Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.6 KB, 33 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài 9 :
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
HỌC VIÊN THỰC HIỆN : ĐỖ HỮU LỘC
STT : 55
NHÓM THỰC HIỆN : NHÓM 4
LỚP : CAO HỌC ĐÊM 1 – K20
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
GVHD : T.S BÙI VĂN MƯA
DANH SÁCH NHÓM 4
STT Họ tên
1 Nguyễn Thị Bích Liên
2 Phan Hoài Linh
3 Trần Ngọc Linh
4 Đào Thị Bích Loan
5 Đào Mạnh Long
6 Trương Bảo Long
7 Đỗ Hữu Lộc
8 Nguyễn Văn Luận
9 Nguyễn Thanh Luận
10 Nguyễn Viết Mạnh
11 Trương Công Minh
12 Trương Quang Minh-Nhóm trưởng
13 Đoàn Thị Minh
14 Trần Đăng Minh


15 Đoàn Thanh Nam
16 Nguyễn Vũ Thành
17 Nguyễn Thành Nam
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 2
HCM, Tháng 5/2011
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI &
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 6
1.1 TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 6
1.1.1 Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại 6
1.1.2Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại 6
1.1.3 Các trường phái triết học Hy Lạp tiêu biểu 7
1.2 TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 11
1.2.1 Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Trung Quốc cổ đại 11
1.2.2 Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ đại 12
1.2.3 Các trường phái triết học Trung Quốc cổ đại tiêu biểu 12
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ SỰ TƯƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT GIỮA 2 NỀN TRIẾT HỌC HY
LẠP CỔ ĐẠI & TRIẾT HỌC 15
2.1 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 15
2.2 ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN 17
2.3 QUÁ TRÌNH VÀ HÌNH THÁI PHÁT TRIỂN 19
2.4 VỀ BẢN THỂ LUẬN VÀ NGUỒN GỐC THẾ GIỚI 23
2.5 THUẬT NGỮ SỬ DỤNG 24
2.6 PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY 25
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 3
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
2.7 ĐẶC ĐIỂM HAI NỀN TRIẾT HỌC 26
2.8 QUAN ĐIỂM VỀ TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG 27
2.9 QUAN ĐIỂM VỀ TƯ TƯỞNG NHẬN THỨC 27

2.10 QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI, CÁCH XÂY DỰNG CON NGƯỜI 28
2.11 QUAN ĐIỂM VỀ CHÍNH TRỊ VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC 29
LỜI KẾT 31
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 4
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử khoảng 3000 năm.
Sự phát triển những tư tưởng Triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài, đa
dạng nhiều trường phái, phát triển và ảnh hưởng khác nhau theo từng khu vực địa
lý. Đặc biệt ảnh hưởng sâu sắc đến nền triết học và văn minh thế giới là hai nền
Triết học Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại.
Nền Triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng,
bản hợp xướng của Triết học Phương Tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên
tiềm tàng của Triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống Triết học
Phương Tây sau này. Chính vì vậy F. Enghen đã khẳng định: “ Không có cơ sở
văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì tuyệt nhiên không có Châu Âu hiện đại”.
Trong khi đó, nếu xem xét đến văn minh Châu Á ta phải kể đến văn minh
Trung Quốc. Có thể nói văn minh Trung Quốc là một trong những cái nôi của
văn minh nhân loại, là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn, hàng trăm tư
tưởng triết học (thời kỳ Bách gia chư tử) trong đó có các trường phái chính là
Âm Dương Gia, Nho Gia, Đạo Gia, Mặc Gia, Pháp Gia và Danh Gia có ảnh
hưởng lớn đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giới.
Sự ra đời và phát triển của hai nền triết học này có ảnh hưởng hết sức to lớn
đến đến nhân loại, là tư tưởng lớn của nhân loại. Nó đã trở thành thế giới quan và
phương pháp luận khoa học, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con
người nhận thức đúng và cải tạo thế giới, là tiền đề cho sự phát triển văn minh
nhân loại. Xét trên nhiều khía cạnh chúng ta thấy hai nền Triết học này tuy hình
thành ở những hoàn cảnh, vùng địa lý khác nhau hình thành những học thuyết
Triết học khác nhau nhưng đồng thời cũng có những điểm tương đồng không thể
phủ nhận được.

Vì những lí do trên chúng ta sẽ tiến hành tìm hiểu: “Sự tương đồng và
khác biệt giữa Triết học Hy Lạp cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại” để
tìm hiểu và có cái nhìn sâu sắc hơn về hai nền triết học này.
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 5
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI & TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC
CỔ ĐẠI
1.1TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1.1 Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa, nhiều đồng bằng
rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía đông nhiều
vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải, giao thương phát triển. Hy lạp cổ đại
sớm trở thành một quốc gia có nền công - thương nghiệp sớm phát triển, một nền
văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Ngoài ra, con người có tư duy bay bổng,
thuận lợi mở rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế. Thế kỷ VIII – VI TCN,
thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt, năng xuất lao
động tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được cũng cố->xu
hướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã hiện ra.
Về nguồn gốc, từ sự phát triển về kinh tế, xã hội mạnh mẽ đã phân hóa ra
làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ, hình thành chế độ chiếm hữu nô
lệ. Từ thế kỷ XI đến IX trước CN, xã hội biến động lớn chia thành 2 loại người:
được chia nhiều đất (Policler) và loại ít, không có đất canh tác (Acler). Lao động bị
phân hóa, đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân tay, điều này thúc đẩy
sự hình thành của tầng lớp tri thức biết xây dựng và sử dụng hiệu quả tư duy lý
luận để ra đời nghiên cứu triết học và khoa học và phát triển mạnh mẽ.
Vào thế kỷ V trước CN, đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ (300
quốc gia)–thành bang. Trong đó, Sparte và Athen là hai thành bang cổ hùng mạnh
nhất, do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành
cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm, sau đó là các cuộc khởi nghĩa

