Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu Luận Triết Học SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.43 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

Tiểu Luận Triết Học
Đề tài số 5
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
NHO GIA VÀ PHÁP GIA
Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI
HVTH : Phan Thị Nguyên Thảo
St : 93
Nhóm : 07
Lớp : Cao học Ngày 4 – K22
GVHD : TS. Bùi Văn Mưa
TP.HCM, Tháng 12 năm 2012
Page 1
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
  
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………….
MỞ ĐẦU
Page 2


1. Lí do chọn đề tài.
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, đây được coi là một trong hai trung
tâm tư tưởng và văn hóa lớn của thế giới cổ, trung đại (Ấn Độ và Trung Hoa). Những tư
tưởng triết học và văn hóa của nó đã có những ảnh hưởng sâu rộng đến nền văn minh
Trung Hoa nói chung và cả Đông Á nói riêng; Nó đã được hình thành từ thời Tây Chu và
phát triển mạnh vào thời Đông Chu với sự xuất hiện của 6 trường phái triết học chính là:
Nho Giáo, Mặc Gia, Đạo Gia, Âm - Dương Gia, Danh Gia, Pháp Gia. Lịch sử gọi thời kỳ này
là “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “Bách gia minh tranh” (trăm nhà đua tiếng).
Vì vậy, nghiên cứu lịch sử triết học Trung Hoa cổ là rất cần thiết để góp phần tìm
hiểu lịch sử tư tưởng, văn hóa của dân tộc. Trong đó Nho Gia và Pháp Gia là hai trường
phái triết học có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam không như trong thời xưa mà còn
đến cả xã hội hiện đại ngày nay.
Để hiểu rõ hơn về sự giống và khác nhau giữa Nho Gia và Pháp Gia, về quá trình
hình và phát triển, những ảnh hưởng đến xã hội Trung Quốc cổ đại. Em đã chọn thực hiện
đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Nho gia và Triết học Pháp gia ở Trung
Quốc cổ đại”
2. Mục tiêu đề tài.
Đề tài này giúp cho học viên cao học hiểu rõ hơn về Triết học Trung Quốc, chủ yếu
là Nho Gia và Pháp Gia. Chủ yếu là học viên đi sâu vào sự tương đồng và khác biệt giữa hai
trường phái triết học này để có sự hiểu biết đúng đắn và sâu sắc.
3. Cấu trúc nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nghiên cứu gồm có 3 chương:
1. Cơ sở lí luận về Nho Gia và Pháp Gia.
2. Sự tương đồng và khác biệt triết học Nho Gia và triết học Pháp Gia.
Page 3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
NHO GIA VÀ PHÁP GIA
1.1 Triết học Nho Gia thời Trung Quốc cổ đại.
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Nho Gia.
Nói đến Nho giáo thì việc đầu tiên không thể không nhắc tới: đó là Khổng Tử.

Khổng Tử là người nước Lỗ thời Xuân Thu tên là Khâu, tự là Trọng Ni. Từ thiếu niên đến
30 tuổi, Khổng Tử chuyên cần học tập và tập luyện nắm vững các tri thức về lễ nghi, âm
nhạc, xạ tiễn, ngự xạ, thư, số là sau ngành tri thức căn bản thời ấy. Sau đó ông đi giảng
dạy bốn phương, nghiên cứu học vấn trong vài chục năm rồi san định, biên soạn các sách
được đời sau gọi là lục kinh như Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu.
Khổng Tử sống trong thời kỳ thay đổi lớn, biến động lớn. Từ lâu, thiên tử nhà Chu
đã mất hết uy quyền, quyền lực rơi vào tay các vua chư hầu, cục thể xã hội biến chuyển
thay đổi nhanh chóng, người ta mỗi người chọn cho mình những thái độ sống khác nhau.
Là một triết nhân thái độ của Khổng Tử hết sức phức tạp, ông vừa hoài cổ, vừa sùng
thượng đổi mới. Trong tâm trạng phân vân, dần dần ông hình thành tư tưởng lấy nhân
nghĩa để giữ vững sự tồn tại chung và khai sáng hệ thống tư tưởng lớn nhất thời Tiên
Tần là học phái Nho giáo tạo ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội Trung Quốc.
Dưới thời nhà Hán năm 206 tr.CN Nho giáo được lựa chọn và sử dụng như là vũ
khí tinh thần và nó có vị trí, vai trò cao nhất so với Đạo giáo và Phật giáo. Nho giáo thời
kỳ này được nhấn mạnh ở tư tưởng thiên mệnh, nghĩa, lễ ở tinh thần phục tùng của bề
dưới đối với bề trên.
Dưới triều đại nhà Đường thì Nho giáo không chiếm vị trí trọng tâm trong xã hội
mà nhường chỗ cho Phật giáo. Đến thời nhà Tống Nho giáo lại chiếm một vị trí cao nhất
trong xã hội. Hán Dũ kêu gọi các nhân sĩ trở về với tư tưởng nhân nghĩa của Khổng Tử,
đề cao Mạnh Tử và trở thành ngọn cờ tư tưởng có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Từ thế kỷ
XII, đời nhà Tống, dòng tư tưởng này được các nhà Nho phát triển, nổi bật là hai anh em
Page 4
Trình Hạo (1032 - 1085), Trình Di (1033 - 1107). Nho giáo cho đến thời kỳ này đã trở
thành một hệ thống triết học, chính trị, đạo đức, xã hội hoàn chỉnh.
Dưới triều đại Nguyên Mông thống trị Trung Hoa, Nho giáo vẫn được suy tôn,
được thể hiện ở công việc giảng đạo và thi cử. Đến đời nhà Minh khoảng thế kỷ XVI thì
Nho giáo được phát triển và biến đổi theo hướng duy tâm cực đoan. Đến đời nhà Thanh,
xã hội có nhiều thay đổi, văn hóa Trung Hoa và văn hóa phương Tây có sự giao thoa, nên
Nho giáo không được đề cao trong xã hội.
1.1.2 Những luận điểm cơ bản của Nho Gia.

