TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI SỐ 3:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA
VÀ PHÁP GIA TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI
SVTH: LÊ THỊ DIỄM THÙY
STT: 66
Nhóm: 7
Lớp: NGÀY 4– K22
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2012
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
MỤC LỤC
L
ỜI MỞ ĐẦU Trang 1
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN Trang 2
1.1. Tri
ết học Nho gia Trung Quốc cổ đại Trang 2
1.1.1. L
ịch sử ra đời và phát triển Trang 2
1.1.2. Nh
ững tư tưởng cơ bản của Nho gia Trang 3
1.2. Tri
ết học Pháp gia Trung Quốc cổ đại Trang 6
1.2.1. L
ịch sử ra đời và phát triển Trang 6
1.2.2. Nh
ững tư tưởng cơ bản của Pháp gia Trang 7
II. SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA NHO GIA VÀ PHÁP GIA
TRUNG QU
ỐC CỔ ĐẠI Trang 9
1.1 .Hoàn c
ảnh lịch sử hình thành hệ tư tưởng Trang 9
1.2 B
ản tính con người Trang 10
1.3 . Thuy
ết trị quốc và công cụ trị quốc Trang 11
1.4 . Ý th
ức về sự vận động xã hội Trang 14
III. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIA VÀ PHÁP GIA ĐẾN VIỆT NAM Trang 15
KẾT LUẬN Trang18
- 1 -
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến này đã gần 3000 năm từ khoảng thế
kỉ VIII đến thế kỉ VI TCN ở cả Phương Đông và Phương Tây thể hiện khả năng
nhận thức của con người và tồn tại như một hình thái ý thức xã hội. Trong đó,
Trung Qu
ốc là một trong những trung tâm văn hóa triết học cổ đại phát triển nhất
c
ủa triết học phương Đông.
Triết học Trung Quốc thời cổ đại trải qua nhiều giai đoạn phát triển mà
r
ực rỡ nhất là vào thời Xuân Thu- Chiến Quốc- thời kì xã hội Trung Quốc
chuy
ển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến, đòi hỏi xây dựng
nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển xã hội. Sự
biến động sôi nổi của thời đại đã góp phần hình thành các trường phái triết học.
Đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ đại thời kì này là lấy con người và xã hội
làm đối tượng nghiên cứu, giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị- đạo đức
c
ủa xã hội.
Trong s
ố những thành tựu của triết học Trung Quốc cổ đại phải kể đến hai
trường phái triết học Nho gia và Pháp gia- hai hệ tư tưởng mà ý nghĩa của nó vẫn
còn giá tr
ị cho đến ngày nay. Tư tưởng của Nho gia và Pháp gia không chỉ ảnh
hưởng đến thế giới quan triết học của Trung Quốc sau này mà còn ảnh hưởng
đến những quốc gia khác, trong đó có Việt Nam- đất nước từng gánh chịu 1000
năm đô hộ phương Bắc. Chính vì vậy, việc nghiên cứu Nho gia và Pháp gia là hết
sức cần thiết. Đề tài “Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia thời
Trung Quốc cổ đại” ngoài giúp chúng ta có được sự hiểu biết sâu sắc về hai hệ tư
tưởng n
ày còn giúp chúng ta hiểu được những ảnh hưởng của chúng đến đất
nước, con người Việt Nam v
à sự vận dụng các tinh hoa của Nho gia và Pháp gia
trong quá trình xây d
ựng và phát triển đất nước chúng ta.
- 2 -
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tri
ết học Nho gia thời Trung Quốc cổ đại
1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển
Có thể nói, các tư tưởng triết học Nho gia đã bắt đầu hình thành từ thời
Tây Chu vào kho
ản thể kỉ XI TCN (tiêu biểu là Chu Công Đán hay còn gọi là
Chu Công). T
ư tưởng triết học thời kì này đã bước đầu lí giải sự quan hệ mật
thi
ết giữa đời sống chính trị- xã hội với luân lí đạo đức. Đồng thời, những quan
ni
ệm có tính chất duy vật mộc mạc, những tư tưởng vô thần tiến bộ cũng bước
đầu xuất hiện.
Đến thời Đông Chu (hay còn gọi la thời Xuân Thu- Chiến Quốc), xã hội
bi
ến đổi từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Sự tranh giành địa vị
xã hội của các thế lực đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh liên
miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ thị tộc nhà Chu,
hình thành xã h
ội phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng,
xây d
ựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường
cho xã h
ội phát triển. Chính hoàn cảnh lịch sử đó đã sản sinh các nhà tư tưởng
l
ớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh, trong đó có Nho
gia.
Nho gia do Kh
ổng Tử (551 - 479 TCN sáng lập) xuất hiện vào khoảng thế
kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu. Sau khi Khổng Tử mất, Nho gia chia làm tám
phái, quan tr
ọng nhất là phái Mạnh Tử (327 - 289 tr. CN) và Tuân Tử (313 - 238
tr. CN). Kinh điển của Nho Gia thường kể tới bộ Tứ thư và Ngũ kinh. Tứ thư có
Trung dung, Đạ
i học, Luận ngữ, Mạnh Tử. Ngũ kinh có: Thi, Thư, Lễ, Dịch,
Xuân Thu.
Đến đời Hán, sách Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Đổng
Tr
ọng Thư củng cố Nho gia, vận dụng âm dương ngũ hành vào Nho gia, đề cao
quy
ền lực của giai cấp thống trị, thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy
"pháp tr
ị". Chính vì vậy, Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng
nó làm công c
ụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành
- 3 -
h
ệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn
năm.