của giai cấp nô lệ và cuối cùng bị La Mã chinh phục.
1.1.2 Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 6
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Đặc đểm 1: Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp
chủ nô thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự XH, củng cố
vai trò thống trị và khẳng định vị trí cấp cao. Triết học Hy lạp có sự phân chia và
đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu
thần, gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng.
Đặc điểm 2: Xuất hiện phép biện chứng chất phác, duy vật sơ khai. Các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại là “những nhà biện chứng bẩm sinh”, họ nghiên cứu và sử dụng
phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, tìm ra chân lý, bảo vệ quan
điểm của mình, nhưng họ chưa trình bày chúng như một hệ thống chặt chẽ.
Đặc điểm 3: Do những nhà triết học của Hy Lạp đồng thời cũng là nhà khoa học
tự nhiên, nên họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết luận
triết học, chứa đựng hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan. Do trình độ tư
duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích
tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó mới nghiên cứu tự nhiên sơ lược để
dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới.
Đặc điểm 4: Các nhà triết học đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con người,
quá trình đấu tranh giữa tri thức khoa học và tín ngưỡng, giữa chủ nghĩa duy vật và
duy tâm tôn giáo, họ cố lý giải vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về đời
sống đạo đức – chính trị - xã hội của họ. Dù còn có nhiều bất đồng, song nhìn
chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.
1.1.3 Các trường phái triết học Hy Lạp tiêu biểu
1.1.3.1 Chủ Nghĩa Duy Vật
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 7
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Trường phái Milê: Xuất phát từ giai đoạn đầu hình thành, do 3 nhà triết học duy
vật là Talét, Anaximăngđrơ, Anaximen xây dựng vào thế kỷ VI TCN, nhằm làm

sáng rõ bản nguyên vật chất của thế giới. Talét chủ trương giải thích giới tự nhiên
không phải bằng niềm tin mà bằng sự kiện quan sát; ông kết luận: Nước là yếu tố
đầu tiên, là bản nguyên của vạn vật. Theo Anaximăngđrơ, apeiron là nguồn gốc
của vạn vật. Còn theo Anaximen, không khí có thể biến đổi thành mọi thứ và tạo ra
vạn vật. Thể hiện tính duy vật giản đơn, chất phác, thô sơ; nhưng có ý nghĩa vô
thần, chống lại thế giới quan thần thoại hiện giờ.
Trường phái Hêraclít:Nổi trội nhất trong thời kỳ hình thành, do Hêraclít xây dựng
vào thế kỷ VI TCN. Hêraclít coi bản nguyên của thế giới là lửa, vạn vật đều từ lửa
mà ra, rồi sau đó sẽ mất đi để quay về với lửa. Vạn vật chứa trong mình các mặt
đối lập luôn thống nhất và đấu tranh với nhau, vừa tồn tại vừa không tồn tại, luôn
phát triển, biến đổi và chuyển hóa. Hêraclít cho rằng, nhận thức thế giới là phát
hiện ra cái lôgốt, tức cái quy luật, trật tự của vũ trụ. Phép biện chứng duy vật chất
phác là đóng góp của triết học Hêraclít vào kho tàng tư tưởng của nhân loại.
Trường phái đa nguyên: Do Empêđốc và Anaxago xây dựng, Empêđốc thừa
nhận sự tồn tại của 4 khởi nguyên độc lập, bất biến là: đất, nước, không khí, lửa;
chúng chịu sự tác động của 2 loại lực là: tình yêu và hận thù, vũ trụ luôn vận động
trải qua 4 giai đoạn.
Anaxago cho rằng vạn vật phải được sinh ra từ các hạt giống – cái bảo tồn và phát
triển tính chất của sự vật cùng loại. Hạt giống cực nhỏ và có thể phân chia đến vô
tận. Mỗi sự vật vật chất chứa đựng trong mình mọi hạt giống của các sự vật khác
nhưng nó chỉ bị quy định bởi tính chất hạt giống của chính nó, mang tính duy vật.
Nus –linh hồn của thế giới, là động lực làm các hạt giống nẩy nở, thay thế nhau.
Nus đưa thế giới thoát ra khỏi sự hỗn độn để đi vào quá trình biến hóa của mình,
và qua đó nhận thức bản thân thế giới, quay về duy tâm.
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 8
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Trường phái nguyên tử luận:Do Lơxíp xây dựng và Đêmôcrít hoàn thiện dựa trên
thuyết nguyên tử (2 thực thể nguyên tử và chân không tụ lại tạo thành vật chất): là
một hệ thống quan điểm duy vật đầy đủ, nhất quán. Ông có quan điểm về nhận
thức bao gồm cảm tính và lý tính, coi trọng lý tính sáng suốt, coi nhẹ cảm tính từ

giác quan. Đem lại các phương pháp nhận thức logic như qui nạp, so sánh, giả
thuyết, định nghĩa. Ngoài ra, theo ông đạo đức là: Hiểu biết là cơ sở của đạo đức.
Sống có đạo đức là sống đúng mực, ôn hòa, không hại mình, hại người. Hạnh phúc
là trạng thái mà trong đó con người sống hưởng lạc với tâm hồn thanh thản.
1.1.3.2 Chủ Nghĩa Duy Tâm
Trường phái Pytagore: Pytagore là nhà triết học, toán học uyên bác, ông cho rằng
“con số” là bản nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật, một vật tương ứng
với một con số nhất định, con số có trước vạn vật. Thừa nhận sự bất tử và luân hồi
của linh hồn, đặt nền móng ban đầu cho duy tâm cổ đại. Ông cũng bàn đến các mặt
đối lập của mọi sự vật hiện tượng qua mười cặp đối lập hữu hạn và vô hạn, chẳn
và lẻ, đơn và đa, phải và trái, nam và nữ, động và tĩnh, thẳng và cong, sáng và tối,
tốt và xấu, tứ giác và đa diện. Mười cặp đối lập này chia làm bốn lĩnh vực là: toán
học, vật lý, sinh học và đạo đức-vốn là những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và
xã hội.
Trường phái Êlê: Trường phái Êlê do Xênôphan thành lập theo chủ nghĩa duy vật,
nhưng sau đó Pácmênít phát triển theo chủ nghĩa duy tâm dựa trên nền tảng là khái
niệm tồn tại và được Dênông nhiệt thành bảo vệ và phát huy.
Xênôphan (Xénophane): Xênôphancho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và
cuối cùng trở về đất. Đất là cơ sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống
của muôn loài. Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất
của vạn vật trong thế giới. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn mới trong
phát triển triết học Hy Lạp cổ đại.
Pácmênít (Parménide): sự vật không ngừng biến đổi từ dạng này sang
dạng khác, chỉ khác nhau ở cách thức biểu hiện của sự tồn tại, và tồn tại không hề
thay đổi, đó cũng là bản chất của sự vật, được nhận thức bởi tư duy lý tính.
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 9
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Dênông (Zénon): bảo vệ trường phái Êlê. Ông đưa ra những apôri nghĩa là
tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua chúng, ông chứng minh
rằng “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn tính phức tạp, đa dạng và vận

