BÀI TIỂU LUẬN
BÀN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
Như chúng ta đã biết, Pháp luật và Đạo đức đều là những
bộ phận của hình thái ý thức xã hội.Giữa chúng thường xuyên
có những mối quan hệ, tác động qua lại đan xen lẫn nhau, ảnh
hưởng lẫn nhau cho dù bản thân chúng có những điểm riêng
biệt.
* khái niệm:
- Luật pháp: là 1 hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các
nguyên tắc xử sự mang tính chất bắt buộc chung.
Thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và do Nhà nước ban
hành để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nhằm bảo vệ trật tự
kỷ cương xã hội.
- Đạo đức: là 1 hình thái ý thức xã hội, bao gồm những
quan điểm, quan niệm, những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội.
Nhờ đó con người tự nhận thức, tự giác điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp trước những lợi ích đặt ra.
* giống nhau:
- Đạo đức và pháp luật đều góp phần điều chỉnh hành vi
con người sao cho phù hợp với lợi ích,
yêu cầu chung của xã hội, bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội.
- Đều có quan hệ trách nhiệm, bao gồm:
1
+ Yếu tố chủ quan: là việc tiếp nhận của con người như thế
nào.
+ Yếu tố khách quan: là những chuẩn mực , yêu cầu đối
với con người.
- Đều là hình thái ý thức xã hội nên chịu sự thay đổi khi
tồn tại xã hội thay đổi.
- Đánh giá đạo đức và pháp luật đều liên quan tới hành vi
của con người có tính tự giác hay không.
* sự khác nhau:
Đạo Đức Luật Pháp
- Nguồn gốc ra đời trước pháp luật.
- Trong xã hội có giai cấp đối kháng: thì đạo đức mang
tính giai cấp, tồn tại cả 2 hệ thống đạo đức cả thống trị và bị trị.
Giai cấp nào thống trị xã hội thì đạo đức biểu hiện đặc trưng
cho xã hội ấy.
- Việc thực thi mang tính tự giác, tự nguyện, tự thân.
- Mang tính chủ quan.
- Phạm vi tác động của đạo đức mang tính rộng rãi hơn.
- Động cơ hành vi ở bên trong chủ thể nó thôi thúc con
người hành động. - Pháp luật ra đời khi có sự phân chia giai
cấp.
- Thì chỉ có 1 hệ thống pháp luật chung, giai cấp thống trị
thể hiện ý chí của gai cấp thống trị. Vì pháp luật là công cụ để
quản lý xã hội trong vòng trật tự.
- Mang tính bắt buộc, cưỡng chế, tất yếu.
- Căn cứ vào khách quan.
2
- Hẹp hơn, vì có những điều luật pháp cho phép làm nhưng
lại vi phạm đạo đức. Vd: việc sử dụng súng ở Mỹ.
- Ở bên ngoài vì bị bắt buộc.
* Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật:
- Đạo đức và pháp luật có mối liên hệ khăng khít với nhau.
Pháp luật sẽ bị vi phạm nếu xã hội có môi trường đạo đức tha
hóa . Ngược lại, pháp luật không nghiêm chỉnh cũng ảnh hưởng
xấu đến đời sống môi trường đạo đức.
- Trong xã hội có giai cấp: thì pháp luật thể hiện ý chí của
giai cấp cầm quyền, do vậy giai cấp cầm quyền tiến bộ thì luật
pháp cũng tiến bộ, vì tính nhân văn, nhân đạo thống nhất với
đạo đức. Trong xã hội càng phát triển thì những chuẩn mức càng
được luật pháp hóa. Vì vậy mà giữa đạo đức càng chặt chẽ hơn.
- Trong xã hội có giai cấp đối kháng: khi giai cấp cầm
quyền tiến bộ thì luật pháp đề ra cũng phù hợp với xã hội. Hoặc
ngược lại, khi giai cấp cầm quyền mà bảo thủ lạc hậu thì luật
pháp nó chỉ bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị.
