Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.35 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 13:
QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ
TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
SVTH : Lê Hữu Phước
STT : 80
Nhóm : 5
Lớp : Cao học đêm 1 - Khóa 20
GVHD : TS. Bùi Văn Mưa

Tp. Hồ Chí Minh 2011
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 4
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 10
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN 18
KẾT LUẬN……………………………………………………………… ……………………24
2
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề khá quan trọng trong sự phát triển của xã hội là
“vấn đề về trị quốc”. Một quốc gia phồn thịnh hay suy vong đều phụ thuộc vào
đường lối, chiến lược trị quốc. Quan điểm của các nhà triết học qua các thời kỳ
khác nhau (cổ đại, trung đại và hiện đại) cũng khác nhau. Các quan điểm được
phát triển trên từ đơn giản đến phức tạp, từ bức tranh duy vật đến duy tâm. Mỗi
tư tưởng triết học đều có nhiều quan điểm về các khía cạnh vũ trụ quan, nhận
thức luận, đạo đức, chính trị, xã hội.
Trong phạm vi đề tài này, bài viết này chỉ đi sâu vào quan điểm trị quốc của


các nhà triết học thời kỳ cổ đại. Tuy chỉ là một mảng nhỏ trong nội dung của các
tư tưởng triết học, nhưng đây là một đề tài mang tính chất bám sát vào nội dung
chương trình học, mở rộng kiến thức về cách nhìn nhận của những nhà triết học
cổ đại của cả phương Tây lẫn phương Đông và là một vấn đề mang tính chất thực
tiễn.
Để làm rõ nội dung trị quốc, cần phải tìm hiểu sơ lược về điều kiện tự nhiên,
hoàn cảnh đời sống xã hội và văn hóa. Nội dung đề tài được chia ra thành hai
mảng chính. Ở triết học phương Đông, nội dung trị quốc được phân tích thông
qua các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại như Nho gia, Mặc gia, Đạo gia,
Pháp gia. Còn đối với triết học phương Tây, khía cạnh này lại được mổ xẻ thông
qua tư tưởng Đêmôcrit và Platon của triết học Hy Lạp.
3
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Trung Quốc là một nước có nhiều dân tộc với chế độ phong kiến kéo dài,
chiến tranh diễn ra liên miên. Do sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học trong
các thời kỳ cổ đại, đặc biệt là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc đã tạo tiền đề cho sự
ra đời các hệ thống triết học với những nhà triết gia vĩ đại mà tên tuổi của họ gắn
liền với lịch sử của nhân loại.
Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức. Thường những nhà
triết học là những nhà chính trị, những ông quan tham mưu cho các vương triều
đình.
Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu – Chiến
quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất với nhiều học thuyết được lưu truyền đến
đời sau.
2. Triết học Nho Gia
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công.


Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn
lạc, Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền
bá các tư tưởng đó. Do đó, sau này ông được xem là người sáng lập ra Nho giáo.
Nho gia là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội
có hiệu quả, cần phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng
này gọi là quân tử. Theo Khổng Tử, để trở thành người quân tử, con người ta
trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử
phải có bổn phận phải "hành đạo". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia
đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống
nhất thiên hạ).
Về tu thân, Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ
đức để làm chuẩn mực cho mọi vấn đề sinh hoạt trong xã hội. Tam cương và
4
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
ngũ thường là chuẩn mực đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là
chuẩn mực đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng xã hội mà có mọi
người tuân theo tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được trật tự,
thái bình.
Về hành đạo, Khổng Tử đưa ra học thuyết về Nhân-Lễ-Chính danh. Nhân là
tình người, người có nhân là người biết yêu thương người khác, phải cai trị bằng
tình người. Khổng Tử từng nói "Mình muốn lập thân thì phải giúp người khác lập
thân, mình muốn thành đạt thì phải giúp người khác thành đạt”. Chính danh ở
đây có nghĩa là mang danh nào thì phải thực hiện cho được những điều mà danh
đó quy định. Tất cả phải có tôn ti, thực hiện đúng bổn phận của mình. Nếu tất cả
mọi người đều chính danh, xã hội tất yếu sẽ thái bình, trật tự, không loạn lạc.
Chính bởi thế mà câu nói "Nếu danh không chính thì lời nói không thuận. Lời nói
không thuận tất việc chẳng thành" của Khổng Tử đến giờ vẫn thường được mọi
người nhắc lại. Nói một cách ngắn gọn hơn, quan điểm này đã được những người
sáng lập tóm gọn trong 9 chữ: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
3. Triết học Đạo gia