động của thế giới là không thực.
Trường phái duy tâm khách quan: Gồm có Xôcrát và Platông
Xôcrát (Socrate): không nghiên cứu về giới tự nhiên, dành phần lớn
nghiên cứu về con người, đạo đức: “Con người hãy nhận thức về chính mình”.
Platông (Platon): nhà triết học duy tâm khách quan: học thuyết về ý niệm,
đưa ra hai quan niệm về thế giới các sự vật cảm biết (không chân thực, không
đúng đắn, bóng của ý niệm) và thế giới các ý niệm (phi cảm tính, phi vật thể, là
đúng đắn, chân thực). Nhận thức của con người không phải là phản ánh các sự vật
cảm biết của thế giới khách quan mà là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý niệm có
trước thế giới cảm biết, sinh ra thế giới cảm biết.
Về mặt nhận thức luận Platon cũng mang tính duy tâm do xem tri thức là
cái có trước các sự vật chứ không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá trình
nhận thức các sự vật đó. Nhận thức con người không phản ánh các sự vật của thế
giới khách quan mà chỉ là nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã quên
trong quá khứ. Theo ông, tri thức được phân làm hai loại: Tri thức hoàn toàn đúng
đắn (tri thức ý niệm, hồi tưởng) và tri thức mờ nhạt (nhận thức cảm tính, lẫn lộn,
không có chân lý).
1.1.3.3 Chủ Nghĩa Nhị Nguyên
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 10
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của
Socrat, Platôn là Triết gia Aristote học trò xuất sắc của Platôn. Cống hiến nổi bật
của Aristote là ông đã phê phán một cách cặn kẽ học thuyết về ý niệm của Platôn –
thiên về thế giới bên kia không có lợi cho người. Ông công nhận tự nhiên tồn tại
khách quan (tác phẩm ‘Các phạm trù’, cách hỏi vì sao, cái gì), đã đặt nền móng
cho khoa học lôgíc thời cổ đại, tam đoạn luận, vật lý học, duy vật trong tự nhiên;
mặt khác ông xem hình thức là bản chất của mọi sự vật, mà hình thức của mọi
hình thức là tư duy, lý tính, suy nghĩ, thượng đế – thuyết nguyên nhân, không có
linh hồn bất tử nhưng có linh hồn lý tính bất diệt - tinh thần quyết định vật chất.
Nhưng do hạn chế lịch sử và xuất thân từ giai cấp chủ nô, quý tộc nên về mặt

chính trị ông chỉ bảo vệ lợi ích cho tầng lớp này, bảo vệ tầng lớp trung lưu, khinh
miệt nô lệ.
1.2 TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.2.1 Điều kiện lịch sử ra đời và phát triển của triết học Trung Quốc cổ đại
Thời cổ đại của Trung Quốc bắt đầu từ vương triều nhà Hạ, và trải qua 2 vương
triều nhà Thương và nhà Chu. Ta điểm qua một chút về nguồn gốc hình thành,
Vương triều Hạ (~thế kỷ XXI - thế kỷ XVI TCN) do Hạ Vũ đặt nền móng, tồn tại
tới thời vua Kiệt thì bị diệt vong. Thời này, người Trung Quốc chỉ mới biết dùng
đồng đỏ, chữ viết chưa có. Do đó, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa
duy tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần. Những tư tưởng triết học đã
xuất hiện nhưng chưa tới mức hệ thống. Vương triều Thương (còn gọi là Ân, thế
kỷ XVI - thế kỷ XII TCN) do Thành Thang thành lập, tồn tại tới thời vua Trụ thì bị
diệt vong. Thời này, người Trung Quốc sống định canh, định cư; biết dùng đồng
thau, khai khẩn ruộng đất và thực hiện đường lối tư hữu hóa; ma thuật được thay
bằng tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên và thần xã–tắc; ý tưởng về lực lượng siêu nhiên
hình thành qua biểu tượng Đế (Thượng đế hay Trời).
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 11
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Đến Vương triều Chu (~thế kỷ XII - 221 TCN) do Văn Vương thành lập,
tồn tại hơn 8 thế kỷ, đất nước Trung Quốc tương đối ổn định. Nhưng sang thời
Đông Chu, khi đồ sắt được dùng phổ biến, chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất
được hình thành làm nảy sinh một loạt những thế lực chính trị mới. Xã hội rơi vào
tình trạng rối ren; các giá trị, chuẩn mực cộng đồng bị đảo lộn. Sự tranh giành địa
vị xã hội của các thế lực chính trị đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng
chiến tranh khốc liệt-Xuân thu (722-481 TCN) và Chiến quốc (403-221 TCN), với
hơn 400 cuộc chiến lớn nhỏ làm cho 160 nước ban đầu sau hơn hai thế kỷ đánh
nhau chỉ còn lại có 5 nước (Ngũ bá), sau đó là 7 (Thất hùng). Vào thời Chiến quốc,
những cải cách hiệu quả đã làm cho nhà Tần ngày càng mạnh. Với sự lãnh đạo của
Tần Thủy Hoàng, nhà Tần đã tiêu diệt các nước khác, thống nhất giang sơn, xây
dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền.