1.1.2.1 Về đạo làm người quân tử.
Đức Khổng Tử nêu lên Ngũ thường: ngũ là năm, thường là hằng có. Người ta phải giữ
năm đạo đó làm thường, không nên để rối loạn. Ngũ thường gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí, Tín.
• Nhân: Là lòng từ thiện. Khổng Tử nói: Khi ở nhà giữ gìn dung mạo khiêm cung; khi
ra làm việc thi hành một cách kính cẩn; khi giao thiệp với người, giữ lòng trung
thành. Dẫu đi tới các đoàn rợ phương đông và phương bắc, cũng chẳng bỏ ba đức
hạnh cung, kính và trung ấy, như vậy là người có đức nhân
• Nghĩa: Là việc nên làm hay là cách xử sự phải đường hoàng, hào hiệp. Hành vi của
con người phải tuân theo tính chính đáng, chú trọng quy tắc, tiêu chuẩn, trọng tâm là
nghĩa vụ và trách nhiệm. Trước khi làm gì phải xem xét hành vi đó có hướng đến
điều “thiện” hay không, có thể hiện tiêu chuẩn đạo nghĩa, ý thức trách nhiệm với cộng
đồng hay không.
• Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người, mở rộng ra là việc tuân
thủ các quy tắc, nguyên tắc đạo đức xã hội và pháp luật. Một cách căn bản, chính nghi
lễ và nghi thức làm cho cuộc sống quân bình. Lễ làm bền vững nền văn hiến của một
nước, lễ mà ại hoại thì văn hiến cũng tiêu tan. Khổng Tử nói: "Cung kính mà thiếu lễ
thì làm thân mình lao nhọc. Cẩn thận mà thiếu lễ thì trở thành nhút nhát. Dũng cảm
mà thiếu lễ sẽ trở thành rối loạn. Ngay thẳng mà thiếu lễ sẽ trở nên thô lỗ”.
• Trí: Óc khôn ngoan, sáng suốt. Cảm giác đúng và sai. Biết tiên liệu, tính toán để
hành động hợp đạo lý.
Page 5
• Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy. Chữ tín vốn nằm trong 4 điều trên, sau này được
tách ra để thành Ngũ thường. Tín là thước đo, là sự phản ánh 4 giá trị trên.
Đức Khổng Tử nêu lên ngũ luân với thuyết chính danh và chữ “Nhân” để làm chuẩn mực
cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
• Quân minh thần trung (vua sáng suốt, tôi trung thành),
• Phụ từ tử hiếu (cha hiền từ , con hiếu thảo),
• Phu nghĩa phụ kính (chồng có nghĩa, vợ kính trọng),
• Huynh lương đệ đễ (anh tốt, em nhường),

• Bằng hữu hữu tín (bạn bè tin cậy nhau).
1.1.2.2 Về cách thức trở thành người quân tử.
Người quân tử phải đạt ba điều sau đây:
• Đạt đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân
tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua
tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương
đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu".
• Đạt đức. Theo Khổng Tử, quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Về sau,
Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân,
nghĩa, lễ, trí". Hán nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín".
• Biết thi, thư, lễ, nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân tử còn
phải biết "thi, thư, lễ, nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa
toàn diện.
1.1.2.1. Về cách thức cai trị đất nước.
• Trước hết thực hiện ba điều: thực túc, binh cường, dân tín.
Thực túc là tự cung cấp lương thực, các nhu cầu thiết yếu của người dân mà cái
quan trọng nhất là cái ăn, cái mặc. Một đất nước muốn mạnh mẽ phải tự cung cấp những
nhu cầu thiết yếu đó cho người dân. Người dân đươc ăn no, mặc ấm.
Page 6
Binh cường là đất nước phải có binh hùng, tướng mạnh để bảo vệ đất nước, bảo
vệ sự thái bình của mình. Chống lại những kẻ ngoại xâm từ bên ngoài.
Dân tín: Một quốc gia muốn tồn tại lâu dài và vượt qua mọi khó khăn thì điều
quan trọng nhất vẫn là dân tín. Lấy được lòng tin sự tín nhiệm của người dân thì đất
nước đó sẽ hùng mạnh và phồn thịnh. Đó là cái triết lý của đạo Khổng học.
• Dưỡng dân, giáo dân là cái căn của việc trị nước giúp đất nước phát triển. Cái đạo
lấy dân làm gốc là cái đạo đúng đắn nhất. Khi người dân được mở mang sự hiểu biết và
được giáo dục theo cái đúng, cái thật thì quả là sự gì đều trong cái lý, cái chung.
• Đào tạo con người: Theo quan niệm của Khổng Tử, đỉnh cao mà việc rèn luyện
nhân cách cần đạt tới là con người “toàn đức” (bao gồm cả ba phẩm chất nhân, trí,

dũng). Con người coi việc thực hiện “đức nhân” là lý tưởng tối cao, có thể hy sinh thân
mình để hoàn thành điều nhân (sát thân thành nhân).
1.2 Triết học Pháp Gia thời Trung Quốc cổ đại.
1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển Pháp Gia.
Pháp gia là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại. Nội dung cơ bản
của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng những luật lệ,
hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo đức của con người và
củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong
một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ
bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và
được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử (280 - 233 tr. CN).
1.2.2 Những luận điểm cơ bản của Pháp Gia.
Hàn Phi Tử - đại diện tiêu biểu Pháp gia cho rằng "Pháp", "Thế", "Thuật" là ba yếu tố
thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật.
• Pháp. Trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại, "Pháp" là phạm trù triết học được hiểu
theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã
Page 7
hội của đất nước; theo nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật lệ, những luật lệ
mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Nội dung chủ yếu của pháp luật theo Hàn Phi
là thưởng và phạt và ông gọi đó là hai đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính
quyền. Điều đáng chú ý là song song với việc "thưởng hậu, phạt nặng" Hàn Phi còn
đưa ra chủ trương mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
• Thế. Người đầu tiên đề cập là Thận Đáo. Thế tức là quyền thế, địa vị, thế lực,
quyền uy của người đứng đầu. Địa vị của kẻ trị vì là độc tôn, mọi người khác buộc
phải tuân theo, tức là người đứng đầu phải nắm được quyền giết hại và khen
thưởng. Nhờ có thế, vua có thể bắt người ta chết hoặc cho người ta sống, cho
người ta giàu hoặc bắt người ta nghèo, cho người ta sang hoặc bắt người ta hèn.
• Thuật: là phương pháp, thủ thuật, cách thức mưu lược điều khiển công việc và
dùng người, khiến người triệt để tận tâm thực hiện pháp lệnh của vua mà không