1.1.2. Những tư tưởng cơ bản của Nho gia
a. Con người
Nho gia quan tâm đến vấn đề về bản tính con người. Tuy nhiên, quan
điểm về bản tính con người của các nhà Nho cũng không nhất quán.
Theo quan điểm của Khổng Tử, bản chất con người là thiện. Con người do
cha m
ẹ sinh ra nhưng bản tính là do trời phú và do tác động của hoàn cảnh mà
b
ản tính có thể sẽ thay đổi, “thiên mệnh chi vị tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo
chi v
ị giáo và tính tương cận, tập tương viễn”. Quan điểm về bản tính con người
c
ủa Mạnh Tử tương đồng với Khổng Tử. Mạnh Tử cũng cho rằng bản tính con
người vốn là thiện, “nhân si sơ, tính bản thiện”. Con người ngay từ khi mới sinh
ra đã có nhân, nghĩa, lễ, trí. Chính vì quan niệm về tính thiện của con người và
tính thi
ện ấy có thể sẽ bị thay đổi nên Nho gia Khổng- Mạnh đề cao sự giáo dục
con người để con người trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo đức có sẵn.
Tuy nhiên, con người theo quan điểm của Khổng Tử chỉ là người quân tử lấy tu
thân làm g
ốc. Người quân tử là người có đạo đức phải đạt “đạo” (đạo vua tôi,
đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè- ngũ luân), và đạt “đức”
(nhân, nghĩa, lễ, trí, tín- ngũ thường), trong đó “nhân” và “nghĩa” là quan trọng
nh
ất.
Đối lập với Khổng Tử và Mạnh Tử, Tuân Tử lại quan niệm bản tính con
người là ác, “nhân chi sơ, tính bản ác”. Chính vì vậy, ông khuyến khích giáo dục
con người bằng cách kết hợp giảng dạy thi thư để giảm bớt cái ác, đồng thời kết
h
ợp pháp trị.
b. Đạo đức
Nho giáo sinh ra từ một xã hội chiếm hữu nô lệ trên đường suy tàn chuyển
sang ch
ế độ phong kiến. Vì vậy, các Nha nhò thời bấy giờ luyến tiếc và cố sức
duy trì ch
ế độ ấy bằng đạo đức. Để giáo dục con người, Khổng Tử đặt ra tam
cương (quân thần, phụ tử, phu thê), ngũ thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín), tam
- 4 -
tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), tứ đức (Công- Dung-
Ngôn- H
ạnh). “Đạo” là con đường đúng đắn mà con người phải noi theo để xây
d
ựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp. Trong Kinh Dịch có câu “Lập đạo của trời nói
âm và dương. Lập đạo của đất nói nhu và cương. Lập đạo của người nói nhân và
ngh
ĩa”. “Đức” gắn liền với “đạo”. “Đức" trong Nho gia thường được dùng để
chỉ một cái gì thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người trong tâm hồn ý thức
c
ũng như hình thức, dáng điệu…
“Nhân” có thể được hiểu là lòng thương người, lòng trắc ẩn, cách đối xử
giữa người với người để tạo ra người. Nhân là cái quy định bản tính con người,
chi ph
ối mối quan hệ giữa người và người trong xã hội. Nhân có ý nghĩa rất rộng,
bao hàm nhi
ều mặt trong đời sống con người, có lúc trừu tượng, có lúc cụ thể,
tu
ỳ theo trình độ, hoàn cảnh mà ông giảng giải về nhân với nội dung khác nhau:
“kh
ống chế mình theo đúng lễ, điều gì mình không muốn thì cũng đừng đem áp
dụng cho người, mình muốn lập thân phải giúp người lập thân, mình muốn thành
đạt thì cũng giúp người thành đạt…”
“
Nghĩa” là điều hợp đạo lí mà con người phải làm. Nhà Nho phải biết
phân bi
ệt nghĩa và lợi. Người làm việc nghĩa thì hy sinh lợi ích của mình vì
người khác. Nghĩa và lợi không thể dung hợp với nhau. Khổng Tử nói: “Quân tử
biết rõ về nghĩa, tiểu nhân biết rõ về lợi”, “muốn sống tốt phải lấy nghĩa đáp lợi ,
ch
ứ không nên lấy lợi đáp lợi”, “bậc quân tử tinh tường vệc nghõa, kẻ tiểu nhân
rành r
ẽ việc lợi”.
Như vậy, đức “nhân” xét trong mối quan hệ với đức “ nghĩa” thì “nhân” là
b
ản chất của ‘nghĩa”. Bản chất ấy chính là lòng yêu thương con người. Đức
“ngh
ĩa” xét trong mối quan hệ với “nhân” thì nghĩa là hình thức của nhân, là điều
mà con
người phải làm.
“Lễ” là hình thức biểu thị bên ngoài của nhân. Để điều nhân có thể thực
hi
ện được thì phải bằng lễ. Lễ ở Khổng Tử là những phong tục, tập quán, những
quy t
ắc, quy định trật tự xã hội và cả thể chế pháp luật Nhà nước như: sinh, tử,
tang, hôn t
ế lễ, triều sính, luật lệ, hình pháp
- 5 -
“Trí” là biết khôn ngoan suy xét điều phải điều trái, biết minh triết bảo
thân trong c
ảnh nguy nan, biết biện biệt, kẻ xấu người tốt trong vấn đề xử lý tiếp
v
ật. Khổng Tử coi trí là điều kiện để có nhân, trí không chỉ là sự thông minh mà
là t
ự tích cóp dần dần qua việc học tập. Xã hội thời này cũng vì thế mà rất coi
tr
ọng việc học, trau dồi kinh thư, thi cử, học hành đỗ đạt để lên làm quan phò vua
giúp nước.
