TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 9:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
Học Viên Thực Hiện : Trương Quang Minh
STT : 60
Nhóm Thực Hiện : Nhóm 4
Lớp : Cao Học Đêm 1 – K20
GVHD : TS.Bùi Văn Mưa
TP. Hồ Chí Minh, Tháng 5/2011
DANH SÁCH NHÓM 4
STT Họ và Tên
49 Nguyễn Thị Bích Liên
50 Phan Hoài Linh
51 Trần Ngọc Linh
52 Đào Thị Bích Loan
53 Đào Mạnh Long
54 Trương Bảo Long
55 Đỗ Hữu Lộc
56 Nguyễn Văn Luận
57 Nguyễn Thanh Luận
58 Nguyễn Viết Mạnh
59 Trương Công Minh
60 Trương Quang Minh Nhóm trưởng
61 Đoàn Thị Minh
62 Trần Đăng Minh
63 Đoàn Thanh Nam
64 Nguyễn Vũ Thành
65 Nguyễn Thành Nam
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
KẾT LUẬN 23
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử khoảng 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng Triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài, đa
dạng với nhiều trường phái khác nhau, phát triển và ảnh hưởng khác nhau theo
từng khu vực địa lý. Đặc biệt ảnh hưởng sâu sắc đến nền Triết học Thế Giới là
hai nền Triết học: Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại. Đây là hai nền Triết học
đặt nền móng cho nền văn minh Thế Giới.
Nền Triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng,
bản hợp xướng của Triết học Phương Tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên
tiềm tàng của Triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống Triết học
Phương Tây sau này. Chính vì vậy F. Enghen đã khẳng định: “Không có cơ sở
văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì tuyệt nhiên không có Châu Âu hiện đại”.
Bên cạnh đó, khi xem xét đến văn minh Châu Á phải kể đến văn minh Trung
Quốc. Có thể nói văn minh Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh
nhân loại, là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết Triết học lớn có ảnh hưởng lớn đến
nền văn minh Châu Á cũng như toàn Thế Giới. Xét về lịch sử phát triển và phạm
vi ảnh hưởng của Triết hoc cổ đại Trung Quốc chúng ta cũng có thể nói: “Nếu
không có Triết học Trung Quốc cổ đại thì không có Trung Quốc, Việt Nam và
một số nước Châu Á ngày nay”.
Sự ra đời và phát triển của hai nền Triết học này có ảnh hưởng hết sức to lớn
đến nhân loại, là cội nguồn của nền Triết học vĩ đại ngày nay. Nó đã trở thành
Thế Giới quan và phương pháp luận khoa học, từ đó đưa ra những nguyên lý
khoa học giúp con người nhận thức đúng và cải tạo Thế Giới, là tiền đề cho sự
phát triển văn minh nhân loại. Xét trên nhiều khía cạnh chúng ta thấy hai nền
Triết học này tuy hình thành ở những hoàn cảnh, vùng địa lý khác nhau và hình
thành những học thuyết Triết học khác nhau nhưng đồng thời cũng có những
điểm tương đồng không thể phủ nhận được.
Vì những lý do trên mà Nhóm 4 đã chọn đề tài: “Sự tương đồng và khác
biệt giữa Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại” để tìm
hiểu và cũng để có cái nhìn sâu sắc hơn về hai nền Triết học này.
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa vô cùng to lớn, giúp chúng ta hiểu lý
giải được nguồn gốc, quá trình và xu hướng phát triển của hai nền Triết học, hiểu
được lịch sử tư tưởng từ các học thuyết nổi tiếng của những nhà Triết học Hy lạp
và Trung Quốc thời bấy giờ cũng như sự tương quan giữa chúng.
Với mục đích như trên, nội dung đề tài được cô đọng trong 2 chương:
− Chương 1: Giới thiệu khái quát về Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết
học Trung Quốc cổ đại:
+ Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển
+ Các đặc điểm cơ bản
+ Các trường phái Triết học tiêu biểu
− Chương 2: Đánh giá sự tương đồng và khác biệt giữa 2 nền Triết học
Hy Lạp cổ đại và Trung Hoa cổ đại
+ Các đặc điểm tương đồng
+ Các điểm khác biệt
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI
QUÁT VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.1. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1.1. Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa, nhiều đồng
bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía đông
nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải, giao thương phát triển. Hy
Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia có nền công - thương nghiệp sớm phát
triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Thế kỷ VIII – VI TCN, thời
kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt, năng xuất lao động
tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được củng cố. Xu hướng
chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét.
Về nguồn gốc, từ sự phát triển về kinh tế, xã hội mạnh mẽ đã phân hóa ra
làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ, hình thành chế độ chiếm hữu
nô lệ. Lao động bị phân hóa, đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân
tay, điều này thúc đẩy sự hình thành của tầng lớp tri thức biết xây dựng và sử
dụng hiệu quả tư duy lý luận để ra đời nghiên cứu triết học và khoa học và phát
triển mạnh mẽ.