1.2.2 Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ đại
Đặc điểm 1: triết học Trung Quốc cổ đại chủ yếu tập trung giải quyết những vấn
đề do thực tiễn đạo đức - chính trị - xã hội của thời đại đặt ra. Bởi đây là thời kỳ
đảo lộn của xã hội lúc bấy giờ nên triết học đã tìm cách lý giải và tìm ra những
triết lý, những biện pháp nhằm khắc phục hiện tượng xã hội biến động này.
Đặc điểm 2: triết học Trung Quốc cổ đại bàn nhiều về vấn đề con người, đặc biệt
là nguồn gốc, số phận, bản tính… của con người, quan niệm nhân sinh vững chắc.
Để lại triết lý: nhân –nghĩa –trí –học, tu thân –trị gia –tề quốc.
Đặc điểm 3: triết học Trung Quốc cổ đại cũng bị chi phối bởi cuộc đấu tranh giữa
chủ nghĩa duy vật và duy tâm; nhưng đó là cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề con
người. Vấn đề về quan hệ giữa Con người với Trời, Đất (Thiên - Nhân – Địa) là
vấn đề mang tính xuất phát và xuyên suốt qua toàn bộ nền triết học này.
Đặc điểm 4: trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái triết
học Trung Quốc cổ đại không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ
những tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình.
1.2.3 Các trường phái triết học Trung Quốc cổ đại tiêu biểu
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 12
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
1.2.3.1 Thuyết Âm – Dương: Từ thực tế cuộc sống, trường phái này cho rằng, bản
thân vũ trụ, cũng như vạn vật trong nó, được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn
nhau của 2 thái cực (lực lượng) đối lập nhau là âm và dương. Nhưng hai thế lực
Âm - Dương không tồn tại biệt lập mà là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau.
1.2.3.2 Tư tưởng triết học về Ngũ hành: Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu
hướng đi vào phân tích cấu trúc của vạn vật và quy nó về những yếu tố khởi
nguyên với những tính chất khác nhau, những tương tác (tương sinh, tương khắc)
với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ, chúng không tồn tại
biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh hưởng sinh - khắc với nhau.
Đến thời Tây Hán, quan niệm về Âm dương – Ngũ hành đã được Đổng
Trọng Thư phát triển theo tinh thần Nho giáo và lợi ích chính trị của giai cấp
phong kiến mới giành lấy vai trò thống trị xã hội Trung Quốc. Nhờ vậy mà cả Nho

giáo lẫn các quan niệm về Âm dương - Ngũ hành đã có điều kiện chính trị thuận
lợi để ảnh hưởng lâu dài trong nền triết học Trung Quốc.
1.2.3.3 Nho gia (thường gọi là Nho giáo): Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ
VI TCN dưới thời Xuân Thu, người sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 TCN). Ông
thừa nhận sự vật, hiện tượng trong tự nhiên luôn luôn tự vận động, biến hóa không
phụ thuộc vào mệnh lệnh của Trời. “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vận hành, vạn
vật sinh hóa mãi mãi” (Luận ngữ, Dương Hóa, 18); hay “cũng như dòng nước
chảy, mọi vật đều trôi đi, ngày đêm không ngừng, không nghỉ” (Luận ngữ, Tử
Hãn, 16). Mặt khác, ông lại cho rằng Trời có ý chí và có thể chi phối vận mệnh của
con người (Thiên mệnh). Ông nói: “Đạo của ta thi hành ra được cũng do mệnh
Trời, mà bị bỏ phế cũng là do mệnh Trời” (Luận ngữ, Hiến vấn, 38); “làm sao có
thể cải được mệnh Trời”. Khổng Tử cũng coi thường tri thức về sản xuất, lao động
chân tay, lấy chữ “Nhân” làm nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết học của mình.
Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và
phát triển theo hai xu hướng khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó dòng Nho
gia Khổng - Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và
một số nước lân cận trong đó có Việt Nam.
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 13
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
1.2.3.4 Đạo gia (hay học thuyết về Đạo): Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử
(khoảng thế kỷ VI TCN). Học thuyết của ông được Dương Chu và Trang Chu thời
Chiến quốc hoàn thiện và phát triển theo 2 hướng ít nhiều khác nhau. Những tư
tưởng triết học của Đạo gia được khảo cứu chủ yếu qua Đạo đức kinh và Nam hoa
kinh. Tư tưởng cốt lõi của Đạo gia là học thuyết về "Đạo" với những tư tưởng biện
chứng, cùng với học thuyết "Vô vi" về lĩnh vực chính trị - xã hội.
1.2.3.5 Mặc gia: Phái Mặc gia do Mặc Tử (khoảng từ 479 -381 TCN) sáng lập
thời Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc đã phát triển thành phái Hậu Mặc. Là một
trong ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho-Đạo-Mặc), thể hiện quan niệm về
"Phi thiên mệnh". Theo quan niệm này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu không phải là
do định mệnh của Trời mà là do người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm

tiền của thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan niệm khác với quan
niệm Thiên mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo dòng Khổng - Mạnh.
1.2.3.6 Pháp gia: Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ
trương dùng những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh
hành vi đạo đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc-
giúp Tần Vương thống nhất được cả Trung Hoa rộng lớn. Là tiếng nói đại diện cho
tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn dư của chế độ công xã gia
trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo đương thời. Đại diện của
phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (280 - 233 TCN)-phép trị quốc của ông bao gồm 3
yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật, trong đó pháp là nội dung của chính sách cai
trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách đó.
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 14
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ SỰ TƯƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT
GIỮA 2 NỀN TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI & TRIẾT HỌC
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
2.1ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Triết học Trung Quốc cổ đại nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ giữa
con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc “thiên nhân
hợp nhất”. Lấy con người làm đối tượng nghiên cứu mang tính hướng nội. Mạnh
Tử thì cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức chủ quan và trong ý niệm
đạo đức Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “vạn vật đều có đầy đủ
trong ta”. Thiện Ung thì cho rằng: vũ trụ trong lòng ta, lòng ta là vũ trụ. Đối với
khuynh hướng duy vật thô sơ thì biết đến cùng cái tính của con người thì cũng có
thể biết đến cái tính của vạn vật, trời đất: trời có chín phương, con người có chín
khiếu. Bát quái trong thuyết âm dương là: Càn – khôn, chấn – tốn, cấn – đoài,
khảm – ly tượng trưng cho 8 yếu tố vật chất tạo thành vũ trụ đối lập nhau là: Trời
– đất, sấm – gió, núi – hồ, nước – lửa; tượng trưng cho quan hệ gia đình, tượng
trưng cho tính khí con người: tính kiên nghị - tính ghen tuông, tính phản trắc –
tính lừng khừng, tính tháo vác – tính hay chê, tính hay lo – tính hoạt bát…