“Tín” là s
ự tín nhiệm của mọi người dựa trên việc làm và lời nói luôn
song hành cùng nhau c
ủa con người. Sách Đại học có câu “Giao kết với người,
c
ốt ở chữ tín”. Tín củng cố sự tin cậy giữa người với người, củng cố lòng tin với
đạo lý thánh hiền, tin vào sự tốt đẹp.
“D
ũng” là lòng dũng cảm, không sợ sệt. Thấy việc nghĩa bèn ra tay hành
động, vứt bỏ tư lợi để làm theo nhân nghĩa. Nếu đã hành động thì phải thiết thực
ch
ứ không chỉ ở lời nói suông.
c. Chính trị
Nho gia xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến,
m
ột xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh nên lý tưởng của Nho gia
là xây d
ựng một "xã hội đại đồng" với những con người là “người quân tử”.
Kh
ổng Tử cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân tình khổ sở
là do không “chính danh”, “vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha,
con không ra con, ch
ồng không ra chồng, vợ không ra vợ”. Muốn xã hội ổn định
và phát tri
ển thì phải giáo dục đạo đức và thực hiện “chính danh”, tức là làm mọi
vi
ệc cho ngay thẳng, người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy, tức
“vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con, ch
ồng ra chồng, vợ ra vợ”. Khi các
m
ối quan hệ này chính danh thì xã hội sẽ ổn định, gia đình yên vui. Muốn trị
nướ
c thì phải thực hành chính danh vì “Danh bất chính tắc ngôn bất thuận. Ngôn
b
ất thuận tắc sự bất thành. Sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng. Lễ nhạc bất hưng
tắc hình phạt bất trúng. Hình phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc. Cố quân tử
- 6 -
danh chi t
ất khả ngôn dã. Ngôn chi tất khả hành dã, quân tử ư kỳ ngôn vô sở cẩu
nhi d
ĩ hỹ”.
Con người trong “xã hội đại đồng” là “người quân tử” lấy tu thân làm gốc,
đạt đạo, đạt đức, biết thi, thư, lễ, nhạc và cai trị xã hội bằng “nhân trị” và “đức
tr
ị”. Nho gia kiên trì vương đạo và chủ trương lễ trị để trị nước an dân. “Lễ” như
đ
ã trình bày ở phân trên là những nghi thức, quy chế, kỷ cương, trật tự, tôn ti
trong xã h
ội. Lễ là cơ sở của xã hội có tổ chức bảo đảm phân định trên dưới rõ
ràng, không b
ị xáo trộn.
Tóm l
ại, do không coi trọng cơ sở kinh tế kĩ thuật nêm giáo dục của Nho
gia ch
ủ yếu chỉ hướng vào rèn luyện đạo đức con người. Tuy nhiên, so với các
h
ọc thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú và mang tính hệ thống hơn cả
và đ
ã trở thành hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị Trung Hoa suốt
hơn hai ngàn năm của xã hội phong kiến.
1.2. Triết học Pháp gia thời Trung Quốc cổ đại
1.2.1. Lịch sử ra đời và phát triển
Pháp gia là một trong bốn trường phái triết lý thời Xuân Thu- Chiến Quốc
(khoảng thế kỉ thứ VI đến thế kỉ thứ III TCN). Người mở đường cho Pháp gia là
Qu
ản Trọng vào thời Xuân Thu. Ông chú trọng đến sự phú quốc và chủ trương
phép trị nước phải chú ý tới “luật, hình, lệnh, chính”. Sang nửa đầu thời Chiến
Quốc, tư tưởng pháp trị càng phát triển và dần dần thay thế “đức trị”. Thận Đáo
(370 – 290 TCN) chủ trương dùng “Thế” làm yếu tố trọng yếu trong việc cai trị
đất nướ
c, Thân Bất Hại (401 – 337 TCN) chủ trương dùng “Thuật” là yếu tố
trọng yếu nhất và Thương Ưởng (390 – 338 TCN) thì lại nhấn mạnh “Pháp”.
Đến cuối thời Chiến Quốc, Hàn Phi (280 – 233 TCN) đã tổng kết và hoàn thiện
tư tưởng trị nước của Pháp gia. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi nên trị
quốc không thể dùng “nhân trị, đức trị” của Nho gia hay “vô vi” của Đạo gia
n
ữa mà phải sử dụng pháp trị. Hàn Phi theo thuyết tính ác của Tuân Tử nên đề
- 7 -
cao phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật của pháp gia để trị nước. Nhờ
đó, ông đ
ã trợ giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc thời bấy giờ.
1.2.2. Những tư tưởng cơ bản của Pháp gia
a. Về tự nhiên
Về tự nhiên, Hàn Phi thừa nhận tính quy luật của những lực lượng khách
quan mà ông g
ọi là “Lý”. Mỗi sự vật đều có lý của nó. Lý chi phối mọi sự vận
động của tự nhiên và xã hội. Con người phải biết nắm lấy cái lý của vạn vật luôn
bi
ến hóa mà hành động cho phù hợp, phải căn cứ vào nhu cầu của lịch sử, đặc
điểm của thời thế mà lập ra chế độ, chính sách trị nước thích hợp.
b. Về sự biến đổi của xã hội
Pháp gia thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, khẳng định rằng
không th
ể có chế độ xã hội nào là không thay đổi. Thời biến thì pháp biến, không
có pháp lu
ật luôn luôn đúng. Do đó không thể có khuôn mẫu chung cho mọi xã
h
ội. “Pháp luật biến chuyển được theo theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế
thay đổ
i mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn”.