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
Đặc đểm 1: Phát sinh và phát triển trên cơ sở kinh tế của xã hội chiếm hữu nô lệ
nên nó thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô
thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự xã hội, củng cố vai
trò thống trị và khẳng định vị trí cấp cao. Triết học Hy Lạp có sự phân chia và
đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu
thần, gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng.
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Đặc điểm 2: Xuất hiện phép biện chứng chất phác, duy vật sơ khai. Các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại là “những nhà biện chứng bẩm sinh”, họ nghiên cứu và sử
dụng phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, tìm ra chân lý, bảo vệ
quan điểm của mình. Họ đã phát triển ra nhiều yếu tố của phép biện chứng nhưng
chưa trình bày chúng như một hệ thống chặt chẽ.
Đặc điểm 3: Do những nhà triết học của Hy Lạp đồng thời cũng là nhà khoa học
tự nhiên, nên họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết
luận triết học, chứa đựng hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan. Do trình
độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ,
phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó mới nghiên cứu tự nhiên
sơ lược để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới.
Đặc điểm 4: Triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng vấn đề con người, sự hình thành,
bản chất con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau về con người, quá trình đấu tranh giữa tri thức khoa học và tín
ngưỡng, giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm tôn giáo, họ cố lý giải vấn đề quan hệ
giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội của họ. Dù còn
có nhiều bất đồng, song nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là
tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.
1.1.3. Các trường phái triết học Hy Lạp tiêu biểu
1.1.3.1 - Chủ Nghĩa Duy Vật :
a) Trường phái Milê: xuất phát từ giai đoạn đầu hình thành, do 3 nhà triết học
duy vật là Talét, Anaximăngđrơ, Anaximen xây dựng vào thế kỷ 6, TCN, nhằm
làm sáng rõ bản nguyên vật chất của thế giới. Talét chủ trương giải thích giới tự
nhiên không phải bằng niềm tin mà bằng sự kiện quan sát; ông kết luận: Nước là
yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của vạn vật. Theo Anaximăngđrơ, apeiron là
nguồn gốc của vạn vật. Còn theo Anaximen, không khí có thể biến đổi thành mọi
thứ và tạo ra vạn vật. => duy vật giản đơn, chất phác, thô sơ; nhưng có ý nghĩa
vô thần, chống lại thế giới quan thần thoại hiện giờ.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 6
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
b) Trường phái Hêraclít : nổi trội nhất trong thời kỳ hình thành, do Hêraclít xây
dựng vào thế kỷ 6, TCN. Hêraclít coi bản nguyên của thế giới là lửa, vạn vật đều
từ lửa mà ra, rồi sau đó sẽ mất đi để quay về với lửa, nhưng tuỳ theo độ của lửa
mà vạn vật có thể chuyển hóa – thay đổi trạng thái. Hêraclít đã nêu lên các phỏng
đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Các luận
điểm cốt lõi của phép biện chứng đều đã được ông đề cập đến dưới dạng danh
ngôn, tỷ dụ. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của triết học Hêraclít
vào kho tàng tư tưởng của nhân loại.
c) Trường phái đa nguyên: do Empêđốc và Anaxago xây dựng, Empêđốc thừa
nhận sự tồn tại của 4 khởi nguyên độc lập, bất biến là: đất, nước, không khí, lửa;
chúng chịu sự tác động của 2 loại lực là: tình yêu và hận thù, vũ trụ luôn vận
động trải qua 4 giai đoạn. Anaxago cho rằng vạn vật phải được sinh ra từ các hạt
giống – cái bảo tồn và phát triển tính chất của sự vật cùng loại. Hạt giống cực
nhỏ và có thể phân chia đến vô tận. Mỗi sự vật vật chất chứa đựng trong mình
mọi hạt giống của các sự vật khác nhưng nó chỉ bị quy định bởi tính chất hạt
giống của chính nó =>duy vật khi giải thích thế giới vật chất. Nus –linh hồn của
thế giới, là động lực làm các hạt giống nẩy nở, thay thế nhau. Nus đưa thế giới
thoát ra khỏi sự hỗn độn để đi vào quá trình biến hóa của mình, và qua đó nhận
thức bản thân thế giới=> quay về duy tâm.
d) Trường phái nguyên tử luận : do Lơxíp xây dựng và Đêmôcrít hoàn thiện dựa
trên thuyết nguyên tử (hai thực thể nguyên tử và chân không tụ lại tạo thành vật
chất): là một hệ thống quan điểm duy vật đầy đủ, nhất quán. Đêmôcrít có quan
điểm về nhận thức bao gồm cảm tính và lý tính, coi trọng lý tính sáng suốt, coi
nhẹ cảm tính từ giác quan. Đem lại các phương pháp nhận thức logic như qui
nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa. Ngoài ra, theo ông đạo đức là : Hiểu biết là
cơ sở của đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng mực, ôn hòa, không hại mình,
không hại người. Hạnh phúc là trạng thái mà trong đó con người sống hưởng lạc
với tâm hồn thanh thản. Chính trị, xã hội tốt nhất được cai trị bởi nhà nước chủ
nô, lấy chế độ cộng hòa làm nền tảng chính trị, lấy chuẩn mực đạo đức và pháp
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 7
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
lý làm cơ chế hoạt động. Phát triển nền thương mại và sản xuất thủ công hướng
theo tình thân ái, tính ôn hòa và lợi ích chung của công dân tự do, nô lệ phải tuân
theo lệnh ông chủ. Nhu cầu vật chất con người là động lực phát triển xã hội.
