Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Một số giải pháp quản lý việc thực hiện GD hòa nhập trẻ KT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.29 KB, 105 trang )



Tên đề tài : "Một số giải pháp quản lý việc
thực hiện giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật trong trường
Tiểu học tỉnh Hoà Bình"
HOÀ BÌNH – NĂM.
MỤC LỤC Trang
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU
- Lý do chọn đề tài.
-Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Mục tiêu nghiên cứu.
- Đối tượng và khách thể nghiên cứu.
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
- Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu.
– Cấu trúc luận văn
Chương I: Cơ sở lý luận của quản lý việc thực hiện GDHN trẻ KT trong trường tiểu học
1.1. Một số vấn đề chung về trẻ khuyết tật
1.1.1. Khái niệm khuyết tật, trẻ khuyết tật
1.1.2. Phân loại trẻ khuyết tật
1.1.3.Đặc điểm phát triển và tâm lý của trẻ khuyết tật
1.2. Giáo dục hòa nhậpvà lợi ích của giáo dục hòa nhập
1.2.1. Khái niệm giáo dục hòa nhập
1.2.2. Lợi ích của giáo dục hòa nhập
1.3. Cơ sở lý luận về Quản lý việc thực hiện GDHN trẻ KT trong trường tiểu học
1.3.1. Một số khái niệm
1.3.2. Quy trình quản lý việc thực hiện GDHN trẻ KT trong trường tiểu học
1.3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý việc thực hiện GDHN trong trường tiểu học


Chương II: Thực trạng quản lý việc thực hiện GDHN trẻ KT trong trường tiểu học tại tỉnh Hoà
Bình
2.1. Khái quát về tình hình giáo dục tỉnh Hoà Bình
2.1.1. Các đặc điểm tự nhiên – xã hội
2.1.2. Tình hình phát triển giáo dục và trẻ KT lứa tuổi học sinh tiểu học tại Hòa Bình
2.1.3. Công tác giáo dục hòa nhập tại tỉnh Hòa Bình
2.2. Thực trạng về quản lý việc thực hiện GDHN trong trường tiểu học
2.2.1. Nhận thức về tầm quan trọng của thực hiện GDHN trẻ KT trong trường tiểu học
tại Hòa Bình
2.2.2. Thực trạng lập kế hoạch GDHN
2.2.3. Thực trạng việc tổ chức thực hiện GDHN
2.2.4. Về công tác chỉ đạo thực hiện GDHN
2.2.5. Thực trạng về kiểm tra và đánh giá GDHN
2.3. Nhận định, đánh giá chung về thực trạng
2.3.1. Mặt mạnh và những nguyên nhân
2.3.2. Hạn chế và những nguyên nhân
Chương III: Các giải pháp quản lý việc thực hiện GDHN trẻ KT trong trường tiểu học tại
tỉnh Hoà Bình
3.1. Các nguyên tắc đề xuất giải pháp
3.1.1. Phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, ngành giáo dục và đào
tạo
3.1.2. Phù hợp với tình hình thực tế GDHN và kinh tế - xã hội ở địa phương
3.1.3. Đảm bảo tính đồng bộ của các giải pháp
3.2. Các giải pháp quản lý việc thực hiện GDHN trong truờng tiểu học
3.2.1 Nâng cao nhận thức về GDHN cho cộng đồng và nhà trường
3.2.2. Tăng cường các biện pháp quản lý
3.2.3. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý - giáo viên về GDHN và sử dụng
hợp lý đội ngũ giáo viên
3.2.4. Thực hiện tốt công tác kiểm tra, đánh giá
3.2.5 Tăng cường các điều kiện hỗ trợ cho GDHN

3.3. Khảo sát ý kiến chuyên gia về các giải phá p
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
GDHN Giáo dục hòa nhập
KT Khuyết tật
NKT Người khuyết tật
CH XHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
THCS Trung học cơ sở
Bộ GD&ĐT Bộ giáo dục và đào tạo
TS Tiến sĩ
THPT Trung học phổ thông
HTCĐ Hỗ trợ cộng đồng
CBQL Cán bộ quản lý
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Bảng 1: Thống kê số lượng CBQL và giáo viên đã được tập huấn về GDHN
Bảng 2: Đánh giá nhu cầu được tập huấn về GDHN của cán bộ quản lý và giáo
viên
Bảng 3: Số lượng học sinh KT học hoà nhập. Năm học 2012 – 2013
Bảng 4: Số lượng học sinh KT học hoà nhập tính theo khối lớp.
Bảng 5: Đánh giá của CBQL và giáo viên về chương trình, nội dung và
phương pháp dạy hoà nhập
Bảng 6: Đánh giá của CBQL và giáo viên về cơ sở vật chất, thiết bị - đồ
dùng dạy học hoà nhập
Bảng 7: Đánh giá, xếp loại học sinh KT học hoà nhập qua các năm
Bảng 8: Đánh giá hạnh kiểm học sinh KT học hoà nhập qua các năm
Bảng 9: Tình hình học sinh KT sau khi học tiểu học trong 3 năm

Bảng 10: Chính quyền và cộng đồng nhận thức về trẻ KT và GDHN
Bảng 11: Đánh giá về thái độ, nhận thức của CBQL và giáo viên về GDHN.
Bảng 12: Nhận thức của giáo viên về khả năng học hòa nhập của các đối tượng
học sinh khuyết tật
Bảng 13: Tự đánh giá của CBQL về xây dựng kế hoạch toàn diện GDHN
Bảng 14: Đánh giá của giáo viên về việc thực hiện kế hoạch giáo dục cá
nhân cho học sinh KT
Bảng 15: Đánh giá của CBQL và giáo viên về tổ chức thực hiện GDHN
Bảng 16: Đánh giá của lãnh đạo, chuyên viên phòng giáo dục và giáo
viên về công tác chỉ đạo thực hiện GDHN của hiệu trưởng
Bảng 17: Tự đánh giá của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng về công tác kiểm tra
đánh giá GDHN
Bảng 18: Kết quả khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của giải pháp
quản lý việc thực hiện GDHN tại các trường tiểu học ở Hòa Bình
Sơ đồ 1: Quy trình quản lý việc thực hiện GDHN trẻ KT
Sơ đồ 2: Quy trình hỗ trợ của nhóm HTCĐ cho trẻ KT.
Biểu đồ 1: Tỷ lệ học sinh KT học hoà nhập tiểu học.
Biểu đồ 2: Số lượng học sinh học hoà nhập ở các khối lớp tiểu học.
PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển toàn diện của đất nước thì giáo
dục cũng đã có những bước phát triển đáng kể về chất lượng, quy mô và loại hình đào
tạo. Giáo dục đã và đang thể hiện vai trò trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất
lượng cao phục vụ cho công cuộc đổi mới của đất nước. Trong đó nổi lên một vấn đề
đang được quan tâm và cũng là xu thế tất yếu cho sự phát triển hiện nay - đó là giáo dục
dành cho tất cả mọi người.
Trong xu thế đó, việc phổ cập giáo dục được tiến hành đồng bộ trên cả ba cấp
học bao gồm tiểu học, THCS và THPT với mục tiêu trọng tâm của ngành giáo dục là
đảm bảo cơ hội và quyền được hưởng giáo dục cho mọi trẻ em; nâng cao chất lượng
giáo dục; phát triển môi trường giáo dục phù hợp nhất cho sự tham gia của trẻ. Trong

