sẽ bị khó tiêu hóa, táo bón hoặc tiêu chảy.
Các mao mạch vỡ hoặc màu đỏ chạy dọc trên sống mũi có thể chỉ ra rằng bạn
lạm dụng rượu hoặc đơn giản bạn đang lo lắng quá mức và stress.
• Cằm:
Cằm – nhân tố Thủy, liên quan đến thận và bàng quang, bao gồm cả hệ thống
hormon và các tuyến trên cơ thể.
Da quanh cằm và miệng có những mảng tối màu chỉ ra vấn đề về thận và
bàng quang. Mụn trứng cá trên cằm cũng chứng tỏ hormone mất cân bằng. Vấn đề
này thường do cơ thể đang tạo ra quá nhiều hormone sinh dục.
Nhìn vào nhân trung, nếu đường ngang trên nhân trung đổi màu chỉ ra vấn đề
viêm dạ con hoặc u xơ tử cung.
• Má phải:
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 20
Má phải bạn là nhân tố Kim, kết nối với phổi và ruột già. Vấn đề với phổi và
các ruột già thường biểu hiện qua sự biến màu da trên má bằng mụn trứng cá nhẹ
xuất hiện, hay má hơi đỏ một cách bất thường. Cơ thể đang nhiễm lạnh, hô hấp có
vấn đề cũng biểu hiện ngay lập tức trên má. Người sắp hen cũng sẽ có những biểu
hiện trên má phải như: đỏ, vảy, hoặc hơi xanh xao, thô ráp…Sắc hơi xanh trên má

phải có thể báo nguy về viêm phổi hoặc thiếu oxy khi co thắt cuống phổi.
• Má trái:
Má trái là nhân tố Mộc, gắn liền với gan, túi mật.
Vỡ mao mạch hay đỏ má, đặc biệt là gần ngay cạnh cánh mũi, chỉ ra bạn gan
nóng, viêm gian hoặc có độc tố trong gan. Mạch phồng, má thô ráp và đỏ đôi khi là
dấu hiệu của huyết áp cao và tức giận dồn nén trong lòng. Sắc hơi vàng nhạt trên má
trái, phía dưới mắt chỉ ra bệnh sỏi mật hay lượng cholesterol hoặc chất béo tự nhiên
quá cao mà gây ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của hệ thống gan mật.
2.2.5. Âm dương Ngũ hành và Dược liệu:
2.2.5.1. Âm dương và Dược liệu:
a. Ngũ vị, tứ tính và thuộc tính Âm dương hàn nhiệt của thuốc đông dược:
Ngũ vị là 5 vị tân (cay), toan (chua), khổ (Đắng), cam (ngọt), hàm (Mặn)
trong đó: cay, ngọt thuộc Dương; đắng, mặn thuộc vị có thuộc tính Âm; vị chua vừa
có Dương vừa Âm.
Tứ tính là nói về sự thăng giáng trầm phù, những vị thuốc tỷ trọng nhẹ như
hoa lá cành khi tác dụng trong cơ thể có xu hướng thăng lên trên và phù việt ra
ngoài thuộc dương. Những vị thuốc tỷ trọng nặng như thân rế hạt, khoáng vật tác
dụng trong cơ thể có xu hướng trầm giáng xuống và thẩm lợi vào trong thuộc âm.
Thuộc tính Âm dương trong thuốc, những thuốc nâng cao cơ năng hoạt
động của con người như thuốc bổ khí, thuốc bổ dương, thuốc tăng dị hóa, tăng hoạt
động cơ thể, tăng hưng phấn thần kinh là thuốc có thuộc tính dương, gọi là dương
dược. Những thuốc bồi bổ dinh dưỡng cho tạng phủ, bổ huyết, bổ âm, tăng quá trình
đồng hóa, giảm hưng phấn tăng ức chế thần kinh, có tác dụng giảm hoạt động, an
thần có thuộc tính âm, gọi là âm dược.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 21
Thuộc tính hàn nhiệt trong thuốc, những thuốc ấm, thuốc nóng, rất nóng là
thuốc có tính nhiệt chỉ dùng cho bệnh do hàn gây ra. Thuốc mát, thuốc lạnh, rất lạnh
chỉ dùng cho bệnh nhiệt, ôn, hỏa viêm là thuốc có tính hàn. Tính hàn thuộc âm dược,
tính nhiệt là dương dược.
Vị đạm, tính bình là chỉ những vị thuốc không có vị cay, chua, đắng, ngọt,