1.1.3.2 - Chủ Nghĩa Duy Tâm:
Hình thành trong trường phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy
lý Elee và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách quan – thế giới ý
niệm của Platon.
a) Trường phái Pytagore :
Là nhà triết học, toán học uyên bác, ông cho rằng “con số” là bản nguyên
của thế giới, là bản chất của vạn vật. Thừa nhận sự bất tử và luân hồi của linh
hồn =>đặt nền móng ban đầu cho duy tâm cổ đại. Ông cũng bàn đến các mặt đối
lập của mọi sự vật hiện tượng, ông quy về mười cặp đối lập hữu hạn và vô
hạn. Mười cặp đối lập này chia làm bốn lĩnh vực là: toán học, vật lý, sinh học và
đạo đức. Đó là những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và xã hội.
b) Trường phái Êlê :
Xênôphan (Xénophane): cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng
trở về đất. Đất là cơ sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của
muôn loài. Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của
vạn vật trong thế giới. “Tồn tại” là một phạm trù triết học mang tính khái quát
cao, và nhận thức bởi tư duy, lý tính. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn
mới trong phát triển triết học Hy Lạp cổ đại.
Pácmênít (Parménide): sự vật không ngừng biến đổi từ dạng này sang
dạng khác, chỉ khác nhau ở cách thức biểu hiện của sự tồn tại, và tồn tại không
hề thay đổi, đó cũng là bản chất của sự vật, được nhận thức bởi tư duy lý tính.
Nhận thức lý tính đòi hỏi con người phải dùng trí óc để khám phá nguồn gốc, bản
chất của thế giới.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 8
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Dênông (Zénon): bảo vệ trường phái Êlê. Ông đưa ra những apôri nghĩa là
tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua chúng, ông chứng minh
rằng “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn tính phức tạp, đa dạng và
vận động của thế giới là không thực.
c) Trường phái duy tâm khách quan :
Xôcrát (Socrate): không nghiên cứu về giới tự nhiên, ông dành phần lớn
nghiên cứu về con người, đạo đức:“Con người hãy nhận thức về chính mình”.
Platông (Platon): nhà triết học duy tâm khách quan: học thuyết về ý niệm, đưa ra
hai quan niệm về thế giới các sự vật cảm biết và thế giới các ý niệm. Nhận thức
của con người là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý niệm có trước thế giới cảm
biết, sinh ra thế giới cảm biết. Từ quan niệm trên Platon đã đưa ra khái niệm "tồn
tại" và "không tồn tại". "Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái nhận biết được
bằng trí tuệ siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Còn "không tồn tại" là vật chất,
cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất. Do vậy, theo ông duy tâm quyết
định duy vật.
Về mặt nhận thức luận Platon cũng mang tính duy tâm. Theo ông tri thức
là cái có trước các sự vật chứ không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá
trình nhận thức các sự vật đó. Nhận thức con người không phản ánh các sự vật
của thế giới khách quan mà chỉ là nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã
quên trong quá khứ. Theo Platon tri thức được phân làm hai loại: Tri thức hoàn
toàn đúng đắn (tri thức ý niệm, hồi tương) và tri thức mờ nhạt (nhận thức cảm
tính, lẫn lộn, không có chân lý). Về xã hội, Platon đưa ra quan niệm về nhà nước
lí tưởng trong đó sự tồn tại và phát triển của nhà nước lí tưởng dựa trên sự phát
triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết
các mâu thuẫn xã hội.
1.1.3.3 - Chủ Nghĩa Nhị Nguyên :
Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của
Socrat, Platông là Triết gia Aristote học trò xuất sắc của Platông. Cống hiến nổi
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 9
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
bật của Aristote là ông đã phê phán một cách cặn kẽ học thuyết về ý niệm của
Platông. Ông công nhận tự nhiên tồn tại khách quan, đặt nền móng cho khoa học
lôgíc thời cổ đại, tam đoạn luận, vật lý học duy vật trong tự nhiên; mặt khác
ông lại chủ trương hình thức là bản chất của mọi sự vật, mà hình thức của mọi
hình thức là tư duy, lý tính, suy nghĩ, thượng đế – thuyết nguyên nhân, không có
linh hồn bất tử nhưng có linh hồn lý tính bất diệt- tinh thần quyết định vật chất->
duy tâm trong xã hội, con người. Nhưng do hạn chế lịch sử và xuất thân là nhà tư
tưởng của giai cấp chủ nô quý tộc nên về mặt chính trị ông chỉ bảo vệ lợi ích cho
tầng lớp này, bảo vệ tầng lớp trung lưu, khinh miệt nô lệ, về mặt triết học ông là
nhà nhị nguyên luận.