- Trong xã hội chủ nghĩa:
+ Sự tồn tại của nhà nước XHCN là 1 tất yếu.
+ Còn nhà nước thì còn pháp luật, vì vậy nó vẫn là công cụ
để điều tiết quản lý xã hội, cho nên nó vẫn là nhà nước pháp
quyền.
+Nhà nước pháp quyền XHCN khác với nhà nước TBCN.
+ Nhà nước XHCN thể hiện quyền lợi và nghĩa vụ của
công dân, đều hướng đén 1 xã hội văn minh hơn.
+ Liên hệ với nhà nước pháp quyền CHXHCNVN:
3
1. NNPQVN được đảm bảo bởi 1 hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh trong đó Hiến pháp có tính chất tối cao và giữ vai trò
quan trọng.
2. Cơ sở kinh tế VN là nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
3. Cơ sở chính trị cảu NNPQVN là nhà nước chế độ quân
chủ nhất nguyên dưới sự lãnh đạo của Đảng CSNVN.
4. Cơ sở xã hội của NNPQVN là khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
5. NNPQVN được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ nhà
nước với công dân được giải quyết đúng đắn, các quyền lợi ích
chính đáng được tôn trọng và bảo vệ.
* Ý nghĩa phương pháp luận trong thực tiễn và cách mạng:
- Vận dụng nhận thức sâu sắc, vận dụng đúng vào thực
tiễn, phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật , giáo dục
tuyên truyền để nâng cao ý thức cho người dân.
- Đẩy mạnh giáo dục nhận thức để nâng cao ý thức đạo đức
cho mỗi cá nhân có cách hành xử đúng với các chuẩn mực.
Ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc của xã hội trong
tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, khoa học, pháp luật thì
mức độ đan xen, tác động qua lại giữa Pháp luật và đạo đức
ngày càng có những sự ảnh hưởng lẫn nhau đúng như quan
niệm của Đảng ta "Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi
trọng giáo dục nâng cao đạo đức".
Đã từ lâu, trong lịch sử tư tưởng của nhân loại đã hình
thành các quan niệm khác nhau về vấn đề này. Đặc biệt là các
nhà tư tưởng Phương đông, nổi bật lên đó là Khổng Tử - Đại
diện cho trường phái Nho gia.Với tư tưởng Đức Trị - coi giáo
4
dục quản lý xã hội, con người bằng đạo đức. Tất nhiên không
phải là lấy đạo đức thay cho pháp luật, mà trong quá trình quản
lý xã hội, con người phải có sự kết hợp giữa hai yếu tố Pháp
luật và đạo đức. Song rất đáng tiếc rằng lâu nay ở chúng ta chỉ
tồn tại trên lý thuyết mà thôi.
Như vậy, giữa các qui phạm pháp luật và qui phạm đạo đức
có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Để phát huy tối đa hiệu
quả của mối quan hệ này đòi hỏi chúng ta phải tiến hành áp
dụng rất nhiều các biện pháp khác nhau từ việc giáo dục, nâng
cao ý thức đạo đức, trình độ pháp lý, phát triển kinh tế - xã hội,
phát huy dân chủ, nhằm tiến tới đạt được một nền văn hoá đạo
đức pháp lý hoàn thiện hơn nữa. Đối trọng hoàn toàn với các
quan niệm cùng thời và trước đó cho rằng: chỉ có quản lý xã hội
bằng pháp luật, tăng nặng các hình phạt thì mới đạt được hiệu
quả như mong muốn (tư tưởng pháp trị của Lão Tử - Hàn Phi
Tử). Rất tiếc rằng trong quá trình quản lý xã hội, sự thay đổi
của các triều đại lịch sử đã không đánh giá đúng vai trò của mối
quan hệ này.
Ở Việt Nam chúng ta, ngay từ thuở thành lập nước Việt
Nam, tư tưởng đạo đức pháp luật Hồ Chí Minh đã hình thành
qua hàng loạt các qui phạm xã hội và pháp luật đã được xây
dựng, thể hiện đúng đắn sự kết hợp hài hoà giữa pháp luật và
đạo đức.