đó, có cả trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa và đặc
biệt là trẻ khuyết tật. Hiện nay ở Việt Nam, theo ước tính từ Chương trình Phục hồi
chức năng dựa vào cộng đồng, Việt Nam có khoảng một triệu trẻ em khuyết tật độ tuổi
0-17 tuổi (chiếm 3,1% trẻ trong độ tuổi này), trong đó trẻ dưới 6 tuổi có tỷ lệ khuyết tật
là 1,39% số trẻ cùng độ tuổi. Loại khuyết tật phổ biến nhất ở trẻ em trong điều tra tại
cộng đồng là khuyết tật về vận động (chiếm 22,4%) và khuyết tật về nói (chiếm 21,4%
tổng số trẻ khuyết tật). Trẻ em khuyết tật là nhóm ít có khả năng được chăm sóc y tế
hoặc được đi học nhất. Đây là một trong những nhóm trẻ em dễ bị tổn thương nhất bởi
bạo lực, xâm hại, bóc lột và xao nhãng, đặc biệt là khi trẻ bị dấu diếm hoặc bị gửi vào
các trung tâm.
Đảng và Nhà nươc ta đã đưa ra rất nhiều chủ trương, nghị quyết, chỉ rõ đường
lối của ngành Giáo dục cần phải hỗ trợ trẻ em khuyết tật nhằm thúc đẩy các điều kiện
sống cho NKT trong đó có trẻ em KT với các chính sách xã hội, văn bản pháp lý như
Hiến pháp nước CH XHCN Việt Nam năm 1992; Luật Phổ cập giáo dục tiểu học 1991;
Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998 (Điều 16 – chương 3) … Trên cơ sở đó, các
chương trình can thiệp sớm, các chương trình giáo dục hòa nhập, hội nhập, các trường
dạy chuyên biệt đã được thành lập cùng chung tay giúp đỡ trẻ em khuyết tật Việt Nam.
Hoà Bình là một tỉnh miền núi, trước năm 1999 cũng đã có khoảng 25% trẻ
khuyết tật học trong trường tiểu học và THCS song còn mang tính tự phát và chất
lượng học tập kém. Dưới sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, sự hỗ trợ chuyên môn của Trung
tâm nghiên cứu và phát triển chương trình giáo dục chuyên biệt thuộc Viện Chiến lược
và Chương trình giáo dục, ngành giáo dục đã tập trung chủ yếu vào cấp tiểu học tổ chức
triển khai nhiều hoạt động và thực sự đã đạt được một số hiệu quả trong công tác giáo
dục hoà nhập trẻ khuyết tật trong trường tiểu học. Tuy nhiên, giáo dục hoà nhập trẻ
khuyết tật còn nhiều hạn chế rất cơ bản trong công tác quản lý, việc tiến hành còn lúng
túng và hiệu quả chưa cao, chất lượng giáo dục hoà nhập còn thấp, thiếu bền vững, cơ
sở vật chất còn nhiều thiếu thốn, nhận thức của người dân về GDHN trẻ KT chưa cao
nên chất lượng giáo dục ở đây còn nhiều hạn chế. Vì vậy, quá trình GDHN trẻ KT cần
tiếp tục nhận được sự quan tâm của các cấp, các ngành liên quan. Hơn nữa vấn đề quản
lý việc thực hiện giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật trong trường tiểu học đến nay vẫn

chưa có tác giả nào nghiên cứu. Do vậy, việc nghiên cứu tìm kiếm những giải pháp hợp
lý giúp nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục hòa nhập tại một địa phương có
hoàn cảnh khó khăn không những mang ý nghĩa lý luận mà còn mang ý nghĩa thực tiễn
sâu sắc.
Với suy nghĩ trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài : "Một số giải pháp quản
lý việc thực hiện giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật trong trường tiểu học tỉnh Hoà
Bình”. Nghiên cứu được thực hiện tại Tỉnh Hòa Bình.
2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trên thế giới, Giáo dục hòa nhập cho trẻ KT từ lâu đã được tất cả các quốc gia
trên thế giới quan tâm. Trong hơn bốn thế kỷ qua, tuỳ thuộc vào sự phát triển của từng
thời kỳ lịch sử, giáo dục trẻ KT đã trải qua ba mô hình giáo dục khác nhau. Thế kỷ
XVI, mô hình giáo dục chuyên biệt ra đời, đánh dấu một bước phát triển mới của giáo
dục trẻ KT với tính tích cực, ưu việt và phù hợp với tính lịch sử của nó. Đến những năm
40 của thế kỷ XX một mô hình giáo dục trẻ KT ra đời: mô hình giáo dục hội nhập với
đổi mới tích cực hơn và mô hình GDHN xuất hiện năm 1970.
Từ sau năm 1994, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về GDHN, cách thức tổ
chức và quản lý GDHN.
Nhà giáo dục, chuyên gia tư vấn Phục hồi chức năng người khiếm thị, William
G.Brohier (1994) trong các nghiên cứu của mình đã chỉ ra rằng cần theo dõi và đánh giá
thường xuyên sự tiến triển của các chương trình GDHN nhằm đạt được các mục tiêu đã
đề ra. Trong nghiên cứu của mình tác giả đã đề cập và nêu ra những mục tiêu chung
nhất về GDHN, cách thức thực hiện, các điều kiện đảm bảo cho thực hiện GDHN và
những tiêu chí đánh giá công việc này.
Tiến sỹ chuyên về giáo dục đặc biệt, Sudesh Mukhopadhyagy (1999) cũng đã kết
luận: Việc nhận dạng và phát hiện trẻ KT cần được phối hợp với các cơ quan, tổ chức
trong nước và các tổ chức phi Chính phủ. Việc làm này cần được đưa vào kế hoạch của
mỗi năm học và được xem như một phần của kế hoạch giáo dục chung của nhà trường.
Không chỉ trên thế giới, GDHN trẻ KT ngày càng được quan tâm tại Việt Nam
và được xác định là hình thức giáo dục cơ bản đáp ứng nhu cầu giáo dục của trẻ KT
Việt Nam. Nhiều nghiên cứu trong nước về GDHN trẻ khuyết tật cũng đã được thực

hiện như:
Th.s. Huỳnh Ngọc Trà thực hiện nghiên cứu Các biện pháp quản lý GDHN trẻ
KT ở bậc tiểu học tỉnh Quảng Nam năm 2006. Tác giả đã đề cập đến các vấn đề về
quản lý, quản lý GDHN cho trẻ KT ở cấp tiểu học trên địa bàn một tỉnh. Từ đó đề xuất
sáu giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng, hiệu quả GDHN trẻ KT cấp tiểu học tại
tỉnh Quảng Nam [24].
Cũng trong năm 2006, Hà Thanh Vân thực hiện nghiên cứu có tên: “Một số biện
pháp quản lý GDHN học sinh khiếm thị của hiệu trưởng các trường tiểu học ở TP Hồ
Chí Minh”. Trong phần trình bày của mình, tác giả dành sự quan tâm và tập trung
nghiên cứu vào đối tượng trẻ khiếm thị. Thực trạng về nhận thức; điều kiện cơ sở vật
chất cơ sở thiết bị; hoàn cảnh; biện pháp quản lý đối với GDHN trẻ khiếm thị cấp tiểu
học. Đề xuất được các giải pháp quản lý GDHN trẻ khiếm thị của hiệu trưởng các
trường tiểu học tại Tp. Hồ Chí Minh[28].
Tác giả Nguyễn Xuân Hải năm 2008 thực hiện nghiên cứu khoa học cấp trường
tại DH SP Hà Nội với đề tài “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất biện pháp quản lý giáo
dục trẻ em thiệt thòi ở Việt Nam”. Nghiên cứu chỉ ra những hạn chế trong việc quản lý
hỗ trợ trẻ em thiệt thòi bao gồm trẻ em đường phố, trẻ em lao động sớm và các nhóm
trẻ em thiệt thòi có nguy cơ cao trong đó có trẻ em khuyết tật. Nghiên cứu chỉ ra những
khó khăn trong việc tiếp cận cơ hội giáo dục do đặc thù tính chất đối tượng trẻ và sự kết
hợp chưa hợp lý của gia đình và xã hội tạo nên những rào cản trong công tác hỗ trợ trẻ
mặc dù hệ thống pháp lý đã được quy định cụ thể. Mặc dù những đề xuất trong quản lý
giáo dục cũng được đưa ra nhưng không tập trung vào đối với đối tượng giáo dục hòa
nhập.
GDHN trẻ KT ở nước ta đã được thực hiện gần 20 năm và đạt được những kết
quả ban đầu như huy động được nhiều số trẻ em khuyết tật đến lớp, bồi dưỡng năng lực
GDHN trẻ KT cho cán bộ quản lý, giáo viên. Đặc biệt, các nghiên cứu về lý luận, thực
hiện GDHN đã thu được những kết quả có ý nghĩa khoa học làm cơ sở cho Bộ GD&DT
trong việc định hướng phát triển GDHN. Nhìn chung các tác giả nêu trên đã nghiên cứu
và đề cập đến việc tổ chức và quản lý GDHN cho trẻ KT trong trường tiểu học từ nhiều
khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên tất cả các công trình nghiên cứu trên chưa có công trình

