Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I.1 Lí do chọn đề tài:
I.2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
I.3 Mục đích nghiên cứu
I.4. Phương pháp nghiên cứu
I.5 Nội dung
PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP
II.1 Bộ não kỳ diệu
II.2 Trí nhớ
II.3 Các nguyên tắc cơ bản của trí nhớ
II.3.1. Sự hình dung
II.3.2. Sự liên tưởng
II.3.3. Làm nổi bật sự việc
II.3.4. Màu sắc
II.3.5. Âm điệu
II.3.6. Sự tưởng tượng
II.3.7. Chính thể luận
II.4 Các quy luật của trí nhớ
II.4.1 Quy luật nhận biết :
II.4.2. Quy luật hứng thú biết :
II.4.3. Quy luật tích luỹ:
II.4.4. Quy luật nhớ có ý thức:
II.4.5. Quy luật liên kết:
II.4.6. Quy luật nối tiếp liên tục:
II.4.7. Quy luật ấn tượng mạnh mẽ:
PHẦN III: VẬN DỤNG CÁC QUY LUẬT TRÍ NHỚ VÀO DẠY HỌC HÓA
HỌC CHƯƠNG TRÌNH LỚP 10 NÂNG CAO
III.1. Quy luật hứng thú và nhận biết
III.2. Quy luật gây ấn tượng mạnh mẽ và quy luật nhớ có ý thức
III.3. Quy luật nối tiếp liên tục ( trình tự )
III.4. Quy luật liên kết và nhận thức (liên tưởng) :
III.4. Quy luật liên kết và nhận thức (liên tưởng) :
III.4. Quy luật liên kết và nhận thức (liên tưởng) :
PHẦN IV: KẾT LUẬN CHUNG
SV : Cao Thị Ái Nhi 1
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I.1 Lí do chọn đề tài:
- Đổi mới phương pháp giáo dục là một yêu cầu cấp bách của thời đại.
Chúng ta đang ở thế kỷ XXI, thế giới đang xảy ra sự bùng nổ tri thức khoa học và
công nghệ. Xã hội muốn phồn vinh trong thời đại này là một xã hội “dựa vào tri
thức”, dựa vào tư duy sáng tạo và tài năng sáng chế của con người.Trong thời đại
cách mạng khoa học kỹ thuật, cấu trúc của lao động và của phẩm chất người lao
động mới đã thay đổi. Cần hình thành những kĩ năng chung,khái quát nhất của
hành động trí tuệ và phẩm chất, nhằm giúp cho người lao động nhanh chóng tìm
được lời giải tối ưu cho những tình huống mới của nghề nghiệp. Nói cách khác,
phải dạy cho họ tính khái quát của tư duy và phương pháp của thao tác. Đây chính
là yêu cầu cao của việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa hiện nay. Do
đó,việc đổi mới phương pháp dạy học là một nhu cầu bức thiết của cuộc sống
nhằm trang bị không những kiến thức mà còn khả năng tư duy cho học sinh.
- Bản chất của việc đổi mới phương pháp dạy học là tổ chức cho con người
được học tập trong lao động và bằng hoạt động tự giác, tích cực, sáng tạo, trong đó
việc xây dựng phong cách học tập sáng tạo là cốt lõi của đổi mới phương pháp
giáo dục và phương pháp dạy học nói riêng.
- Khi nghiên cứu tâm lý về khả năng lưu giữ thông tin và trí nhớ của con
người ta nhận ra rằng : Khả năng lưu giữ thông tin bằng đọc chỉ đạt 5%, bằng nghe
chỉ đạt 15%, bằng nhìn đạt 20%, vừa nghe vừa nhìn 25%, bằng thảo luận đạt được
55%, thu nhận kinh nghiệm bằng hành động đạt được 75%, khi dạy lại cho người
khác có thể đạt đến 90%.
- Chúng ta thường nghe học sinh biện minh vì lý do học kém của mình
là do họ có trí nhớ kém, Thật vậy, nhiều học sinh hiểu bài cặn kẽ và có khả năng
trả lời các câu hỏi trong bài thi, nhưng đầu óc họ cứ trống rỗng khi họ phải làm bài
thi trong thời gian giới hạn. Kết quả là điểm số mà họ đạt được không phản ánh
đúng khả năng thật sự của họ.
- Nhiều học sinh có ý nghĩ sai lầm rằng khả năng ghi nhớ tốt là năng khiếu
hoặc tài năng mà một số người có, một số người không. Những người nghĩ rằng
mình có trí nhớ kém từ bỏ việc cố gắng nhớ đầy đủ thông tin vì họ nghĩ mình sẽ
quên chúng. Hậu quả chắc chắn là việc có trí nhớ kém nghiễm nhiên trở thành lý
do mà họ dùng biện hộ cho thất bại.
- Không hề tồn tại trí nhớ tốt hay trí nhớ kém, mà chỉ tồn tại trí nhớ được
rèn luyện và trí nhớ không được rèn luyện. Theo chuyên gia về trí nhớ Harry
Lorayne, những người có khả năng nhớ thông tin phi thường không hề có bộ não
khác biệt với chúng ta. Thay vào đó, họ sở hữu những kỷ thuật tận dụng trí nhớ của
SV : Cao Thị Ái Nhi 2
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
họ. Mỗi người chúng ta đều sở hữu một trí nhớ phi thường tự nhiên mà chúng ta
chỉ cần học cách tận dụng nó.
- Trong thực tế hiện nay,nhiều học sinh còn học tập một cách thụ động,chỉ
đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kỹ năng tư duy,
sáng tạo. Một nguyên nhân quan trọng của thực trạng này là phương pháp dạy học
truyền thống tỏ ra kém hiệu quả.
Với chương trình cải cách hóa học THPT hiện nay,chương trình hóa học lớp
10 nâng cao chứa một lượng kiến thức lớn do đó sẽ khó cho học sinh tiếp thu bài
nếu không có một phương pháp dạy học phù hợp
- Xuất phát từ những lý do trên, nên tôi chọn đề tài : VẬN DỤNG QUY
LUẬT TRÍ NHỚ VÀO DẠY HỌC HÓA HỌC CHƯƠNG TRÌNH LỚP 10 NÂNG
CAO.
I.2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: vận dụng quy luật trí nhớ trong dạy học chương
trình hóa học lớp 10(nâng cao) THPT.
- Phạm vi nghiên cứu: chương trình hóa học lớp 10 nâng cao
I.3 Mục đích nghiên cứu.
- Vận dụng quy luật trí nhớ để tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh
trong dạy_học trong chương trình ,góp phần đổi mới phương pháp dạy học và nâng
cao chất lượng dạy học môn hóa học lớp 10 nâng caoTHPT.
I.4 Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu thực tiễn.
I.5 Nội dung : Cấu trúc chính bài tiểu luận gồm 4 phần chính :
- Phần I : Mở đầu
- Phần II : Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng các quy luật trí nhớ
vào dạy học hóa học lớp 10 nâng cao.
- Phần III : Vận dụng các quy luật trí nhớ vào dạy học hóa học chương trình
lớp 10 nâng cao.
- Phần IV : Kết luận chung
PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG CÁC
QUY LUẬT TRÍ NHỚ VÀO DẠY HỌC HÓA HỌC 10 NÂNG CAO
II.1 Bộ não kỳ diệu :
Cho dù bạn là ai và đang ở đâu đi nữa, bạn đang sử dụng
- để đọc những dòng này –
một vật đẹp đẽ, phức tạp, bí ẩn và mạnh mẽ nhất trong vũ trụ :
bộ não của bạn
- Để học cách tận dụng sức mạnh của não bộ, trước hết phải hiểu cách làm
việc của nó.
- Bộ não con người có ước chừng một ngàn tỷ nơ-ron. Hoạt động của bộ
não vô cùng phức tạp.
SV : Cao Thị Ái Nhi 3
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
- Giáo sư Roger sperry thuộc đại học California, người sau này nhận giải
Nobel đã công bố kết quả nghiên cứu rằng, phần tiến hóa nhất của bộ não là vỗ
não.
- Những phát hiện đầu của ông cho thấy hai vỏ bán cầu não có khuynh
hướng phân chia thành hai nhóm chức năng :
- Hơn 90% các môn học trong trường là những môn thiên về não trái. Môn
hóa học là một trong số những môn học đòi hỏi các chức năng từ não trái như tìm
hiểu sự kiện, phân tích tổng hợp thông tin, lập luận, tính toán.