c. Về thuyết “tính người”
Hàn Phi theo quan niệm của Tuân Tử coi tính người là ác. Theo ông, trong
xã h
ội người tốt thì ít mà kẻ xấu thì nhiều. Vì vậy, không nên trông chờ người số
ít làm việc thiện mà phải ngăn số đông làm việc ác (pháp trị). Kẻ thống trị phải
nương theo tâm lý vị lợi của con người để đặt ra pháp luật, trọng thưởng, nghiêm
ph
ạt để duy trì trật tự xã hội.
d. Tư tưởng Pháp trị
Phép trị quốc của Hàn Phi là một học thuyết hoàn chỉnh được tổng hợp từ
pháp, thế, thuật. Trong đó, pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là
phương tiện để thực hiện chính sách đó.
Pháp: là các quy định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người phải
theo, là tiêu chu
ẩn khách quan để định rõ danh phận, trách nhiệm con người
trong xã h
ội. Vì vậy, pháp đã ban bố thì phải được thi hành một cách nghiêm
- 8 -
minh, “minh ch
ủ sai khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn ở trong
pháp, không có hành động nào trái pháp”.
Hàn Phi ch
ủ trương xây dựng pháp luật theo 4 nguyên tắc: thiên thời, địa
l
ợi, nhân hòa; luật pháp minh bạch; pháp luật phải được soạn thảo sao cho dân dễ
hiểu, dễ thi hành và phải được áp dụng đồng loạt với mọi người; pháp luạt phải
công b
ằng và mang tính phổ biến. Theo ông, mọi người đều bình đẳng trước
pháp lu
ật, không phân biệt đẳng cấp. Pháp được thực hiện nhằm mục đích “cứu
lo
ạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu,
đám đông không hiếp đám số ít, người già được hưởng hết tuổi đời, bọn trẻ mồ
côi được nuôi lớn, biên giới không bị xâm phạm, Vua tôi thân nhau, cha con bảo
v
ệ nhau, không lo bị giết hay bị cầm tù”. Chính vì vậy, “pháp” thực sự là một
tiêu chu
ẩn khách quan chi phối hành vi ứng xử của con người trong xã hội, trở
thành cái gốc của thiên hạ.
Thế được hiểu là quyền uy, địa vị, thế lực của người cầm đầu hay của bậc
đế vương và phải là độc tôn. “Thế” được khởi xướng bởi Thận Đáo (370- 290
TCN) v
ới nội dung đề cao sức mạnh của quyền lực, chủ trương tập quyền. Đến
th
ời Hàn Phi, ông cho rằng “thế” còn quan trong đến mức có thể thay thế bậc
hi
ền nhân. Muốn thi hành pháp thì phải có thế. Pháp và thế có mối quan hệ chặt
ch
ẽ không thể tách rời nhau.
Thuật là “phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược khiến việc, khiến
người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh cần hiểu người sai dùng họ như thế nào”.
Thu
ật gồm 3 mặt là bổ nhiệm, khảo nghiệm và thưởng phạt. Theo Hàn Phi, vua
ph
ải “dùng pháp như trời, dùng thuật như quỷ”, “vua phải giữ kín tâm ý, sở thích
c
ủa mình, không được tin ai, không cho bề tôi biết mình nghĩ gì, muốn gì, yêu gì
và ghét gì;
để bề tôi lợi dụng, dèm pha, xu nịnh, tô vẽ “ biểu lộ cái khác với bản
tính mình” v
ới vua, dòm ngó để tìm cách hại vua và chiếm ngôi vua” (Hàn Phi
T
ử, Hữu độ, Chủ đạo, Gian hiếp thí thần). Để chọn người đúng tài năng, giao
đúng chức vụ và quyền hạn, Vua cũng nhờ Thuật: “Bề tôi tỏ lời muốn làm việc
gì, thì Vua s
ẽ theo lời giao việc, cứ theo việc mà trách công: Công xứng việc mà
- 9 -
vi
ệc xứng lời thì thưởng. Công không xứng việc, việc không xứng lời thì phạt.
(Hàn Phi T
ử, Nhị bính). Nếu Pháp được công bố rộng rãi trong thần dân, thì
Thu
ật là cơ trí ngầm, là thủ đoạn, mưu lược của nhà vua bởi “vua mà không có
thu
ật là hư hỏng ở trên, bề tôi mà không có pháp là rối loạn ở dưới. Hai cái đó
không thể thiếu một và đều là công cụ của đế vương.”
Có thể nói, trong thời đại chiến tranh loạn lạc lúc bấy giờ, đường lối thực
hành pháp tr
ị của Pháp gia, dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn. Nhờ vậy mà
nhà T
ần trở nen hùng mạnh, thống nhất Trung Quốc. Tuy nhiên, Pháp gia cũng
mắc phải sai lầm và đi ngược xu hướng phát triển của văn minh nhân loại khi quá
chú tr
ọng vào pháp luật, phủ nhận tình cảm đạo đức, văn hóa giáo dục… Vì vậy
mà sau này nhà T
ần thất bại. Mặc dù từ thời nhà Hán, Pháp gia không còn được
xem tr
ọng nhưng những tư tưởng của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng đã
có nh
ững ảnh hưởng nhất định và được các trường phái triết học khác tiếp thu để
bổ sung, hoàn thiện quan điểm của mình.
II. SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP
GIA TRUNG QU
ỐC THỜI CỔ ĐẠI
1.1. Hoàn cảnh lịch sử hình thành hệ tư tưởng:
Nho gia và Pháp gia đều ra đời trong thời Xuân Thu- Chiến Quốc, chiến
tranh lo
ạn lạc, các phe phái tranh gianh quyền lực, con người đặt lợi ích lên trên
h
ết, các giá trị đạo đức suy đồi. Tình hình xã hội ấy đã thúc đẩy các nhà trí thức
ph
ải tìm kiếm phương thức để cải tạo và xây dựng một xã hội. Hàng loạt hệ tư
tưở
ng triết học được ra đời trong thời kì này: thuyết nhân trị của Khổng Tử,
thuy
ết vô vi của Lão Tử, kiêm Ái của Mặc gia, âm dương ngũ hành của Âm
Dương gia và các học thuyết về chính trị của Pháp Gia…hướng tới mục đích
chung giáo dục con người, xây dựng một xã hội an bình, thịnh vượng.
Trong đó, Nho gia chú trọng đến giáo dục đạo đức cho con người. Đặc
bi
ệt, Khổng Tử hướng tới việc xây dựng một xã hội đại đồng- một xã hội có trật
t
ự, kỉ cương, mọi cái đều là của chung, con người trong xã hội đều là người quân
t
ử có đạo đức. Tuy nhiên, xã hội đại đồng mãi mãi không thể trở thành hiện thực
- 10 -
b
ởi lẽ các quan điểm của Khổng Tử không còn phù hợp với một xã hội mà chế
độ tư hữ
u ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Pháp gia, mà đại diện tiêu biểu là Hàn Phi đưa ra thuyết pháp trị cũng
nhằm mục đích xây dựng một xã hội ổn định, dân giàu nước mạnh. Nếu trường
phái Nho gia- Kh
ổng Tử xây dựng xã hội bằng cách giáo dục con người, tạo ra
người quân tử thì Pháp gia chú trọng đến pháp trị. Hàn Phi đưa ra “pháp- thế-
thu
ật” đều là thực hiện tốt pháp luật, thưởng phạt nghiêm minh để răn đe, giáo
dục con người. Tuy nhiên, việc thi hành pháp luật quá hà khắc là một trong
nh
ững nguyên nhân khiến nhà Tần sụp đổ.
1.2. Bản tính con người
Về bản tính con người, tư tưởng của Nho gia và Pháp gia hoàn toàn khác
nhau. N
ếu Nho giáo cho rằng bản tính con người là thiện, thì Pháp gia lại cho
r
ằng bản tính con người là ác. Chính điểm khác biệt này cũng phần nào dẫn đến
s
ự khác nhau trong thuyết trị quốc và công cụ trị quốc của hai trường phái triết
h
ọc này.
Theo Nho gia (tiêu bi
ểu là Khổng Tử và Mạnh Tử), bản tính con người là
thi
ện “nhân chi sơ tính bổn thiện”. Con người khi sinh ra bản tính đều gần giống
như nhau và đều là tính thiện. Tuy nhiên, trong quá trình trưởng thành, con người
s
ống trong những môi trường sống khác nhau, chịu tác động của hoàn cảnh sống
mà b
ản tính dần thay đổi. Vì vậy mà Khổng Tử chú trọng giáo dục đạo đức để
giáo dục con người về với bản tính lương thiện. Nho gia đề cao nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín, d
ũng, hướng con người đi đúng “đạo”; trong đó nhân và nghĩa là trung
tâm c
ủa đạo đức Nho giáo.
Ngược lại với Nho gia, Pháp gia (tiêu biểu là Hàn Phi) cho rằng bản tính
con người là ác- “nhân chi sơ tính bổn ác”. Tư tưởng về bản tính con người của
Pháp gia được kế thừa từ tư tưởng của Tuân tử - thầy của Hàn Phi. Ông cho rằng
“tính là cái tr
ời sinh ra đã có vốn thế, không thể học cũng không thể làm ra được.
Cái gì không h
ọc, không làm mà đã có ở long người rồi, cái đó mới là tính”. Và
b
ản tính của con người là thích ăn ngon, thích cái đẹp, ích kỉ, ưa cái lợi Sự thôi
- 11 -
thúc ph
ải đáp ứng những nhu cầu vốn có ấy là nguyên nhân làm cho bản tính con
người là ác. Mặc dù Pháp gia không hoàn toàn phủ nhận phương pháp giáo dục
con người bằng giáo dục đạo đức, nhưng người tốt cũng chỉ là thiểu số, chiếm đa
số vẫn là người có bản tính ác. Vì vậy, muốn xã hội được yên bình, không thể
trông chờ vào số ít người tốt làm việc thiện mà phải xuất phát từ số đông, thực
hi
ện Pháp trị để ngăn chặn không cho họ làm điều ác. Tuy nhiên, chính điều đó
đ
ã khiến Pháp gia không còn được trọng dụng sau khi nhà tần sụp đổ.
1.3. Thuyết trị quốc và công cụ trị quốc
Về kinh tế, cả Nho gia và Pháp gia đều chú trọng phát triển nông nghiệp,
tích tr
ữ lương thực, làm cho đời sống của xã hội no đủ bởi muốn nước cường
th
ịnh thì dân phải ăn no mặc ấm.