nào nghiên cứu về quản lý việc thực hiện GDHN cho trẻ KT trong trường tiểu học
thuộc phạm vi cấp huyện. Do vậy, việc nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung về
lý luận và thực tiễn cho công tác quản lý việc thực hiện GDHN cho trẻ KT ở cấp tiểu
học.
3. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
3.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài vận dụng lý luận về việc quản lý và lý thuyết hệ thống để phân tích những
đặc điểm của hệ thống quản lý GDHN tại địa phương cấp tỉnh, huyện. Từ đó, đóng góp
thêm những cơ sở lý luận về công tác quản lý GDHN bậc tiểu học.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua quá trình nghiên cứu, luận văn rút ra những kết luận về điểm yếu, điểm mạnh,
khái quát chung về công tác quản lý GDHN tại bậc học tiểu học tại tỉnh miền núi Hòa
Bình. Từ đó, đóng góp những biện pháp cải thiện công tác quản lý GDHN tại các
trường tiểu học tại Hòa Bình sao cho thực hiện tốt hơn và hoàn thiện hơn trong tương
lai.
4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Đánh giá thực trạng quản lý việc thực hiện giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật trong
trường Tiểu học tỉnh Hoà Bình.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao quản lý việc thực hiện giáo dục hoà nhập trẻ
khuyết tật trong trường Tiểu học tỉnh Hoà Bình.
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý thực hiện giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
trong trường tiểu học.
- Phạm vi nghiên cứu: các trường tiểu học tại tỉnh Hòa Bình có thực hiện công tác
giáo dục hòa nhập
- Thời gian nghiên cứu được thực hiện từ 2010 – 2013
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Tổng quan một số vấn đề lý luận về quản lý thực hiện giáo dục hòa nhập
trong trường tiểu học
- Tìm hiểu thực trạng quản lý việc thực hiện giáo dục hòa nhập trong trường

tiểu học tại tỉnh Hòa Bình
- Đề xuất và lấy ý kiến đánh giá một số giải pháp quản lý thực hiện GDHN
trong trường tiểu học tại tỉnh Hòa Bình
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu về lý luận quản lý giáo dục, giáo dục học, tâm lý học, khoa học quản
lý thông qua các tài liệu trong nước và Quốc tế về giáo dục trẻ khuyết tật. Phân tích,
tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các nguồn tài liệu và thực tiễn DGHN trẻ KT.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Sử dụng các phiếu quan sát để quan sát các hoạt động trong nhà trường, dự giờ
một số tiết học nhằm tìm hiểu công tác tổ chức lớp học, quản lý lớp học, phương pháp
giảng dạy của giáo viên, khả năng học tập của học sinh và việc quản lý giáo dục hòa
nhập trẻ khuyết tật của cán bộ quản lý trường tiểu học.
7.2.2. Phương pháp sử dụng phiếu hỏi
Sử dụng hệ thống bảng câu hỏi trưng cầu ý kiến đối với lãnh đạo, chuyên viên
phòng Giáo dục – Đào tạo, cán bộ quản lý và giáo viên, học sinh các trường tiểu học,
các ban ngành đoàn thể thị xã, các cán bộ ban ngành xã, thôn và phụ huynh trẻ KT tại
Tỉnh Hòa Bình nhằm thu thập số liệu để tìm hiểu thực trạng công tác GDHN. Tổng số
lượng phiếu phát ra 235 người gồm: 2 lãnh đạo phòng và 8 chuyên viên phòng giáo
dục, 56 CBQL và 62 giáo viên dạy hoà nhập các trường tiểu học; 32 em học sinh và
75 phụ huynh.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Sử dụng hệ thống bảng câu hỏi phỏng vấn sâu đối với phụ huynh, giáo viên và
chuyên viên phòng giáo dục. Số ca phỏng vấn sâu là 5 đối với phụ huynh, 3 với giáo
viên và 2 với chuyên viên phòng giáo dục.
7.2.4. Phương pháp chuyên gia
Thông qua các hình thức hội thảo, hội nghị, trao đổi trực tiếp với các nhà nghiên
cứu lý luận và thực tiễn để phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp.
7.2.5. Phương pháp xử lý số liệu thống kê

Các phiếu thăm dò ý kiến đã thu thập được, sử dụng thống kê mô tả, thống kê suy
luận để thực hiện xử lý số liệu khảo sát, đánh giá kết quả thực tế. Trình bày kết quả
bằng đồ họa thống kê, bảng biểu, ma trận thể hiện được thực tiễn vấn đề.
8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì nội dung chính của luận văn gồm có 3
chương với các nội dung như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc quản lý thực hiện GDHN trẻ KT trong trường học
Chương 2: Kết quả nghiên cứu thực trạng quản lý viêc thực hiện GDHN cho trẻ KT
trong trường tiểu học ở Hòa Bình
Chương 3: Các nguyên tắc đề xuất giải pháp, Các giải pháp quản lý việc thực hiện
GDHN trong truờng tiểu học
PHẦN HAI: NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ VIỆC THỰC HIỆN GDHN TRẺ
KT TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1. Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật và vấn đề quản lý công tác Giáo dục hòa
nhập trẻ khuyết tật
1.1.1 Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật là gì?
Hòa nhập là khái niệm tương đối mới ở Hoa Kì, dần được sử dụng nhiều hơn
trong các tuyên ngôn của Liên hợp quốc để chỉ một khái niệm linh hoạt nhằm biểu đạt
quan điểm "quây quần lại chúng ta sẽ tốt hơn lên".
Khái niệm giáo dục hoà nhập có tính chất linh hoạt. Hoà nhập là một hoạt động
và trong tất cả mọi hoạt động. Điều cần phẩi có là sự tận tuỵ, chăm chỉ và khả năng hài
hước của tất cả mọi người trước những thách thức của giáo dục hoà nhập.
Theo Tony Booth và Mel Ainsow, khi bàn đến giáo dục hòa nhập thường đề cập
đến trẻ khuyết tật hay "trẻ có nhu cầu giáo dục đặc biệt". Tuy nhiên, giáo dục hòa nhập
được hiểu là giáo dục cho tất cả mọi trẻ em, xây dựng môi trường giáo dục hòa nhập
không chỉ là phương hướng hoàn thiện nhà trường theo các giá trị hòa nhập mà còn
nhằm xây dựng các mối quan hệ hợp tác và cải thiện tốt hơn môi trường dạy và học hòa
nhập. Hòa nhập có liên quan đến sự thay đổi. Đó là quá trình không có hồi kết của hoạt
động học tập và tham gia hoạt động học tập ngày càng tích cực hơn của trẻ.