- Vậy khi não trái là việc hầu hết thời gian ở trường thì não phải làm gì ?
Nó hầu như chẳng làm gì nhiều. Nghĩa là không tận dụng đúng công suất của não
phải. Hiện tượng học sinh mất tập trung, mơ màng trong giờ học. Nguyên nhân
chính là vì đa số các môn học chủ yếu thiên về não trái, não phải hầu như không
làm việc, Nó “ cảm thấy nhàm chán ” nên nó “ phải kiếm việc làm ”. Kết quả là
mất tập trung, mơ màng trong giờ học. Cách giải quyết tốt nhất cho vấn đề này, cần
phải tận dụng cả não trái và não phải trong lúc học. Việc này không chỉ tạo “ công
ăn việc làm” cho não phải, mà nó tăng gấp nhiều lần sức mạnh của não bộ.
- Các nhà nghiên cứu khoa học cho thấy trong quá trình học, bộ não con
người chủ yếu ghi nhớ những thông tin sau :
SV : Cao Thị Ái Nhi 4
NÃO TRÁI
NÃO PHẢI
Âm nhạc
Tính toàn thể
Sáng tạo
Mơ mộng
Tưởng tượng
Màu sắc
Tình cảm
Lập luận
Lôgic
Phân tích
Toán học
Chuỗi số
Ngôn ngữ
Liệt kê
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
• Các chi tiết phần đầu bài học ( hiệu ứng ưu tiên theo trình tự
xuất hiện )
• Các chi tiết trong phần cuối thời gian học ( hiệu ứng ưu tiên
theo mức độ cập nhật )
• Mọi chi tiết được liên hệ với sự việc, quy luạt hay cấu trúc đã
ghi nhớ, hoặc liên quan đến các khía cạnh của vấn đề đang học.
• Mọi chi tiết đặc sắc hay nổi bật đặc biệt lưu ý.
• Mọi chi tiết đặc biệt thu hút ngũ quan.
• Những chi đặc biệt được cá nhân quan tâm.
* Do đó, những bài giảng viết theo lối tuần tự truyền thống, cố nhiên là dễ quên
và thiếu tính giao tiếp. Trong những bài giảng cần có khả năng vận dụng được
những đặc điểm trên để bài giảng có hiệu quả hơn, giúp học sinh nắm bắt thông tin
đầy đủ, chính xác và nhớ lâu hơn.
II.2 Trí nhớ :
- Trí nhớ được tạo thành bằng các liên kết từng mảng thông tin với nhau.
Nói một cách cụ thể hơn, việc nhớ thông tin mới chỉ đơn giản là liên kết thông tin
mới đó với một thông tin khác chúng ta đã biết trước đó.
- Đối với đa số những người chưa rèn luyện kỹ thuật về trí nhớ, quá trình
liên kết thông tin này chỉ đơn thuần thuộc về tiềm thức. Tiềm thức này đôi khi tạo
ra những liên kết bền vững, nhưng thường thì nó tạo ra những liên kết yếu ớt. Khi
có những liên kết bền vững. chúng ta cảm thấy dễ dàng nhớ lại thông tin.
SV : Cao Thị Ái Nhi 5
ĐỊNH NGHĨA VỀ TRÍ NHỚ
Thông tin mới
Thông tin chúng
ta đã biết
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
II.2 Các nguyên tắc cơ bản của trí nhớ :
1. Sự hình dung :
- Trí nhớ chúng ta làm việc theo hình ảnh. Do đó chúng ta có khuynh
hướng nhớ hình ảnh hơn nhớ từ. Hình ảnh trong tâm trí chúng ta càng rõ ràng sống
động bao nhiêu, chúng ta càng nhớ về hình ảnh đó bấy nhiêu
- Lý do khiến đa số học sinh quên kiến thức nhanh chóng là vì họ cố
gắng ghi nhớ từng từ ngữ trong khi trí nhớ làm việc theo hình ảnh. Bí quyết ở chỗ
chúng ta chuyển kiến thức thành hình ảnh để lưu vào bộ não một cách dễ dàng
hơn. Trong kỳ thi, chúng ta sẽ nhớ lại hình ảnh đó và chuyển chúng thành câu trả
lời hợp lý.
2. Sự liên tưởng
- Tạo ra sự liên kết giữa các kiến thức mà chúng ta cần nhớ. Các liên kết
này sẽ tạo ra một mục lục dưới dạng chuỗi liên kết trong đầu, giúp chúng ta dễ
dàng tìm kiếm lạ thông tin
3. Làm nổi bật sự việc
- Não bộ có khuynh hướng ghi nhớ những sự việc nỗi bật. Một trong
những cách tốt nhất để làm nổi bật sự việc là sử dụng các chi tiết hài hước và các
chi tiết vô lý. Chúng ta khó mà nhớ nỗi những gì chúng ta học là vì cách ghi chú
kiểu truyền thống rất nhạt nhẽo, đơn điệu. Chúng sẽ tăng cường sức mạnh trí nhớ
bằng cách tạo ra những ghi chú làm nỗi bật thông tin. Chúng ta có khuynh hướng
ghi nhớ những sự việc buồn cười khác thường. Đây là một yếu tố vô cùng quan
trọng để ứng dụng trong việc dạy học có hiệu quả.
4. Màu sắc
- Màu sắc cũng tác động đến trí nhớ một cách mạnh mẽ. Đó là lý do vì
sao chúng ta thường dùng nhiều màu sắc khi ghi chú. Màu sắc có thể tăng cường
trí nhớ chúng ta lên 50%
5. Âm điệu
- Âm điệu giúp chúng ta tăng khả năng nhớ lại thông tin vì âm điệu kích
hoạt bán cầu não phải, bán cầu này chúng ta thường bỏ quên khi chúng ta học tập.
Ví dụ : vì sao chúng ta thuộc lời bài hát dễ dàng hơn là các công thức hóa học, các
tính chất hóa học hay không ? Vì vậy chúng ta có thể tạo những âm điệu riêng cho
những kiến thức cần nhớ.
6. Sự tưởng tượng
- Hóa học là môn học có nhiều từ ngữ trừu tượng khiến cho học sinh khó
hình dung được. Ví dụ : mol, nguyên tử, phân tử… => Trong trường hợp này cần
chuyển hóa chúng thành các hình ảnh thông qua quá trình mô tả tượng trưng, để
học sinh có thể dễ dàng ghi nhớ và khắc sâu.
7. Chính thể luận
SV : Cao Thị Ái Nhi 6
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
- Chính thể luận là việc học bằng cách nhìn sự việc trong một bức tranh
tổng quát. Việc phân tích các mối liên kết các thông tin đó vào các khái niệm tổng
quát sẽ giúp cho học sinh ghi nhớ dễ dàng và lâu hơn so với học từng chi tiết riêng
biệt.
II.3 Các quy luật của trí nhớ :
1. Quy luật nhận biết :
- Một quy luật tưởng chừng như đơn giản nhất nhưng lại rất quan trọng.
Trí nhớ càng sâu sắc khi con người nắm chắc những gì đã biết, dễ dàng nhớ đến
mức chi tiết về những điều còn đọng lại trong đầu.
2. Quy luật hứng thú:
- Sự hứng thú về khẩu vị giúp trí thức bột phát tái hiện trên màn ảnh trí
tuệ như thể các nhân vật kịch xuất hiện trên sân khấu mà không cần đền một nỗ lực
đặc biệt nào.
3. Quy luật tích luỹ:
- Càng hiểu biết về một vấn đề cụ thể thì con người càng dễ dàng nhớ
lại tất cả những thông tin mới phù hợp với vấn đề ấy. Cần lưu ý là: khi mở một
quyển sách ra để đọc phải coi như mới đọc lần đầu. Bởi lẽ khi ta đọc lần đầu, ta
chưa có được những thông tin, những kiến thức cần thiết cho nhu cầu tìm hiểu.
Đọc lần đầu là công việc tích luỹ. Đọc lần sau là mới có sự điều chỉnh mới. Đây là
mối quan hệ giữa vốn cũ với hiểu biết mới là công việc để trí nhớ hoá kiến thức.
4. Quy luật nhớ có ý thức:
- Việc chuẩn bị để trì nhớ hoá là quan trọng. Người đọc hệ thống hoá
thông tin từ các sách vở các tài liệu. Xuất phát từ sách vở để khai thác thông tin.