1.2. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.2.1. Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Trung Quốc cổ đại
Trung Hoa là một đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á. Trên lãnh thổ
Trung Hoa có hai con sông lớn chảy qua: sông Hoàng Hà ở phía bắc và sông
Trường Giang ở phía nam tạo nên hai miền Bắc Nam với nhiều khác biệt, nền
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, định canh, định cư.
Thời cổ đại của Trung Quốc bắt đầu từ vương triều nhà Hạ (~thế kỷ XXI -
thế kỷ XVI TCN) do Hạ Vũ đặt nền móng, tồn tại tới thời vua Kiệt thì bị diệt
vong. Thời này, người Trung Quốc chỉ mới biết dùng đồng đỏ, thế giới quan thần
thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần.
Những tư tưởng triết học đã xuất hiện; và trải qua 2 vương triều nhà Thương (còn
gọi là Ân, thế kỷ XVI - thế kỷ XII TCN) do Thành Thang thành lập, tồn tại tới
thời vua Trụ thì bị diệt vong. Thời này, người Trung Quốc sống định canh, định
cư; biết dùng đồng thau, khai khẩn ruộng đất và thực hiện đường lối tỉnh điền;
ma thuật được thay bằng tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên và thần xã – tắc; và Vương
triều nhà Chu (~thế kỷ XII - 221 TCN) do Văn Vương thành lập, tồn tại hơn 8
thế kỷ trải qua thời Tây Chu đóng đô ở Cảo Kinh, trước 771 TCN và thời Đông
Chu đóng đô ở Lạc Ấp. Thời Tây Chu, đất nước Trung Quốc tương đối ổn định.
Nhưng sang thời Đông Chu, khi đồ sắt được dùng phổ biến, chế độ sở hữu tư
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 10
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
nhân về ruộng đất được hình thành thay thế cho chế độ ruộng đất tĩnh điền trước
đó đã làm nảy sinh một loạt những thế lực chính trị mới. Đó là tầng lớp địa chủ
mới đang lấn át và xung đột gay gắt với tầng lớp quý tộc cũ. Do vậy, xã hội rơi
vào tình trạng rối ren; các giá trị, chuẩn mực cộng đồng bị đảo lộn. Sự tranh
giành địa vị xã hội của các thế lực chính trị đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào
tình trạng chiến tranh khốc liệt. Thời này bao gồm hai thời kỳ nhỏ là Xuân thu
(722-481 TCN) và Chiến quốc (403-221 TCN). Thực trạng đó của xã hội làm
xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm của những "kẻ sĩ" luôn tranh luận về
trật tự xã hội cũ và đề ra những mẫu hình của một xã hội trong tương lai. Lịch sử
gọi đây là thời kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh"
(trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng
lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Cuối thời Chiến
quốc , với sự lãnh đạo của Tần Thủy Hoàng, nhà Tần đã tiêu diệt các nước khác,
thống nhất giang sơn, xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu
tiên của xã hội Trung Quốc.
1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ đại
Một là, triết học Trung Quốc cổ đại chủ yếu tập trung giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đạo đức -chính trị - xã hội của thời đại đặt ra. Bởi đây là thời
kỳ đảo lộn của xã hội lúc bấy giờ nên triết học đã đặc biệt quan tâm, tìm cách lý
giải và tìm ra những triết lý, những biện pháp nhằm khắc phục hiện tượng xã hội
biến động trong lịch sử chính trị, cai trị của các triều đại.
Hai là, triết học Trung Quốc cổ đại bàn nhiều về vấn đề con người, đặc
biệt là nguồn gốc, số phận, bản tính… của con người, nhằm mang lại cho con
người một quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp con người định hướng hoạt
động trong điều kiện xã hội phức tạp và đầy biến động. Để lại triết lý: nhân –
nghĩa –trí –học, tu thân –trị gia –tề quốc.
Ba là, triết học Trung Quốc cổ đại cũng bị chi phối bởi cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; nhưng đó là cuộc đấu tranh xung
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 11
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
quanh vấn đề con người; vì vậy, vấn đề về quan hệ giữa Con người với Trời, Đất
(Thiên - Nhân – Địa) là vấn đề mang tính xuất phát và xuyên suốt qua toàn bộ
nền triết học này.
Bốn là, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái triết
học Trung Quốc cổ đại không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ
những tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình
1.2.3. Các trường phái triết học Trung Quốc cổ đại tiêu biểu
1.2.3.1 - Thuyết Âm – Dương, Ngũ hành :
Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, bản thân vũ trụ,
cũng như vạn vật trong nó, được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của 2
thái cực (lực lượng) đối lập nhau là âm và dương. Nhưng hai thế lực Âm -
Dương không tồn tại biệt lập mà là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau.
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc của
vạn vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau,
tương sinh, tương khắc với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ.