Đối với Triết học Hy Lạp cổ đại tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người
là chủ thể, chúa tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ – thế giới khách quan. Triết
học Hy Lạp đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng ngoại. Một
số trường phái nếu có đề cập đến con người thì cũng chỉ thông qua đó để cố giải
thích thế giới. Pytago cho rằng bản nguyên thế giới là con số. Trật tự các con số
được quy định bởi trật tự của vạn vật, trong đời sống phải cố vạch ra trật tự các
con số từ trong trật tự của sự vật (trật tự những điều ác, điều thiện….) để khám
phá ra trật tự thần thánh. Điều ác nhất định sẽ xảy ra nếu người ta không hiểu
đúng và làm theo trật tự thần thánh. Trường phái ÊLê, Xênôphan cho rằng không
phải thần thánh sáng tạo ra con người, mà chính con người sáng tạo ra các vị thần
theo trí tưởng tượng và hình tượng của mình “Nếu như bò, ngựa và sư tử có tay
và biết vẽ hay biết nặng tượng như con người thì chúng sẽ căn cứ vào bản thân
mình để vẽ hoặc nặng ra tượng về Thượng đế giống như mình để tôn thờ…”
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 15
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Triết học Trung Quốc cổ đại đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người với
người và đời sống tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ
nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác theo lập trường của giai cấp trống trị cho
nên nghiên cứu con người không phải là để giải phóng con người mà là để cai trị
con người, không thấy quan hệ giữa người với người trong lao động sản xuất.
Đổng Trọng Thư đề cập đến mối quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, nếu xếp
theo tôn ty trật tự, trên dưới thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang
của quan hệ thì vua - cha - chồng xếp ở hàng làm chủ thể hiện rõ sự phân tầng
trong xã hội. Khổng tử lấy Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu… làm chuẩn
mực đạo đức. Lão Tử xây dựng thuyết “Vô Vi” là sống và hành động theo lẽ tự
nhiên, thuần phác, không giả tạo, không gò ép trái với bản tính của mình và ngược
với bản tính tự nhiên. Trang Tử xây dựng quan niệm nhân sinh thoát tục – vị ngã –
toàn sinh nghĩa là phải yên theo thời mà ở thuận, vì cái tự nhiên nào cũng hợp lý…
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 16
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Triết học Hy Lạp cổ đại họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của con người, đề
cao cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng con người về
mặt nhận thức, không chú ý đến nguyên nhân kinh tế – xã hội, cái gốc để giải
phóng con người. Pytago cho rằng linh hồn con người bất tử, tồn tại độc lập với
thể xác và chịu chi phối bởi luật luân hồi, giải thoát linh hồn ra khỏi sự ràng buộc
của thể xác là mục đích của cuộc sống. Nhận thức là chức năng của linh hồn và
nhờ vào sự mách bảo của thần thánh, thần thánh tạo ra trật tự vũ trụ. Pácmênít
cho rằng, tồn tại là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn vật trong thế
giới, theo Pácmênít có hai cách nhận thức thế giới là nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính. Nhận thức cảm tính là nhận thức thông qua các giác quan chỉ mang
lại sai lầm, ảo giả, không thể khám phá ra bản chất đích thực của thế giới. Nhận
thức lý tính thông qua hoạt động trí óc khám phá ra bản chất đích thực của thế
giới – cái tồn tại, nghĩa là phát hiện ra chân lý. Platông cho rằng con người là sự
kết hợp giữa thể xác khả tử (được cấu thành từ đất, nước, lửa, không khí) và linh
hồn bất tử (được thượng đế tạo ra). Linh hồn con người bao gồm ba bộ phận:
cảm giác, ý chí và lý trí; trú ngụ tạm thời trong cơ thể hoạt động theo ba khía
cạnh (dục vọng, tình cảm, nhận thức), thể hiện ba phẩm hạnh (điều độ, can đảm,
khôn ngoan), trong đó chỉ có lý trí là bất tử.
2.2ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN
Tương đồng :
- Về điều kiện tự nhiên, cả Trung Quốc cổ đại và Hy Lạp cổ đại có những
nét tương đồng với nhau về lãnh thổ, đất đai, khí hậu.
- Dựa trên điều kiện tự nhiên thuận lợi đó, hai quốc gia đã đạt được nhiều
bước phát triển trong lĩnh vực kinh tế - xã hội : xã hội bước vào thời kỳ chiếm
hữu nô lệ, xã hội xuất hiện đối kháng giai cấp, nông nghiệp phát triển mạnh,
hình thành các nhà nước – thị thành, bắt đầu xuất hiện sự đối lập giữa thành
thị và nông thôn tạo nên hoạt động mua bán trao đổi sôi động.
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 17
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
- Cả Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại đều có một lịch sử lâu đời và trải