Thông tin là con đẻ của sách vở. Đây là cách làm cho bộ nhớ vững bền. Thông
thường khi ta muốn nhớ lại điều gì đã xa xưa thì những chi tiết cụ thể dễ nhớ hơn
là những điều tóm tắt.
5. Quy luật liên kết:
- Quy luật này được Aristot phát hiện từ thê kỷ thứ 4 trước công
nguyên. Những khái niệm khoa học thường phát sinh do sự mời chào lẫn nhau giá
cái nọ với cái kia trong kho tri thức của bộ óc và chúng liên kết với nhau để phát
kiến ra những khái niệm. Chẳng hạn, cảnh quan của một cǎn phòng gợi nhớ các sự
kiện đã xảy ra trong đó (hoặc nhớ lại những điều gì anh đã đọc ở đó và cái ấy lại
tái hiện đúng hẹn theo nhu cầu ta cần nó).
6. Quy luật nối tiếp liên tục:
- Ta có thể đọc dễ dàng hệ thống chữ cái khi đọc xuôi nhưng thật khó
khǎn khi đọc ngược. Những tri thức khoa học, những khái niệm có được là do từng
sự nối tiếp cụ thể. Do vậy khi muốn nhớ lại phải đặt chúng trong từng hoàn cảnh
nối tiếp cụ thể mà ta đã tích luỹ được.
SV : Cao Thị Ái Nhi 7
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
7. Quy luật ấn tượng mạnh mẽ:
- Thông thường sức mạnh của ấn tượng đầu tiên về một cái gì đều tồn
tại ở trong trí nhớ. Â'n tượng càng mạnh thì hình ảnh càng sáng. Càng có nhiều
kênh thông tin thì càng tạo ra sức mạnh duy trì những thông tin ấy. Vì thế cần lưu
giữ tất cả những ấn tượng ban đầu mà mạnh nhất có quan hệ đến vấn đề ta có nhu
cầu nghiên cứu.
8. Quy luật kìm hãm:
- Sự ghi nhớ sau bao giờ cũng làm giảm sự ghi nhớ trước .Hệ quả của
trí nhớ hoá là công việc kiểm tra sự hiểu biết trước đây khi tìm hiểu các thông tin
mới. Tỷ trọng khối lượng của các thông tin cũ phải được xử lý ổn định trước khi
tiếp nhận các thông tin mới. Cách tốt nhất để "Vật chất hoá" các tri thức trong bộ
nhớ là ghi nhớ có hệ thống những hiện tượng, sự kiện của cái cũ đang ở thế phát
triển
PHẦN III : VẬN DỤNG CÁC QUY LUẬT TRÍ NHỚ VÀO DẠY HỌC HÓA
HỌC CHƯƠNG TRÌNH LỚP 10 NÂNG CAO
III.1 Quy luật hứng thú và nhận biết :
- Muốn ghi nhớ tốt câng tập trung sự chú ý vào một chuỗi liên tưởng bền
chắc, để gãy một mắt xích sẽ làm hỏng toàn bộ. Khi giáo viên tiến hành dạy theo
bất kỳ phương pháp nào cũng yêu cầu học sinh chú ý mới lĩnh hội được kiến thức.
Muốn vậy giáo viên cần tạo cho học sinh động cơ hứng thú học tập. vì khi có sự
hứng thú và niềm yêu thích môn học, các em mới dành thời gian, sự đầu tư vào
việc học, trong quá trình học mới tập trung tư tưởng để lĩnh hội kiến thức, có như
vậy học sinh sẽ ghi nhớ tài liệu, kiến thức một cách không chủ định => kiến thức
mới khắc sâu, nhớ lâu.
• Muốn xây dựng nghệ thuật trên, giáo viên cần xây dựng trên 3 nguyên tắc
sau :
1Bài học có thích hợp với hiểu biết của học sinh mới có thể gây được hứng thú cho
học sinh như mong muốn.
- Thời gian trung bình mà học dành ra để chú ý nghe một việc gì đó
là khoảng 20 phút, do đó phải tận dụng tối đa khoảng thời gian này, để truyền đạt
nội dung trọng tâm bài dạy. Điều này sẽ giải quyết mâu thuẫn giữa khối lượng kiến
thức ngày càng nhiều và khả năng tiếp thu và ghi nhớ có hạn của học sinh, giúp
học sinh nhớ bài tốt hơn.
= > Xác định kiến thức trọng tâm của bài là yếu tố quan trọng, giúp cho bài giảng
của giáo viên hiệu quả, học sinh nắm chắc được kiến thức cần thiết, ghi nhớ lâu
hơn.
- Để có thể khắc sâu kiến thức trọng tâm khi giảng dạy, giáo viên cần chú ý
* Lời nói : Nói to, chậm, nhắc lại nhiều lần
SV : Cao Thị Ái Nhi 8
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
* Viết bảng : Dùng phấn màu hợp lý, gạch chân. Đóng khung những kiến
thức cần nhớ…
* Sử dụng phương tiện trực quan: hình vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, thí nghiệm…
Ví dụ : Trong bài “ Lưu huỳnh đioxit. Lưu huỳnh trioxit ” : Tính chất oxi
hóa, khử của SO
2
và tính oxi hóa của SO
3
.
- Giáo viên sử dụng thí nghiệm biễu
diễn :
1. DD nước Brom tác dụng với khí
SO
2
( Có ống nghiệm để đối chứng)
2. Đốt cháy Mg trong SO
2
=> Học sinh quan sát nêu hiện tượng,
viết phương trình hóa học.
* Tổng kết, bổ sung câu trả lời của học
sinh, nhắc lại kiến thức trọng tâm :
- SO
2
là chất khử khi tác dụng với
những chất oxi hóa mạnh như halogen,
kali pemanganat…
- Lưu ý cho học sinh cách nhận biết
SO
2
bằng dd KMnO
4
(hoặc bằng dung
dịch brom)
- SO
2
thể hiện tính oxi hóa khi tác
dụng với H
2
S là chất khử mạnh như Mg,
H
2
S…
- SO
2
thể hiện tính oxi hóa và tính khử
b. SO
2
vừa có tính khử, vừa có tính oxi
hóa:
2
4
OS
+
+
2
0
Br
+2H
2
O→ 2
1
−
HBr
+
4
6
2
OSH
+
[K] [O]
⇒ tính khử
2
4
OS
+
+ 2
0
Mg
→
0
S
+ 2
OMg
2+
[O] [K]
⇒ tính oxi hóa
* Giáo viên nhấn mạnh cho học sinh
về tính chất hóa học đặc trưng của SO
3
:
- SO
3
mang đầy đủ tính chất của một
oxit axit và chú ý cho học sinh phản ứng
giữa SO
3
với H
2
O tỏa nhiều nhiệt
b. Tính chất hóa học :
- SO
3
là 1 oxit axi
SO
3
+ H
2
O
→
H
2
SO
4
( phản ứng tỏa nhiệt mạnh )
SV : Cao Thị Ái Nhi 9
* SO
2
vừa có tính khử vừa có tính oxi
hóa
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
- Trong quá trình giảng dạy bài, thì phần trọng tâm được phân bố thời gian
nhất, nhưng trong khoảng 20 phút trở lại, vì đó là thời gian học sinh có khả năng
chú ý có hiệu quả nhất, tiếp thu tốt nhất kiến thức bài học.
1. Để học sinh luôn ở trạng thái hoạt động tích cực, tham gia vào việc
giảng dạy của giáo viên
- Muốn vậy giáo viên phải tạo ra những tình huống có vấn đề, bài tập tư
duy…gây hứng thú cho học sinh, tránh sự buồn chán, đãng trí, mơ hồ cho học sinh.
Giúp học sinh tận dụng và phát huy vai trò của cả hai bán cầu trái và bán cầu phải
của mình. Vì học sinh thường xuyên phải động não để giải quyết những vấn đề
mâu thuẫn của vấn đề, và khi giải quyết được các vấn đề đó, các em sẽ hứng thú,
say mê hơn và sẽ nhớ lâu hơn những kiến thức đó.
Các tình huống có vấn đề :
• Tạo nên mâu thuẫn giữa kiến thức cũ và kiến thức mới
* Ví dụ : Trong bài axit sunfuric : Tạo ra tình huống có vấn đề khi nghiên
cứu tính oxi hóa của axit sunfuric đặc nóng.