Tác giả Irine Lopez, Trường đại học Gotenborgs Thụy Điển, nhìn nhận giáo dục
hoà nhập theo tiến trình lịch sử phát triển của giáo dục và không chỉ dành riêng cho đối
tượng trẻ khuyết tật. Theo đó, sau giai đoạn giáo dục tách biệt, trẻ khuyết tật trong các
trường đặc biệt cần được tái hội nhập vào hệ thống giáo dục chính quy. Điều này được
gọi là giáo dục hội nhập. Hội nhập được hiểu theo hai nghĩa, thứ nhất đó là quá trình
phối hợp hoặc đưa một hoặc nhiều phần khác nhau hợp lại thành một. Với nghĩa này,
thuật ngữ hội nhập được dùng ở Thụy Điển để chỉ sự giải thể của các cơ sở nuôi dạy trẻ
khuyết tật lớn tuổi và đưa trẻ gần với xã hội. Thứ hai, đó là quá trình đưa đến các hoặc
tham gia các thành viên cộng đồng. Hai nghĩa này chỉ ra mục đích cuối cùng của hội
nhập là tạo điều kiện cho mỗi người sống trong một cộng đồng đóng góp phần bình
đẳng vào mọi hoạt động và công tác cộng đồng.
Giáo dục hoà nhập được tiến hành với các tiền đề mà theo dó nhà trường sẽ tốt
đối với mọi người nếu nhà trường thu nhận mọi trẻ em trong cộng đồng. Giáo viên sẽ
tốt hơn khi họ có trách nhiệm với trẻ em. Đảm đương được trách nhiệm này, giáo viên
sẽ trở nên tích cực hơn, sáng tạo hơn, hiểu được nhu cầu của từng trẻ.
Theo những nghiên cứu của các chuyên gia giáo dục trẻ khuyết tật nước ta, thuật
ngữ giáo dục hoà nhập được xuất phát từ Canada và được hiểu là những trẻ ngoại lệ
được hoà nhập, quy thuộc vào trường phổ thông. Giáo dục hoà nhập là giáo dục mọi trẻ
em, trong đó có trẻ khuyết tật, trong lớp học bình thường có trường phổ thông. Trẻ KT
là trẻ em có khiếm khuyết về cấu tạo thể chất, sai lệch trong phát triển các chức năng
hoặc hành vi nhưng có những khả năng và nhu cầu cá nhân cơ bản, do đó cần có những
hỗ trợ phù hợp để tham gia các hoạt động, phát triển và hoà nhập cộng đồng. Trẻ
khuyết tật có những trường hợp sau:
- Trẻ khiếm thính: Trẻ khiếm thính là những trẻ bị suy giảm sức nghe ở những
mức độ khác nhau dẫn tới khó khăn về ngôn ngữ và giao tiếp, ảnh hưởng đến
quá trình nhận thức, và các chức năng tâm lý khác.
- Khiếm thị: Trẻ khiếm thị là trẻ dưới 18 tuổi có KT về thị giác, sau khi đã có các
phương tiện trợ giúp vẫn gặp khó khăn trong các hoạt động học tập và sinh hoạt
cần sử dụng mắt.
- Trẻ chậm phát triển trí tuệ: Là những trẻ có các biểu hiện sau Khó tiếp thu

được chương trình phổ thông; Chậm hiểu, chóng quên (thường xuyên); Ngôn
ngữ kém phát triển, vốn từ nghèo, phát âm thường sai, nắm quy tắc ngữ pháp
kém; Khó thiết lập mối tương quan giữa các sự vật, hiện tượng; Kém hoặc
thiếu một số kỹ năng sống đơn giản; kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng sống ở gia
đình , Khó kiểm soát được hành vi của bản thân; Một số trẻ có hình dáng
tầm vóc không bình thường
- Trẻ khuyết tật ngôn ngữ-giao tiếp: Trẻ KT ngôn ngữ là trẻ có biểu hiện thiếu
hụt hay mất ít nhiều những yếu tố ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp (so với ngôn
ngữ chuẩn). Dẫn đến trong học tập và giao tiếp hàng ngày, các em gặp khó
khăn cần trợ giúp.
- Trẻ khuyết tật vận động: Là những trẻ có sự tổn thất các chức năng vận
động làm cản trở đến việc di chuyển, sinh hoạt và học tập,
- Trẻ đa tật là những trẻ có từ 2 KT trở lên. Ví dụ như vừa khiếm thính, vừa
khiếm thị hay vừa chậm phát triển trí tuệ, vừa KT vận động
Giáo dục hòa nhập là "Hỗ trợ mọi học sinh, trong đó có trẻ khuyết tật, cơ hội
bình đẳng tiếp nhận dịch vụ giáo dục với những hỗ trợ cần thiết trong lớp học, phù hợp
tại trường phổ thông nơi trẻ sinh sống, nhằm chuẩn bị trở thành những thành viên đầy
đủ của xã hội". Hoà nhập không có nghĩa là "xếp chỗ" cho trẻ khuyết tật trong trường,
lớp phổ thông và càng không phải, tất cả mọi trẻ em đều đạt trình độ như nhau trong
mục tiêu giáo dục. Giáo dục đòi hỏi sự hỗ trợ cần thiết để mọi học sinh phát triển hết
khả năng". Sự hỗ trợ được thể hiện trong điều chỉnh chương trình, đồ dùng dạy học,
dụng cụ hỗ trợ đặc biệt, và trong kĩ năng giảng dạy đặc thù,… Giáo viên và nhân viên
và nhân viên nhà trường, cần thấm nhuần tư tưởng hoà nhập để trẻ khuyết tật được phụ
thuộc lẫn nhau, được chấp nhận, có giá trị và được hỗ trợ của bạn bè,…"Trường hoà
nhập tổ chức giải quyết vấn đề đa dạng, nhằm chú trọng đến việc học của trẻ. Mọi giáo
viên, cán bộ và nhân viên nhà trường cam kết làm việc cùng nhau, tạo ra và duy trì môi
trường đầm ấm, có hiệu quả cho việc học tập. Trách nhiệm cho mọi trẻ được chia sẻ".
Như vậy: Giáo dục hoà nhập là phương thức giáo dục trong đó trẻ khuyết tật
cùng học với trẻ em bình thường, trong trường phổ thông ngay tại nơi trẻ đang sinh
sống. Giáo dục hoà nhập có những đặc trưng cơ bản:

 Giáo dục cho mọi đối tượng trẻ em, không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn
giáo, điều kiện kinh tế, thành phần xã hội;
 Trẻ đi học ở cơ sở giáo dục tại nơi trẻ đang sinh sống;
 không đánh đồng mọi trẻ, mỗi trẻ là khác nhau;
 điều chỉnh phù hợp với khả năng và nhu cầu của trẻ về mục tiêu, nội dung,
phương pháp, đánh giá kết quả giáo dục.
1.1.2. Lợi ích của giáo dục hòa nhập
Có rất nhiều lợi ích của việc giáo dục hòa nhập – những lợi ích ảnh hưởng đến
cả trẻ khuyết tật và trẻ bình thường trong lớp học chung với trẻ khuyết tật.
 Lợi ích của giáo dục hòa nhập đối với trẻ khuyết tật
Việc tham gia lớp hòa nhập như một thành viên được tiếp đón ân cần dạy cho trẻ có
những nhu cầu đặc biệt tính tự lực và giúp chúng nắm vững những kỹ năng mới. Đối
với một số trẻ, đó có thể là lần đầu tiên trong đời được mong đợi và khuyến khích là
những điều trẻ có thể làm cho bản thân. Làm việc và vui chơi với những trẻ khác
khuyến khích trẻ khuyết tật phán đấu để đạt được những thành tích lớn hơn. Do đó trẻ
phát triển được ý thức cái tôi khỏe mạnh và tích cực.
Nếu cứ sống và học tập mãi với bạn bè khuyết tật trong môi trường chuyên biệt, trẻ
sẽ không bao giờ khám phá ra những khả năng tiềm tàng mà chúng có. Vì vậy, việc học
tập trong một lớp hòa nhập với trẻ bình thường giúp cho trẻ hiểu đúng về năng lực của
mình, từ đó có thể tìm được cách phát huy những tiềm năng này và tự phát triển. Điển
hình: một trẻ khiếm thính sẽ rất khó phát hiện ra khả năng nhận biết từ ngữ diễn đạt
bằng việc mấp máy môi, hay mình có thể không làm giàu được vốn ngôn ngữ ký hiệu
của bản thân nếu không sinh hoạt với trẻ bình thường cùng tuổi. Việc hòa nhập trẻ
khuyết tật giống như một thứ nhớt làm trơn quá trình lĩnh hội kỹ năng sống của trẻ. Khi
trẻ gia nhập trường tiểu học, Giáo viên có thể quan sát và so sánh nhiều trẻ cùng độ
tuổi, cùng lớp học. Điều này làm cho việc phát hiện những vấn đề cho thấy khả năng
nào đó trở nên dễ dàng hơn. Đó có thể là cơ hội mà một só trẻ nhận được để phát triển
những khả năng mà trẻ cần.
 Lợi ích của giáo dục hòa nhập đối với trẻ bình thường:
Việc hòa nhập giúp đỡ cả trẻ không khuyết tật.Thái độ của trẻ bình thường đối với