Đạo gia là một trong sáu học phái lớn trong nền triết học Trung Quốc cổ đại,
ra đời sau thời kỳ hưng thịnh của Nho giáo. Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra và
sau đó được Trang Tử phát triển thêm vào thời Chiến quốc (403-221 TCN) trong
bối cảnh tầng lớp quý tộc sa sút trong cuộc chiến triền miên.
Kinh điển của Đạo gia chủ yếu được tập trung lại trong bộ Đạo đức kinh và bộ
Nam hoa kinh. Những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo gia được
thể hiện chủ yếu trong lý luận về đạo và đức. Lý luận này thể hiện quan niệm
biện chứng về thế giới và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi nhằm giải
quyết những vấn đề do thời đại đặt ra.
Về quan điểm trị quốc, Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can
thiệp đến việc đời; nhưng nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm
một cách kín đáo, khéo léo. Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với ông,
5
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm
việc thì dân đầy tai hoạ. Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải là
bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi và chủ trương xoá bỏ hết mọi ràng buộc về mặt
đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự
nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời đại nguyên thuỷ chất
phác, mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hoà tan con người vào đạo (tự nhiên).
4. Triết học Mặc gia
Mặc gia là một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại do Mặc tử sáng lập,
phát triển qua 2 giai đoạn: Mặc tử và giai đoạn hậu Mặc, phản ánh nguyện vọng
của tầng lớp dân cư tự do, sản xuất nhỏ và tiểu chủ. Nó phát triển cùng thời với
Nho giáo, Đạo giáo, Pháp gia và là một trong bốn trường phái triết học chính
trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc.
Mặc Tử cho rằng việc quốc trị phải chú trọng vào phương tiện để đạt cho
được cứu cánh chứ không chỉ bám vào cứu cánh mà quên đi phương tiện như
Khổng hay Mạnh. Mặc Tử nhấn mạnh đến pháp thuật chính trị cần thiết để an
bang tế thế.

Bất cứ chính sách hay phương pháp nào cũng phải giúp cho nhân loại thăng
tiến. Người quản thống quốc sự nên dựa trên căn bản hữu dụng (thực lợi) để đánh
giá tất cả các chính sách; nếu việc có lợi cho nhân dân thì nên làm, nhưng nếu
không có lợi cho nhân dân thì không làm. Lãnh tụ quốc gia khi đánh giá cái
'dụng' của sự việc cũng không nên quên đi 'nghĩa'. Theo Mặc Tử thì 'muôn việc
không việc gì quý bằng nghĩa' (vạn sự mạc quý ư nghĩa) và 'nghĩa là lợi' (nghĩa,
lợi dã)
Khuôn phép cho việc quốc trị trong nhãn quan của Mặc Tử là hành sử theo
minh ý của trời, phải biết thương dân chứ không phải tin vào bói toán một cách
mù quáng. Lãnh tụ quốc gia không thể ích kỷ để chỉ lo tư lợi mà phải tận tình
chăm lo cho đời sống của dân, giúp dân đạt được sung túc và hạnh phúc, tuyệt
đối không ra vẻ hách dịch để ức hiếp dân. Sách lược quốc trị tốt nhất cho dân tộc
6
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
là sách lược bác ái bao gồm các chính sách khuyến khích tinh thần bác ái trong
quốc gia và cả chính sách ngăn chận sự căm thù trong xã hội.
Trong lãnh vực quốc trị, Mặc Tử chủ trương lãnh đạo quốc gia phải biết
trọng dụng nhân tài bất kể là họ có liên hệ gia tộc hay đảng phái hay không, đưa
ra quan niệm bình đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân chia giai cấp đương
thời và đả kích tệ nạn bám víu vào quyền lực chính trị của thành phần quý tộc
qua cách bổ nhiệm thân nhân - thay vì người tài đức - vào các trách vụ quan
trọng.
Về lãnh vực tài chánh, Mặc Tử chủ trương chính sách tiết kiệm, đòi hỏi lãnh
đạo quốc gia phải biết giới hạn những chi tiêu xa hoa có tính cách khoe khoang
nhưng không đem lại ích lợi gì cho nhân dân hay quốc.
5. Triết học Pháp gia
Phương Đông được coi là nơi khởi nguồn của nền văn minh nhân loại, với
nhiều thành tựu vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc đứng trong hàng ngũ bốn nước
cổ đại có nền văn minh rực rỡ và lâu đời, là cái nôi sớm nhất của văn minh nhân
loại. Về tư tưởng, lịch sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được nói đến nhiều

nhất: Xuân Thu (770 – 403 TCN) là thời kỳ sinh sống của Lão Tử và Khổng Tử
và Chiến Quốc (403 – 221 TCN) là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi Tử, đã hội tụ
những nhân tố cho sự phát triển đến đỉnh cao. Học thuyết pháp trị của phái pháp
gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi các tác giả xuất sắc như: Quản
Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi
Tử Tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt
trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu -
Chiến Quốc
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố
Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách
rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong
chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo
7
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung
chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
"Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho rằng
muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì
nhà vua phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương:
1- Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua;
2- Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách
mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất
trung. 3- Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương
tiện hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng
thưởng phạt chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
"Pháp" được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là
chế độ chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật
lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư
tưởng Pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh
công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành,

thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo
Pháp". Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên cơ sở chủ trương của Pháp gia,
là vua tượng trưng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy quyền: lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải dựa trên những nguyên tắc chính
như: 1- Pháp luật phải hợp thời; 2- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ
thi hành; 3- Pháp luật phải công bằng; 4- Pháp luật có tính cách phổ biến. Với
Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải
trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều
lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong
việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp
luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn Phi,
“Thuật” có hai khía cạnh: Kỹ thuật, là phương án để tuyển, dùng, xét khả năng
8
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
quan lại; Tâm thuật tức mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ
ra.Nói ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại
những kẻ bề tôi mình không cảm hóa được…