Để đánh giá đúng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức,
trước hết chúng ta cần phải tìm hiểu vị trí, vai trò của pháp luật
và đạo đức trong hệ thống các qui phạm điều chỉnh xã hội.
Thực vậy, chúng ta phải khẳng định rằng: Bất cứ một xã
hội nào từ cổ đại cho đến ngày nay muốn tồn tại và phát triển
được đều phải dựa vào sự ổn định và các qui tắc chặt chẽ. Ở
5
Việt Nam, hệ thống các qui phạm xã hội rất phong phú và đa
dạng bao gồm: Qui phạm pháp luật, qui phạm đạo đức, các qui
phạm của các tổ chức xã hội như: Đoàn thanh niên, Mặt trận tổ
quốc, Hội Liên hiệp phụ nữ, và của cả các tổ chức Tôn giáo,
cùng với các phong tục, tập quán, luật tục giữa các qui phạm
này có mối quan hệ tác động qua lại với nhau với mục đích điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Đặc biệt là mối quan hệ giữa chúng
với Pháp luật - một trong những phương tiện điều chỉnh quan
trọng trong đời sống hàng ngày của con người.
Ở phạm vi điều chỉnh gần nhất của các mối quan hệ này đó
là mối quan hệ giữa tập quán, phong tục, luật tục với pháp luật
nổi lên hàng đầu.
Con người tồn tại có những thói quen xử sự được gọi là
tập quán, được lặp đi lặp lại trong một thời gian ở cá nhân hay ở
một cộng đồng hoặc là ở toàn thể xã hội, nếu chủ thể nào vi
phạm các tập quán này chỉ bị chế tài áp dụng đó là: Dư luận xã
hội mà thôi. Còn về phong tục - về hiệu lực bắt buộc cao hơn so
với tập quán, ở đây có chứa đựng các yếu tố như: Pháp luật, đạo
đức, khoa học gắn chặt với yếu tố bản sắc dân tộc, nó chi phối
và điều chỉnh hành vi của các chủ thể ở mức độ nhất định.
Còn về Luật tục, tồn tại dưới dạng truyền khẩu và thành
văn ví dụ: Luật tục của các dân tộc như: Ê Đê, M'Nông Tây
Nguyên Thời gian gần đây đã được ghi nhận trong Hiến pháp
và Pháp luật nhằm tôn trọng bảo vệ và phát huy những phong
tục, tập quán truyền thống tốt đẹp của các dân tộc (Điều 5,79
Hiến pháp 1992).
Xét mối quan hệ giữa các qui phạm trong hệ thống các qui
phạm điều chỉnh xã hội thì: "Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức giữ vị trí trung tâm, có vai trò quan trọng nhất, pháp luật và
6
đạo đức có phạm vi điều chỉnh rộng, bao quát tất cả các lĩnh
vực quan hệ xã hội" (Tác giả: Hoàng Thị Kim Quế - Khoa Luật -
Đại học Quốc gia Hà Nội). Xét ở góc độ cơ bản, đạo đức là hệ
thống các quan điểm, quan niệm về điều thiện, ác, tốt, xấu
Như vậy, mặt xã hội càng văn minh hiện đại thì yếu tố đạo đức
càng phải được coi trọng, tất nhiên, quan niệm về đạo đức ở mỗi
thời điểm có những yêu cầu về chuẩn mực khác nhau. Ở Việt
Nam đã có một thời với suy nghĩ chủ quan, duy ý chí bảo thủ
cho rằng có thể dùng đạo đức truyền thống sẽ kéo dài được cơ
chế kinh tế lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội và đã đưa lại kết quả:
Xã hội lạc hậu, kinh tế nghèo nàn Ngày nay trước những hiện
tượng "Tha hoá về lối sống, đạo đức" "Suy đồi về nhân cách"
do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra chúng ta lại tỏ ra nghi
ngờ về vai trò của đạo đức. Hậu quả của việc coi nhẹ việc giáo
dục đạo đức.