trẻ khuyết tật có thể trở nên tích cực hơn khi chúng có cơ hội chơi chung với nhau một
cách thường xuyên. Trẻ bình thường học được rằng trẻ khuyết tật, cũng như chúng, có
thể làm một số việc tốt hơn những việc khác. Trong một lớp hòa nhập, chúng có cơ hội
làm bạn với nhiều trẻ khác nhau.
Sự thân ái là viên gạch đầu tiên giúp xây dựng lòng nhân hậu và vị tha cho trẻ. Do
đó, khi học trong cùng một lớp với trẻ khuyết tật, trẻ bình thường sẽ học được cách nhìn
nhận một cách rộng lượng và đối xử nhân hậu với trẻ khuyết tật. Cũng chính vì vậy, trẻ
sẽ làm giàu được vốn sống của mình. Đôi khi phụ huynh trẻ khuyết tật có thể lo lắng
rằng con họ sẽ không được những trẻ khác thích và chấp nhận, có khi còn bị ăn hiếp,
đối xử thô bạo hay trêu chọc. Tuy nhiên, một trong những điểm mạnh của trẻ em là
chúng rất dễ thích nghi, dễ tiếp nhận cái mới nên lo lắng này có thể khắc phục được.
1.1.3. Quản lý công tác GDHN trẻ KT
1.1.3.1. Quan điểm về quản lý công tác GDHN trẻ KT
Quản lý giáo dục được hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý đến khách thể
quản lý trong lĩnh vực hoạt động công tác giáo dục. Nói cách khác, quản lý giáo dục là
hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
trong hệ thống giáo dục, là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các cơ sở giáo dục
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục và là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã
hội nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục theo yêu cầu phát triển xã hội.
Thực chất quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có tính khoa học theo
một quy trình và nguyên tắc nhất định vào các hoạt động của nhà trường để hoạt động
này vận hành theo đúng mục tiêu. Trường học là bộ phận cấu thành của hệ thống giáo
dục, vì vậy để thành tố này vận hành và phát triển thì bản thân nhà trường cũng cần
phải có công tác quản lý. Quản lý trường học có thể hiểu như một bộ phận của quản lý
giáo dục nói chung. Như vậy quản lý nhà trường cũng chính là quản lý giáo dục nhưng
trong một phạm vi xác định của một đơn vị giáo dục nền tảng, đó là nhà trường. Như
thế quản lý giáo dục tiểu học là vận dụng tất cả các nguyên lý chung của quản lý giáo
dục đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường theo mục tiêu đào tạo của cấp tiểu học là:
"Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát
triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản

để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở" [22;75].
Như vậy, quản lý việc thực hiện GDHN trẻ KT trong trường tiểu học là phối
hợp, huy động và điều hành mọi nguồn lực trong xã hội đảm bảo cho GDHN đạt hiệu
quả; là quá trình lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện
GDHN nhằm đảm bảo cho giáo dục tiểu học nói chung và GDHN nói riêng trong
trường tiểu học đạt mục tiêu đề ra.
Nhà trường tiểu học là đầu mối thiết lập các mối quan hệ với các ngành, các lực
lượng trong cộng đồng cho mục đíchh thực hiện việc giáo dục hòa nhập tại địa phương.
Nhà trường làm tham mưu, đề xuất chủ trương, chế độ chính sách về giáo dục hòa nhập
cho chính quyền địa phương. Để thực hiện chức năng này, vai trò của Hiệu trưởng của
nhà trường rất quan trọng. Không những hiệu trưởng nhận thức đúng mà còn nắm vững
qui trình triển khai và biết cách khai thác sức mạnh của cộng đồng để cùng ban giám
hiệu lãnh đạo tập thể giáo viên thực hiện giáo dục hòa nhập. Cũng như chỉ đạo các nội
dung giáo dục khác, Hiệu trưởng phải tổ chức bộ máy quản lý giáo dục hòa nhập trong
nhà trường để việc thực hiện giáo dục hòa nhập có kế hoạch, nội dung, phương pháp và
được giám sát đôn đốc, tổng kết đánh giá kịp thời. Ngoài ra còn có những cấp quản lý
cấp cao hơn cho việc thực hiện GDHN bao gồm sở giáo dục, Bộ giáo dục.
1.13.2. Nội dung quản lý việc thực hiện GDHN trẻ KT
Do đặc điểm, bản chất của GDHN trong trường tiểu học là được tiến hành và thực
hiện ngay trong trường tiểu học và theo chương trình tiểu học hiện hành nên quản lý việc
thực hiện GDHN trẻ KT thực chất là thực hiện bản chất và chức năng quản lý giáo dục nói
chung, quản lý nhà trường tiểu học nói riêng.
Nội dung và mối liên hệ cơ bản được mô tả qua sơ đồ sau đây
Sơ đồ 1: Nội dung quản lý việc thực hiện GDHN trẻ KT
Xây dựng chiến lược và lập
kế hoạch
Kiểm tra, đánh giá
Tổ chức thực hiện: Xây
dựng tài liệu và chuẩn bị
nhân lực

Chỉ đạo thực hiện
a. Xây dựng chiến lược và lập kế hoạch GDHN trong trường tiểu học
Giáo dục hòa nhập rất coi trọng sự cân đối giữa kiến thức, kỹ năng học đường và
kiến thức kỹ năng xã hội. Để đạt được những mục tiêu giáo dục đã đề ra, thì công tác
xây dựng chiến lược và lập kế hoạch GDHN trong trường tiểu học là bước rất quan
trọng.
Xây dựng chiến lược là xây dựng hệ thống phương thức, cách thức, chương trình
hành động, kế hoạch hành động được thiết kế để đạt được mục tiêu cụ thể, là tổ hợp các
mục tiêu dài hạn và các biện pháp, các cách thức, con đường để đạt được các mục tiêu
đó. Như vậy một chiến lược tốt sẽ giải quyết tổng hợp các yếu tố: Xác định được mục
tiêu chính cần đạt được, xác định cách thức để đạt được mục tiêu, và định hướng phân
bổ nguồn lực để đạt được mục tiêu đã lựa chọn.
Khi đã có được chiến lược hoạt động, việc lập kế hoạch dựa trên những cơ sở
ban đầu và mục tiêu giáo dục đáp ứng được những yêu cầu đề ra. Bản kế hoạch giáo
dục toàn diện trường tiểu học cần thể hiện được các nội dung cơ bản sau:
 Những căn cứ, điều kiện xây dựng kế hoạch;
 Mục tiêu phát triển của trường theo mục tiêu của ngành giáo dục;
 Nhiệm vụ giáo dục;
 Kế hoạch nuôi và dạy trẻ (đối với các trường bán trú);
 Các biện pháp, giải pháp nâng cao chất lượng;
 Nhiệm vụ năm học với các vấn đề sau: chủ đề; giáo dục tư tưởng và nhận thức
(cho giáo viên, học sinh); kế hoạch giảng dạy; kế hoạch xây dựng tập thể sư
phạm; xây dựng cơ sở vật chất nhà trường, trang thiết bị phục vụ đổi mới công
tác dạy học; huy động cộng đồng; quản lý hành chính (văn thư, kế toán, sổ danh
bạ, học bạ, sổ điểm, lưu trữ ); chống lưu ban, bỏ học, kế hoạch bồi dưỡng học
sinh yếu – giỏi; thực hiện công tác Phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch, những nội dung cơ bản được đặt trong khuôn
mẫu bao gồm các nội dung sau:
 Đánh giá tìm hiểu nhu cầu và năng lực của trẻ KT
Để lập chiến lược và kế hoạch hoạt động GDHN thành công trong trường tiểu