Cũng như Tâm thuật, Kỹ thuật được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ
gian và dùng người.
Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi
hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về
"Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau
trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử
đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật
làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông
dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được.
Pháp gia của Hàn Phi Tử được coi là trường phái triết học đầu tiên chủ
trương dùng phép trị để trị nước. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần

Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống
nhất được đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
9
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử-chế độ chiếm hữu nô lệ.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng
phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá.
Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay
bổng, để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, xứng đáng là chiếc nôi của nền văn
minh Châu Âu và của cả nhân loại.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết
quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng
tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa
học tự nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con
người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi
thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời
sống thường ngày. Thần thoại là nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời và từng
bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã
hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người…
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất
yếu-đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)

10
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
Triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý
nhất của nhận thức nhân loại từ phương thức sản xuất thứ nhất đến phương thức
sản xuất thứ hai ở phương Tây. Vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ
bản của thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con
người, mặc dầu chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô
cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ…
Đặc điểm thứ hai, triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người,
khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù
vậy, con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở
khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phátvà
biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy
nhất thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư
tưởng biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của
phép biện chứng.
2. Quan điểm Đêmocrit
Đêmôcrit - nhà bác học toàn năng và nhà triết học duy vật lớn nhất của Hy
Lạp cổ đại, sinh trưởng ở Apđerơ, một thành phố thực dân địa của Hi Lạp ở xứ
Tơraxia, ven bờ phía Bắc của biển Êgiê.
Đêmôcrit là đại biểu xuất sắc nhất của nền triết học Hy Lạp cổ đại. Ông là
học trò của Lơxíp và là người kế tục tư tưởng của Lơxip về nguyên tử và phát
triển nó thành một học thuyết gắn liền với tư tưởng của ông.
Nổi bật nhất trong triết học của Đêmôcrít là học thuyết về nguyên tử. Khái
niệm nguyên tử được xây dựng trên cơ sở các khái niệm về “tồn tại” và “không
tồn tại”. Trái với quan niệm của Platon thì tồn tại theo Đêmôcrít là cái xác định
được, cái đa dạng, cái có ngoại hình…

11
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Đối lập với cái tồn tại là cái không tồn tại hay cái trống rỗng. Cái trống rỗng
là cái không xác định, cái vô hình, bất động và vô hạn. Nó không ảnh hưởng gì
các vật thể nằm trong nó, nhờ đó mà vật thể vận động được trong cái trống rỗng,
cái phần vật chất thuộc cái tồn tại mà không chứa đựng trong nó một sự trống
rỗng nào được gọi là nguyên tử.
Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia được, nhỏ bé có thể cảm nhận
được bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu, bất biến. Nguyên tử có tính đa
dạng, tự thân không vận động và khi kết hợp với nhau thì tạo thành vật thể.
Đêmôcrít cho rằng mọi sự vật trong thế giới đều được tái tạo từ các nguyên tử và
khoảng không. Sự xuất hiện, tồn tại và mất đi của các dạng vật thể là kết quả kết
hợp của các nguyên tử hay phân tâm của các nguyên tử. Vũ trụ nói chung theo
Đêmôcrít là một khoảng không vô tận trong đó chứa đựng vô số thế giới khác
nhau được cấu tạo từ vô vàn các loại nguyên tử.
Trong lý luận nhận thức, Đêmôcrít đưa ra khái niệm linh hồn coi đó là hoạt
động tâm lý là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt giữa thế giới vô sinh và hữu sinh.
Theo ông, linh hồn cũng là một dạng vật chất, được cấu tạo từ các nguyên tử đặc
biệt có cấu hình, linh động như ngọn lửa, có vận tốc lớn luôn chứa đựng và sinh
ra nhiệt làm cơ thể hưng phấn và vận động.
Quan điểm về linh hồn của Đêmôcrít là cái không bất tử, nó thể hiện cùng
với sự tồn tại của thể xác con người. Chức năng của linh hồn là khởi đầu sự vận
động và tồn tại của cơ thể con người. Các hình thức phản ánh trong hoạt động
nhận thức của con người theo Đêmôcrít được thể hiện do các cơ quan cảm giác
và nhận thức lý tính. Sự khác nhau giữa nhận thức cảm giác và lý tính là ở tính
chất, trình độ giữa chúng, tuy nhiên Đêmôcrít chưa phân biệt được sự khác nhau
cơ bản giữa hai dạng nhận thức, mà chỉ thấy sự khác nhau đơn thuần về lượng,
cũng chưa thấy được sự chuyển hóa giữa chúng, mà thực chất coi tư duy chỉ là sự
hỗn hợp cái nguyên tử trong cơ thể con người.
12

Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít thể hiện lập trường của tầng lớp
dân chủ chủ nô, ông đấu tranh bảo vệ nền dân chủ Aten. Ông coi chế độ nô lệ là
hợp đạo lý, nền tảng của nó là nhà nước của giai cấp chủ nô. Ông có những quan
điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Phẩm chất con người theo ông không phải ở lời nói
mà ở việc làm. Mục tiêu của con người, theo ông là hướng tới tự do và hạnh
phúc, nhưng hạnh phúc không phải là sự giàu có, mà là sự thanh thản tâm hồn
được tự do. Về vấn đề tôn giáo, Đêmôcrít và các nhà nguyên tử luận nghiêng về
lập trường vô thần.
Cần phải biết rằng, trước Démocrite và cùng thời với ông đã có rất nhiều
người ''mỏi gối chồn chân'' trên con đường đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi: Thế
giới được cấu tạo như thế nào? Các triết gia thời Trung Quốc cổ đại đề xướng
thuyết Âm Dương ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ). Trong khi đó, ở Ấn
Độ thời cổ đại lại xuất hiện thuyết Lôcaita cho rằng: vạn vật đều do bốn nguyên
tố ban đầu là: đất, nước, lửa và không khí tạo nên. Còn ở Hy Lạp thời cổ đại lại
có nhiều thuyết khác nhau. Héraclit (thế kỉ 6 tCn.) xem lửa là bản chất của thế
giới trong khi Ananimène - người cùng thời với ông lại cho rằng không khí mới
thực là bản chất của thế giới. Thalès (640 – 546 tCn.) - người được mệnh danh là
một trong bảy ''người hiền'' thời Hy Lạp cổ đại chủ trương bản chất của thế giới
là nước. Giữa rất nhiều học thuyết khác nhau với những lập luận khác nhau ấy,
Démocrite đã tạo nên một học thuyết tuy còn mang nhiều tính trực cảm nhưng đã
chinh phục được giới khoa học mọi thời đại. Có thể xem như ông đã đặt viên
gạch nền móng cho công cuộc xây dựng một nền khoa học thực thụ - một nền
khoa học vô thần, thoát khỏi mọi rào cản tôn giáo và sự níu kéo của chủ nghĩa
duy tâm. Thuyết nguyên tử của Démocrite với xu hướng cổ vũ cho tư tưởng vô
thần chắc hẳn đã bị phản đối dữ dội bởi số đông tăng lữ và những người theo tư
tưởng duy tâm thời bấy giờ. Nhưng chân lý vẫn là chân lý, Chúng ta phải cảm ơn
vì Démocrite đã nuôi lớn trí tuệ loài người thêm một bậc bằng học thuyết đúng
đắn của ông. Bởi lẽ, loài người sinh ra và tự nuôi lớn trí tuệ mình bằng vô vàn
13

Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
câu hỏi khác nhau về thế giới xung quanh, và Démocrite đã trả lời một trong số
những câu hỏi đó bằng một chân lý.
3. Quan điểm Platon
Platon (427-347) tên thật là Aristoclès. Sinh trong một gia đình dòng dõi quý
tộc tại Athènes. Ông đã từng theo học với Socrate và trở thành một người đệ tử,
một người bạn trung thành đắc lực cho Socrate. Việc Socrate mất đã tác động
mạnh mẽ tới tâm thức Platon và từ đó ông thù ghét tư tưởng dân chủ, thù ghét
quần chúng và cả giai cấp quý tộc của ông. Ông viết rất nhiều tác phẩm có giá trị
cho nhân loại cả về triết học lẫn chính trị. Trong những tác phẩm của ông, nổi
tiếng và đặc biệt nhất là tác phẩm Cộng Hoà (Republic). Có thể nói đó là một
cuốn bách khoa toàn thư vô cùng giá trị trong lịch sử nhân loại.
Quan niệm về Quốc gia lý tưởng
Toàn bộ những tư tưởng về chính trị xã hội của Platon được gói gọn trong
mô hình “Quốc gia lí tưởng” mà ông đã dày công gầy dựng suốt cả cuộc đời.
Trong mô hình quốc gia lí tưởng ấy ta thấy nó thể hiện đầy đủ tất cả các vấn đề
của đời sống mà xã hội chúng ta ngày hôm nay vẫn còn đang băn khoăn suy
nghĩ. Đó là một quốc gia trong đó mọi người luôn được sống êm đềm hạnh phúc,
đầy đủ và thoả mãn với những gì mà họ đã tạo ra.
Xã hội trong quốc gia lí tưởng của Platon được phân chia thành ba giai cấp
rõ rệt tương ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp lãnh
đạo tức là những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh tức là những người
tham gia vào quan đội cảnh sát và ba là giai cấp thương nhân tức là những người
buôn bán và sản xuất lương thực. Quốc gia lí tưởng của Platon là một quốc gia
cộng sản triệt để trong đó, tất cả mọi cái đều được gom vào thành của chung. Tất
cả lợi ích là vì xã hội, nhà nước. Người lãnh đạo lý tưởng tất nhiên không ai khác
hơn là giai cấp quý tộc nhưng những người quý tộc này không được sở hữu bất
cứ tài sản nào, kể cả vợ con riêng, sự sở hữu kinh tế nông nghiệp cũng không
được có sự quá chênh lệch giữa mọi người.
14

Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Về quan hệ xã hội thì mọi người đều phải có những vai trò và nhiệm vụ
riêng theo từng giai cấp đã được phân chia. Làm đúng theo nhiệm vụ ấy là bảo vệ
và xây dựng đời sống hạnh phúc. Mọi người đều phải được học hành, không có
chiến tranh, kể cả ngoại chiến lẫn nội chiến; các quan chức lãnh đạo phải là
những triết gia vì những người như họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh đạo, họ
không được tham nhũng vơ vét của cải của dân. Những của cải của người dân
làm ra phải được phân chia một cách đồng đều để không ai quá giàu hoặc quá
nghèo. Ông chủ trương một nhà nước lí tưởng cần phải có địa hình nằm sâu vào
trong đất liền để tránh giao thương buôn bán mà chỉ phát triển về nông, thủ công
nghiệp là đủ.
Và tất nhiên, xã hội đó là một xã hội quý tộc dân chủ, tất cả mọi tài năng đều
có cơ hội phát triển đồng đều, dù là con vua hay con chúa cũng bắt đầu ngang
nhau. Trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền
con nối, nếu không có năng lực thì sẽ bị đào thải, dù là con vua.
Một nền thể chế chính trị hay xã hội nếu làm cho trọn vẹn quá trình đào tạo
“chất liệu cấu tạo triết lý chính trị” như vậy tất nhiên đã bảo đảm được phần nội
lực bên trong từ đó tiến lên xây dựng quốc gia xã hội không còn là chuyện khó.
Bàn về nhà nước lí tưởng của Platon thì người khâm phục cũng nhiều mà
người chê bai cũng không ít. Cái được với ông là mặc dù nhiều người cho nó là
một xã hội “không tưởng” thế nhưng nó đã có cả một cơ sở về sau đó là giáo hội
Thiên Chúa giáo La mã sống theo tinh thần của ông suốt hơn một ngàn năm ở
châu Âu và gần đây nhất có nhà nước Cộng Sản Liên Xô hay như nhà nước cộng
sản Việt Nam.
Nhưng cái mất là xã hội chính trị lí tưởng của ông mặc dù được che đậy
bằng những ý tưởng rất tốt đẹp như công bằng hạnh phúc nhưng nó đã không
bảo đảm được những vấn đề cơ bản của cá nhân bởi “những mối nguy hiểm đều
15
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
bắt nguồn từ những ý định rất tốt đẹp là xác lập sự công bằng chung cho mọi

người”.
Thứ nhất ông đã phạm một sai lầm trầm trọng khi ông đã quá xem thường
những giai cấp dưới trong việc phân chia giai cấp. Ông đã quá lí tưởng vấn đề
trật tự mà quên đi rằng con người rất cần và rất quan trọng vấn đề tự do vì họ
không phải là những con robot để có thể đặt định như thế nào cũng được. Thật
ra, những giai cấp dưới không phải không biết làm chính trị, chỉ tại bởi lằn ranh
giai cấp đã bó buộc và ngăn cản bước tiến của họ. Nếu có điều kiện, họ cũng làm
chính trị rất giỏi và rất xuất sắc. Chúng ta cũng từng nghe ông Abraham Lincoln,
một tổng thống Mỹ, vốn xuất thân là một anh đánh giày đó thôi. Vì thế, việc
phân chia giai cấp của ông “không khác gì nhà côn trùng phân loại các côn
trùng. Ông tạo ra các huyền thoại để bắt dân chúng tin tưởng vào sự phân loại
ấy”.
Đối với vấn đề bế môn toả cảng ngăn chận phát triển kinh tế để bảo vệ nhà nước
là một sai lầm nghiêm trọng bởi chúng ta đâu có cản ngăn được những cái từ bên
ngoài đưa vào mà quan trọng là ta phải củng cố nội lực để nó không làm mình
biến chất. Xã hội càng ngày càng toàn cầu hoá thì làm sao mà đóng cửa trong
nhà dạy nhau.
Ngoài ra ông đã không nhận thấy được sự quý giá và thiêng liêng trong tình cảm
vợ chồng, cha mẹ với con cái, ông đã không tiên liệu được tính ghen của người
đàn ông và kể cả tình mẫu tử thiêng liêng của người đàn bà vì thế ông mới chủ
trương chồng chung vợ chung, con cũng chung và như vậy ông đã xúc phạm đến
phong tục tập quán và đạo đức sơ đẳng của con người. “khi ông muốn phá vỡ đời
sống gia đình, ông đã phá vỡ điều kiện cho của một nếp sống đạo đức.
16
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Chế độ cộng sản chẳng qua chỉ là một chế độ gia đình được nới rộng cho toàn
dân, khi đã kích gia đình, Platon không biết rằng ông đã phá vỡ nền móng của xã
hội lí tưởng mà ông sắp xây cất”. Do vậy, Will Durant mới nhận xét: “Quốc gia
của Platon là một quốc giai thủ cựu, thuật chính trị của Platon thiếu sự tế nhị
mềm dẽo, nó đề cao trật tự mà không đề cao sự tự do, nó thích cái đẹp mà không