hiểu vua dùng họ như thế nào. Nều Pháp phải bằng mọi cách công bố công khai thì
Thuật là cơ trí ngầm, là thủ đoạn, mưu lược của vua.
Về đường lối xây dựng đất nước, Hàn Phi cũng chủ trương chỉ tập trung toàn bộ
sự chú ý vào hai việc là sản xuất nông nghiệp và chiến đấu. Còn văn hóa giáo dục thì
không cần thiết, không đem lại lợi ích thiết thực mà thậm chí còn có hại cho xã hội. Hàn
Phi nói "…Người làm việc bằng trí óc nhiều thì pháp luật rối loạn, người lao động bằng
sức lực ít thì nước nghèo, ngày nay loạn lạc chính là vì như thế. Bởi vậy nước của vị vua
sáng suốt không cần sách vở, lấy pháp luật để dạy, không cần lời nói của các vua đời
trước, dùng quan lại làm thầy giáo".
Page 8
CHƯƠNG 2: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ PHÁP GIA
THỜI TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI.
2.1. Về thể chế cầm quyền.
Sự tương đồng:
Cả hai hệ tư tưởng đều đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền. Họ nhìn nhận Cấu trúc
xã hội cùng những bất bình đẳng như một thực tế đã định và cho phép chúng quyết định
điều cá nhân nên làm. Cái giá phải trả để có sự hòa hợp xã hội là cá nhân thuận theo xã hội.
Sự khác biệt:
Nho gia và Pháp gia đều bảo vệ truyền thống thống nhất.
Nhưng Nho gia muốn khôi phục vương chế. Vương theo Nho gia, là một ông vua
chung của cả thiên hạ, cai trị theo mệnh trời, dựa vào họ hàng, cố cựu, cai trị theo Lễ và
bằng Đức. Thiên tử phong tước cho con cháu và người hiền năng tạo ra trật tự theo phân
phong (thiên tử và các bậc chư hầu) thân sơ (quan hệ họ hàng) và đẳng cấp (quân tử,
tiểu nhân tức là tầng lớp thống trị và dân lao động). Căn cứ vào sự sắp xếp như vậy mà
mọi người có vị có phận; trong xã hội có trật tự, có sự quân bình và hoà mục. Mọi người
tôn trọng ngôi vua chính thống, tôn trọng trật tự của phận vị, yên phận theo mệnh, thờ
vua theo nghĩa, theo lễ với tình cảm hiếu kính như con đối với cha mẹ. Nho gia chống
hành động tranh giành, “tiếm việt”, tức là tìm cách kiếm giàu sang quá mệnh, vị. Điều đó
chủ yếu là nhằm ngăn ngừa các vua chư hầu, các khanh, đại phu, tức là lớp quý tộc có

phong ấp lúc đó. Nho gia cũng nhấn mạnh vua phải thương dân, dùng kẻ thiên tài, tôn
trọng kẻ sĩ tức là đòi hỏi nhân nhượng với lực lượng làng xã, trước hết là từng lớp sĩ
quân tử, đội hậu bị của tầng lớp quan lại.
Pháp gia ra đời trong giai đoạn thế lực lớp khanh đại phu chư hầu đời Chiến quốc
đã mạnh, muốn giành nhau làm chủ cả thiên hạ. Ngôi vua ra đời sau cuộc chiến tranh
thất hùng là hoàng đế. Danh hiệu hoàng đế tuy mới chính thức dùng từ Tần Thuỷ Hoàng
Page 9
nhưng quan niệm một ông vua kiểu hoàng đế thì đã có từ khi Thương Ưởng giúp Hiếu
công triệt hạ thế lực quý tộc và vai trò của gia trưởng ở làng xã, hay chậm hơn một ít
nữa là từ khi nước Tần thi hành chế độ quận huyện. Vua nắm lấy mọi quyền hành, không
chia cho họ hàng và người thân cận: vua dựa vào “vị”, giữ lấy “thế”, nắm lấy “quyền” sinh
sát, “thưởng phạt”, quy định ý chí của mình thành “pháp độ” dùng “thuật” mà bắt mọi
người ra sức thi hành, dùng bạo lực mà mở rộng quyền thế. Với dân vua không phải là
cha mẹ mà là chúa, không đối xử bằng tình nghĩa, ân huệ mà bằng thưởng phạt cưỡng
bức. Chỗ dựa của hoàng đế là quan lại là quân đội chứ không phải họ hàng người cố cựu.
Có thể nói đó là hai quan niệm đối lập về ông vua. Tuy vậy nên chú ý là cả hai đều
chủ trương chỉ một thiên tử toàn quyền trị thiên hạ. Một bên chủ trương “việc lễ nhạc,
đánh dẹp do thiên tử quyết định” và “dân thường không được bàn bạc” (Nho) và một bên
“giữ lấy thế” “không đưa quyền bính cho ai” (Pháp). Một bên coi dân là trẻ thơ (xích tử)
không đủ nhân cách (Nho) và một bên coi dân là trâu ngựa không có nhân cách (Pháp).
Cả hai đều đòi hỏi người dân trung thành, phục tùng, tôn trọng sự chuyên chế của thiên
tử, dầu đó là ông chúa quyền thế hay ông cha được Trời uỷ nhiệm. Chỗ khác nhau chỉ là ở
việc thực hiện quyền hành tổ chức sắp xếp các lực lượng, cách giải quyết quan hệ giữa
các lực lượng. Đối tượng được lưu ý là họ hàng, người cố cựu tức quý tộc và làng xã bao
gồm cả dân và những người đàn anh. Một bên nô dịch triệt để, không thừa nhận một sự
chia sẽ quyền lực nào và một bên là hạn chế và nhân nhượng (định phận).
2.2. Về thuyết trị quốc và công cụ trị quốc.
Sự tương đồng:
Cả hai hệ tư tưởng này đều thực hiện chính sách “Thực túc” bằng Nông nghiệp,
“Binh cường” bằng Chiến tranh. Với chính sách đó, họ mong muốn phát triển nông nghiệp