qua nhiều thời kỳ. Đều ra đời trong xã hội Chiếm hữu nô lệ vào khoảng thế
kỷ VII-VI trước công nguyên.
- Tuy xã hội trải qua nhiều giai đoạn đầy biến động nhưng cả Trung Quốc
cổ đại và Hy Lạp cổ đại đều đạt được những thành tựu rực rỡ về văn hoá,
khoa học kỹ thuật, Triết học và trở thành một trong những cái nôi lớn của văn
minh nhân loại
Khác biệt:
- Ở Hy Lạp là sự đấu tranh giai cấp giữa địa chủ và nô lệ. Với xã hội Trung
Quốc cổ đại đó là sự đấu tranh giữa giai cấp địa chủ mới với tầng lớp quý tộc
cũ, làm tan rã dần chế độ chiếm hữu nô lệ gia trưởng, bắt đầu hình thành quan
hệ sản xuất phong kiến.
- Thứ hai, tư tưởng Triết học Trung Quốc có mầm mống từ thần thoại thời
tam đại (Hạ, Thương, Chu) với các biểu tượng như đế, thượng đế, quỷ thần…
chúng hoà quyện vào thế giới quan thần thoại – tôn giáo chi phối mạnh đời
sống tinh thần của người Trung Quốc
[5]
. Còn tư tưởng Triết học Hy Lạp cổ
đại là sự duy lý hoá các hình tượng thần thoại thành các khái niệm, quá trình
này dựa vào tri thức khoa học mà Talet, Pitago và sau đó là các nhà khoa học
tự nhiên khác xây dựng nên.
- Thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với lịch sử ra đời của nền chính
trị Hy Lạp cổ đại và phản ánh lịch sử của đất nước này. Vì vậy, nó trải qua ba
giai đoạn : giai đoạn hình thành, giai đoạn cực thịnh và giai đoạn suy tàn;
trong đó cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng nhất nguyên duy vật và nhất
nguyên duy tâm của giai đoạn cực thịnh đã để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong
lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại. Về phần mình, tư tưởng triết học Trung Quốc
cổ đại bắt đầu có tính hệ thống được hình thành trong thời Đông Chu và
nhanh chóng trở thành nên tảng của triết học cổ-trung đại Trung Quốc, tạo
nên cơ sở cho các hệ thống thế giới quan và phương pháp luận sau này.
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 18

Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
2.3QUÁ TRÌNH VÀ HÌNH THÁI PHÁT TRIỂN
- Triết học Trung Quốc cổ đại ít thấy có những bước nhảy vọt về chất có
tính vạch ra ở các thời điểm, mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ.
Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, thêm bớt hay đi sâu
vào từng chi tiết như: Nho tiền tần, Hán nho, Tống nho vẫn trên cơ sở nhân –
lễ – chính danh, nhưng có cải biên về một phương diện nào đó ví như Lễ thời
tiền Tần là cung kính, lễ phép, văn hoá, thời Hán biến thành tam cương ngũ
thường, đời Tống biến thành chữ Lý… Âm Dương Gia với lý luận âm dương
là hai yếu tố, hai khuynh hướng đối lập không tách rời nhau, ôm lấy nhau,
xoắn vào nhau.
- Đạo Gia thì cho rằng Đạo sinh ra vạn vật, nhờ đức mà thể hiện, khi mất đi
là lúc vạn vật quay về với Đạo. Đạo sinh ra Một – khí thống nhất, Một sinh
ra Hai – âm dương đối lập, Hai sinh ra Ba – trời, đất, người, Ba sinh ra vạn
vật, như vậy Âm Dương cũng được phát triển ở Đạo Gia với bản chất không
đổi so với Âm Dương Gia nhưng nó được lý giải theo một chu trình khác,
phát triển bên cạnh nhiều yếu tố khác.
- Khổng Tử cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa theo một trật tự không
gì cưỡng lại được, mà nền tảng của trật tự đó là thiên mệnh. Khổng Tử cho
rằng con người có tính người, tính người do trời phú. Khi đến Mặc Gia thì
yếu tố Trời hay ý trời được Mặc Tử phát triển thêm bên cạnh yếu tố Quỷ thần,
các yếu tố này luôn giám sát chặt chẽ mọi hành vi của con người để khen
thưởng những việc làm nhân nghĩa hay trừng phạt những hành động độc ác
một cách công minh.
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 19
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
- Triết học Hy Lạp cổ đại ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh các trường
phái cũ lại có những trường phái mới ra đời có tính chất vạch thời đại. Trường
phái duy vật nhất nguyên Milê, Talét giải thích thế giới có nguồn gốc từ nước
Anaximăngđrơ là apeiron, Anaximen là không khí. Những quan niệm triết

học duy vật của trường phái Milê tuy còn mộc mạc, thô sơ nhưng có ý nghĩa
vô thần chống lại thế giới quan thần thoại đương thời và chứa đựng những
yếu tố biện chứng chất phác.
- Trường phái duy vật nhất nguyên Hêraclít thể hiện rõ các tư tưởng biện
chứng chất phác thông qua các phỏng đoán thiên tài về quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập, tuy quan niệm biện chứng chưa được trình bày
như một hệ thống nhưng hầu hết các luận điểm cốt lõi được Hêraclít trình bày
dưới dạng danh ngôn, tỷ dụ hay những phát biểu mang tính triết lý sâu sắc.
- Trường phái duy vật đa nguyên Empêđốc khởi nguyên của vũ trụ là bốn
yếu tố đất, nước, lửa, Anaxago cho rằng khởi nguyên thế giới là các hạt
giống, các hạt giống có thể sinh sôi nảy nở nhờ vào một động lực đó là Nus –
trí tuệ thuần túy hay linh hồn của thế giới. Trường phái nguyên tử luận là đỉnh
cao của triết học duy vật hy lạp cổ đại, Lơxíp là người đầu tiên nêu lên các
quan điểm về nguyên tử, Đêmôcrít là người phát triển quan niệm này thành
một hệ thống chặt chẽ và có sức thuyết phục. Mặt dù vẫn còn nhiều hạng chế
nhưng Đêmôcrít đã nâng chủ nghĩa duy vật Hy Lạp lên đỉnh cao đủ sức
đương đầu chống lại trào lưu duy tâm đang thịnh hành lúc bấy giờ, cụ thể là
trào lưu duy tâm của Platông. Trường phái duy tâm ngụy biện của Platông với
thuyết ý niệm. Trường phái duy vật siêu hình Arixtốt đã cố gắn khắc phục sự
đối lập giữa hai khuynh hướng nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm,
ông đã đưa triết học Hy Lạp cổ đại lên đỉnh cao cực thịnh.
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 20
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
- Triết học Trung Quốc cổ đại đan xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy
tâm biện chứng, siêu hình không rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn
đi sâu vào những nội dung cụ thể thường là có mặt duy tâm có mặt duy vật,
sơ kỳ là duy vật, hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế giới quan
thiếu nhất quán, thiếu triệt để của triết học. Các trường phái triết học ít đấu
tranh với nhau mà có tính kế thừa nhau.
- Âm Dương gia xuất hiện đầu tiên thời nhà Thương với lý luận âm dương