Tóm lại, bằng lý luận Âm dương và lý luận Ngũ hành, Âm dương gia đã
đứng trên quan điểm duy vật chất phác để giải thích một cách máy móc sự phát
triển của thế giới. Chúng có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và
mục đích luận trong quan niệm về tự nhiên, xã hội và con người. Ngoài ra, chúng
còn góp phần tạo nên cơ sở lý luận dẫn tới những phát minh về thiên văn, lịch
pháp, y học trong lịch sử Trung Hoa cổ trung đại.
1.2.3.2 - Nho gia :
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu, người
sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 TCN). Nho gia nguyên thuỷ là triết lý của
Khổng Tử và Mạnh Tử về đạo làm người quân tử vá cách thức trở thành người
quân tử, cách cai trị đất nước. Đồng thời chứa đựng nhiều giá trị nhân bản và toát
lên tinh thần biện chứng sâu sắc. Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 12
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau:duy vật và
duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng-Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất
trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
1.2.3.3 - Đạo gia :
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI TCN), học thuyết
của ông được Dương Chu và Trang Chu thời chiến quốc hoàn thiện và phát triển
theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của Đạo gia được
khảo cứu chủ yếu qua Đạo Đức kinh và Nam hoa kinh. Tư tưởng cốt lõi của Đạo
gia là học thuyết về “Đạo” với những tư tưởng biện chứng, cùng với học thuyết
“Vô vi” về lĩnh vực chính trị - xã hội.
1.2.3.4 - Mặc gia :
Do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 TCN) sáng lập thời Xuân
Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là một trong
ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo - Mặc). Tư tưởng triết học trung
tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi thiên mệnh". Theo quan niệm này
thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu không phải là do định mệnh của Trời mà là do
người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được
nghèo đói. Học thuyết "Tam biểu" của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết
về nhận thức, có xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh
nghiệm, coi đó là bằng chứng xác thực của nhận thức.
1.2.3.5 - Pháp gia :
Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương dùng
những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo
đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc. Là tiếng nói
đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn dư của chế
độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo đương
thời. Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử(280-233 TCN). Phép trị quốc của
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 13
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật, trong đó pháp là nội
dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách
đó.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 14
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ SỰ
TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA HAI NỀN
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRUNG HOA
CỔ ĐẠI
2.1. ĐÁNH GIÁ SỰ TƯƠNG ĐỒNG GIỮA HAI NỀN TRIẾT HỌC
2.1.1 Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển:
Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại đều là 2 quốc gia rộng lớn, có điều
kiện tự nhiên thuận lợi.
Lãnh thổ Hy Lạp cổ đại bao gồm miền Nam bán đảo Ban căng, miền ven biển
phía tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở biển Êgiê với đồng bằng trù phú thuận lợi
cho việc trồng trọt và nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho giao thương hàng hải
Trong khi Trung Quốc có hàng ngàn con sông lớn nhỏ, quan trọng nhất là
sông Hoàng Hà và sông Trường Giang, hai con sông này đều chảy theo hướng
Tây-Đông hàng năm đem phù sa về bồi đắp cho những cánh đồng phì nhiêu ở
phía Đông Trung Quốc
Cả hai đều trãi qua thời kì chiếm hữu nô lệ với sự phân hóa xã hội thành
hai tầng lớp đối nghịch nhau
Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp đã phân hóa xã hội thành 2 giai cấp xung
đột nhau là chủ nô và nô lệ
Xã hội Trung Quốc phân chia thành hai hạng người, đó là quân tử(quí tộc) và
tiểu nhân(kẻ hèn)
Hai nền Triết học đều bị ảnh hưởng bởi xã hội luôn biến động, trải qua
nhiều thời kì
Lịch sử Hy Lạp cổ đại trải qua bốn thời kỳ:
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 15
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
+ Thời kỳ Cờrét – Myxen
+ Thời kỳ Hôme
+ Thời kỳ thành bang
+ Thời kỳ Maxêđôin
Thời kỳ cổ đại của Trung Quốc trãi qua 3 vương triều:
+ Vương triều nhà Hạ
+ Vương triều nhà Thương
+ Vương triều nhà Chu
Tuy Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại đều trải qua nhiều cuộc chiến
tranh, giành quyền lực giữa các thành bang, phe phái nhưng cả hai đều đạt được
nhiều thành tựu rất ấn tượng về văn hóa, nghệ thuật và Triết học. Chính những
thành tựu nỗi bật này đã làm nền tảng cho sự phát triển về lý luận, tư duy cho 2
nền Triết học phương Đông và phương Tây
Hy Lạp đã xây dựng được 1 nền văn minh xán lạng với những thành tựu thuộc
các lĩnh vực khác nhau: về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng thơ dân
gian và thần thoại phong phú. Về nghệ thuật Hy Lạp đã để lại các công trình kiến
trúc, điêu khắc, hội họa có giá trị. Về khoa học tự nhiên, các thành tựu toán học,
thiên văn học, vật lý… được các nhà khoa học tên tuổi như Talét, Pytago,
Ácximét, Ơclít sớm phát hiện ra
Nền văn hóa của Trung Quốc cổ đại cũng rực rỡ không kém, chữ viết được
phát triển nhanh, hàng loạt những tập kinh thi, thơ phú, sử ký, Hán thư được ra
đời và lưu truyền đến tận ngày nay. Nền y học cũng có nhiều thành tựu quí báu
góp phần tạo nên nền y học cổ truyền Trung Quốc. Kiến thức về thiên văn lịch
pháp, qui luật ngũ hành khá phát triển.