mặn và cũng không nóng, không lạnh.
b. Cách sử dụng thuốc theo học thuyết Âm dương:
Bệnh có bản chất là nhiệt phải dùng thuốc đối lập đó là thuốc có tính hàn và
ngược lại. Tùy theo mức độ nhiệt, hàn mà dùng thuốc hàn, nhiệt mạnh hay yếu, liều
ít hay nhiều. Thí dụ cách sử dụng thuốc (xem phục lục 3 – Trang 29)
2.2.5.2. Ngũ hành và Dược liệu:
Y học cổ truyền dùng Ngũ hành áp dụng vào việc sử dụng thuốc đối với bệnh
tật của tạng phủ trên cơ sở liên quan giữa Vị, Sắc đối với tạng phủ, đây là nền tảng
của việc “Quy Kinh”
(4)
.
Việc áp dụng màu sắc của Ngũ hành vào dược liệu cũng đang được các nước
phương Tây quan tâm đến và áp dụng việc dán nhãn vào các loại thực phẩm căn cứ
theo các giá trị dinh dưỡng:
- Nhãn xanh đậm trên các sản phẩm sữa, chỉ rõ rằng các loại thực phẩm đó tốt
cho xương và răng.
- Màu vàng dán vào bánh mì và các loại ngũ cốc chỉ rõ rằng những loại này là
thức ăn cung cấp năng lượng.
- Màu xanh lục dán vào rau quả là bổ mắt.
- Màu đỏ dán vào cá và thịt chỉ rõ những loại này bổ máu và cơ.
2.2.6. Âm dương Ngũ hành và Châm Cứu:
2.2.6.1. Âm dương và Châm Cứu:
a. Âm dương và Kinh Lạc:
• Theo Nguyên Tắc Thăng Giáng:
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 22
Các kinh âm ở tay, đi lên, tức đi từ vùng nách, ngực lên ngón tay (theo chiều
ly tâm). Các kinh Dương ở tay, đi xuống, tức từ các ngón tay đi vào ngực, nách
(theo chiều hướng tâm).
Các kinh âm ở chân, đi lên, tức từ các ngón chân đi lên đầu mặt (theo chiều
hướng tâm). Các kinh dương ở chân đi xuống, tức từ đầu mặt đi xuống chân (theo

chiều ly tâm).
Cần ghi nhớ hướng đi của các đường kinh vì rất cần thiết trong việc áp dụng
nguyên tắc Bổ tả trong châm cứu.
• Theo Nguyên Tắc Trong Ngoài:
Âm trong, Dương ngoài thì: Các kinh ở phía trong chân, tay thuộc âm (Phế,
Tâm, Tâm bào, Thận, Can, Tỳ). Các kinh ở phía ngoài chân tay thuộc dương (Đại
trường, Tiểu trường, Tam tiêu, Bàng quang, Đởm, Vị).
Ngoài ra, bụng thuộc Âm nên Nhâm mạch thuộc âm, lưng thuộc dương nên
Đốc mạch thuộc Dương.
b. Âm dương Và Huyệt:
Để phân biệt huyệt vị theo Âm dương, có thể theo 1 số nguyên tắc sau: Bên
trái là Dương, bên phải là Âm, do đó các huyệt bên trái mang đặc tính dương (hưng
phấn) gọi là Dương huyệt. Các huyệt bên phải mang đặc tính âm (ức chế) gọi là âm
huyệt. Việc phân biệt âm huyệt, dương huyệt có giá trị rất lớn trong việc chọn huyệt
điều trị cho thích hợp. Thí dụ bệnh Phế (xem phụ lục 4 – Trang 31)
2.2.6.2. Ngũ hành và Châm cứu:
Các kinh thư cổ đã áp dụng Ngũ hành vào 1 số huyệt vị nhất định là Tỉnh,
Vinh (Huỳnh), Du, Kinh, Hợp, gọi là Ngũ du huyệt.
Sự sắp xếp thứ tự của Ngũ du không thay đổi nhưng thứ tự của Ngũ hành lại
thay đổi tùy thuộc vào Âm dương của đường kinh. Kinh âm khởi đầu bằng Mộc,
kinh dương bắt đầu bằng Kim, sau đó cứ theo thứ tự Tương sinh mà sắp xếp huyệt.
Ngũ Du Tỉnh Vinh (Huỳnh) Du Kinh Hợp
Kinh Âm Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy
Kinh Dương Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 23
Nhận xét về cách phân chia của cổ điển ta thấy:
Nếu chỉ phân chia như trên, sẽ không đủ để giải quyết vấn đề mâu thuẫn
thống nhất là Âm dương ngay trong mỗi hành. Ngay trong mỗi hành đều có Âm
dương, do đó, mỗi huyệt của Ngũ du cũng đều có Âm dương. Vì vậy, cùng 1 huyệt,
cùng 1 tên, 1 chức năng nhưng lại có 2 công dụng khác nhau : Dương Hỏa (hưng