học, bước đánh giá tìm hiểu nhu cầu và năng lực của trẻ hay đánh giá đầu vào đối với
trẻ KT là rất quan trọng.Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người, là đòi hỏi,
mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát
triển. Bản thân trẻ KT cũng có những nhu cầu cơ bản về sinh lý, thân thể, nhu cầu được
an toàn, nhu cầu xã hội tình cảm, nhu cầu tự trọng và được người khác tôn trọng. Đặc
biệt đối với trẻ KT, có những nhu cầu rất đặc biệt. Do trẻ gặp phải những khó khăn thể
chất nên nhu cầu về thể chất, thức ăn, nơi ở, nước uống, đủ ấm sẽ là những điều cơ bản
nhất. Sau đó là nhu cầu đảm bảo được sự an toàn. Đối với trẻ có chứng động kinh,
phong hay trẻ tăng động cần có thuốc và những chăm sóc y tế kịp thời. Trong môi
trường học chung, trẻ cần nhận được sự chấp nhận và sự yêu thương của gia đình, bạn
bè, thày cô, giúp trẻ hoàn thiện được tính sáng tạo và phát triển bản thân.
Khi trẻ KT nộp hồ sơ theo học tại nhà trường tiểu học, năng lực của trẻ cần được
đánh giá sơ bộ để xem xét những đặc điểm cá nhân đáp ứng được các đòi hỏi của một
hoạt động nhất định nào đó và là điều kiện để đạt được kết quả cho hành động nào đó.
Bất cứ hoạt động nào cũng đòi hỏi con người một loại năng lực và các năng lực đó liên
quan với nhau. Đối với trẻ KT cần đánh giá về năng lực giao tiếp ngôn ngữ, năng lực tư
duy logic và toán học, năng lực tưởng tượng, năng lực âm nhạc, năng lực nội tâm, năng
lực quan hệ tương tác, quan hệ xã hội, năng lực thể thao, vận động, năng lực tìm hiểu
thiên nhiên, cảm thụ cái đẹp. Ngoài ra trẻ KT cần được tìm hiểu về sự phát triển thể
chất, khả năng ngôn ngữ - giao tiếp, khả năng nhận thức, các mối quan hệ xã hội và môi
trường phát triển của trẻ.
Mục đích của hoạt động đánh giá này nhằm xây dựng hệ thống thông tin cơ sở
về trẻ nhằm đánh giá xếp loại đúng về tình trạng sức khỏe, năng lực, dạng tật của trẻ.
Các phương pháp chính để đánh giá bao gồm quan sát và phỏng vấn với đối tượng trẻ
và người nhà của trẻ.
Để thuận lợi cho việc thực hiện GDHN trong trường tiểu học, công việc này nên
được thực hiện vào tháng 7 hàng năm nhằm chuẩn bị cho việc huy động trẻ KT vào
năm học mới. Số liệu sơ bộ về trẻ KT được thu thập từ ba nguồn chính: Trung tâm y tế
xã, Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em, từ công tác điều tra tổng hợp phổ cập giáo dục
của các nhà trường. Bước tiếp theo có tính chất phức tạp, đòi hỏi phải tổ chức tốt và có

sự phối hợp của các lực lượng, phải đảm bảo tính chính xác đó là xác định đúng loại tật,
mức độ tật cho từng trẻ để có phương pháp PHCN hợp lý. Lực lượng nòng cốt để thực
hiện việc này là trung tâm y tế xã - Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em - nhà trường và y
tế tuyến trên.
 Xây dựng mục tiêu, chiến lược GDHN trong nhà trường tiểu học
Mục tiêu của GDHN cho trẻ KT được xây dựng theo tiêu chí nội dung giáo dục
và thời gian giáo dục dựa trên các quan điểm về sự bình đẳng, phát triển và quyền được
tiếp cận với giáo dục phổ thông. Trong GDHN, trẻ KT cùng với trẻ em khác được học
chung một chương trình. Giáo viên đặt mục tiêu cho từng trẻ cũng phải đảm bảo
nguyên tắc tiếp cận với mục tiêu cấp học, lớp học của phổ thông.
Mục tiêu GDHN được xây dựng dựa trên khả năng của trẻ, nhu cầu cần đáp ứng,
mục tiêu cấp học và điều kiện thực hiện bao gồm môi trường giáo dục, kinh tế, nhân
lực.
Chiến lược GDHN được xây dựng phải đáp ứng được các mục tiêu sau:
- Mục tiêu hòa nhập, kiến thức các môn học, hành vi ứng xử giao tiếp, giáo dục tự
phục vụ, lao động và khả năng phát triển các khả năng, các văn bản pháp quy có liên
quan đến giáo dục trẻ KT; điều kiện và mục tiêu phát triển kinh tế, giáo dục của địa
phương; hiện trạng giáo dục và GDHN tại địa phương, nhà trường; những điều kiện về
nhân lực, vật lực, thời gian.
- Mục tiêu quản lý việc thực hiện GDHN trong trường tiểu học tập trung chủ
yếu vào các số lượng thống kê và cách thức quản lý: thống kê được số lượng từng dạng
trẻ KT trên địa bàn quản lý; huy động tối đa số trẻ KT ra lớp; duy trì sĩ số trẻ KT đã
được huy động; đảm bảo được chất lượng giáo dục phù hợp với khả năng của trẻ KT và
sự hoà nhập của trẻ trong cộng đồng xã hội.
Mục tiêu quản lý nói chung và mục tiêu quản lý việc thực hiện GDHN trẻ KT là
một trong những vấn đề cơ bản của lý luận quản lý có tác dụng định hướng cho mọi
hoạt động quản lý. Tuỳ theo điều kiện thực tế của mỗi địa phương và nhà trường mà
xác định và xây dựng một hệ thống mục tiêu cho phù hợp.
 Xây dựng kế hoạch hành động
Căn cứ vào mục tiêu đề ra để xây dựng kế hoạch giáo dục, nghĩa là tìm cách đáp

ứng những nhu cầu của trẻ. Trong bản kế hoạch phải nêu rõ cụ thể từng nội dung, từng
phần, biện pháp, người thực hiện, thời gian và đánh giá kết quả. Kế hoạch GDHN cần
được xây dựng dựa vào điểm mạnh của trẻ vì trẻ chỉ phát triển tốt khi sử dụng thế mạnh
của mình.
Với mỗi trẻ KT cần phải được lập kế hoạch giáo dục cá nhân (vấn đề này cũng
đã được quy định tại Điều 12, Quyết định số 23/2006/QĐ-BGD&ĐT của Bộ GD&ĐT),
đó là một bản kế hoạch/ văn bản được thiết kế cho mỗi trẻ KT giúp giáo viên có thể
định hướng được nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động chăm sóc,
giáo dục trẻ KT trong môi trường hoà nhập tại gia đình, cộng đồng và nhà trường nhằm
đạt được các mục tiêu cụ thể.
Kế hoạch giáo dục cá nhân có vai trò:
- Giúp cho mỗi cá nhân có thể được kiểm soát, điều chỉnh được hành vi của
mình và luôn luôn biết hướng tới mục đích đã đề ra.
- Là cơ sở để giúp các nhà quản lý đề ra và thực hiện chính sách hỗ trợ trẻ KT,
gia đình trẻ KT, giáo viên trực tiếp dạy trẻ KT.
- Là cơ sở để giáo viên, các thành viên của nhóm hợp tác thực hiện các hoạt
động chăm sóc, giáo dục trẻ KT trong các môi trường hoà nhập khác nhau
như gia đình, nhà trường và cộng đồng.
- Giúp cho Ban giám hiệu nhà trường quản lý được những hoạt động đã và
đang diễn ra đối với giáo viên và trẻ, là cơ sở quan trọng cho việc kiểm tra
đánh giá hiệu quả của quá trình giáo dục.
Việc xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu tham gia các
hoạt động, đạt được sự tiến bộ của trẻ trong chương trình giáo dục tiểu học. Đồng thời,
việc xác định các mục tiêu cụ thể trong bản kế hoạch giáo dục cá nhân và cách thực hiện
để đạt được mục tiêu là phương thức lượng hoá sự tiến bộ của trẻ, giúp giáo viên, cha mẹ
và các thành viên khác có được thông tin thường xuyên về trẻ.
b. Tổ chức thực hiện GDHN
Đây là bước hiện thực hóa sau khi nhà trường đã có chiến lược, đường lối, kế
hoạch, mục tiêu hoạt động. Quá trình phát triển đội ngũ sư phạm nhà trường và cơ sở
vật chất, thiết bị để đơn vị hoàn thành ở mức độ cao nhất nhiệm vụ được giao sẽ tạo sự