để nâng cao đời sống vật chất, gây chiến tranh để quy giang sơn về một mối, với mục đích
cuối cùng nhằm hướng đến sự thái bình và ổn định đất nước. Đó đều là những tư tưởng trị
quốc trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, có giá trị lịch sử và mang ý nghĩa nhất định đến tận
ngày nay.
Sự khác biệt:
Page 10
Hai Phái có những đặc điểm trị quốc theo hướng riêng của mình vì do quan điểm
cũng như triết lý khác nhau giữa hai phái. Vấn đề trị quốc rất quan trọng vì nó ảnh hưởng
trực tiếp tới vận mệnh của một đất nước. Công cụ trị nước của phải dựa vào tư tưởng của
các triết gia và hoàn cảnh mà thời các triết gia đó sinh thời.
Theo Phái Nho gia, cụ thể với Khổng Tử đạo đức là gốc của con người, nói đến con
người trước hết là nói đến đạo đức. Chính là trên cơ sở đó, mà Khổng Tử đã đề xuất đường
lối "Đức trị" - đường lối trị nước bằng đạo đức mang đậm dấu ấn độc đáo của ông. Khổng
Tử quan niệm: "Làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để cảm hoá dân) thì như sao Bắc Đẩu
ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức thiên hạ về theo)". Trước sau Khổng Tử
vẫn tin rằng: "dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình phạt để bắt dân vào khuôn phép,
dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để
đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà lại theo đường chính".
Ở đây Nho gia muốn dùng cái đức để cảm hóa lòng người mà tiêu trừ cái xấu nhằm
xây dựng đất nước hưng thình và hạnh phúc. Coi nhẹ hình phạt đề cao việc lấy đức mà trị
dân. Tư tưởng “Đức trị” của Khổng tử còn thể hiện ở quan niệm coi nhẹ chính hình và
giảm bớt sưu thuế cho dân, đề cao vai trò của dân. Khổng Tử quan niệm: "Không giáo hoá
dân để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn ngược". Khổng Tử chủ trương giảm hình, coi
nhẹ hình còn vì ông thật sự không bao giờ tin vào bá đạo: "có thể (dùng sức mạnh) bắt được
một vị nguyên soái, chứ chí hướng của một thường dân thì không (dùng sức mạnh mà) đoạt
nổi . Khổng Tử cho việc thi ân rộng rãi cứu giúp dân chúng là sự nghiệp của thánh vương
mà Nghiêu, Thuấn chưa chắc đã làm được như vậy. Dưỡng dân, theo Khổng Tử trước hết
phải làm cho dân no đủ, giàu. Ông coi trọng việc dưỡng dân hơn việc bảo vệ xã tắc và hơn
cả việc giáo hoá dân nữa. Dưỡng dân còn phải rảnh việc nhà nông. Đó là cái chỗ thâm thúy
trong việc trị nước của Nho gia.

Còn Pháp gia thì sử dụng Pháp trị trong việc trị nước theo tư tưởng của Hàn Phi Tử.
Phái pháp gia muốn dùng vũ lực lật đổ chế độ phong kiến phân tán và lập ra chế độ phong
kiến quân chủ chuyên chế, thay “vương đạo” của Khổng Mạnh bằng chính sách “Bá
đạo”.Chính sách cai trị phải dựa vào ý dân, dân muốn thì gì thì cấp cho cái đó, không muốn
cái gì thì trừ cho cái đó. Hàn Phi Tử lại đưa ra quan điểm: bản chất con người là ác, muốn
quản lý xã hội phải khởi xướng ra lễ nghĩa và chế định ra pháp luật để uốn nắn tính xấu của
Page 11
con người; theo các ông quản lý xã hội là vị Pháp chứ không vị Đức. Hàn Phi phát triển học
thuyết của mình trên cơ sở kế thừa của các pháp gia trước ông, nhưng phải đến Hàn Phi thì
nó mới trở nên sâu sắc, phổ biến với nhiều nội dung mới. Hàn Phi dùng chữ “pháp” theo
nghĩa phép tắc, còn pháp gia nới tới “pháp” là chỉ pháp luật. Hàn Phi ví pháp luật với dây
mực, cái quy, cái củ tức là những đồ dùng làm tiêu chuẩn để phân biệt đúng sai, phải trái.
Pháp không tách rời khỏi Thế và Thuật mà cùng tạo nên một cái kiềng ba chân. Luật pháp
phải kịp thời. Hàn Phi viết: “Thời thay mà pháp luật không đổi thì nước loạn, đời đã thay
đổi mà cấm lệnh không biến thì nước bị cắt”. Đối với Hàn Phi, pháp luật là thứ “phép công”
điều khiển hành vi của mọi người. Trong các phạm trù cơ bản của pháp học thi pháp là quan
trọng nhất, sau mới đến Thế và Thuận. Hàn Phi đã kế thừa tư tưởng “vô vi” của Nho và
Đạo, biến nó thành thuật cai trị của vua chúa. Trong cai trị - quản lý thì “tiên phú, hậu
giáo”- trước hết là làm cho dân giàu sau đó thì giáo dục họ. Trong giáo dục thì “tiên học lễ -
hậu học văn”. Nho gia chủ trương cai trị bằng đạo đức, bằng văn và đã phát triển học
thuyết- phương pháp Đức trị (Nhân trị). Ngược lại, Pháp gia đã đưa ra một học thuyết và
phương pháp cai trị mới - Pháp trị “Pháp bất vị thân”, pháp phải hợp thời, pháp luật phải
soạn sao cho dân dễ biết, dễ thi hành; pháp luật phải công bằng, bênh vực kẻ thiểu số;
thưởng phải trọng hậu, phạt phải nặng Đó là tư tưởng về chính trị quản lý xã hội còn có ý
nghĩa đối với hiện nay.
2.3. Ý thức về sự vận động xã hội.
Sự tương đồng:
Nho gia và Pháp gia đều là những tư tưởng triết học, mà mỗi một tư tưởng triết học
đều ra đời và phát triển nhằm đưa ra những phương cách giải quyết cho những vấn đề thực
tiễn chính trị - đạo đức - xã hội mà thời đại lúc bấy giờ đã đặt ra và phục vụ cho một giai

tầng nhất định. Vì vậy, cả Nho gia và Pháp gia đều cố lý giải và tìm cách giải đáp theo
những yêu cầu của thực tiễn lịch sử xã hội Trung Quốc lúc đó đặt ra hòng “cứu đời cứu
người” theo cách của mình.
Sự khác biệt:
Theo Pháp gia, việc điều hành xã hội phải chú ý đến số hay còn được hiểu là quy
luật, tức là làm cho xã hội phát triển theo đúng hướng của nó, trong khi đó Nho gia lại
không đề cập đến điều này.
Quan điểm Pháp gia là thời biến, phái này thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội:
mọi chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù hợp. Vì
Page 12
không có chế độ xã hội nào bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Như
Hàn Phi Tử cho rằng, người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa
vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị nước sao cho
thích hợp.Bên cạnh đó, ông cho rằng không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với
mọi thời đại, mà pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế
thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn.
Quan điểm Nho gia là bất biến, phái này cho rằng trời là lực lượng sinh ra thế giới và
con người, nên trời đóng vai trò chi phối toàn bộ những gì vận động xung quanh con người,
lương tri, lương năng của con người cũng do trời phú mà có nên con người phải biết kính
trời, luôn suy nghĩ và hành động theo ý trời. Học thuyết Khổng Tử bắt nguồn từ cơ sở tự
nhiên vốn có, để rồi nối tiếp và nâng cao nó lên, ông cho rằng trên trời chỉ có một mặt trời
và dưới đất cũng chỉ có một ông vua mà thôi. Vì vậy mà Đổng Trọng Thư đã nói một câu
lừng danh: Thiên bất biến, Đạo diệc bất biến (Trời không thay đổi thì đạo cũng không thay
đổi). Học thuyết Khổng Tử dựa vào ba luận điểm: Thuyết thiên mệnh, Lễ giáo và thuyết
chính danh. Thuyết thiên mệnh: Trời có một sức mạnh siêu nhiên, mà con người từ lâu vốn
đã tin ở sức mạnh siêu nhiên cho nên con người cúi đầu trước Trời thì không thể không cúi
đầu trước con trời (Thiên tử). Lễ giáo là biểu hiện sự thần phục của con người trước siêu
nhiên. Con người một khi đã thần phục trước siêu nhiên thì cũng không khó khăn lắm để
chuyển sang thần phục trước “siêu người”. Thuyết chính danh: bổ sung cho thuyết Thiên
mệnh và Lễ giáo. Ngôi vua là do trời định, thế nhưng người làm vua cần phải nỗ lực chủ

