Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

ánh giá chính sách can thiệp tỷ giá của nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.63 KB, 20 trang )

1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM DREAM:
1. Dương Thị Hương Giang CKA-K11
2. Kiều Thị Thúy Ngân CKA-K11
3. Ngô Thị Quỳnh CKA-K11
4. Lê Quang Trung TCDNE-K11
2
MỤC LỤC
Lời mở đầu 3
Phần I: Tổng quan về chính sách tỷ giá, chế độ tỷ giá và vai trò của
Ngân hàng Trung ương 4
I. Chính sách tỷ giá 4
II. Chế độ tỷ giá và vai trò của NHTW 6
Phần II: Chính sách can thiệp tỷ giá của Nhật Bản 8
I. Giới thiệu về đất nước Nhật Bản 8
II. Chính sách can thiệp tỷ giá của Nhật Bản 11
1. Chính sách can thiệp tỷ giá của Nhật Bản giai đoạn 2003-2004 11
2. Chính sách can thiệp tỷ giá của Nhật Bản 15/09/2010 11
Phần III: Đánh giá chính sách can thiệp tỷ giá của Nhật Bản 18
Kết luận 20
3
Lời mở đầu
Khủng hoảng kinh tế khiến Chính phủ nhiều nước trên thế giới can thiệp
mạnh vào chính sách tiến tệ để tránh cho nội tệ tăng giá, thúc đẩy xuất khẩu và cải
thiện cán cân thương mại. Những can thiệp này quá sâu khiến hoạt động điều chỉnh
chính sách tiền tệ trở thành hoạt động “thao túng tỷ giá”, đẩy thế giới đứng trước
nguy cơ một cuộc chiến tranh tiền tệ. Xu thế chung của cuộc chiến này là các quốc
gia can thiệp làm suy yếu đồng nội tệ.
Trong những thàng gần đây, một số Ngân hàng Trung ương trên thế giới,
trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, đã tìm cách áp dụng các nghiệp vụ
can thiệp tiền tệ. Chính phủ Singapore, Thái Lan, Campuchia cũng thực hiện những


biện pháp tương tự. Điều này dẫn đến một cuộc chạy đua về tỷ giá trong năm
2010, chứng kiến những sự biến động bất thường về tỷ giá của Đô-la Mỹ, Euro, Yên
Nhật - những đồng tiền có ý nghĩa quan trọng trên thế giới.
Một trong những sự kiện được thế giới quan tâm trong thời gian qua liên
quan đến sự bất ổn tỷ giá là động thái can thiệp vào thị trường tiền tệ của Nhật Bản
hôm 15/9 - lần can thiệp đầu tiên trong 6 năm qua, bán Yên mua Đô-la Mỹ vào để
ngăn việc tăng giá của đồng Yên đang đe dọa đến sự phục hồi “mỏng manh” của
nền kinh tế. Tại sao Chính Phủ Nhật lại quyết định can thiệp tỷ giá? Sự can thiêp
này của Nhật Bản có cần thiết hay không? Tác động của nó đến nền kinh tế Nhật
Bản như thế nào? Tất cả những vấn đề này sẽ được đề cập đến trong nội dung của
bài nghiên cứu này.
4
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ, CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ VÀ
VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG.
I. Chính sách tỷ giá:
1. Khái niệm chính sách tỷ giá:
Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ (mà đại diện thường là
NHTW) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định (hay cơ chế điều hành tỷ giá) và hệ
thống các công can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ
giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế quốc
gia.
2. Nội dung của chính sách tỷ giá.
Hành vi phá giá nội tệ, tức bao gồm những can thiệp của chính phủ để đồng nội
tệ trở nên được định giá thấp hơn.
Hành vi nâng giá nội tệ, tức bao gồm những can thiệp của chính phủ để đồng nội
tệ trở nên được định giá cao hơn.
Hành vi duy trì tỷ giá ở một mức nhất định, tức bao gồm những can thiệp của chính
phủ để duy trì tỷ giá là ổn định không đổi.
Không can thiệp, để cho tỷ giá biến động tự do theo quan hệ cung cầu của thị trường.
3. Công cụ của chính sách tỷ giá.