V
ề chính trị, cả Nho gia và Pháp gia đều coi trọng “chính danh”. Theo
Nho gia nguyên nhân làm cho xã h
ội loạn lạc là do không “chính danh”, muốn xã
h
ội ổn định và phát triển thì phải giáo hoá đạo đức và thực hiện chính danh, định
ph
ận, tức là làm mọi việc cho ngay thẳng, người nào có địa vị, bổn phận chính
đáng của người ấy cứ thế mà làm, “Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con,
ch
ồng ra chồng, vợ ra vợ”. Muốn trị nước, trước hết phải thực hiện “chính danh”,
b
ởi vì “nếu không chính danh thì lời nói sẽ không đúng đắn, lời nói không đúng
đắ
n sẽ dẫn đến việc thi hành sai…Tiếp thu tư tưởng “chính danh” của Khổng Tử,
Hàn Phi
đã xây dựng “pháp” trong tư tưởng trị quốc của mình. Pháp là các quy
định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người phải theo, là tiêu chuẩn khách
quan để định rõ danh phận, trách nhiệm con người trong xã hội.
Và ngược lại, Nho gia cũng dùng “pháp” để xây dựng “lễ”, xây dựng
nh
ững phong tục, tập quán, các quy định về trạt tự xã hội và pháp luật của nhà
nước. Con người phải làm theo tam cương, ngũ thường, có nhân nghĩa và phải có
l
ễ.
Măc dù tồn tại những điểm tương đồng nhưng về cơ bản thì tư tưởng về
thuyết trị quốc và công cụ trị quốc của hai trường phái Nho gia và Pháp gia vẫn
ch
ứa đựng nhiều khác biệt.
- 12 -
Theo tư tưởng Nho gia, Khổng Tử đề cao “đức trị” trong việc trị quốc của
mình –
đường lối trị nước bằng đạo đức. Cơ sở của “Đức trị” là lòng yêu thương
con ngườ
i, lòng tin ở bản tính con người vốn thiện, có thể cảm hóa được.
Kh
ổng Tử phản đối việc nhà cầm quyền dùng luật pháp và hình phạt để
cai trị dân. Theo ông, “làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để cảm hoá dân) thì
như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức thiên hạ về
theo), còn cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đàn áp dân vào khuôn phép thì dân có
th
ể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sĩ. Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa
dân vào đượ
c khuôn phép mà dùng lễ thì dân không những biết liêm sĩ mà còn
th
ực lòng quy phục”.
Nho gia đề cao nhân nghĩa, tam cương, ngũ thường” trong quá trình thực
hi
ện đức trị của mình. Nho gia nguyên thủy cho rằng nền tảng xã hội, cơ sở gia
đình không phải là những quan hệ kinh tế - xã hội mà là những quan hệ đạo đức
– chính tr
ị, đặc biệt là “Tam cương” – ba quan hệ vua-tôi, cha-con, chồng-vợ.
Khi các quan h
ệ này chính danh thì xã hội ổn định, gia đình yên vui, hạnh phúc
và ngược lại. Vì vậy, muốn cải loạn thành trị, xây dựng xã hội đại đồng phải
chân ch
ỉnh ba mối quan hệ đó. Và công cụ chính được Nho gia áp dụng chính là
giáo d
ục đạo đức.
N
ếu Nho gia đề cao đức trị thì Pháp gia lại đề cao pháp trị. Phép trị quốc
c
ủa Hàn Phi là sự kết hợp đầy đủ của cả ba yếu tố thống nhất không thể tách rời
“Pháp”, “Th
ế”, “Thuật”. Hàn Phi coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại
hòa bình,
ổn định và công bằng cho xã hội, trong đó “Pháp” là nội dung trong
chính sách cai tr
ị được thể hiện bằng luật lệ, “Thế” là công cụ, là phương tiện tạo
nên s
ức mạnh và ‘Thuật” là phương pháp, cách thức để thực hiện pháp trị. Theo
Hàn Phi, khi th
ực hành pháp trị phải chú ý đến các nguyên tắc: thứ nhất, tính tư
lợi của con người; thứ 2 là pháp luật phải hợp với thời thế; thứ ba là pháp luật
ph
ải được ban hành thống nhật, rộng rãi, áp dụng cho mọi đối tượng; thứ tư là
đơn giản mà đầy đủ
; thứ năm là dễ biết, dễ làm; và cuối cùng là vua phả nắm hết
quy
ền thưởng phạt. Ông đòi hỏi bậc minh minh chủ sai khiến bề tôi, không đặt ý
- 13 -
ngoài pháp, không ban ơn trong pháp, không hành động trái pháp. Tuy nhiên, chỉ
có “Pháp” thì không đủ. Hàn Phi không quá đề cao người quân tử và bậc hiền
nhân như Nho gia. Theo ông, kẻ cầm quyền phải có “Thế” làm phương tiện tạo
nên s
ức mạnh. Thế quan trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân
b
ởi “chỉ có bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò
c
ủa bậc hiền vậy”. Bộ phận cuối cùng trong tư tưởng pháp trị là “Thuật”- phương
pháp, cách thức thực hiện pháp trị, các mưu lược, điều khiển việc khiến người ta
tri
ệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu họ được dùng như thế nào. Hơn nữa,
“thu
ật” còn được thể hiện trong thuật dùng người. Nguyên tắc của thuật dùng
người là chính danh, hình danh và thực danh. Trong đó, “chính danh” là nội dung
được Hành Phi kế thừa từ tư tưởng của Nho gia.
V
ề nội dung, pháp luật của Hàn Phi chủ yếu là thưởng hậu, phạt nặng. Đó
cũng là cách để vua nắm giữ chính quyền. Ngoài ra, Hàn Phi còn đưa ra chủ
trương mọi người đề
u bình đẳng trước pháp luật. Nội dung thưởng phạt, nhằm
m
ục đích thực hiện “Pháp” “để cứu loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ,
khi
ến cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đám số ít, người già
được hưởng hết tuổi đời, bọn trẻ mồ côi được nuôi lớn, biên giới không bị xâm
ph
ạm, vua tôi thân nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị cầm tù”.