quan để cái Thực phù hợp với cái Danh.
2.4. Về đạo đức, giáo dục, xây dựng con người.
2.4.1. Về quan niệm đạo đức con người :
Nho gia thể hiện tính nhân bản sâu sắc trong những quan niệm về đạo đức con người.
Họ xét đạo đức con người dựa trên hệ thống các phạm trù như : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,
dũng… Với nhân và nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo đức Nho gia. Nhân là cách đối
xử của con người với con người, để tạo ra người. Theo Khổng Tử, nhân đó là lòng thương
người (ái nhân), còn Mạnh Tử cho rằng nhân đó là lòng trắc ẩn. Nghĩa được hiểu là những
gì hợp đạo lý mà con người phải làm, bất kể điều đó có đem lại lợi ích gì cho người thực
hiện việc làm đó hay không. Theo Nho gia thì đạo đức là phương tiện chủ yếu để cai trị đất
Page 13
nước, là điều kiện quan trọng để hình thành và hoàn thiện con người góp phần củng cố và
duy trì trật tự xã hội.
Pháp gia thừa nhận bản tính con người là ác mà không xem xét vấn đề đạo đức con
người dựa trên các phạm trù đạo đức như phái Nho gia. Do khẳng định bản tính con người
là ác nên theo họ, trong xã hội, người tốt thì ít mà người xấu thì nhiều. Vì vậy để xã hội
được yên bình, không thể trông chờ vào số ít người tốt làm việc thiện (thực hiện nhân nghĩa
trị) mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn không cho họ làm điều ác (bằng cách thực hiện
Pháp trị : lấy pháp luật làm căn bản trong việc cai trị đất nước, đặt pháp luật một cách rõ
ràng và ban bố rộng rãi trong cho mọi người cùng biết để tuân theo nghiêm chỉnh).
2.4.2 Về giáo dục con người :
Nho gia thể hiện rõ ở thuyết nhân trị: quan niệm nhà cầm quyền phải lấy đạo đức mà
giáo dục và cảm hóa, dẫn dắt dân chúng chứ không phải dùng đến biện pháp cưỡng chế và
hình phạt như phái Pháp gia.
Pháp gia từ việc thừa nhận bản tính con người là ác nên quan điểm về giáo dục con
người của phái Pháp gia mang tính hà khắc.
2.4.3. Về xây dựng con người :
Với mong muốn xây dựng được một xã hội đại đồng, Khổng Tử - Nho Gia và các
học trò của ông đã đưa ra quan điểm về xây dựng con người như sau:
- Vua : mang phẩm chất của người cai trị, phải là người quân tử, không thể là dân võ

biền mà phải là người có vốn văn hóa toàn diện. Vua phải hiểu và thực hành đạo đức, khi đó
trên dưới sẽ hòa mục.
- Tầng lớp nhân dân : lấy hiếu, đễ làm gốc thì từ một nhà nhân hậu sẽ làm cho cả
nước nhân hậu. Xã hội khi ấy sẽ thái bình và ổn định, có trật tự kỷ cương, đời sống vật chất
đầy đủ, mọi người trong xã hội sẽ được giáo hóa.
Tuy nhiên việc chỉ đơn thuần lấy giáo dục đạo đức làm cốt yếu để xây dựng một xã
hội đại đồng như Khổng Tử mong muốn là chưa đủ. Vì nền tảng kinh tế của xã hội đó với
chế độ công hữu đã không còn, khi mà chế độ tư hữu ngày càng phát triển vào thời bấy giờ.
Pháp gia quan niệm việc xây dựng con người trong xã hội không như Nho gia :
Page 14
- Vua : là người cai trị không phải chú trọng nhiều đến việc tu thân, theo nghĩa phải
sáng suốt và am hiểu những nguyên tắc pháp trị, và chịu khép mình trong những nguyên tắc
đó. Người cai trị phải đặt ra hệ thống luật pháp một cách rõ ràng, ban bố rộng rãi cho mọi
người cùng biết để tuân theo.
- Tầng lớp nhân dân : hiểu rõ và thực thi nghiêm chỉnh luật pháp đã định.
Hàn Phi Tử đòi hỏi vua phải dùng Pháp như trời (nghiêm minh, không vị nể), dùng
Thuật như quỷ (linh động, uyển chuyển). Nghĩa là nếu như Pháp được công bố rộng rãi
trong nhân dân, bắt buộc họ phải tuân theo thì thuật là cơ trí ngầm, là thủ đoạn của vua được
dấu kín. Nhờ Thuật mà vua chọn được người tài năng, trao đúng chức vụ quyền hạn và loại
được kẻ bất tài.
Page 15
CHƯƠNG 3: NHỮNG HẠN CHẾ CỦA
NHO GIA VÀ PHÁP GIA Ở TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
3.1. Những hạn chế của Nho gia ở Trung Quốc cổ đại.
3.1.1. Phong kiến dựa vào Nho giáo để cai trị với những thủ tục hà khắc trong quan hệ
tam cương ngũ thường.
Theo Nho gia mọi người trong xã hội đều bị trói buộc bởi năm mối quan hệ tự nhiên.
Đó là quan hệ cha con, vua tôi, vợ chồng, anh em, bạn bè. Năm mối quan hệ này phản ảnh
hai mặt của cuộc sống hịên thực là quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong xã hội phong
kiến mỗi gia đình được củng cố bằng chế độ tông pháp và chế độ gia trưởng, còn các quan