gắn kết giữa các cá nhân, các bộ phận trong nhà trường thành một hệ thống vận hành
một cách đồng bộ; đồng thời là việc xác định rõ những chức năng, quyền hạn nghĩa vụ
từng thành viên và các tổ nhóm.
Tổ chức thực hiện GDHN là quá trình, được tiến hành đồng thời, song song với
việc tổ chức thực hiện kế hoạch và nhiệm vụ chung của trường tiểu học. Công việc cụ
thể của tổ chức thực hiện GDHN trong trường tiểu học bao gồm:
Hiệu trưởng nhà trường là người chịu trách nhiệm chính, thay mặt nhà trường
chịu trách nhiệm và trực tiếp tham gia vào các tổ chức ngoài nhà trường hỗ trợ cho
công tác GDHN. Nắm chắc lực lượng giáo viên, cán bộ dưới quyền về ý thức, trình độ
năng lực, hoàn cảnh, sở trường đánh giá ở từng người về mặt mạnh, mặt yếu, thuận
lợi, khó khăn để bố trí công tác hợp lý (vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ và
nguyên tắc năng lực sở trường).
Hiệu phó phụ trách chuyên môn chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch chuyên
môn về GDHN theo cách thức tích hợp, lồng ghép, là bộ phận của kế hoạch chuyên
môn chung của nhà trường; chịu trách nhiệm chỉ đạo thực hiện dạy – học hoà nhập của
nhà trường trong năm học.
Bàn bạc lựa chọn và sắp xếp học sinh KT đã được huy động vào các lớp một
cách hợp lý (khoảng cách từ nhà đến điểm trường và nhà trường, số lượng, loại tật và
mức độ học sinh KT/ lớp, có bạn gần nhà ).
Lựa chọn và phân công giáo viên dạy các lớp hoà nhập, cần chú ý các yếu tố
như: ý thức tinh thần trách nhiệm, trình độ năng lực chuyên môn đặc biệt là khả năng
thực hiện GDHN (đã qua đào tạo, tập huấn về GDHN ).
Thành lập tổ chuyên môn và lựa chọn giáo viên cốt cán về GDHN: theo quy
định hiện hành trong trường tiểu học có các tổ, khối chuyên môn. Cho đến nay giáo
viên cấp tiểu học chưa và ít được trang bị kiến thức và kỹ năng GDHN trẻ KT. Chính vì
vậy cần có tổ chuyên môn về GDHN tập hợp toàn bộ số giáo viên trực tiếp dạy các lớp
có trẻ KT học hoà nhập, trong số giáo viên này lựa chọn và cử giáo viên cốt cán – là
những giáo viên đã được đào tạo, bồi dưỡng về tri thức, kỹ năng dạy hoà nhập (có giáo
viên cốt cán dạy trẻ với từng loại tật: khó khăn về học và vận động, khiếm thính, khiếm
thị, ngôn ngữ). Họ chính là những giáo viên hạt nhân, nòng cốt cho việc thực hiện

GDHN của các nhà trường.
Tổ chức các hoạt động tạo điều kiện và cơ hội để trẻ KT được tham gia như các
hoạt động ngoại khoá, các hoạt động theo chủ đề, chủ điểm. Qua những hoạt động và
giao tiếp này giúp cho trẻ hình thành và phát triển nhân cách, đặc biệt là rèn luyện các
kỹ năng xã hội và khả năng hoà nhập .
Do những khó khăn khác nhau dẫn đến việc trẻ KT ra lớp sẽ gặp rất nhiều trở
ngại, nhiều trường hợp sẽ không thể đến trường và không thể học hoà nhập được nếu
không có sự hỗ trợ, giúp đỡ. Để khắc phục được những vấn đề này nhà trường cần tính
đến việc tổ chức "nhóm hỗ trợ cộng đồng" và "vòng bạn bè".
Nhóm hỗ trợ cộng đồng gồm từ 3 - 5 người (những người họ hàng và làng xóm
gần với gia đình trẻ KT là tốt nhất) những người này trên tinh thần tự nguyện với mục
đích: động viên tinh thần; hỗ trợ nhân lực khi gia đình trẻ vào những lúc mùa vụ; hướng
dẫn giúp đỡ trong việc chăm sóc và nuôi dạy trẻ; tìm kiếm bằng cách huy động, tổ chức
quyên góp ủng hộ nhằm tạo thêm nguồn lực hỗ trợ cho gia đình và trẻ KT.
Vòng bạn bè được giáo viên phụ trách lớp xây dựng gồm 2 - 4 em, là những
học sinh ở gần với nhà trẻ KT, có vị trí ngồi gần với chỗ ngồi của trẻ KT trong lớp, có
lực học khá và giỏi. Vòng bạn bè có nhiệm vụ giúp đỡ trẻ KT trong quá trình học tập,
vui chơi, hoạt động trong và ngoài nhà trường, giúp đỡ và đưa bạn trên đường đến lớp
và về nhà
Với mục đích chung là thực hiện hiệu quả GDHN trong nhà trường, cần đặc biệt
chú ý trong việc tạo mối liên kết giữa cá nhân, các bộ phận, các hoạt động của nhà
trường. Trong đó với chức năng tổ chức của mình người hiệu trưởng cần chú trọng và
tập trung cao; dám nghĩ, dám làm và chịu trách nhiệm trong việc tổ chức các hoạt động
GDHN của trường tiểu học.
c. Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện GDHN trong trường tiểu học
Trong quá trình quản lý việc thực hiện GDHN cần phải chú trọng đến công tác
kiểm tra bao gồm: kiểm tra đột xuất, kiểm tra định kỳ và kiểm tra thường xuyên. Kiểm
tra để phát hiện cái đúng, cái sai trong quá trình thực hiện và kịp thời điều chỉnh hoặc
có biện pháp bổ sung để thực hiện tốt nhiệm vụ.
Nhiệm vụ cụ thể của công tác kiểm tra: so sánh, đánh giá giữa việc thực hiện