2.1.2 Tư tưởng biện chứng:
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 16
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, cả hai nền triết học đã
có sự xuất hiện quan niệm biện chứng về thế giới
Tiêu biểu cho quan niệm biện chứng của Hy Lạp là Hêraclít, ông cho rằng:
trong thế giới không có sự vật, hiện tượng nào đứng im tuyệt đối, vạn vật vừa tồn
tại vừa không tồn tại, chúng luôn trôi qua, luôn nằm trong quá trình không ngừng
sinh thành, biến đổi và chuyển hóa, cái này biến hóa thành cái kia và ngược lại,
thế giới vật chất vừa đa dạng vừa thống nhất
Trong khi đó Lão Tử lại tiêu biểu cho phép biện chứng của nền Triết học
Trung Quốc, quan niệm của Lão Tử là: thế giới là một chỉnh thể thống nhất -
vận hành của đạo, thông qua đức mà đạo nằm trong vạn vật luôn biến hóa. Đạo là
cái vô, cái vô sinh ra cái hữu, cái hữu sinh ra vạn vật…Vạn vật mất đi là quay về
với Đạo. Vũ trụ vận động biến đổi theo hai quy luật: quy luật bình quân(cân bằng
nhau) và quy luận phản phục(quay trở lại cái ban đầu)
Tuy nhiên, tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc còn mang tính
máy móc, đơn giản, vạn vật chỉ vận động tuần hoàn, lặp đi lặp lại mà không có
sự ra đời của cái mới, nghĩa là không có sự phát triển. Ngược lại, tư tưởng biện
chứng trong triết học Hy Lạp có sự phát triển cao hơn: thể hiện tư tưởng biện
chứng trong tư duy Pácmênít hay Platông, vạn vật vận động theo quy luật nhân
quả và có sự phát triển, tiến hoá theo quan điểm của Đềmôcrít.
2.1.3 Quan điểm về con người, đạo đức – chính trị - xã hội
Triết học Hy lạp và Trung quốc cổ đại đều coi trọng vấn đề về con người,
coi trọng những yếu tố tác động đến con người như đạo đức - chính trị - xã hội.
Tuy nhiên con người và những vấn đề về con người được Triết học Trung Quốc
chú trọng nhiều hơn Hy Lạp.
Xôcrát của Hy Lạp quan niệm: Triết học thực sự phải bàn đến các vấn đề về
con người và hành vi của con người trong đời sống xã hội mà trước hết là hành vi
đạo đức. Các trường phái Triết học Hy Lạp đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 17
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
về con người, cố lí giải vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo
đức - chính trị - xã hội của họ. Các Triết gia đều khẳng định con người là tinh
hoa cao quí nhất của tạo hóa
Vấn đề con người cũng là vấn đề mang tính xuất phát và xuyên suốt qua toàn
bộ nền Triết học Trung Quốc cổ đại. Nho gia tập trung nghiên cứu nhiều về khía
cạnh xã hội của con người, trong khi Đạo gia nhấn mạnh bản tính tự nhiên của
con người.
Hai nền Triết học đều đề cao giá trị đạo đức đối với con người, con người
muốn hoàn thiện phải có đạo đức.
Quan niệm đạo đức trong Triết học Hy Lạp: Đêmôcrít cho rằng, đạo đức học
giúp làm rõ số phận, cuộc sống và hướng dẫn hành vi, thái độ của từng con
người, sự hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức. Sống đúng mực, ôn òa, không
gây hại cho mình và cho người là sống có đạo đức. Platông cho rằng, sống hạnh
phúc là sống có đạo đức, sống có đạo đức là làm điều thiện.
Quan niệm đạo đức trong Triết học Trung Quốc: Nho gia coi đạo đức là nền
tảng của xã hội, là công cụ để gìn giữ trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách cá
nhân cho con người. Đạo đức chuẩn mực là tiêu chuẩn của người quân tử, người
quân tử phải có đủ tam đức(trí, nhân, dũng). Đạo và đức là lý luận nền tảng chủ
yếu của Đạo gia.
2.2. ĐÁNH GIÁ SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HAI NỀN TRIẾT HỌC
2.2.1 Nền tảng hình thành, phương pháp luận:
Triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp
luận của giai cấp chủ nô thống trị. Nó là công cụ lý luận để gia cấp này duy trì
trật tự xã hội, củng cố vai trò thống trị của mình. Trong khi Triết học Trung Quốc
chủ yếu tập trung giải quyết những vấn đề do thực tiễn đạo đức – chính trị - xã
hội của thời đại đặt ra.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 18
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
Đa số các Triết gia của Hy Lạp cổ đại đều xuất thân từ giai cấp cấp chủ nô
thống trị, họ luôn xuất phát từ quyền lợi của giai cấp mình, Platông coi nô lệ
không là con người mà là động vật biết nói, do không có lý trí nên nô lệ không
biết nhận thức, do không có nhận thức nên không có đời sống đạo đức, do không
có đạo đức nên nằm ngoài vòng chính trị.