phấn Hỏa) và Âm hỏa (ức chế Hỏa)
2.2.7. Âm dương Ngũ hành và Điều trị:
2.2.7.1. Âm dương và Điều trị:
Điều trị bệnh là lập lại sự quân bình Âm dương bằng nhiều phương pháp
khác nhau. Các nhà y sĩ thường dùng châm cứu và cho thuốc uống để chữa bệnh.
• Nguyên tắc chung:
Bệnh do dương thịnh, phải làm suy giảm phần dương (Tả dương). Bệnh do
âm thịnh, phải làm suy giảm phần âm (Tả âm).
• Về thuốc:
- Bệnh về Âm dùng thuốc Dương (ôn, nhiệt) để chữa.
- Bệnh về Dương, dùng thuốc Âm (Hàn, lương) để chữa.
• Về châm cứu:
- Bệnh nhiệt dùng châm, Bệnh hàn dùng cứu.
- Bệnh thuộc Tạng (âm) dùng các Du huyệt ở lưng (dương) để chữa.
- Bệnh thuộc Phủ (dương), dùng các huyệt Mộ ở ngực, bụng (âm) để chữa.
2.2.7.2. Ngũ hành và Điều trị:
Trong việc điều trị, cần nắm vững quy luật Sinh Khắc của Ngũ hành thì việc
trị liệu mới đạt được hiệu quả cao.
a. Tương sinh:
Cần nhớ nguyên tắc: "Hư bổ mẫu, Thực tả tử".
• Hư bổ mẫu: phải nhớ chính xác “cái sinh ra nó” để bổ cho mẹ nó thì mẹ nó
giúp cho nó, và như thế nó sẽ lành bệnh.
• Thực Tả Tử là điều trị ở tạng phủ hoặc kinh được “nó sinh ra”.
Thí dụ: Mộc sinh hỏa thì thay vì tả Mộc lại tả Hỏa. Do đó, trong châm cứu,
thay vì Tả Huyệt Đại Đôn (Mộc huyệt của can) lại Tả huyệt Hành gian (Hỏa
huyệt của Can).
b. Tương khắc:
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 24
Dùng quy luật tương khắc để điều chỉnh rối loạn giữa các hành. Thí dụ:
Người bệnh xuất huyết.

Huyết màu đỏ thuộc Hỏa, có thể dùng những vị thuốc màu đen (hoặc sao
cháy thành than) như Cỏ mực, Trắc bá để chữa, vì màu đen thuộc Thủy, Thủy
khắc Hỏa.
c. Bảng tóm tắt điều trị bằng ngũ hành:
Tạng Phủ Bổ, Hư Bổ Mẫu Lý Do
Tả,
Thực Tả Tử
Lý Do
Can Mộc Thận Thủy Thủy sinh Mộc Tâm Hỏa Mộc sinh Hỏa
Tâm Hỏa Can Mộc Mộc sinh Hỏa Tỳ Thổ Hỏa sinh Thổ
Tỳ Thổ Tâm Hỏa Hỏa sinh Thổ Phế Kim Thổ sinh Kim
Phế Kim Tỳ Thổ Thổ sinh Kim Thận Thủy Kim sinh Thủy
Thận Thủy Phế Kim Kim sinh Thủy Can Mộc Thủy sinh Mộc
2.2.8. Âm dương Ngũ hành và Phòng Bệnh:
2.2.8.1. Âm dương và Phòng Bệnh:
Dương sinh dương, cơn nóng giận, tức tối sẽ sinh nóng giận tức tối khác
cần làm âm hóa chúng bằng những tư tưởng và hành động âm như nghĩ đến những
sự yên tĩnh, hoà bình dùng những lời nói êm dịu, nhẹ nhàng đến những nơi thanh
tĩnh, yên lặng
Âm sinh âm, sự chán nản, buồn phiền sẽ dẫn đến chán nản buồn phiền
khác Cần làm dương hóa chúng bằng những tư tưởng và hành động dương: hoạt
động tích cực, hăng say dùng những lời nói quyết đoán phấn khởi đến những nơi
sinh hoạt
2.2.8.2. Ngũ hành và Phòng Bệnh:
Dựa vào Ngũ hành vận khí để biết được đặc điểm của bệnh tật từng năm để
dự phòng.
Dựa vào màu sắc, khí, vị của thức ăn, mà biết bệnh gì nên ăn hoặc kiêng
những gì.
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1 Page 25

×