GDHN với kế hoạch chỉ đạo giữa tiến độ học tập với kế hoạch chương trình giảng dạy
và nội dung quy định; giữa việc thực hiện các hoạt động so với tiến độ và mục tiêu đã
định; giữa việc phối kết hợp giữa các cá nhân, các nhóm trong việc thực hiện GDHN.
Công tác kiểm tra, đánh giá việc thực hiện GDHN được tiến hành qua 4 bước sau:
* Bước 1: Định rõ các chuẩn để đánh giá đối với công việc cần kiểm tra.
* Bước 2: Đánh giá theo chuẩn đã định, lượng hoá những kết quả đạt được.
* Bước 3: Khẳng định điều làm được hoặc chưa được theo kế hoạch dựa trên
chuẩn đánh giá.
* Bước 4 : Xử lý kết quả để quyết định chỉ đạo tiếp hoặc điều chỉnh kế hoạch
(một phần).
Thực hiện chức năng kiểm tra, đánh giá cần chú ý:
Kiểm tra là nhằm vào công việc chứ không nhằm vào con người, kiểm tra là để
đánh giá, khơi dậy tiềm năng sẵn có của mỗi thành viên trong nhà trường để họ làm tốt
công việc được giao.
Nếu thấy cần thiết, sau kiểm tra có thể điều chỉnh lại công tác tổ chức, phân
công hoặc điều chỉnh lại một phần kế hoạch.
Cần chú ý đến nguyên tắc định chuẩn, lượng hoá và thu thập thông tin.
Tóm lại, quá trình quản lý là một thể thống nhất, việc phân chia từng bước từng
chức năng chỉ có tính chất tương đối, trong thực tế mỗi bước, mỗi giai đoạn, thường
đan xen tác động lẫn nhau. Từ đó đòi hỏi người quản lý trong quá trình chỉ đạo việc
thực hiện GDHN phải nắm bắt và vận dụng một cách khéo léo, hợp lý.
1.1.3.3. Phương pháp, mô hình quản lý
Mô hình quản lý chỉ đạo được mô tả trong sơ đồ sau:
Sở GD ĐT:
- Tiếp nhận sự chỉ đạo hướng dẫn của Bộ GD ĐT về thực hiện GDHN trong đó có trẻ
khếm thính
Phòng GD&ĐT
Bộ GD&ĐT
Sở GD&ĐT
Ban chỉ đạo

GDTKT Bộ GD&ĐT
Ban chỉ đạo
GDTKT Sở GD&ĐT
CB phụ trách
GDTKT Phòng
TTHTPT GDHN
cấp tỉnh
TTHTPTGD
GDHN cấp
huyện
Hệ thống các trường mầm non và phổ thông
- Quản lý chỉ đạo (lập kế hoạch, triển khai, giám sát, đánh giá), xây dựng và ban hành
các văn bản hướng dẫn thực hiện GDHN
- Quản lý cơ sở dữ liệu về trẻ KT và GDHN của tỉnh. (bao nhiêu em, phân bổ theo
huỵên và loại tật, % đi học)
Phòng GD ĐT:
-Tiếp nhận sự chỉ đạo hướng dẫn của Sở GD ĐT về thực hiện GDHN
- Quản lý việc thực hiện GDHN, theo dõi việc thực hiện các hướng dẫn của Sở và phản
hồi
- Quản lý thông tin về trẻ KT đi học hoà nhập và chưa đi học (bao nhiêu em, học
trường nào, loại tật gì)
- Tổng kết kinh nghiệm dạy trẻ khuyết tật và hỗ trợ chuyên môn cho giáo viên GDHN
- Thực hiện chuyển giao chuyên môn kỹ thuật về giáo dục trẻ khuyết tật
- Quản lý hoạt động của giáo viên hỗ trợ cấp tỉnh
- Tham gia quản lý cơ sở dữ liệu và thông tin về trẻ khuyết tật đang theo học hòa nhập
của cả tỉnh.
- Tổ chức sinh hoạt chuyên môn cho gv hỗ trợ cấp tỉnh và huyện
- Phát hiện vấn đề vướng mắc trong quá trình thực hiện GDHN, đề xuất giải pháp, hoặc
thảo luận để tìm giải pháp.
- Đánh giá nhu cầu bồi dưỡng của giáo viên GDHN, giáo viên hỗ trợ cấp huyện và các

trường có trẻ học hòa nhập, xây dựng kế hoạch phát triển phát triển các kiến thức
chuyên môn về GD trẻ khuyết tật.
- Thay mặt Sở GD& ĐT làm việc các bên liên quan ngoài ngành và Phòng GD&ĐT,
các trường về thực hiện GDHN
Gia đình trẻ KT:
- Gia đình đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của đứa trẻ. Đây là môi trường
phù hợp với sự phát triển của trẻ., ở đó trẻ có được cảm giác an toàn, trẻ được lớn lên
trong tình thương của những người ruột thịt; được nuôi dưỡng theo phương thức đặc
biệt. Gia đình còn là môi trường phong phú tạo nhiều cơ hội để trẻ học tập được những
kinh nghiệm sống cần thiết.
Đầu năm học các năm, bộ phận làm công tác chuẩn bị kỹ năng cho trẻ khuyết tật hòa
nhập vào các bậc học từ lớp một, đồng thời bàn về sự chuẩn bị hồ sơ, kết quả học tập và
các bước chuyển giao trẻ về các trường học. Phụ huynh tìm hiểu và lựa chọn trường cho
trẻ làm sao thuận lợi cho vịêc chăm sóc và phối hợp cùng nhà trường giúp trẻ tham gia
học và được hỗ trợ tốt nhất. Cả quá trình ghi nhớ và so sánh sự tiến bộ của trẻ theo thời
gian mà trẻ trãi qua. Đó chính là hạnh phúc của gia đình, là niềm vui và sự phát triển
của trẻ.
Trước khi đến trường, do khả năng giao tiếp bị hạn chế, trẻ khuyết tật thường có rất ít
bạn đồng lứa. Để tránh những mặc cảm ban đầu, ngoài việc chuẩn bị học cụ cần khuyến
khích, động viên trẻ. Trong quá trình tổ chức hỗ trợ các giáo viên và gia đình giúp cho
trẻ tìm những bạn gần nhà để cùng đi học và giúp đỡ trẻ mỗi khi đến trường.
 Chỉ đạo hoạt động tại trường tiểu học
Chỉ đạo hoạt động nhà trường của hiệu trưởng trường tiểu học giống như người
nhạc trưởng chỉ huy dàn nhạc, có nghĩa là sự điều phối để tập thể sư phạm hoạt động
theo kế hoạch, theo sự phân công của tổ chức. Sự vận hành của từng bộ phận nhằm đạt
mục tiêu giáo dục chung của đơn vị trong sự cân bằng động và sự phát triển bền vững
của cả hệ thống.
Hiệu trưởng chỉ đạo thực hiện GDHN với tư cách là người quản lý và với vai
trò thủ trưởng đơn vị, là trụ cột của tập thể sư phạm và mọi hoạt động GDHN (định ra
những nhiệm vụ cụ thể phù hợp với thực tế về chuyên môn, về các hoạt động khác để

giáo viên phấn đấu thực hiện), do vậy cần am hiểu sâu sắc về GDHN nói chung và dạy
– học hoà nhập nói riêng.
Hiệu trưởng chỉ đạo GDHN bằng:
+ Mệnh lệnh: tức là thực hiện quyền hạn mà Nhà nước, ngành giao cho được
quy định trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà Luật giáo dục, Điều lệ trường tiểu
học, quy định về GDHN đã quy định. Dùng mệnh lệnh một mặt giúp cho việc chỉ đạo
GDHN diễn ra thuận lợi, kịp thời ứng phó hay điều chỉnh khi có những vấn đề mới nảy
sinh; mặt khác nó đòi hỏi phải có kinh nghiệm, bản lĩnh để có những mệnh lệnh đúng
và hiệu quả.
+ Chỉ thị: là việc sự dụng uy tín, hệ thống biện pháp – giải pháp đã được chuẩn
bị khi xây dựng kế hoạch để tập thể giáo viên và học sinh tự giác thực hiện trách nhiệm
và nghĩa vụ của mình trong việc dạy – học hoà nhập. Việc ra chỉ thị và thực hiện chỉ thị
khi thực hiện GDHN cần chú ý đến vấn đề dân chủ hoá trong nhà trường, có nghĩa là
nếu cấp dưới còn có vấn đề chưa thống nhất với quy định thì phải tạo điều kiện cho họ
được đối thoại, thảo luận, góp ý để tìm ra cách thực hiện tốt nhất nhiệm vụ. Đồng thời

×