biết nuôi dưỡng nghệ sĩ”.
17
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN
1. Tư tưởng trị quốc của hai nền triết học Hy Lạp và Trung Quốc
Nếu Socrates đã từng chết để bảo vệ chân lý; nếu Plato đã từng bị bắt làm nô
lệ chỉ vì ông muốn hoàn tất lý tưởng "cộng hòa"; nếu triết học của Aristotle đã
từng ảnh hưởng Alexander Ðại Ðế trong giấc mộng đế quốc, thì chúng ta phải
nói, triết học luôn gắn liền với phương thế trị quốc bình thiên hạ. Nếu Khổng Tử
đề nghị tu thân, thì Tuân Tử lại đề nghị kiêm ái như là một phương thế để trị dân.
Nếu Hàn Phi ca tụng luật pháp thì Mạnh Tử lại đề nghị thân dân. Song nói một
cách chung, các lý thuyết triết học của Trung Quốc và Hy Lạp có một đôi chút
khác biệt: đó là, triết đông chú trọng đến hành chánh, bảo vệ và hoàn thiện con
người và xã hội, song triết Hy Lạp lại chú trọng đến vai trò phê bình, cách mạng
và tiên tri.
Chính vì vậy mà các nền triết học Ðông phương dễ biến thành ý hệ, và các
triết gia của họ thường là những người nắm quyền, nhất là từ thời Tống trở về
sau. Trong đoạn này, chúng tôi muốn nói đến vai trò tiên tri, và cách mạng của
triết học. Lẽ tất nhiên, chúng tôi không hoàn toàn phủ nhận công năng của triết
học như là một công cụ hành chánh, điều hành, giữ trật tự. Song chúng tôi nhận
định rằng, nếu chỉ có như vậy, triết học sẽ mất lý do tồn tại, và biến thành một
nền ý hệ, hay một hệ thống pháp luật và đạo đức.
Sự khác biệt giữa triết học và triết lý thực hành nằm ở điểm triết học luôn
phản tỉnh về chính mình, về thế giới, về bất cứ một hệ thống, kết cấu hay cơ cấu
nào trong khi triết lý thực hành chỉ chú trọng đến khía cạnh thực dụng. Vậy thì,
bất cứ một nền triết học thuần túy nào cũng phải giữ vai trò tiên tri, và cách
mạng. Ðó là một triết học đi trước dẫn đường, chứ không phải một ý hệ, tức một
triết lý đi sau nhắm giải thích, và củng cố quyền lực. Ðể được như vậy, theo
Marx, triết học phải có hai yếu tố: triết học là một sự phê bình liên tục tình trạng
18

Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
hiện tại phi lý, thiếu thực tế, sai lầm, vô hiệu quả, vân vân; triết học cũng là một
sự đòi buộc cải đổi xã hội một cách toàn diện
Triết học Hy Lạp ngả về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ còn Triết học Trung
Quốc thì ngả về dùng trực giác.
Cái mạnh của Triết học Hy Lạp là cho khoa học, kỹ thuật và về sau là công nghệ
phát triển và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân lý vô hạn cùng.
Triết học Hy Lạp đi gần mãi đến chân lý qua hàng loạt những trừu tượng, khái
niệm, quy luật của toàm thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất thấp đến mức
độ bản chất cao hơn cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hoá , cách ly hoá, làm
mất đi tính tổng thể.
Triết học Trung Quốc ngược lại thường dùng trực giác, tức là đi thẳng đến sự
hiểu biết, vào cái sâu thẳm bản chất của sự vật, hiện tượng. Trực giác giữ được
cái tổng thể mà tư duy phân tích, mổ xẻ đạt đến. Nhưng nó có tiềm tàng nhược
điểm là không phổ biến rộng được. Trực giác mỗi người mỗi khác. Và không
phải lúc nào trực giác cũng đúng. Thực ra 2 biện pháp kết hợp lẫn nhau, nhưng ở
đây nói về thiên hướng.
Triết học Hy Lạp có xu hướng tách chủ thể với khách thể để nhận thức cho khách
quan còn Triết học Trung Quốc lại cho rằng người nhận thức và đối tượng nhận
thức cùng hoà hợp vào nhau (đặt cùng trong 1 hệ quy chiếu.) thì nhận thức sẽ dễ
dàng.
Phương tiện nhận thức của Triết học Hy Lạp là khái niệm, mệnh đề, biểu thức
lôgíc để đối tượng mô tả rõ ràng, thống nhất hơn thì trong Triết học Trung Quốc
lại là ẩn dụ, liên tưởng, hình ảnh, ngụ ngôn để không bị lưới giả về nghĩa do
khái niệm che phủ. Nhưng điểm yếu của Triết học Trung Quốc chính là sự đa
nghĩa, nhập nhằng khác biệt khi qua các phân tích khác nhau.
19
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Triết học Trung Quốc biến đổi tuần tự thay đổi dần về lượng, dù thay đổi bao
nhiêu vẫn giữa lấy phần gốc phần lõi làm nền, không rời xa gốc đã có.