Như vậy, theo tư tưởng Pháp gia thì then chốt của việc xây dựng đất nước
là ph
ải dựa vào pháp luật.
Tóm l
ại, tư tưởng về thuyết trị quốc và công cụ trị quốc của Nho gia và
Pháp gia g
ần như hoàn toàn đối lập. Nho gia mượn thời xưa để phê phán thời
nay, l
ấy cái tốt đẹp trong quá khứ để đo cái hiện tại. Chính vì vậy mà tư tưởng
c
ủa Nho gia chủ trương giáo dục đạo đức, hướng con người đến những giá trị tốt
đẹp thời xưa, xây dựng người quân tử và xã hội đại đồng. Chính điều này đã làm
cho tư tưởng của Nho gia không chứa đựng xu hướng của thời đại- một trong
nh
ững hạn chế của Nho gia. Ngược lại, Pháp gia mà tiêu biểu là Hàn Phi lại cho
r
ằng mọi tư tưởng, hành động, lí luận đều phải xuất phát từ thực tiễn xã hội. Ông
phê phán nh
ững người hủ Nho không biết bản chất của trị và loạn, chỉ biết dẫn
- 14 -
sách xưa làm rối việc cai trị thời nay. Theo đó, Pháp gia chủ trương phải thi hành
pháp lu
ật, thưởng phạt phân minh để ổn định xã hội, xây dựng đất nước, “không
có nước nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những
người thi hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ những người thi hành
pháp lu
ật yếu thì nước yếu”. Đây chính là điểm tiến bộ trong tư tưởng của Pháp
gia nói chung và Hàn Phi nóiriêng.
1.4. Ý thức về sự vận động của xã hội
Tư tưởng của Nho gia và pháp gia đều ra đời và phát triển nhằm giải quyết
các mối quan hệ chính trị- đạo đức- xã hội mà thời đại đã đặt ra và đều là công cụ
cai trị cho một giai tầng nhất định. Cả hai hệ tư tưởng “cùng nhìn nhận cấu trúc
xã hội với những bất bình đẳng như một thực tế đã định và cho phép chúng quyết
định điều cá nhân n
ên làm. Hòa hợp xã hội đồng nghĩa với việc cá nhân thuận
theo xã hội. Thực tế của xã hội luôn luôn có kẻ giàu, người nghèo, luôn có người
quân tử và kẻ tiểu nhân, các thứ bậc trong xã hội là một tất yếu mà mỗi một cá
nhân trong xã hội phải thuận. Mỗi cá nhân không được nằm ngoài vòng tròn thực
tại của xã hội, vì mỗi một cá nhân là mỗi yếu tố cấu thành xã hội.”
Theo quan điểm Nho giáo, thế giới và con người được sinh ra từ trời, bởi
lẽ đó, trời đóng vai trò chi phối toàn bộ những gì vận động xung quanh con
người, tri thức, năng lực của con người cũng do trời phú m
à có, vì vậy con người
phải biết kính trời, luôn suy nghĩ và hành động theo ý trời. Nho gia coi trọng
“thiên mệnh”, người quân tử phải biết thuận theo thiên mệnh mà làm. Và theo
Nho gia thì “thiên b
ất biến, đạo diệc bất biến” (trời không đổi thì đạo cũng không
thay đổi)
Trái ngược với Nho gia, Pháp gia điều h
ành xã hội lại chú ý đến các quy
lu
ật, nghĩa là làm cho xã hội phát triển theo đúng hướng của nó. Pháp gia thừa
nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Do xã hội luôn thay đổi nên không có
khuôn m
ẫu chung cho mọi xã hội và không có một pháp luật luôn luôn đúng ở
- 15 -
m
ọi thời đại. Pháp luật mà thay đổi theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay
đổi m
à phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIA VÀ PHÁP GIA ĐẾN VIỆT NAM
Nho giáo du nhập vào nước ta từ rất sớm và trở thành công cụ tư tưởng
c
ủa các triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt là tư tưởng về đạo đức. Các tư
tưởng đạo đứ
c của Nho gia về Nhân, Nghĩa đã làm cho con người có sự đối xử
nhân ái, khoan dung, độ lượ
ng với nhau. Đức lễ cùng với tư tưởng tam cương-
ng
ũ thường và hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp con người có thái độ và
hành vi
ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép. Xét theo phương diện
pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc duy trì trật tự, kỷ
cương của x
ã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo quan niệm trong
nước cần phải có pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải có
gia pháp thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên
kính dưới nhường. Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa
vụ và trách nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ
xã hội.
Nét đặc sắc của Nho giáo l
à chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá
nhân, trau dồi thi- thư- lễ- nhạc, đặc biệt là chú ý đến tài đức của người cầm
quyền. Tư tưởng này cho đến nay vẫn được Đảng và nhà nước ta coi trọng. Bởi
lẽ “ có đức mà không có tài là người vô dụng, có tài mà không có đức thì làm
vi
ệc gì cũng không xong”. Những người lãnh đạo trong bộ máy nhà nước mà mất
đạo đức th
ì không thể cai trị được nhân dân bởi đạo đức là một phương tiện để
tranh thủ được lòng dân. Ngoài ra, cán bộ phải luôn gương mẫu, chấp hành pháp
lu
ật, tu thân dưỡng tánh để làm gương cho dân, coi trọng lợi ích của nhân dân,
của đất nước trên lợi ích bản thân.