- Bước 1. Tái hiện kiến thức cũ có liên quan: axit tác dụng với kim loại
đứng trước hiđro trong dãy hoạt động của kim loại và giải phóng hiđro.
- Bước 2. Làm xuất hiện mâu thuẫn: làm thí nghiệm biểu diễn về tác dụng
của axit sunfuric đặc nóng với đồng (là kim loại đứng sau hiđro). Vẫn thấy có phản
ứng hóa học xảy ra. Khí tạo ra không phải là H
2
mà là SO
2
.
- Bước 3. Phát biểu vấn đề: H
2
SO
4
đặc nóng có tác dụng cả với đồng là
kim loại đứng sau hiđro trong dãy hoạt động hóa học của kim loại. Nguyên nhân
sự không phù hợp với điều đã biết về tác dụng của axit với kim loại là ở đâu? Axit
sunfuric đặc nóng còn có những tính chất của axit không hay có thêm những tính
chất gì mới?
=> Giải quyết vấn đề nêu ra trong tình huống có vấn đề về tính chất oxi hóa của
axit H
2
SO
4
đặc nóng (Hóa học lớp 10).
Bước 1: Làm cho học sinh hiểu rõ vấn đề.
* GV làm thí nghiệm biểu diễn: Nhúng một dây đồng (hay lá đồng) đã cạo
sạch vào H
2
SO
4
đặc ở nhiệt độ thường. Hãy quan sát, nhận xét.
* GV nêu ra vấn đề : Đun nóng ống nghiệm đựng H
2
SO
4
đặc và dây đồng? có
hiện tượng gì? Thử suy nghĩ xem ở điều kiện nhiệt độ nào thì H
2
SO
4
đặc có tác
dụng với kim loại Cu? Ngoài tính axit ra, H
2
SO
4
đặc có thêm tính chất gì khác?
* GV hướng dẫn HS phát biểu các vấn đề cần giải đáp:
- Ở nhiệt độ thường H
2
SO
4
đặc có tác dụng với Cu không? Ở điều kiện nào thì
có phản ứng?
- Chất khí bay ra có phải là H
2
không? Đó là chất gì?
- Ngoài tính axit, H
2
SO
4
đặc có thêm tính chất gì khác?
Bước 2: Xác định phương hướng giải quyết. Nêu giả thuyết.
SV : Cao Thị Ái Nhi 10
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
- Tiếp tục đun nóng ống nghiệm chứa H
2
SO
4
đặc có nhúng dây đồng.
* GV : Để giải quyết vấn đề đầu tiên, hay so sánh ống nghiệm đựng
H
2
SO
4
đặc nguội có nhúng dây Cu với ống nghiệm đựng H
2
SO
4
đặc nóng có nhúng
dây Cu?
- Để giải quyết vấn đề thứ hai (chất khi bay lên có phải là H
2
không) ta có thể
thử bằng cách nào?
Dùng que đóm đang cháy đốt chất khí bay lên, nếu là H
2
, chất khí sẽ
cháy.
Dùng giấy màu hồng hay hoa dâm bụt (mới nhúng nước) đặt trên
miệng ống nghiệm, nếu là khí SO
2
, giấy màu (hay cánh hoa) sẽ mất
màu.
- Để giải quyết vấn đề thứ ba (H
2
SO
4
đặc nóng có thêm tính chất gì khác), GV
hướng dẫn HS lập luận và hoạt động như sau:
Sản phẩm được tạo thành trong phản ứng của H
2
SO
4
đặc nóng với Cu
là những chất gì?
Hãy quan sát màu dung dịch trong ống nghiệm và so sánh với ống
nghiệm đựng dung dịch CuSO
4
.
Hãy nhận xét màu, mùi của chất khí sinh ra trong phản ứng và tác
dụng của nó với giấy màu (hay hoa dâm bụt).
Viết phương trình phản ứng. Chỉ rõ quá trình cho và nhận electron của
các chất trong phản ứng? Chất nào là chất oxi hóa?
Bước 3: Xác nhận một giả thuyết đúng.
- Vấn đề 1: H
2
SO
4
đặc tác dụng với Cu
- Vấn đề 2: Học sinh :Chất khí sinh ra trong phản ứng không bị cháy khi đưa que
đóm đang cháy vào ống nghiệm, vậy nó không phải là H
2
.
Chất khí sinh ra trong phản ứng có mùi hắc, làm mất màu của giấy màu (hay
hoa), vậy khí sunfurơ SO
2
.
- Vấn đề 3: Học sinh : Dung dịch chất tạo thành có màu xanh giống như màu của
dung dịch CuSO
4
. Vậy chất tạo thành trong phản ứng là CuSO
4
và SO
2
Học sinh : Phương trình của phản ứng là:
Cu + 2H
2
SO
4 đặc
t
0
–> CuSO
4
+ SO
2
+ 2H
2
O
Cu – 2e –> Cu
S + 2e –> S
= > Học sinh : H
2
SO
4
là chất oxi hóa.
* GV: Dung dịch H
2
SO
4
đặc khi nóng là chất oxi hóa mạnh (chính xác hơn:
S
+6
là chất oxi hóa).
SV : Cao Thị Ái Nhi 11
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
Bước 4: Kết luận về lời giải. Giáo viên chỉnh lí, bổ sung và chỉ ra kiến thức lĩnh
hội.
Ngoài tính chất axit, khi đặc và nóng H
2
SO
4
còn có tính chất đặc thù là tính oxi
hóa, tác dụng được với tất cả các kim loại, trừ Ag, Au. Trong phản ứng có giải
phóng khí SO
2
mà không giải phóng khí H
2
.
Bước 5: Kiểm tra lại kiến thức vừa tiếp thu và dạy học sinh tập vận dụng kiến thức.
Cho học sinh làm bài tập viết phương trình phản ứng H
2
SO
4
đặc, nóng với thủy
ngân Hg.
= > có sự mâu thuẫn kiến thức cũ và kiến thức mới, những thắc mắc và dấu chấm
hỏi được tạo nên trong đầu học sinh. Yêu cầu đặt ra kèm theo gợi ý của giáo viên
làm cho học sinh tự mình tư duy, động não để tìm ra câu trả lời => vô hình chung
các thông tin đó sẽ được lưu giữ bền vững trong hệ thống kiến thức của học sinh
không hề bằng một cách máy móc nào, mà lại được lưu giữ lâu hơn, phát huy được
khả năng tư duy cho học sinh.
• Học sinh phân tích, so sánh, đối chiếu sự giống nhau để đi đến kết luận đúng
đắn
Ví dụ : So sánh cấu hình electron, độ âm điện của Flo và Clo để suy ra
tính chất hóa học giống và khác nhau giữa chúng.
9
F : Cấu hình e: 1s
2
2s
2
2p
5
độ âm điện : 3,98
18
Cl : Cấu hình e: 1s
2
2s
2
2p
6
3s
2
3p
5
độ âm điện : 3,16
=> Flo và Clo đều có độ âm điện mạnh nên có tính phi kim mạnh
Cấu hình electron của Flo và Clo có 5e ở lớp ngoài cùng => có tính oxi hóa mạnh,
- Flo không có AO d trống như Clo nên chỉ có số oxi hóa -1 => điểm khác
biệt
* Giáo viên đặt ra vấn đề :
Flo tác dụng với những kim loại nào ? so sánh với các phản ứng cộng
Clo với kim loại, điều đó chứng tỏ điều gì ?
Hãy so sánh điều kiện phản ứng giữa F
2
+ H
2
và Cl
2
+ H
2
. Đánh
giá khả năng phản ứng của F
2
. Rút ra kết luận gì ?
So sánh sản phẩm thu được khi cho F
2
+ H
2
O và Cl
2
+ H
2
O. Xác
định số oxi hóa của từng chất trong phương trình, Nhận xét ?
* Học sinh :
Flo oxi hoá được tất cả các kim loại kể cả Au, Pt.