Trong khi hầu hết các trường phái Triết học Trung Quốc đều lấy những vấn
đề về đạo đức - chính trị - xã hội làm nền tảng chủ yếu, điển hình là Nho gia
Khổng-Mạnh với các bộ sách kinh điển: bộ Ngũ kinh(Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân
Thu) và bộ Tứ Thư(Luận Ngữ, Đại học, Trung du, Mạnh Tử)
Nếu như ở Hy Lạp, Triết học được xây dựng bởi chủ yếu là các nhà khoa
học, gắn liền với các thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên thì ở
Trung Quốc, Triết học gắn với những hiền triết - nhà tôn giáo, nhà giáo dục đạo
đức, chính trị-xã hội.
Tư tưởng Triết học Trung Quốc có mầm mống từ thần thoại thời tam đại (Hạ,
Thương, Chu) với các biểu tượng như đế, thượng đế, quỷ thần…chúng hoà
quyện vào thế giới quan thần thoại – tôn giáo chi phối mạnh đời sống tinh thần
của người Trung Quốc. Khổng Tử - Mạnh Tử đã xây dựng nên thuyết thiên mệnh
cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được,
mà nền tảng tận cùng của trật tự đó là thiên mệnh(“Đạo của ta thi hành ra được
cũng do mệnh Trời, mà bị bỏ phế cũng do mệnh Trời”)
Còn tư tưởng Triết học Hy Lạp cổ đại là sự duy lý hoá các hình tượng thần
thoại thành các khái niệm, quá trình này dựa vào tri thức khoa học mà Talet,
Pitago và sau đó là các nhà khoa học tự nhiên khác xây dựng nên. Những quan
niệm Triết học của trường phái Milê(tiêu biểu là Talét ) tuy còn mộc mạc, thô sơ
nhưng có ý nghĩa vô thần chống lại thế giới quan thần thoại đương thời.
Xênôphan của trường phái Êlê cho rằng: không phải thần thánh sáng tạo ra con
người, mà chính con người sáng tạo ra các vị thần thánh theo trí tưởng tượng dựa
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 19
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
vào hình tượng của mình, vì thế mỗi dân tộc có quan niệm riêng về các vị thần
của mình
2.2.2 Sự phân chia các trường phái
Trong các trào lưu, học thuyết của triết học Trung Quốc, thường đan xen
các yếu tố duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, cuộc đấu tranh giữa Chủ
nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm không gay gắt, quyết liệt, không thành trận
tuyến rạch ròi như Triết học Hy Lạp, đặc điểm này phản ánh tính thiếu triệt để,
thiếu nhất quán của triết học Trung Quốc về mặt thế giới quan.
Nho giáo của Trung Quốc về cơ bản là duy tâm nhưng vẫn có những luận
điểm duy vật. Tuân Tử(315-203 TCN) phát triển Nho gia theo xu hướng duy vật,
còn Mạnh Tử(372-298) phát triển Nho gia theo xu hướng duy tâm
Triết học Hy lạp có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường
phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần và gắn liền với cuộc đấu tranh chính
trị - tư tưởng; trong đó, điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của
Đêmôcrít và trào lưu duy tâm của Platông
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái triết học
Trung Hoa cổ đại không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ những
tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình và chịu ảnh
hưởng ít nhiều bởi tư tưởng biện chứng trong kinh Dịch. Triết học Hy Lạp các
trường phái mới và cũ xuất hiện đồng thời, không kế thừa lẫn nhau, chỉ xung đột
lẫn nhau.
Đổng Trọng Thư đã khai thác lý luận Âm Dương – Ngũ Hành của Âm Dương
gia, đưa ra thuyết “trời sinh vạn vật” và “thiên nhân cảm ứng”để hoàn chỉnh Nho
Gia
Các tư tưởng sâu sắc của Đạo gia cũng là mạch suối nguồn làm phát sinh
nhiều tư tưởng Triết học khác. Điều này đưa đến sự phát triển đan xen, thâm
nhập lẫn nhau của các trường phái triết học Trung Hoa.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 20
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
2.2.3 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của Triết học Hy Lạp rất rộng gồm toàn bộ tự nhiên, xã hội, tư
duy mà gốc là tự nhiên. Nó ngả theo hướng lấy ngoại (ngoài con người) để giải
thích trong (con người), nói chung xu hướng nổi trội là duy vật.
Trong khi đó Trung Quốc lấy xã hội, cá nhân làm gốc là tâm điểm để nhìn
xung quanh. Do đó đối tượng của Triết học Trung Quốc chủ yếu là xã hội, chính
trị, đạo đức, tâm linh và do vậy xu hướng là hướng nội, lấy trong để giải thích
ngoài. Đa số trường phái thiên về duy tâm.