Dù Nho gia có ảnh hưởng tích cực, tuy nhiên vẫn tồn tại những mặt tiêu
c
ực ảnh hưởng đến Việt Nam mà chúng ta cần kiên quyết loại bỏ. Chẳng hạn như
việc quá “trọng đức, duy tình” mà sinh ra cả nể, coi trọng quan hệ thân thích mà
d
ẫn đến đề cử người thân vào các chức vụ trong phạm vi mình quản lí, sắp xếp
- 16 -
nhân s
ự không theo năng lực. Chính điều đó dẫn đến tư tưởng cục bộ địa phương,
bao che lẫn nhau. Việc coi trọng lễ một cách cứng nhắc, bảo thủ là cơ sở cho tư
tưởng tôn ti, tư tưởng b
è phái, cục bộ, đề cao địa vị, coi thường lớp trẻ, trọng
nam khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và hành động của không
ít người. Trong gia đ
ình thì vẫn tồn tại các tư tưởng gia trưởng thời phong kiến…
Chính vì v
ậy, để xây dựng đạo đức mới cho cơn người Việt Nam hiện nay chúng
ta cần kế thừa mặt tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh hưởng
tiêu cực của tư tưởng đạo đức Nho giáo. Công việc này phải được tiến hành
thường xuyên, kiên trì và lâu dài.
C
ũng như Nho gia, tư tưởng Pháp gia cũng đã được Việt Nam từ thời
phong ki
ến và là hệ tư tưởng cở sở xây dựng pháp luật thời phong kiến. Ngày
nay, tư tưởng Pháp trị vẫn có ý nghĩa sâu sắc. Nhà nước ta đã nhận thấy được
điểm tiến bộ trong tư tưởng trị quốc của Pháp gia là phải xây dựng pháp luật,
trong đó pháp luật phải công minh, công bằng, “pháp luật phải đặt nơi công
đường để trăm họ đượ
c biết, pháp luật không bênh người sang, không phân biệt
k
ẻ nghèo khó”. Thêm vào đó, nhận thấy sự đúng đắn trong tư tưởng của Pháp
gia: người thi hành pháp luật mạnh thì nước mạnh và ngược lại, Đảng và nhà
nước chủ trương xây dựng người cán bộ có đạo đức, cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư. Là người cầm cán cân pháp luật họ phải xác định hai chữ “công
b
ằng” trong đó chú ý đến tính nhân văn của con người, phải nắm rõ pháp luật để
xử lý sao cho công bằng khách quan, hợp lòng dân. Nước ta đã khéo léo chọn
l
ọc, áp dụng những tiến bộ của tư tưởng Pháp trị vào công cuộc trị nướcvà loại
b
ỏ nhược điểm không coi trọng giá trị nhân văn, đạo đức của tư tưởng này.
Tóm l
ại, Nho gia và Pháp gia có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam ta.
Trong công cu
ộc xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và nhà nước ta nên tiếp
thu và k
ết hợp các ưu điểm của hai hệ tưởng này trong việc giáo dục đạo đức con
người và xây dựng, thực hành pháp luật, loại bỏ những điểm hạn chế, cực đoan,
cổ hủ, không hợp thời của hai hệ tư tưởng. Từ đó, xây dựng một nền pháp luật
- 17 -
h
ợp lí hợp tình, con người cư xử với nhau có lễ giáo trên nền tảng tuân thủ pháp
lu
ật, góp phần ổn định xã hội, xây dựng đất nước.
- 18 -
KẾT LUẬN
Hai hệ tư tưởng triết học Nho gia và Pháp gia được hình thành và phát
tri
ển từ thời Trung Quốc cổ đại, cùng nhau phát triển và có ảnh hưởng sâu sắc
đến tư tưởng trị quốc an dân không chỉ của Trung Quốc mà còn được tiếp thu bởi
các qu
ốc gia khác, trong đó có Việt Nam.
M
ặc dù hai hệ tư tưởng đều có những điểm tương đồng và những điểm
khác bi
ệt nhưng đều hướng đến mục tiêu giải quyết các mối quan hệ chính trị-
đạo đức- xã hội, làm cho quốc thái dân an, xây dựng đất nước yên bình. Sự so
sánh gi
ữa Nho gia và Pháp gia không chỉ đơn thuần chỉ ra những điểm giống và
khác mà còn t
ừ đó nhận ra được những mặt tích cực và hạn chế của hai hệ tư
tưở
ng này. Từ đó, vận dụng, kết hợp những tư tưởng tích cực một cách khéo léo
vào công cu
ộc xây dựng, đổi mới đất nước ở Việt Nam.
- 19 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, giáo trình triết học- dùng cho học viên cao học và
nghiên c
ứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học, NXB. Lý luận chính
tr
ị, Hà Nội, 2007.
2.
Bùi Văn Mưa (chủ biên) “Triết học”, Phần I, Đại cương về lịch sử triết
h
ọc, NXB TPHCM, 2010.
3. Doãn Chính (ch
ủ biên) “Đại cương triết học Trung Quốc”, NXB Chính trị
quốc gia Hà Nội, 1997
4. H
ồ Nam Đông, “So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và
Pháp gia
”, 2010.
5. Phan Ng
ọc (dịch) Hàn Phi Tử, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2001.
6. Ti
ểu ban Triết học, Triết học (Phần I & II, dùng cho học viên cao học và
nghiên c
ứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), LHNB Trường ĐH
Kinh tế TPHCM, 2010.
7. />l%C6%B0%E1%BB%A3c-gia
8. />