2Au + 3F
2
2AuF
3
Clo tác dụng hầu hết các kim loại. Phản ứng xảy ra tốc độ nhanh, tỏa
nhiều nhiệt
=> Flo và Clo đều có tính oxi hóa mạnh
Học sinh : Ở nhiệt độ thường và trong bóng tối, clo oxi hóa chậm
hidro. Nhưng nếu chiếu sáng mạnh hoặc hơ nóng, phản ứng xảy ra nhanh hơn :
SV : Cao Thị Ái Nhi 12
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
H2(k) + Cl2(k) → 2HCl(k) ∆H = - 184,6 kJ
Phản ứng của Flo với hidro nổ mạnh ở nhiệt độ rất thấp (- 252°C). Phản ứng
tỏa nhiệt mạnh :
H2(k) + F2(k) → 2HF(k) ∆H = -288,6 kJ
Flo phản ứng dễ dàng hơn so với clo, nhiệt tỏa ra cũng nhiều hơn
= > Flo có tính oxi hóa mạnh hơn nhiều so với Clo
Học sinh : khi đun nóng H
2
O bốc cháy trong Flo, Flo oxi hóa được oxi
trong nước từ -2 lên 0
2F
2
+ 2H
2
O → 4HF + O
2
↑
Còn Clo tác dụng với nươc phản ứng thuận nghịch, trong đó Clo đóng vai
trò vừa là chất khử vừa là chất oxi hóa
= > Flo có tính oxi hóa mạnh hơn nhiều so với Clo
Từ 3 ý trên giáo viên kết luận : Flo là phi kim mạnh nhất, có tính oxi hóa rất mạnh,
mạnh hơn nhiều so với Clo
• Yêu cầu học sinh chọn lấy mỗi con đường để đi đến kiến thức :
- Giáo viên : Tại sao trong điều chế khí hydroclorua phải dùng muối tinh
thể và H
2
SO
4
đậm đặc mà không phải dùng dung dịch muối với H
2
SO
4
loãng ?
+ Tại sao không nên đổ nước vào H
2
SO
4
đậm đặc mà phải làm ngược lại ?
= > Làm cho học sinh tìm ra nhiều con đường để đi đến kiến thức : từ phủ định
đến khẳng định, hay từ khẳng định để đi đến phủ định.
* Ngoài hình thức đặt câu hỏi nêu vấn đề, giáo viên có thể cho học sinh trực
tiếp cùng nghiên cứu, thảo luận với nhau, qua đó các em được tự do trình bày quan
điểm, vốn hiểu biết kiến thức mà mình đã chuẩn bị , đồng thời tiếp nhận thêm
thông tin từ bạn bè, thầy cô, điều này sẽ giúp các em nhớ bài sâu sắc hơn.
Ví dụ : Trong bài : “ Sự biến đổi tính kim loại, phi kim của các nguyên tố hóa
nghiệm tự nghiên cứu, từ đó rút ra kết luận về sự thay đổi tính kim loại và phi kim
của các nguyên tố.
Thí nghiệm nghiên cứu : Học sinh cho Na, Mg và Ca tác dụng với H
2
O; của
Flo với Clo khi tác dụng với H
2
O
=> từ hiện tượng, khả năng phản ứng các chất, điều kiện phản ứng…. rút ra được
kết luận :
Trong mỗi chu kỳ, theo chiều tăng dần điện tích hạt nhân, tính kim loại giảm
dần, tính phi kim tăng dần.
Trong mỗi nhóm A,theo chiều tăng của điện tích hạt nhân, tính kim loại tăng
dần, tính phi kim giảm dần
2. Tạo bầu không khí thật thoải mái hứng thú trong lớp học.
- Vì sự buồn chán không gây được chú ý của học sinh. Để tạo bầu không khí
học tập cho học sinh, giáo viên cần có sự vui vẻ nhiệt tình, sôi nổi quan tâm đến
SV : Cao Thị Ái Nhi 13
0 -2 -1 0
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
học sinh, thì học sinh mới thấy sự đam mê,yêu thích bộ môn và cố gắng học tập, do
đó những kiến thức trừu tượng đối với các em cũng trở nên dễ học và nhớ lâu.
- Mặt khác giáo viên phải chọn hình thức dạy học hấp dẫn lôi cuốn, gây sự
chú ý ngay từ đầu và trong suốt buổi học như :
Vào bài : Vào bài học không đơn thuần là liên hệ kiến thức cũ sang kiến
thức mới mà sự vào bài hấp dẫn lôi cuốn, gây hứng thú sẽ tạo ra được sự thu hút,
sự chú ý của họ sinh. Muốn vậy giáo viên cần có sự đa dạng hóa các hình thức mở
bài : vào bài bằng một câu chuyện, đặt câu hỏi hay liên hệ thực tế, ứng dụng của
các chất….
- Hoặc có thể kể những câu chuyện vui về các nhà bác học, về các phát
minh tình cờ, những câu chuyện vui hóa học.
Ví dụ 1 : Vào bài của bài “ Thành phần nguyên tử ”
* Giáo viên cũng có thể kể câu chuyện vui : Nhà bác học người Anh nổi
tiếng Giô-det Giôn Tôm-xơn cũng giống như đa số các nhà bác học khác ở thế kỷ
19, tin tưởng mãnh liệt rằng nguyên tử là những phần tử nhỏ bé của vật chất không
thể có cấu tạo nào bên trong hết. Một hôm người trợ giáo của Tôm-xơn hỏi ông:
“Ông nghĩ gì về cấu tạo bên trong nguyên tử ? ”
Anh bạn trẻ ạ! Tôi nghĩ rằng – nhà bác học tức giận ngắt câu hỏi – Nếu anh biết
tiếng Latinh thì anh sẽ không hỏi như thế. “Nguyên tử” dịch từ tiếng Latinh có
nghĩa là “không thể chia cắt được”.
Nhưng chẳng bao lâu sau, vào năm 1903 chính Tôm-xơn đã đưa ra mô hình đầu
tiên giải thích cấu tạo bên trong của nguyên tử.
- Ví dụ 2 : Khi giảng dạy bài Clo giáo vên có thể kể câu chuyện như :
“Schiller – nhà hóa học Thụy Điển xuất thân từ gia đình nghèo, phải bỏ học đi làm
thuê cho một nhà bào chế. Từ năm 14 tuổi, cậu bé Schiller đã tự mình đi vào hóa
học. Năm 1775, những công trình thực nghiệm của ông đã nổi tiếng thế giới. Ông
đã phát minh nhiều định luật cơ bản của hóa học. Schiller có thói quen làm việc
say mê. Công việc thí nghiệm của ong phải tiếp xúc thường xuyên với các chất độc
hoặc dễ nổ, cháy và có thể gây ra những tai họa bất ngờ. Một hôm, trước khi vào
phòng thí nghiệm, ông dặn người giúp việc: “Tôi sắp làm thí nghiệm với khí clo.
Nếu chẳng may tôi ngã, gọi anh thì chớ vào vội mà phải mở tung cửa rồi chạy
nhanh ra ngoài!”. Người giúp việc hốt hoảng can ngăn nhưng ông điềm nhiên:
“Không thể được. Tính mệnh của tôi không phải là điều quan trọng! Quan trọng
hơn là phải tìm ra những tính chất của khí clo cơ”. Người giúp việc chỉ biết lắc đầu
mà thôi”
Ví dụ 3: Đơn giản là các bài thí nghiệm, như bài thí nghiệm số 1 “ Một số thao
tác thực hành thí nghiệm hóa học. Sự biến đổi tính chất của các nguyên tố chu kỳ
và nhóm”. Giáo viên cho học sinh xem một số video thí nghiệm vui hoặc đoạn
phim cảnh báo nguy hiểm trong phòng thí nghiệm do sự tò mò hiếu động của học
SV : Cao Thị Ái Nhi 14
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
sinh như : Mr Bean Chemistry ( mang tính hài hước và cảnh báo một số nguy hiểm
khi thực hành hóa học )
= > Chính những điều này sẽ tạo bầu không khí vui vẻ, hứng thú cho học sinh, làm
cho học sinh bớt căng thẳng, làm cho học thêm yêu thích và có sự chú ý vào bài
học.
Nói vui : Với những vấn đề cụ thể hóa những điều trừu tượng, giáo viên cần
làm cho sự việc trở nên gần gũi với các em, điều đó sẽ gây được sự chú ý, ấn tượng
mạnh mẽ đối với các em học sinh, do đó các vấn đề sẽ trở nên dễ hiểu hơn, dễ nhớ
hơn.
Ví dụ : Trong lúc diễn tả lực hút giữa các hạt nhân nguyên tử và các electron
bên ngoài , giáo viên nói “ Giả sử cô là hạt nhân nguyên tử, còn các em là các
electron. Các em ở gần cô hơn sẽ nghe cô rõ hơn so với các em ở phía dưới lớp”.