2.2.4 Mối quan hệ con người và vũ trụ:
Triết học Trung Quốc nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ giữa
con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc “thiên nhân
hợp nhất”.
Đối với Hy Lạp lại nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người là
chủ thể, chúa tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ – thế giới khách quan.
Trang Tử cho rằng, trời đất và ta cùng sinh ra, vạn vật với ta đều là một, mà
đã là một thì cần chi phân biệt cái này với cái kia làm gì.
Khuynh hướng duy tâm của Mạnh Tử thì cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn tại
trong ý thức chủ quan và trong ý niệm đạo đức Trời phú cho con người. Ông đưa
ra quan điểm “vạn vật đều có đầy đủ trong ta”. Ta tự xét mình mà thành thực, thì
có cái thú vui nào lớn hơn nữa. Ông dạy mọi người phải đi tìm chân lý ở ngoài
thế giới khách quan mà chỉ cần suy xét ở trong tâm, “tận tâm” của mình mà thôi.
Như vậy theo ông chỉ cần tĩnh tâm quay lại với chính mình thì mọi sự vật đều
yên ổn, không có gì vui thú hơn.
Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” là cơ sở quyết định nhiều
đặc điểm khác của Triết học Trung Quốc như: lấy con người làm đối tượng
nghiên cứu chủ yếu – tính chất hướng nội; hay như nghiên cứu thế giới cũng là
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 21
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
để làm rõ con người và vấn đề bản thể luận trong Triết học Trung Quốc bị mờ
nhạt.
Nhưng ngược lại Triết học Hy Lạp lại đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới –
tính chất hướng ngoại; còn vấn đề con người chỉ được nghiên cứu để giải thích
thế giới mà thôi. Cho nên Hy Lạp bàn đậm nét về bản thể luận của vũ trụ.
Ở Trung Quốc những tư tưởng Triết học ít khi tồn tại dưới dạng thuần tuý
mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy cái kia làm
chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và phát triển cho nên ít có những Triết gia với
những tác phẩm Triết học độc lập. Và có những thời kỳ người ta đã lầm tưởng
triết học là khoa học của khoa học, Triết học đan xen với chính trị lý luận. Nói
chung thì Triết học thường ẩn dấu đằng sau các khoa học.
Trong khi ở Hy Lạp ngay từ thời kỳ đầu Triết học đã là một khoa học độc lập với
các môn khoa học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu đằng sau triết học.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 22
Tiểu luận: Triết học GV: TS. Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Triết học Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại được ra đời trong những
điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác nhau, tuy nhiên cả hai nền triết học đều
đạt được những thành tựu rực rỡ, xứng đáng là cái nôi của hai nền Triết học
phương Đông và phương Tây. Qua nghiên cứu sự hình thành và phát triển của 2
nền Triết học trên ta mới thấy được những thành tựu, những đóng góp to lớn của
hai nền Triết học đối với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, các nhà Triết
học tiêu biểu từ hai nền Triết học này đã cho chúng ta những học thuyết , những
quan điểm vô cùng quý báu nó là nền tảng cho sự phát triển của các ngành khoa
học nói chung và triết học nói riêng. Thông qua việc nghiên cứu các học thuyết,
quan điểm đó đã giúp chúng ta làm phong phú đời sống tinh thần và nâng cao
năng lực sử dụng tư duy vào việc giải quyết các vấn đề do nhận thức khoa học và
thực tiễn cuộc sống đặt ra.
Qua tìm hiểu và phân tích sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy
lạp và Trung quốc cổ đại giúp chúng ta càng hiểu rõ và sâu sắc hơn những đặc
điểm của hai nền triết học Hy lạp và Trung quốc từ đó có thể lĩnh hội được kho
tàng tri thức cũng như hệ thống tư tưởng lí luận của hai nền triết học phương
Đông và phương Tây. Có thể nói triết học Hy Lạp và Trung Quốc cổ đại giống
như là hai nốt trầm bổng của một bản nhạc tạo nên một bản giao hưởng hợp
xướng hoàn hảo của nền Triết học nhân loại thuở sơ khai
Với thời gian nghiên cứu và khả năng lĩnh hội giới hạn nên đề tài không
tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp chân thành của
thầy và các bạn.
K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Sách Triết Học, phần 1 – Đại Cương về Lịch Sử Triết Học, Nhóm tác giả :
TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên)-TS. Trần Nguyên Ký-PGS TS. Lê Thanh Sinh-
TS. Nguyễn Ngọc Thu-TS. Bùi Bá Linh – TS. Bùi Xuân Thanh, Trường ĐH
Kinh Tế TPHCM, năm 2010
2) Sách Lịch Sử Triết Học, Trần Đặng Sinh, Nhà xuất bản Trường ĐH Sư Phạm
TPHCM
3) Giáo Trình Triết Học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành Triết Học, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Nhà xuất bản lý
luận chính trị, năm 2003
4) Lịch sử triết học, Đồng Văn Quân, Đại học Thái Nguyên- Trường ĐH Sư
Phạm, năm 2010
5) Một số tài liệu sưu tầm khác từ internet
+
+
+ /> + /> +
+ />