và lý luận ngủ hành đứng trên quang điểm duy vật chất phát. Nho Gia với
Khổng Tử dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa chủ
nghĩa vô thần và hữu thần. Duy vật: có chỗ ông coi sự biến đổi của trời như là
một quy luật, là trật tự của vạn vật: “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vẫn thay
đổi, muôn vật vẫn sinh ra”. Đứng bên bờ sông nhìn dòng nước chảy, Khổng
Tử tự hỏi: “Trôi chảy mãi thế ư? Ngày đêm không ngừng lại”. Duy tâm: Ông
cho trời là một lực lượng vô hình quyết định số phận của mỗi người và sự
thịnh sang của mỗi thời đại (Vua dân tế trời). Mỗi cá nhân sự sống chết, phú
quý hay nghèo hèn là do Thiên mệnh quy định, phú quý không thể cầu mà có
được, do vậy bất tất phải cầu.
- Tin ở Mệnh trời “Thiên mệnh”, sống chết có mệnh, giàu sang tại trời.
Sống theo mệnh trời, tuân theo mệnh trời thì sống, làm những điều nhân điều
thiện thì có thể biến nguy thành an. Trời như một vị thần có nhân cách, mắc
tội với trời thì cầu cũng vô ích. Mặc gia cho rằng, ý trời luôn muốn mọi người
yêu thương nhau, nhưng sự giàu – nghèo, thọ – yểu, hành phúc – bất hạnh…
lại là do nhân tạo, thuyết tam biểu cho rằng: cái gì lỗ tai, con mắt không cảm
thấy là không có. Muốn xác định cái gì đó đúng hay sai, cần phải xem nó có
cái gốc (căn cứ lịch sử) như thế nào, có cái nguồn (ý kiến của trăm họ) hay
không. Do coi thường nội dung khách quan của kinh nghiệm con người mà
thuyết tam biểu dựa trên quan điểm duy giác, từ bỏ duy vật đến với duy tâm
và cuối cùng rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm cực đoan.
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 21
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
- Đạo Gia với Lão Tử dùng Đạo để giải thích thế giới, Đạo được hiểu như
là cái tự nhiên tĩnh mịch, yên lặng, mộc mạc, hỗn độn, mập mờ, thấp thoáng,
không có đặt tính, không có hình thể, Đạo là nguồn gốc sinh ra vạn vật, là
quy luật của mọi cái đã, đang và sẽ tồn tại. Lão Tử cho rằng bất cứ sự vật nào
cũng là thể thống nhất của hai mặt đối lập, chúng ràng buột bao hàm lẫn
nhau. Lão Tử cũng khẳng định càng tách xa Đạo, xã hội càng chứa nhiều mâu
thuẫn… Phép biện chứng của Lão Tử mang tính chất máy móc, đơn giản. Vạn

vật chỉ vận động tuần hoàn lặp đi lặp lại một cách buồn tẻ mà không có sự ra
đời của cái mới, nghĩa là không có sự phát triển. Nhưng đến Trang Tử thì biến
các yếu tố biện chứng trong triết học của Lão Tử thành chủ nghĩa tương đối
và thuyết ngụy biện với quan niệm nhân sinh thoát tục – vị ngã – toàn sinh
đầy tính duy tâm.
- Triết Học Hy Lạp cổ đại sự phân chia các trường phái rõ nét hơn và các
hình thức tồn tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác thô sơ, đi duy tâm
ngụy biện đến duy vật siêu hình. Sự đấu tranh giữa các trường phái cũng gay
gắt hơn. Trường phái Milê-Talét với giải thích khởi nguyên của vũ trụ là nước
“Nước tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó tạo ra thì không ngừng sinh ra,
biến đổi và mất đi. Thế giới là một chỉnh thể thống nhất, tồn tại tựa như một
vòng biến đổi tuần hoàn không ngừng nghỉ mà nước là nền tảng của vòng
tuần hoàn đó”.
- Anaximăngđrơ là apeiron – là cái vô định hình chứa trong mình những lực
lượng đối lập nhau; chính sự đấu tranh của những lực lượng đối lập này mà
vạn vật có hình thể, tính chất khác nhau được sinh ra và sau đó, các vật đối
lập nhau sẽ hủy diệt nhau để trở về với apeiron…, Anaximen cho rằng không
khí có thể biến thành nước, đất, đá,… hay lửa. Trường phái Milê thể hiện tư
tưởng biện chứng chất phác, phép biện chứng ngây thơ, chứa yếu tố vô thần.
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 22
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
- Trường phái nguyên tử luận gồm Lơxíp và Đêmôcrít (TKVI-TKV TCN),
Lơxíp cho rằng cái tồn tại (nguyên tử) cái không tồn tại (chân không) cũng
tồn tại, nguyên tử và chân không là khởi nguyên của thế giới. Nguyên tử là
những hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy, không phân chia được, không
biến đổi, luôn vận động và tồn tại vĩnh viễn, sự kết hợp các nguyên tử tạo
thành sự vật trong thế giới. Chân không (không gian trống rỗng) không có
kích thước hình dạng, vô tận và duy nhất. Nguyên tử vận động trong chân
không theo luật nhân quả. Trường phái duy tâm ngụy biện Xôcrát Platông
(TKV-TKIV TCN), Xôcrát chú ý đến đạo đức học duy lý. Ông cho rằng hiểu