hệ xã hội thì được duy trì bởi chế độ chính trị đẳng cấp. Tương ứng với mối quan hệ đó nho
giáo đặt ra những yêu cầu mang tính quy phạm đạo đức và được pháp luật ngầm bảo trợ.
Chính vì thế mà có những mối quan hệ trên nho giáo trở thành quá cứng nhắc khô khan,
khuân mẫu.
Trong gia đình thì phải có vợ chồng hoà thuận, anh em phải biết đoàn kết thương yêu
đùm bọc lẫn nhau, con cái hiếu thảo, lễ phép với ông bà cha mẹ.trong quan hệ xã hội, nho
gia đòi hỏi trước hết phải có lòng trung thành trong quan hệ vua tôi và trên dưới. Người
dưới phục tùng phải lấy chữ trung làm đầu. Trong các mối quan hệ thì quan hệ vua tôi được
đặt lên hàng đầu. Vua bảo bầy tôi phải chết thì bầy tôi phải chết.
3.1.2. Nho gia ở vị trí độc tôn thời phong kiến làm cho bệnh khuôn sáo phát triển
mạnh trong tư tưởng giáo dục.
Các học sĩ, quan lại đều lấy thánh kinh, huyền truyện của nho gia làm khuôn vàng
thước ngọc cho mọi lời suy nghĩ hành động của mình, lấy xã hội của thời Nghiêu Thuấn làm
khuôn mẫu cho mọi tình trạng xã hội, lấy những sự tích và điều phạm trong kinh thư, kinh
xuân thu làm tiêu chuẩn để bình giá mọi sự việc. Bệnh giáo điều này đã ăn sâu vào trong
lĩnh vực khoa học nghệ thuật nhất là trong văn học và sử học khiến cho sự sáng tạo trong
các lĩnh vực này bị dập vào những cái khuôn có sẵn. Đó là một bệnh tật đã được rèn đúc
ngay từ khi người nho sĩ phải mài dũa văn chương để tiến vào con đường cử nghiệp.
Page 16
Sự thịnh trị của Nho gia còn khuyến khích mọi người nhất là các phần tử tri thức đi sâu
vào cải tạo “tu bề trị bình” vào việc học hành, thi đỗ, dương danh thiên hạ.
3.1.3. Nho gia mang tính hai mặt đan xen giữa các yếu tố vô thần duy tâm tôn giáo.
Học thuyết của nho gia còn mang tính cải lương duy tâm.
Trong học thuyết của nho gia, trời có nghĩa là bậc nhất. Khổng Tử thường nói đến trời,
đạo trời, mệnh trời. Nho gia gộp trời đất muôn vật vào một thể. Quan niệm về thiên mệnh
Khổng Tử tin vào vũ trụ quan dịch, ông coi trời có ý chí làm chủ tể cả vũ trụ. Tin vào thiên
mệnh Khổng Tử coi việc hiểu biết mệnh trời là một điều kiện để trở thành người hoàn thiện.
Đó chính là một hạn chế của nho gia. Ông tin là có quỷ thần, nhưng quan niệm quỷ thần của
ông có tính chất lễ giáo hơn tôn giáo. Ông cho rằng, quỷ thần là do khí thiêng trong trời đất
tạo thành. Như vậy theo ông vẫn tồn taii mâu thuẫn đối lập nhau giữa cái thừa nhận có thiên

mệnh nhưng đối với quỷ thần lại xa lánh. Quan niệm thiên mệnh của Khổng Tử được Mạnh
tử hệ thống hoá, xây dựng thành nội dung triết học duy tâm trong hệ thống tư tưởng triết
học của nho gia.
3.1.4. Nho gia hạn chế vai trò của phụ nữ, trọng nam khinh nữ, phân bịêt đẳng cấp.
Do quan niệm cua nho giáo phụ nữ chỉ được xếp vào hạng tiểu nhân. Họ không đựơc
học hành, thi cử. Họ bị phân biệt đối xử trong gia đình thì phải nghe lời chồng không được
bình đẳng. Nho gia chiếm vị trí độc tôn thì lễ chế của nó đặc biệt phát triển mạnh. Khi đó nó
đè nặng lên con người và bóp nghẹt nếp sống giản dị, những quan hệ xã hội trong sáng,
những tình cảm tự nhiên và chân thực của suy sụp cùng với xã hội phong kiến thì nó trở nên
phản động cổ hủ lạc hậu.
3.1. Những hạn chế của Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại.
Pháp gia thất bại là do bản thân cách làm của Pháp gia (trong đó có Hàn Phi) tồn tại
nhiều điểm quá cực đoan:
3.1.1 Học thuyết của Pháp gia thể hiện sự coi thường trí tuệ và sức mạnh của nhân
dân.
Nhưng học thuyết của Hàn Phi với nhãn quan của một đại quý tộc, đã thể hiện một
sự coi thường sâu sắc trí tuệ cũng như sức mạnh của nhân dân. Dân không phải ngu xuẩn
không biết lợi ích lâu dài mà không chịu ra sức làm công trình công cộng, chỉ vì kẻ cầm
quyền thường lấy việc công để làm lợi riêng. Học thuyết của Hàn Phi xem con người là ai
cũng vì mình, để khuyên vua không nên tin người mà chỉ nên tin vào chính mình, tin vào
Page 17
quyền thế bản thân. Nhưng ở khía cạnh khác, học thuyết của Hàn Phi dựa nhiều vào niềm
tin, cụ thể là niềm tin của dân vào tính công minh của pháp luật: theo phép công nhất định
được thưởng, trái pháp luật sẽ bị phạt. Cá nhân Hàn Phi có lẽ cũng đã quá tin vào những
người cầm quyền. Nhận biết lợi ích chung khác với lợi ích riêng, Hàn Phi chỉ đề ra biện
pháp uốn nắn tư lợi của người dưới, không đưa ra cách đề phòng trường hợp kẻ làm vua
dùng quyền thế phục vụ lợi ích riêng. Hàn Phi có lẽ tin rằng, kẻ làm vua có trí tuệ nên ý
thức được lợi ích lớn nhất của mình là đất nước được giàu mạnh, không để dục vọng nhất
thời làm hỏng lợi ích vĩnh viễn.
Như vậy là Hàn Phi đã quá đề cao kẻ cầm quyền, ông cho rằng con người đều có