Do đó, chúng ta cần tránh cả hai thái cực hoặc là duy đạo
đức trong việc giải quyết mọi vấn đề của đời sống xã hội hoặc
coi nhẹ, tách rời yếu tố đạo đức.
Khác với đạo đức, pháp luật là một loại qui phạm xã hội
đặc biệt, là hệ thống các qui tắc xử sự chung nhất, đặc biệt dùng
để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Không giống như các qui
phạm xã hội khác: đạo đức chế tạo đó là dư luận xã hội Lương
tâm - điều chỉnh. Qui phạm pháp luật - với hàng loạt các chế tài
hà khắc (hình sự) được hậu thuẫn bởi bộ máy cưỡng chế đặc
biệt, có tổ chức thống nhất cao như: Công an, Toà án, Viện
Kiểm sát, các yếu tố kinh tế, kỹ thuật bảo đảm cho việc thực
thi trên thực tế ngay lập tức. Mặc dù vậy pháp luật chỉ có thể
phát huy được hiệu quả cao khi có sự tác động, hỗ trợ của các
qui phạm xã hội khác. Không phải mọi quan hệ xã hội đều được
7
điều chỉnh bởi pháp luật và đưa lại kết quả tốt đẹp như ý muốn.
Ở đây chúng ta muốn bàn đến vấn đề ý thức tự nguyện chấp
hành, thực thi pháp luật của người dân chứ không phải một cách
ép buộc, bắt ép cưỡng bức thực hiện bất cứ đó là qui định nào.
Hiện tại, đôi lúc chúng ta đã quá lạm dụng đến các qui phạm
pháp luật. Không tính đến hiệu quả, tác động thực tế của nó. Ví
dụ: các qui định đang gây bức xúc, không được sự ủng hộ của
người dân như: qui định cấm đăng ký xe máy (đã được bãi bỏ);
vấn đề hộ khẩu; hình sự hoá các quan hệ kinh tế
Ở sự thống nhất giữa Pháp luật và Đạo đức theo tác giả
Hoàng Thị Kim Quế thì: "Pháp luật và Đạo đức có mối quan hệ
hữu cơ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, tạo nên sự điều chỉnh mạnh
mẽ nhất đối với hành vi của con người".
Trên thực tế ở khía cạnh đạo đức pháp lý nó thể hiện ở
lòng vị tha, nhân xử giữa con người với con người: Lương tâm,
trách nhiệm của những người thực thi pháp lý, cầm cân nảy
mực, nhằm đưa ra được các phán quyết thấu tình, đạt lý thể hiện
tính giáo dục cao của hệ thống pháp luật tạo niềm tin cho mọi
người vào công lý, chế độ. Chính vì những lý lẽ đó mà trong các
văn bản quy phạm pháp luật của chúng ta đã có nhiều điều
khoản ghi nhận về vấn đề này: qui định các tình tiết giảm nhẹ
hoặc có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự trong một
số trường hợp như: Hành vi "tự thú"; Hành động trong trường
hợp như: Hành vi "tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ". Qua đây
chúng ta thấy rằng có sự kết hợp chặt chẽ giữa các quy phạm
pháp luật cùng với sự phạm đạo đức trong việc đấu tranh chung
phòng và chống vi phạm pháp luật.
Mặc dù vậy giữa Pháp luật và Đạo đức cũng có những
điểm khác biệt về cơ bản: Trước hết, chúng ta có thể tìm hiểu và
8
tiếp cận vấn đề này từ 2 góc độ: Đối tượng và phương pháp điều
chỉnh của chúng. Nếu xét ở phạm vi đối tượng điều chỉnh của
các quy phạm đạo đức thì phạm vi của đạo đức điều chỉnh rất
rộng bao gồm các quan hệ như: Pháp đối nhân xử thế, đạo lý con
người, lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp. Đây là các lĩnh vực
riêng rẽ cơ bản của đạo đức, qua đó đánh giá được tính đúng,
sai, tốt, xấu, phù hợp hay không phù hợp. Cùng với đó là những
chế tài liên quan khi có sự trái với các chuẩn mực trên như: Dư
luận xã hội, lương tâm, sự lên án của nhân dân, sự mất lòng tin.