Triết học Hy Lạp thay đổi theo hướng nhảy vọt về chất, nên càng tiến hoá càng
phong phú hơn, xa rời gốc ban đầu. Thậm chí có xu hướng cái sau phủ định hoàn
toàn cái ở giai đoạn trước.
Trong phép biện chứng giải thích quy luật của sự vận động - phát triển cũng có
nét khác biệt. Triết học Trung Quốc nghiêng về thống nhất hay vận động vòng
tròn, tuần hoàn. Triết học Hy Lạp nghiêng về sự đấu tranh và vận động, phát
triển theo hướng đi lên.
Triết học Hy Lạp thiện về hướng ngoại, chủ động, tư duy lý luận, đấu tranh sống
còn, hiếu chiến, cạnh tranh, bành trướng, cá thể, phân tích, tri thức suy luận, khoa
học, tư duy cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể
Khuynh hướng nổi trội của Triết học Trung Quốc lại là hướng nội, bị động, trực
giác huyền bí, hoà hợp, quân bình chủ nghĩa, thống nhất, hợp tác, giữ gìn, tập
thể, tổng hợp, minh triết, tôn giáo, tâm lý, tâm linh, tư duy hữu cơ, chú ý nhiều
tới quan hệ
Triết học Trung Quốc Triết học Hy Lạp
Tinh thần - Đời người - Tĩnh lặng
cảm nhận các mối quan hệ
Vật chất - Máy móc - Mạnh mẽ,
quyết liệt, Sức động, quan tâm thực
thể độc lập
Thiên về tôn giáo, mỹ thuật, nghệ
thuật
Thiên về khoa học công nghệ
Sử dụng tình cảm, quan tâm đạo
đức Con người, đạo học
Sử dụng trí tuệ, tư tưởng, quan tâm
sự vật/hiện tượng Vũ trụ, học
thuyết
Dùng trực giác, tổng thể vẫn loanh Dùng lý trí, mất dần tổng thể, ngày
20

Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
quanh những lối cũ, bề ngòai càng phong phú, cụ thể
Quan tâm phần ngọn: nhân sinh
quan, cách sống, lối sống
Quan tâm phần gốc: thế giới quan,
bản thể luận, nhận thức luận
Ảnh hưởng tới: kinh nghiệm/hoàn
thiện cá nhân, ổn định xã hội
Ảnh hưởng tới: giải thích/lý luận
về thế giới, thực hành kỹ nghệ, tự
do cá nhân, cách mạng xã hội
2. Ý nghĩa trị quốc của các tư tưởng triết học Trung Quốc
Về tư tưởng pháp trị, nó đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng Trung
Quốc cổ đại với Quản Trọng là người khởi xướng. Sự nghiệp thống nhất và phát
triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát
triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được
phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất.
Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của pháp
gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị
thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc
bình thiên hạ" được. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được vương quốc Tần
ra sức vận dụng và kết cục đã đưa nước Tần đến thành công trong việc kết thúc
cục diện phân tán cát cứ, thống nhất được đất nước Trung Hoa sau những năm
dài chiến tranh khốc liệt.
Những tư tưởng về pháp trị của triết học Trung Quốc đã có những đóng góp to
lớn cho sự phát triển của tư tưởng Trung Quốc cổ đại và nhất là cho sự nghiệp
thống nhất đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng trong bối
cảnh xã hội Trung Hoa cuối thời Chiến quốc, tư tưởng chính trị của triết học
Trung Quốc mà tiêu biểu nhất là Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng
được yêu cầu phát triển của lịch sử.