ham muốn cá nhân, nhưng lại tuyệt đối tin vào kẻ làm vua, coi thường nhân dân, chỉ có
nhân dân mới tư lợi cho riêng bản thân mà không hề nghĩ rằng bất cứ một ai cũng đều sẽ có
bản tính này. Chính niềm tin mù quáng này đã phần nào làm cho các bậc đế vương càng trở
nên bạo tàn, dùng quyền thế để tư lợi, để phục vụ cho lợi ích, ham muốn của riêng bản thân,
bỏ qua lợi ích chung của đất nước, của con dân, xem dân chúng là công cụ phục vụ cho nhu
cầu của riêng mình.
3.2.2. Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình phạt
nghiêm khắc.
Pháp gia quá nhấn mạnh đến biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo
đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục… là đi ngược lại xu hướng phát triển của văn minh nhân loại.
Pháp gia cho rằng, ngoài pháp luật là chỗ dựa duy nhất để nhà vua tin cậy, tất cả các
quan hệ khác như: vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng… đều tuyệt đối không thể tin tưởng
và luôn phải cảnh giác. Mọi thứ tình cảm như sự kính trọng, thủy chung, trung hiếu… đều
không hề tồn tại, là huyễn hoặc xa vời. Đây là một điểm hạn chế, vì rõ ràng trên thực tế
những tình cảm này là hoàn toàn có tồn tại.
Pháp trị cho rằng bản chất của con người vốn dĩ là tà ác, luôn tranh giành, xâu xé lẫn
nhau về lợi ích, cho nên những lời ca ngợi sự tin tưởng giữa con người với con người đều là
giả dối, ngây thơ, không đáng tin cậy. Vì vậy, chủ trương dùng hình phạt nghiêm khắc để
trừng phạt và răn đe được đặt lên hàng đầu, bỏ qua tất cả những gì gọi là nhân đạo, tình
người.
Với các nhà Pháp trị, pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng và thực sự là thứ đạo đức
không có tình cảm. Tuy rằng hình phạt có tác dụng răn đe, nhưng hình phạt quá hà khắc sẽ
Page 18
làm cho dân chúng oán kẻ cầm quyền, hình phạt càng nặng bao nhiêu thì kẻ dưới càng oán
kẻ trên nhiều bấy nhiêu. Để đến lúc hình phạt làm cho dân chúng không còn chịu đựng được
nữa thì họ sẽ vùng dậy chống đối lại những kẻ cầm quyền. Trong lịch sử đã có trường hợp
chứng minh cho điều này, đế quốc Tần đã kết thúc do phong trào của Trần Thắng, Ngô
Quảng, Lưu Bang, cả ba người này đều do dẫn phu đi lao dịch không đến đúng hạn, sợ bị
quan quân nhà Tần trừng trị mà nổi dậy chống lại bạo Tần.
3.2.3. Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá máy

móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính linh hoạt trong việc sử dụng pháp luật.
Cứng nhắc ở đây được thể hiện ở chỗ, có công chắc chắn sẽ được thưởng, còn có tội
thì nhất định phải phạt, giữa thưởng và phạt, chú trọng sử dụng cưỡng chế nhiều hơn. Sử
dụng hình phạt một cách cứng nhắc, không tạo điều kiện cho kẻ phạm tội có cơ hội sửa
chữa, bù đắp cho tội lỗi của mình.
Trong xã hội tồn tại rất nhiều dạng người, do đó động cơ phạm tội của mọi người
không phải là hoàn toàn giống nhau. Có những người tâm địa xấu xa, phạm tội vì lợi ích
riêng cho bản thân, coi thường sức khỏe và sinh mạng của kẻ khác, nhưng cũng có những
người bản chất vốn không xấu, nhưng do hoàn cảnh tác động, hoặc do quá trình trưởng
thành không được chỉ dẫn điều hay lẽ phải, lầm đường lạc lối, nếu như áp dụng cùng một
loại hình phạt cho hai loại người trên, thì đã làm mất đi tính công bằng được coi là nguyên
tắc hàng đầu của Pháp gia.
Pháp luật của Pháp gia đặt ra chỉ có một khuôn mẫu duy nhất, áp dụng cho mọi đối
tượng phạm tội không phân biệt cao thấp sang hèn. Về nguyên tắc, điều này đã đảm bảo
được tính công bằng của luật pháp. Nhưng trên thực tế, có rất nhiều trường hợp khác nhau
xảy ra, cùng một tội danh giết người, nhưng có loại sẵn sàng giết người để chiếm đoạt tài
sản, giết người diệt khẩu, thủ tiêu nhân chứng, che giấu hành vi phạm tội của mình… nhưng
cũng sẽ có người chỉ giết người để tự vệ, để bảo vệ cho người thân… Việc áp dụng pháp
luật và hình phạt một cách cứng nhắc như trên, tuy rằng sẽ trừng phạt được kẻ xấu, có tác
dụng răn đe cho những người còn lại, nhưng sẽ có khả năng trách lầm người tốt, bỏ qua
nhân tài của đất nước, thậm chí gây nên oán hận trong lòng dân chúng, từ đó dẫn đến khó
khăn trong việc trị quốc.
3.2.4. Chính sách Pháp trị của Hàn Phi còn có nhược điểm là chưa xét một cách đầy đủ
nhu cầu của con người.
Page 19
Hàn Phi nhận ra rằng con người có lòng ham muốn và thích hư danh, nhưng ông đã
hoàn toàn bỏ qua ảnh hưởng của các yếu tố còn lại. Hàn Phi xem động cơ hành động của
con người chỉ bao gồm lòng hiếu lợi và thói hiếu danh. Thực tế động lực của chúng ta còn
bao gồm nhiều thứ khác. Nếu trong xã hội tồn tại những kẻ bệnh hoạn giết người hàng loạt
mà không có động cơ, vui sướng trên sự đau đớn của đồng loại thì ngược lại, xã hội cũng