Còn trong các quy phạm pháp luật điều chỉnh các hành vi như:
Lừa đảo; chiếm đoạt tài sản, cố ý gây thương tích trong các lĩnh
vực nhất định. Đồng thời, chế tài áp dụng rất khác biệt đó là chế
tài rất hà khắc cùng với hàng loạt các biện pháp cưỡng chế kèm
theo.
Từ những phân tích trên đây, ta có thể nhận thấy rằng giữa
pháp luật và Đạo đức xét về mức độ ảnh hưởng, phạm vi điều
chỉnh ở một mức độ tương đối có một số nét khác biệt. Vấn đề
quan trọng ở đây đó là phải tìm được "điểm tốt" kết hợp giữa
pháp luật - tính răn đe trừng trị nghiêm khắc cùng với đạo đức -
tính giáo dục thuyết phục, cảm hoá đối tượng, chủ thể vi phạm
nhằm đạt được tính hiệu quả tốt nhất trong quản lý xã hội, con
người.
Ngày nay, trong cuộc sống hiện đại, sự đan xen tác động
qua lại "giữa các hành vi vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức
có mối liên hệ rất chặt chẽ đến mức không thể tách rời ra để
khắc phục và đấu tranh" (Tác giả Hoàng Thị Kim Quế). Chúng
ta có thể kể ra đây một vài dẫn chứng: Bài ký sự "Trước số phận
một con người" - Tác giả Lâm Hạnh đăng trên báo Pháp Luật có
nội dung: do có quan hệ bạn bè mà sinh viên Trần Thanh Giang
9
- Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội đã cho Đăng và Dũng vào
phòng trọ học của mình hít hê rô in. - Kết cục Giang bị tuyên án
phạt 7 năm tù giam tội danh chứa chấp sử dụng trái phép chất
ma túy".
- Còn lại Dũng và Đăng chỉ bị xử phạt hành chính vì vi
phạm lần đầu.
Vấn đề ở đây là: Chế tài hình sự được áp dụng với hành vi
vi phạm pháp luật là sự thật không thể chối cãi được. Song cả
chủ toạ phiên toà và những người tham gia tố tụng, nhân dân, dư
luận xã hội, và đặc biệt là "Toà án lương tri" trong mỗi người
chúng ta mách bảo rằng cuộc đời của Giang sẽ gặp rất nhiều khó
khăn và giá như ở đây toà án lương tâm" Đạo đức được "thay
mặt", "nhân danh" luật pháp làm tròn bổn phận của mình thì sẽ
đưa lại điều tốt đẹp hơn để điều chỉnh hành vi thiếu sự hiểu biết
về pháp luật của Giang. Đồng thời nói lên tính độc lập của Toà
án trong quá trình ra các phán quyết sao cho bản án bảo đảm
được: tính nghiêm minh của pháp luật, thể hiện được tính giáo
dục cao, tính khoan hồng của pháp luật và tránh được sự áp
dụng pháp luật một cách máy móc không phù hợp, dập khuôn
các điều luật cụ thể, làm mất đi tính sáng tạo của những người
"cầm cân nảy mực" trong quá trình áp dụng pháp luật.
Song rất đáng tiếc rằng lâu nay nguyên tắc này ở chúng ta
chỉ tồn tại trên lý thuyết mà thôi.
Như vậy, giữa các qui phạm pháp luật và qui phạm đạo đức
có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Để phát huy tối đa hiệu
quả của mối quan hệ này đòi hỏi chúng ta phải tiến hành áp
dụng rất nhiều các biện pháp khác nhau từ việc giáo dục, nâng
cao ý thức đạo đức, trình độ pháp lý, phát triển kinh tế - xã hội,
10
phát huy dân chủ nhằm tiến tới đạt được một nền văn hoá đạo
đức pháp lý hoàn thiện hơn nữa.
11