Nếu có bạn ở bên ngoài đến rủ chơi, ai sẽ nhanh chóng chuồn khỏi lớp, bốc hơi dễ
dàng hơn, những em ở gần cô, hay các em ở xa cô ? ”
III.2 Quy luật gây ấn tượng mạnh mẽ và quy luật nhớ có ý thức :
- Sự ghi nhớ có chọn lọc theo mức độ ưu tiên khác nhau tùy vào đặc điểm
của từng tài liệu. Tài liệu càng dễ nhớ khi tạo ra được sự chú ý hấp dẫn, sinh động
gây hứng thú, ấn tượng mạnh hay gây ra một sự tranh cãi có vấn đề giải quyết chưa
trọn vẹn. Chính vì vậy, các hình thức vận dụng quy luật gây ấn tượng mạnh mẽ và
nhớ có ý thức cũng chính là các hình thức dạy học ở quy luật hứng thú và nhận
biết. Nội dung của chúng bổ sung cho nhau. Ở đây biện pháp quan trọng nhất
chính là biện pháp sử dụng tối đa các giác quan : mắt nhìn, miệng nói, tai nghe, tay
viết, mà quan trọng nhất là thị giác.
- Bởi vì hình ảnh cụ thể bao giờ cũng dễ nhớ hơn ngôn ngữ trừu tượng.
Cách tốt nhất ở đây, chính là sử dụng các phương tiện trực quan. Đồng thời dạy
học theo phương pháp trực quan sẽ gây sự chú ý, tập trung học sinh dễ dàng hơn,
vì các phương tiện trực quan sẽ cụ thể hóa những vấn đề trừu tượng giúp học sinh
tri giác trực tiếp và tiết học trở nên sống động hơn, khiến học sinh học tập một
cách tò mò, thích thú.
• Các hương tiện trực quan có thể dùng là :
1. Mô hình: Khi giảng dạy các bài về cấu tạo chất, nguyên tử, phân tử,
quá trình sản suất, các mô hình sẽ giúp cho học sinh dễ hình dung hơn và hiểu
đúng bản chất vấn đề. Với những mô hình đơn giản giáo viên sẽ giúp cho tiết học
trở nên sinh động.
Ví dụ : Mô hình phân tử :
SV : Cao Thị Ái Nhi 15
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
2. Hình vẽ tranh ảnh : Các hình vẽ không chỉ cụ thể hóa nội dung mà còn
thể hiện sự liên tưởng vui nhộn, nên lôi cuốn học sinh, giúp học sinh khắc sâu kiến
thức.
Ví dụ : Trong bài tinh thể nguyên tử. Tinh thể phân tử
SV : Cao Thị Ái Nhi 16
O
2
và O
3
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
- Sử dụng hình ảnh các mạng tinh thể I
2
, tinh thể kim cương và tinh thể
NaCl để học sinh hình dung được những khái niệm thế nào tinh thể nguyên tử,
phân tử, tính chất của chúng một cách cụ thể và dễ hiểu hơn.
- Đặc biệt những bài điều chế clohidric, axit sunfuric trong công nghiệp…là
những kiến thức khó tiếp thu, khó nhớ. Do đó, khi giáo viên sử dụng các sơ đồ mô
phỏng trình bày cho học sinh những cơ sở kỹ thuật tổng hợp sẽ giúp học sinh tiếp
thu đơn giản hơn, dễ hiểu hơn, nhớ lâu hơn.
- Đó là sử dụng hình vẽ khi giảng bài những hình vẽ khi giảng bài mới. Mặt khác
một số bài tập nhằm cũng cố kiến thức cho học sinh, nếu không sử hình ảnh thì
khó có thể giải quyết một cách rõ ràng. Do đó giáo viên cũng dưa hình ảnh vào để
giải bài tập
Ví dụ : Giải thích sự lai hóa sp
3
và tạo thành phân tử CH
4
có góc liên kết H-C-H
là 109
0
28’
=> Giải thích : Đó là sự tổ hợp của 1 obitan s với 3 onitan p tạo thành 4 obitan lai
hóa sp
3
định hướng từ tâm đến bốn đỉnh của tứ diện đều, các trục đối xứng của
chung nối lại với nhau một góc 109
0
28’
3. Thí nghiệm : Đặc trưng môn hóa học là môn khoa học thưc nghiệm kết
hợp với tư duy lý thuyết, chính vì vậy giáo viên nên kết hợp các thí nghiệm đơn
giản, hướng dẫn cho học sinh quan sát và giải thích các hiện tượng. Điều này sẽ
giúp học sinh tò mò, khám phá kiến thức và hứng thú học tập, loi kéo sự chú ý của
học sinh và giúp học sinh nhớ rất lâu.
Ví dụ : Trong bài “ Tốc độ phản ứng hóa học”
- Để thể hiện ảnh hưởng của nồng độ đến tốc độ phản ứng ta thực hiện thí
nghiệm Na
2
S
2
O
3
với 2 nồng độ khác nhau.
SV : Cao Thị Ái Nhi 17
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
• Một cốc a đựng 25ml dung dịch Na
2
S
2
O
3
0.1 M và một cốc b đựng 10 ml
dung dịch Na
2
S
2
O
3
0.1 M
Thêm vòa 15ml nước cất để pha loãng dd . Đổ đồng thời vào mỗi cốc 25ml
dd H
2
SO
4
0.1M, khuấy đều cả 2 dung dịch. So sánh thời gian xuất hiện , màu
trắng đục của lưu huỳnh trong hai cốc ?
- Ta thấy cốc a xuất hiện nhanh hơn => tốc độ phản ứng cốc a nhanh hơn
=>Kết luận : khi tăng nông độ chất phản ứng, tốc độ phản ứng tăng.
* Hiện nay với sự phát triển mạnh về công nghệ thông tin, giáo viên cần vận
dụng để làm cho bài dạy thêm đa dạng, phong phú hấp dẫn hơn. Sử dụng đèn
chiếu phim ảnh, flash hóa học, phim thí nghiệm…Các hình ảnh sẽ cung cấp cho
học sinh những tư liệu quý giá về các kiến thức còn mơ hồ, chưa quan sát được
trực tiếp. Qua đó các e, sẽ thích thú hơn môn học, dễ nhớ bài hơn.
III.3 Quy luật nối tiếp liên tục ( trình tự ) :
- Các sự kiện được chú ý theo thứ tự nhất định thì khi nhớ lại cũng theo thứ tự
đó. Giáo viên trình bày một cách logic, khoa học, các kiến thức đi từ dễ tới khó, từ
đơn giản đến phức tạp.Qua đó học sinh tập ghi chép bài một cách khoa học, rõ
ràng và nắm bắt kiến thức theo thứ tự, dễ tái hiện, dễ nhớ. Thương một bài hóa
học về chất có cấu tạo chung là : Cấu tạo phân tử, tính chất vật lý, trạng thái thiên
nhiên, tính chất hóa học, ứng dụng điều chế. Trong tính chất hóa học, đầu tiên là
tác dụng với đơn chất, rồi đến hợp chất, sau cùng là phản ứng đặc trưng. Cứ theo
một trình tự như vậy các em sẽ dễ nhớ hơn.
Ví dụ : dàn bài của bài Oxi
I – Vị trí và cấu tạo:
Nguyên tử oxi Phân tử oxi
Kí hiệu hóa học :
8
O Công thức : O
2
Nguyên tử khối : 16 Phân tử khối : 32
Cấu hình electron : 1s
2
2s
2
2p
4
Công thức electron :
O
O
:
:
:
:
:
:
CTCT: O = O
II – Tính chất vật lí:
- Khí, không màu, không mùi, không vị.
d
O
2
/kk
= 1,1
- Tan ít trong nước
- Độ tan: 0,0043(g) O
2
/1000(g)H
2
O ( ở 20
o
C, 1atm )
III– Tính chất hóa học:
- Tác dụng với hầu hết kim loại, phi kim, hợp chất.
SV : Cao Thị Ái Nhi 18
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
O
+ 2e
O
2-
o
→ tính oxi hóa mạnh.