tồn tại những người vô cùng vị tha, nhiệt tình giúp người không đòi hỏi sự đền đáp. Cảm
giác hạnh phúc khi giúp đỡ người khác là một cảm giác mà người bình thường ai cũng có.
Nó xuất phát từ tình thương yêu đồng loại, từ ý muốn kết thân với đồng loại, lưu tâm đến
đồng loại, nghĩ đến họ cũng như đang tự nghĩ đến mình. Lòng nhân từ là một tình cảm tự
nhiên có ảnh hưởng đến hành động của chúng ta.
Đối với Hàn Phi, người dân trong lúc đất nước thịnh vượng chỉ cần được ăn no, được
sống yên ổn là đủ, người có học thì phải ra làm quan để giúp ích cho đất nước. Vì thế Hàn
Phi, về sản xuất chỉ coi trọng việc binh, nông, coi thường công thương, kẻ sĩ có học nhưng
không ra làm quan là kẻ sâu mọt làm hại đất nước. Số lượng người có học vì vậy chỉ cần đủ
để làm quan, dân hiếu học là điềm mất nước. Chủ nghĩa thực dụng hẹp hòi này vì vậy không
những không thể phát triển toàn diện con người mà còn kiềm hãm khoa học phát triển. Tuy
học vấn phải được đưa ra ứng dụng nhưng người học cũng cần phải vươn lên khỏi những
cái ích lợi tầm thường trước mắt mới có thể đặt cho mình một căn bản học vấn sâu rộng, từ
đó mới mang đến cho nhân loại một sự ứng dụng lớn lao hơn.
3.2.5. “Công bằng” trong Pháp trị của Hàn Phi chưa thật sự được gọi là công bằng.
Theo quan niệm hiện đại, hàm nghĩa của “Pháp” có hai mặt tích cực và tiêu cực. Tiêu
cực được thể hiện ở chỗ có tính phòng ngừa, pháp đã quy định sẵn, ttrường hợp phạm vào
lệnh cấm nào, thì phảo chịu theo hình phạt ấy. Còn về mặt tích cực, có những điều khoản
bảo đảm quyền lợi chính đáng cho người dân. Tuy nhiên, nhìn vào cái “Pháp” mà Hàn Phi
luôn luôn nhấn mạnh, thì chỉ có mặt tiêu cực. Nói cách khác, Pháp của Hàn Phi, chỉ có
những điều do kẻ thống trị đòi hỏi ở nhân dân, ngược lại, nhân dân chẳng có quyền đòi hỏi
điều gì ở kẻ thống trị.
Xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị nên nội hàm của khái niệm công bằng theo
Hàn Phi còn phiến diện và khác xa so với hiện nay bởi đó mới chỉ là quy định công bằng
trong phục tùng nghĩa vụ giữa các thành viên trong xã hội, còn công bằng về quyền lợi chưa
được đề cập đến. Do vậy mà pháp luật chỉ được chú trọng đến quyền lợi của Nhà nước mà
Page 20
xem nhẹ quyền lợi của người dân và các biện pháp chế tài cũng thường tuyệt đối hoá mặt
trừng trị mà chưa nhìn thấy một chức năng không kém phần quan trọng của pháp luật là
giáo dục.

Trong tư tưởng của Hàn Phi, chữ Pháp hay gắn liền với chữ Cấm. Cái gọi là Pháp
đều là lệnh cấm, là những gì mà kẻ thống trị đòi hỏi một chiều ở người dân, ai làm đúng với
lệnh đó thì được thưởng, trái với lệnh đó là phải thọ phạt. Thưởng và Phạt chính là hai cái
cán, giúp cho kẻ thống trị kiểm soát, thậm chí nô dịch nhân dân.
Hàn Phi cho rằng pháp luật là công cụ đắc lực và hiệu nghiệm nhất để duy trì và củng
cố quyền lực chính trị của nhà vua – công cụ của đế vương, chỗ dựa vững chắc nhất để đảm
bảo an toàn cho sự ngự trị của vua, nên theo ông, nhà vua sáng suốt phải đặt pháp luật lên
trên đức hạnh và trên cả người hiền.
Page 21
KẾT LUẬN
Bàn về sự tương đồng cũng như sự khác biệt giữa Nho gia và Pháp giúp ta hiểu thêm
nhiều khía cạnh, tư tưởng sâu xa của triết học Trung Quốc nói chung và hai phái nói riêng.
Các tư tưởng triết học lên ngôi chiếm lĩnh vị trí trọng yếu trong chiến lược xây dựng,
vận hành của nhà nước phong kiến, trong giáo dục, trong thực tiễn ứng xử xã hội ở mỗi thời
điểm trong lịch sử triết học Trung Quốc.
Thực tế xã hội, trình độ nhận thức, sản xuất, tình trạng xung đột chiến tranh đã tác
động không nhỏ đến văn hoá Nho gia, Pháp gia, văn hoá bề mặt và văn hoá bề sâu (tầng văn
hoá tâm thức, quan niệm) và các hiện tượng hợp lưu tư tưởng khác…Nho giáo là một nền
tảng cho sự tự tu tỉnh, tự tiết độ và giữ gìn liêm sỉ, tư duy trị nước truyền thống. Nho giáo
xem đạo đức là nền tảng cho chính trị. Không phủ nhận vai trò của pháp luật của Pháp gia
trong giữ gìn trật tự xã hội, song Nho giáo hướng tới nguồn gốc của sự bình an hơn là dùng
hình luật để đe doạ hoặc trừng phạt điều ác khi nó xảy ra. Pháp gia có vị trí hết sức quan
trọng trong lịch sử triết học Trung Hoa. Mặc dù một số triết gia Trung Hoa không có cái
nhìn thiện cảm cho phái này nhưng cũng không thể phủ nhận giá trị tư tưởng và sự đóng
góp xây dựng của nó cho triết học Trung Hoa. Những tư tưởng về pháp trị của pháp gia đã
có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của tư tưởng Trung Quốc cổ đại và nhất là cho
sự nghiệp thống nhất đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng trong bối
cảnh xã hội Trung Hoa cuối thời Chiến quốc, tư tưởng chính trị của pháp gia mà tiêu biểu
nhất là Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử. Tư
tưởng pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị có thể vận dụng trong xây dựng nhà nước

pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Page 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mưa (chủ biên). (2010). “Triết học”, Phần I, Đại cương về lịch sử triết học,
2010, NXB TPHCM.
2. Doãn Chính (chủ biên).(1997). “Đại cương triết học Trung Quốc”, NXB Chính trị quốc
gia Hà Nội.
3. Nguyễn Đăng Thục. (1991). “Lịch sử triết học phương Đông”, Tập I, II NXB TPHCM.
4. Nguyễn Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu). (1995). “Luận ngữ”, NXB Văn học.
5. Phùng Hữu Lan. (2006). “Lịch sử Triết học Trung Quốc”, Tập I, Thời Đại Tử Học, NXB
Khoa Học Xã Hội.
6. Vũ Tình. (1998). “Đạo đức học trong phương đông cổ đại”, NXB Chính Trị Quốc Gia.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu
sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006.
8. Trần Đình Hượu, (2007), “Trần Đình Hượu tuyển tập (tập 1)”, NXB Giáo Dục, tr.689-
713
9. Nguyễn Thị Kim Bình, “Tư tưởng trị nước của pháp gia và vai trò của nó trong lịch sử”,
(2008), Tạp chí khoa học và công nghệ, (Số 3).
10. Các tài liệu khác trên internet.
Page 23
MỤC LỤC
Page 24

×