21
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Vai trò đóng góp tích cực của triết học nho gia là rất to lớn trong lịch sử phát
triển của nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam, và những đóng góp nhất
định của ông đối với thế giới ngày nay. Tháng giêng 1988 ở Paris, những người
được trao giải Nobel đã tuyên bố : “Nếu loài người muốn sống trong hòa bình và
thịnh vượng trong thế kỷ XXI thì họ phải quay lại 2.500 năm trước và tìm kiếm
đến sự thông tuệ của Khổng Tử”.
Thế kỷ XXI sẽ tiến bộ, không chỉ biết triết học nho gia mà còn khai thác và phát
huy những thành tựu vĩ đại của nhân loại từ xưa đến nay, trong đó Khổng Tử là
một phần đóng góp. Thế kỷ XXI, với những phát minh còn kỳ diệu hơn ngày nay
rất nhiều, với đầu óc sáng suốt và nhân đạo hơn, tự nó biết đẩy lui vào quá khứ
những sự kiện đáng buồn trong quan hệ giữa người với người, những xung đột về
sắc tộc và tôn giáo, những mâu thuẫn và phát triển xã hội và môi trường sinh
thái, và sẽ mở ra một kỷ nguyên mới, nhân loại thực sự tiến bộ và văn minh, một
nhân loại đi từ quá khứ đến tương lai.
3. Ý nghĩa trị quốc của các tư tưởng triết học Hy Lạp
3.1 Triết học Đêmocrit
Đêmocrit có nhiều công lao trong việc xây dựng lý luận về nhận thức. Ông đặt ra
và giải quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm
giác với tính cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong việc
nhận thức tự nhiên.
Triết học Đêmôcrit đã bền bỉ đấu tranh cho quan niệm duy vật về tự nhiên. Nó đã
có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tiếp theo của triết học duy vật.
3.2 Triết học Platon
Nếu ở Đêmocrit, phép biện chứng được sử dụng để phục vụ khoa học thì ở
Platôn phép biện chứng lệ thuộc vào triết học duy tâm. Đường lối Platôn chống
22
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
lại đường lối Đêmôcrit trong triết học Hi Lạp cổ đại, chống lại thuyết nguyên tử

của Đêmôcrit. Các hiện tượng tự nhiên bị ông quy về các quan hệ toán học. Đạo
đức học của ông được xây dựng trên học thuyết về linh hồn bất tử là một hình
thức của lý luận tôn giáo, là bộ phạn quan trọng nhất của ý thức tư tưởng của
tầng lớp chủ nô quý tộc. Bất cứ nền chính trị xã hội nào cũng đều lấy con người
làm nền tảng hay con người là “chất liệu cấu tạo triết lý chính trị”. Vì thế đề cập
tới chính trị mà không nói tới con người cấu tạo xã hội chính trị là một điều
không tưởng.
Là kẻ thù chính trị của chế độ dân chủ chủ nô Aten, Platôn coi “chế độ quý tộc”
tức là chế độ nhà nước của tầng lớp thượng lưu là “nhà nước lý tưởng”.
Triết học Platon được nhiều nhà triết học thời trung cổ và sau đó, nhiều nhà duy
tâm thời cận đại lặp lại dưới những hình thức cải biên…nhằm phục hồi và đẩy
cao tính duy tâm mà Platôn mắc phải làm cho nó trở nên thần bí hơn với khẩu
hiệu “trở về với Platôn”.
23
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Sự hình thành ra đời của triết học Hy Lạp và Trung Quốc cổ đại có những
hoàn cảnh lịch sử khác nhau do điều kiện vị trí địa lý của hai châu lục.
Ở Phương Đông thì được thiên nhiên ưu đãi hơn còn ở Phương Tây khí
hậu khắc nghiệt hơn con người phải chống chọi lại với thiên nhiên nên trong thế
giới quan nhận thức có sự khác nhau và từ đó cũng hình thành các nền triết học
khác nhau nhưng tóm lại triết học Hy Lạp và Trung Quốc đều nhằm giải quyết
vấn đề cơ bản của triết học.
Triết học Trung Quốc đặt trọng tâm vào việc giải quyết mặt thứ hai của
vấn đề cơ bản của triết học. Mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản tuy cũng được đề cập
đến nhưng chỉ coi nó như vấn đề có liên quan, có tác dụng giải thích và bổ sung
cho mặt thứ hai.
Buổi bình minh của nhân loại nhận thức về khoa học còn nhiều hạn chế
nhưng các nhà triết học cổ đại của cả Hy Lạp và Trung Quốc đã cho chúng ta
những học thuyết , những quan điểm vô cùng quý báu nó là nền tảng cho sự phát

triển của các ngành khoa học nói chung và triết học nói riêng. .

24
Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Triết học Phần I Đại cương về Lích sử Triết học - TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên),
2010
2) Triết học và Bức tranh VẬt lý học về Thế giới- TS. Bùi Văn Mưa - NXB Đại
học Quốc gia TPHCM 2008
3) c
4)
Thuc/Ve_so_phan_cua_Nho_giao /
5)
nhng-chiu-hng-ca-trit-hc-hin-i&Itemid= 5
6)
xa-hoi-cua-platon.htm l
25

×