1. Tác dụng với kim loại:
3Fe + 2O
2
Fe
3
O
4
t
o
+8/3
-2
00
2. Tác dụng với phi kim:
C + O
2
CO
2
0 0
+4
-2
3. Tác dụng với hợp chất:
C
2
H
5
OH + O
2
2CO
2
+ 3H
2
O
-2
0
+4
-2
CO + 1/2O
2
CO
2
+4
-2
+2 -2
0
- Kết luận:
+ Tính oxh mạnh.
+ Số oxh đặc trưng trong hợp chất là -2.
IV - Ứng dụng:
V – Điều chế:
- Trong PTN:
+ Nguyên tắc:
Chất : giàu oxi, dễ bị nhiệt phân
2KMnO
4
K
2
MnO
4
+ MnO
2
+ O
2
t
o
KClO
3
KCl + 3/
2
O
2
MnO
2
t
o
- Trong CN:
+ Phương pháp chưng cất phân đoạn
+ Điện phân nước:
2H
2
+ O
2
dpdd
NaOH hoac H
2
SO
4
2H
2
O
SV : Cao Thị Ái Nhi 19
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
* Đặc biệt một số bài trong sách không có dàn bài cụ thể mà chỉ giới thiệu
chung tổng quát, thì giáo viên cần lập dàn bài chi tiết hơn cho học sinh dễ hiểu. Tuy
nhiên tránh việc lập dàn bài quá chi li với những chi tiết vụn vặt, gây rối cho học
sinh.
III.4 Quy luật liên kết và nhận thức :
- Muốn ghi nhớ điều gì phải tìm cách liên kết nó với cái khác. Vì không có một
sự kiện nào tự thân hiện hữu đọc lập mà tất cả phải liên kết với một sự việc khác
trong ký ức.
* Các bài trong một chương đều có sự kế thừa kiến thức lẫn nhau, khi giảng
dạy, giáo viên nên xâu chuỗi kiến thức lại, tạo ra một liên kết, giúp học sinh dễ dàng
nắm bắt và khắc sâu kiến thức. Như trong các bài về nhóm halogen, nhóm oxi…
Vận dụng các kiến thức nền tảng như các bài nguyên tử, liên kết hóa học… để
tạo ra mắt xích dạy học trong các bài nghiên cứu về cấu tạo chất, mở rộng, dự đoán
tính chất vật lý, hóa học…Tạo cho học sinh một liên kết bền vững,các kiến thức sẽ
được khắc sâu hơn.
Muốn nhớ nhanh, nhớ lâu phải thấu hiểu vấn đề, tìm ra mói liên hệ
logic giữa :
• Kiến thức mới và kiến thức sẵn có
• Các vật có tính chất tương tự hay tương phản nhau
• Các ý tưởng , các bộ phận của kiến thức
• Vốn kiến thức đã có và thực tế cuôc sống
* Các biện pháp dạy học sau :
1. Lập sơ đồ biểu bảng : Với kiến thức càng rộng, việc ghi nhớ và vân dụng
đối với học sinh là khó khăn. Chính vì vậy lập sơ đồ, biểu bảng có mục đích :
- Hệ thống hóa kiến thức : Sau mỗi bài học, mỗi chương, việc hệ thống
hóa kiến thức bằng các sơ đồ biểu bảng làm cho kiến thức cô đọng, ngắn gọn, học
sinh dễ nhớ.
Ví dụ: Sau khi học xong cấu trúc nguyên tử, học sinh sẽ khó nhớ chính xác
điện tích, khối lượng của các hạt trong nguyên tử. Để giúp học sinh dễ nhớ, giáo
viên có thể hệ thống hoá bằng bảng biểu sau:
Loại hạt Điện tích Khối lượng
Proton 1+ 1 đvC
Nơtron 0 1 đvC
Electron 1- 5,5.10
-4
đvC
SV : Cao Thị Ái Nhi 20
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
Tuy nhiên việc hệ thống hoá kiến thức nhằm nhớ lâu sẽ trở nên mất tác dụng nếu
học sinh học rập khuôn, không có sự phát triển tư duy và hiểu sâu sắc các vấn đề
chi tiết.
So sánh học kiến thức: Thủ pháp so sánh là một thủ pháp hoạt động ghi nhớ
nhằm hiểu tài liệu cần nhớ tới mức tối đa. Giáo viên trong quá trình giảng bài phải
luôn có sự so sánh đối chiếu, mặt giống nhau và khác nhau giữa kiến thức cũ và
kiến thức mới, sự tương phản giữa các mặt đôi lập để rút ra những kết luận thích
hợp, đồng thời cần hướng dẫn học sinh thực hiện biện pháp so sánh. Từ đó học
sinh hiểu rõ vấn đề hơn và dễ ghi nhớ bài học.
Ví dụ: So sánh liên kết ion và liên kết cộng hoá trị:
Giống nhau: Liên kết ion và liên kết cộng hoá trị giống nhau về nguyên nhân
hình thành liên kết. Các nguyên tử liên kết với nhau tạo thành phân tử để có cấu
hình electron bền vững của khí hiếm.
Khác nhau: Liên kết ion và liên kết cộng hoá trị khác nhau về bản chất liên
kết và điều kiện liên kết.
Liên kết ion Liên kết cộng hoá trị
Bản chất Là lực hút tĩnh điện giữa các
ion mang điện tích trái dấu
Là sự dùng chung của
các electron
Ví dụ Na
+
(h) + Cl
-
(h) NaCl(h) H + Cl HCl
Điều kiện liên kết Xảy ra giữa những nguyên
tố khác hẳn về bản chất hoá
học (thường xảy ra với các
kim loại điển hình và phi
kim điển hình).
Xảy ra giữa hai nguyên
tố giống nhau hoặc gần
nhau giống nhau về bản
chất hoá học (thường
xảy ra với các nguyên
tố phim kim nhóm IVA,
VA, VIA, VIIA).
Giúp giải các bài tập nhận biết, tách riêng từng chất được trình bày ngắn gọn, dễ
hiểu, dễ ghi nhớ. Vì nếu không dùng sơ đồ, biểu bảng mà dùng lời giải thích thì rất
dài dòng, trừu tượng làm rối trí học sinh, khó tiếp thu, khó nhớ.
Ví dụ: Không dùng hoá chất hãy nhận biết các lọ mất nhãn chứa các hoá
chất sau: MgCl
2
, Na
3
PO
4
, NaOH, AgNO
3
.
MgCl
2
Na
3
PO
4
NaOH AgNO
3
Kết luận
MgCl
2
↓trắng ↓trắng ↓trắng Có 3 ↓trắng
Na
3
PO
4
↓trắng tan ↓vàng Có 1 ↓trắng
+ 1 ↓vàng
NaOH ↓trắng tan ↓nâu Có 1 ↓trắng
SV : Cao Thị Ái Nhi 21
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
+ 1 ↓nâu
AgNO
3
↓trắng ↓vàng ↓nâu Có 3 ↓trắng,
nâu, vàng
Liên hệ thực tế: Hoá học là một môn học có nhiều ứng dụng rộng rãi và quan trọng
nhất trong cuộc sống. Chính vì vậy, khi giảng dạy ngoài những lý thuyết, việc liên
hệ thực tế để giải thích những hiện tượng tự nhiên xảy ra hàng ngày, ngay xung
quanh học sinh, sẽ giúp học sinh tiếp cận với thế giới khoa học một cách thực sự,
chân thực hơn, làm phong phú sinh động thêm bài học, dễ gây chú ý ở học sinh và
dễ làm học sinh nhớ bài lâu hơn.
Ví dụ:
+ Bài ozon: Liên hệ đến lợi ích bảo vệ loài người của tầng ozon và thủng
tầng ozon kêu gọi các em cùng nhau bảo vệ trái đất bằng cách bảo vệ môi
trường trong sạch, hạn chế sự ô nhiễm.
+ Bài photpho: Giải thích hiện tượng ma trơi, giúp các em giải toả tâm lí sợ
ma, chống mê tín dị đoan.
* Giáo viên khi liên hệ thực tế hãy sử dụng sơ đồ biểu bảng nhằm hệ thống
hoá, so sánh kiến thức, cần hướng dẫn học sinh tự tìm ra những mối liên hệ giữa
các kiến thức, khả năng quan sát các sự vật hiện tượng xảy ra xung quanh có liên
quan tới môn học. Điều này sẽ giúp các em rèn luyện óc liên tưởng, tự rèn luyện trí
nhớ theo quy luật liên tưởng.