biết là cơ sở của điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác, chỉ có cái thiện
phổ biến mới là cơ sở của đạo đức. Platông với thuyết ý niệm chia thế giới ra
thành thế giới ý niệm (lý tính, tồn tại trên trời, mang tính phổ biến, chân thực,
tuyệt đối…) và thế giới sự vật (cảm tính, tồn tại dưới đất, mang tính cá biệt,
ảo giả, tương đối…).
- Trường phái duy vật siêu hình Arixtốt (TKIV TCN) với thuyết nguyên
nhân và thuyết vận động, Arixtốt đã đứng trên quan niệm duy vật tiến bộ phê
phán thuyết ý niệm của Platông ông cũng không ủng hộ quan điểm duy vật
bàn về khởi nguyên vật chất của vũ trụ. Với thuyết nguyên nhân Ông cho
rằng tồn tại nói chung phải xuất phát từ 4 nguyên nhân cơ bản: Vật chất (vật
liệu), hình thức (hình dạng), vận động (thao tác) và mục đích (cứu cánh).
Trong đó, hình thức và vật chất giữ vai trò quan trọng nhất (nhị nguyên luận),
tuy nhiên, ông lại cho rằng hình thức có vai trò quyết định hơn vật chất (nhất
nguyên luận). Với thuyết vận động ông cho rằng giới tự nhiên là toàn bộ các
sự vật, quá trình luôn vận động có liên hệ với nhau và được cấu thành từ một
bản thể vật chất. Vận động không thể bị tiêu diệt và cũng không thể tách ra
khỏi sự vật quá trình tự nhiên.
2.4VỀ BẢN THỂ LUẬN VÀ NGUỒN GỐC THẾ GIỚI
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 23
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
- Triết học Hy Lạp cổ đại cũng có điểm tương đồng với triết học Trung
Quốc cổ đại về vấn đề bản nguyên của thế giới thể hiện ở quan điểm của
Mạnh Tử và của Sôcrát, mọi thứ đều do thượng đế(trời) sinh ra và an bài sẵn.
Ngoài ra, nó còn thể hiện ở tư tưởng của Đạo gia và Âm Dương gia cho rằng
bản nguyên của thế giới được hình thành từ vật chất : “Đạo” và “khí âm và
khí dương”; điều này tương đồng với quan điểm của trường phái Milê(Talet,
Anaximen, Amaxomandrơ), Heraclít, Pitago, Đêmocrít…
- Khác biệt: Tuy nhiên, do còn mang tính trực quan, ước đoán, chưa có
chứng minh nên các luận điểm của triết học cổ đại Trung Quốc chưa khuất
phục được quan điểm duy tâm, chưa giải phóng con người khỏi quan điểm

duy tâm thần bí. Ngược lại, triết học Hy Lạp ngay từ những quan sát ban đầu
đã xây dựng thành một hệ thống triết học duy vật chặt chẽ, có sức thuyết
phục, làm cho nó đủ sức đương đầu chống lại các trào lưu duy tâm đang thịnh
hành lúc bấy giờ, mà trước hết là trào lưu duy tâm nổi tiếng của Platông.
Ngoài ra, các tư tưởng của các nhà triết học Hy Lạp còn là nguồn cảm hứng
cho các nhà khoa học nghiên cứu sau này như tương tưởng nguyên tử luận
của Đêmôcrít, hạt giống của Anaxago
2.5THUẬT NGỮ SỬ DỤNG
- Giữa 2 nền triết học này, cách sử dụng thuật ngữ của các triết gia cũng có
nhiều khác biệt, khi triết học Hy Lạp khi nói về tự nhiên dùng thuật ngữ
“biện chứng” , “giới tự nhiên”, “bản thể”, “vật chất” ; thích dùng mệnh đề,
logic để mô tả rõ ràng, thống nhất sự vật và hiện tượng. Khi bàn về mối quan
hệ giữa con người và vũ trụ thì dùng phạm trù khách thể – chủ thể; con người
với tự nhiên, vật chất với ý thức, tồn tại và tư duy. Đặc thù hướng ngoại, tư
tưởng đi sau có nhiều tiến bộ hơn cái trước, thậm chí phủ định cái trước.
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 24
Tiểu luận: Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
- Còn triết học Trung Quốc cổ đại dùng thuật ngữ ẩn dụ, liên tưởng, động –
tĩnh, thái cực, hình vạn pháp, biến dịch, vô thường, vô ngã (hơi đa nghĩa và
nhập nhằng) và lấy cái thống nhất, lấy cái tĩnh làm gốc để nói về tự nhiên.
Nguyên nhân là vì triết học Trung Quốc được xây dựng trên quan điểm vũ trụ
là một, nên cần hòa hợp, cùng nhịp điệu. Khi nói về con người lại dùng tâm –
vật, năng – sở, lí – khí, hình – thần; chủ yếu hướng nội.
- Mặt khác, khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế
giới thì triết học Hy Lạp cổ đại dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ” “quy
luật”. Còn Triết học Trung Quốc cổ đại dùng thuật ngữ “đạo” “lý” “mệnh”
“thần”, cũng xuất phát từ thế giới quan thiên nhân hợp nhất nên tất cả phải
mang tính nhịp điệu, tính quy luật, tính xoắn ốc của vũ trụ từ thái cực đến
lưỡng nghi Có nhịp điệu là hài hoà âm dương, còn vũ trụ là tập hợp khổng
lồ các xoắn ốc, chu kỳ

2.6PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY
Tương đồng: Cả hai dòng triết học Trung Quốc cổ đại và Hy Lạp cổ đại đều
nhằm giải quyết vấn đề cơ bản của triết học: Vật chất – Ý thức. Phương pháp tư
duy đã có sự xuất hiện của phép biện chứng duy vật chất phác
Khác biệt:
- Hy lạp nặng về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ để giải quyết các câu hỏi
thiên về vấn đề vật chất bằng cách nghiên cứu giải thích nguồn gốc hình
thành của thế giới, về tự nhiên (nước, lửa, không khí, nguyên tử…), tuy
phong phú, cụ thể nhưng lại ít chú trọng đến mặt ý thức của con người.
- Ngược lại ở Trung Quốc nặng về giải quyết mặt ý thức, đến con người
bằng cách quan tâm đề cập đến các mối quan hệ xã hội, xây dựng, lý giải các
mối quan hệ (vua tôi, chồng vợ, cha con, anh em, bạn bè) và cũng cố nó bằng
các chuẩn mực (nhân, lễ, nghĩa, trí, tính, trung hiếu, đức hạnh), do đó dẫn đến
hai phương pháp tư duy khác nhau nhưng tựu trung loanh hoanh lối cũ, bề
ngoài.
NTH: Đỗ Hữu Lộc-STT 55-K20 – Đêm 1 – Nhóm 4 Trang 25

×