* Sử dụng câu thơ, câu văn, chữ vần: Đây là những mẹo nhớ nhanh nhằm
giúp tiết học thêm sinh động, hấp dẫn, đồng thời giúp học sinh liên tưởng ra những
nội dung cần thiết, dễ ghi nhớ . Dĩ nhiên hiểu bài mới nhớ lâu và đó là trí nhớ tốt,
nhưng đôi khi những mẹo nhớ này cũng giúp ích nhiều cho học sinh: tiết kiệm thời
gian, vận dụng tốt vào bài học, bài tập,….
Ví dụ:
1.Dãy điện hoá:
K Ba Ca Na Mg Al Mn Zn Cr Ni Sn Pb H Cu Hg Ag Pt Au.
Khi Bạn Cần Nàng May Áo Màu Za Cam Nhớ Sang Phố Hỏi Cửa Hàng Á Phi Âu.
2.Sau khi học xong tính chất hoá học của HCl, giáo viên đưa ra bài thơ:
“Axit gì nhận biết
Bằng quỳ tím đổi màu,
Thêm và bạc nitrat
Tạo kết tủa trắng phau?”
“Rằng clohydrit kể đầu
Nó làm quỳ tím chuyển màu đỏ anh
Bạc nitrat kết tủa nhanh
SV : Cao Thị Ái Nhi 22
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
Trắng phau bột trắng hiền lành thế thôi”.
III.5 Quy luật tích lũy và lặp lại
- Muốn nhớ điều gì phải lặp đi lặp lại thật nhiều lần. Sự lặp lại ở đây không
phải đơn thuần là sự nhắc lại những điều đã học y như trước một cách máy móc mà
là sự lặp lại nâng cao, có sự tích lũy và phát triển thêm kiến thức, phát huy khả
năng tư duy của học sinh. Do vậy, tuy đây là quy luật được sử dụng nhiều nhất,
xuyên suốt trong quá trình giảng dạy, nhưng vận dụng tốt quy luật này để giúp học
sinh hiểu và nhớ lâu kiến thức rất khó. Giáo viên cần áp dụng biện pháp “lặp đi lặp
lại” này không theo một cách máy móc mà phải có phương pháp và khoa học.
Trả bài: Đây là một khâu khá quan trọng trong việc giúp học sinh ghi nhớ
kiến thức.
Vì học sinh phải về nhà học thuộc bài, vận dụng những kiến thức đã học vào
giải bài tập nên sẽ nhớ lâu kiến thức. Tuy nhiên, hình thức này có một nhược điểm
lớn là nhiều khi học sinh được trả bài rồi không sợ bị trả nữa, hoặc các em sẽ học
thuộc theo cách học vẹt. Nên giáo viên cần tạo tâm thế thoải mái khi học sinh trả
bài, không bắt học sinh trả lời đúng theo từng câu chữ thầy dạy mà nên giúp các
em diễn đạt theo ngôn ngữ của các em nghĩa là ghi nhớ dựa trên sự hiểu rõ vấn đề.
Lặp lại trong bài giảng, khi hết bài, khi bắt đầu dạy bài mới.
Kiến thức lặp lại ở đây có thể là sự so sánh kiến thức cũ với kiến thức mới,
kiến thức mới so với kiến thức mới hoặc đơn giản chỉ là sự nhắc lại và nhấn mạnh
thêm. Điều này sẽ giúp học sinh thường xuyên củng cố lại kiến thức, nên kiến thức
sẽ nhớ lâu hơn.
Ví dụ: Sau khi giảng phần cấu hình electron nguyên tử, giáo viên thường
yêu cầu học sinh nhắc lại các bước và vận dụng viết cấu hình của các nguyên tử
Na, K,…
Củng cố: đối với tiết truyền thụ kiến thức mới, những kiến thức mà giáo viên
mới hình thành cho học sinh sẽ không vững chắc nếu giáo viên không củng cố
ngay. Chính vì vậy giáo viên cần thực hiện tốt khâu củng cố: không chỉ củng cố
toàn bài mà nên củng cố toàn phần. Các hình thức để củng cố bài cũng rất đa dạng:
đàm thoại, đặt câu hỏi, dùng sơ đồ, biểu bảng (hệ thống hoá kiến thức, so sánh, ),
câu thơ, chữ vần,….giúp cho học sinh vừa hiểu sâu vừa nhớ lâu, phát huy được
tính tích cực.
Ví dụ:
* Củng cố từng phần:
- Sau khi giảng xong phần sản xuất oxi từ không khí, giáo viên có thể tóm
gọn nội dung đó bằng sơ đồ:
SV : Cao Thị Ái Nhi 23
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
* Củng cố cuối bài:
Bằng cách đặt câu hỏi:
Ví dụ: Bằng cách cho bài tập:
Ví dụ: Cho các chất Ag, Zn, CaCO
3
, NaNO
3
, Ba(NO
3
)
2
. Hỏi H
2
SO
4
(loãng,
đặc) tác dụng được với những chất nào? Viết phương trình phản ứng (bài axit
sunfuric).
Hay trong bài lưu huỳnh, lặp lại kiến thức bằng cách cho học sinh hoàn
thành sơ đồ sau và tính chất của lưu huỳnh trong từng phản ứng.
Hoàn thành sơ đồ biến hóa sau đây:
SO
2
SV : Cao Thị Ái Nhi 24
Trường Đại Học Sư Phạm Huế GVHD : Phan Thế Bình
ZnS H
2
S S
H
2
SO
4
Bài giải:
ZnS + H
2
SO
4(loãng)
ZnSO
4
+ H
2
S
2H
2
S + O
2(thiếu)
2H
2
O + S
H
2
S + 4Cl
2
+ 4 H
2
O H
2
SO
4
+ 8 HCl
2H
2
S + 3 O
2(dư)
2H
2
O + 2SO
2
Đặc biệt, giáo viên nên tránh hình thức chỉ nhắc lại các điểm chính của bài.
Vì học sinh chỉ thụ động nghe không phát huy tính tích cực = >kiến thức còn mơ
hồ sẽ khó nhớ hơn.
Ôn tập:”Ôn tập là mẹ của trí nhớ”. Giáo viên không nên bắt học sinh phải ôn
tập một cách ngây ngô và máy móc mà cần phải có phương pháp thích hợp.
Giờ ôn tập chính là giữa giờ sửa bài tập cho các em. Không một công thức,
kí hiệu, phương trình phản ứng nào mà nhớ lâu nếu không được vận dụng vào bài
tập. Vì bài tập giúp học sinh nhớ lại tính chất của các chất, các phương trình phản
ứng xảy ra, hiểu sâu hơn về các nguyên lý và định luật, những kiến thức chưa được
nắm vững chưa được nắm kĩ thì thông qua giải bài tập sẽ giúp học sinh hiểu sâu
hơn và nhớ lâu hơn. Trong quá trình sửa bài tập, giáo viên cần tuân thủ quy luật
trình tự, kiến thức đi từ dễ đến khó, lý thuyết tới bài tập. Thông thường trong một
giờ bài tập: các bài tập về chuỗi phản ứng, nhận biết, điều chế (đây là dạng bài tập
ôn lại lý thuyết đã học) được làm đầu tiên sau mới đến các bài tập đơn giản chứa
một ẩn, hai ẩn rồi biện luận,….và cuối cùng mới đến các bài tập nâng cao.
Đồng thời trong giờ ôn tập, giáo viên cũng phải áp dụng các quy luật khác
để quá trình lĩnh hội kiến thức trở nên dễ dàng hơn, bầu không khí thoải mái, hứng
thú giúp học sinh nhớ bài tốt.
III.6 Quy luật kìm hãm
- Sự ghi nhớ sau bao giờ cũng làm giảm sự ghi nhớ trước. Vì vậy giáo viên
cần luôn nhấn mạnh kiến thức trọng tâm cho học sinh để giúp các em ghi nhớ
những kiến thức cốt lõi, quên đi những cái không cần thiết. Nếu kiến thức chồng
chất, không được sắp xếp hợp lý, các kiến thức không liên kết hợp lý với nhau, vô
tình chính trí nhớ của bạn lạ kìm hãm khả năng nhớ của bạn.
Giáo viên cần chỉ cho học sinh biết chú ý là các em biết quyết định đâu là
những điều đáng ghi nhớ và đâu là những điều có thể bỏ qua và quên.
SV : Cao Thị Ái Nhi 25