 Công cụ trực tiếp: là hoạt động của NHTW trên thị trường ngoại hối thông
qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định (trong chế độ
tỷ giá cố định) hay ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất
định theo mục tiêu đã đề ra (trong chế độ tỷ giá thả nổi).
Điều kiện: NHTW phải có một lượng dự trữ ngoại hối đủ mạnh.
 Công cụ gián tiếp:
5
Lãi suất tái chiết khấu: khi NHTW tăng mức lãi suất tái chiết khấu sẽ tác đ
ộng làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường, điều này sẽ hấp dẫn các luồng vốn
ngoại tệ chạy vào làm cho nội tệ lên giá. Khi lãi suất tái chiết khấu giảm sẽ
có tác động ngược chiều.
Thuế quan: thuế quan cao có tác dụng làm hạn chế nhập khẩu, nhập khẩu
giảm làm cho cầu ngoại tệ giảm, điều đó dẫn tới nội tệ lên giá. Khi thuế quan
thấp sẽ có tác dụng ngược lại.
Hạn ngạch: hạn ngạch có tác dụng giống thuế quan cao. Dỡ bỏ hạn ngạch có
tác dụng như thuế quan thấp.
Giá cả: chính phủ có thể trợ giá cho những hàng hóa xuất khẩu chiến lược
hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất. Chính phủ có thể trợ giá cho những
hàng hóa xuất khẩu và bù giá cho những hàng hóa nhập khẩu.
Quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi bằng ngoại tệ.
Quy định trạng thái ngoại tệ đối với các NHTM: ngoài mục đích chính là
phòng ngừa rủi ro tỷ giá, còn có tác dụng hạn chế đầu cơ ngoại tệ, làm giảm
áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối.
II. Chế độ tỷ giá và vai trò của NHTW.
Các quốc gia luôn xây những quy tắc, cơ chế xác định và điều tiết tỷ giá của rieng
mình. Tập hợp các quy tắc, cơ chế xác định và điều tiết tỷ giá của một quốc gia tạo
nên chế độ tỷ giá của quốc gia này.
1. Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn.
Khái niệm: là chế độ, trong đó tỷ giá được xác định hoàn toàn tụ do quy luật cung
cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ sự can thiệp nào của NHTW.

Đặc điểm: trong chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, sự biến động của tỷ giá là không
có giới hạn và luôn phản ánh những thay đổi trong quan hệ cung cầu trên thị trường
ngoại hối.
6
Vai trò của NHTW: NHTW tham gia thị trường ngoại hối với tư cách là một thành
viên bình thường, nghĩa là NHTW có thể mua hay bán một đồng tiền nhất định để
phục vụ cho mục đích hoạt động của mình chứ không nhằm mục đích can thiệp lên
tỷ giá hay để cố định tỷ giá.
2. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết.
Khái niệm: chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là chế độ trong đó NHTW tiến hành
can thiệp tích cực trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá biến động trong một
vùng nhất định.
Đặc điểm: NHTW không cam kết duy trì cố định tỷ giá hay một biên độ dao động
hẹp xung quanh tỷ giá cố định nào, nhưng cam kết can thiệp để tỷ giá ngày hôm nay
chỉ biến động trong một giới hạn tỷ lệ % nhất định so với ngày hôm trước. Chế độ
tỷ giá thả nổi có điều tiết được xem như chế độ tỷ giá hỗn hợp giữa chế độ tỷ giá cố
định và chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn.
Vai trò của NHTW: tích cực và chủ động can thiệp lên tỷ giá.
3. Chế độ tỷ giá cố định.
Khái niệm: là chế độ tỷ giá trong đó NHTW công bố và cam kết can thiệp để duy
trì tỷ giá cố định (gọi là tỷ giá trung tâm – Central Rate) trong một biên độ đã được
định trước.
Đặc điểm: tỷ giá được NHTW cam kết cố định trong một biên độ hẹp (thường từ
2% - 5%), không phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Do mỗi
đồng tiền quốc gia đều có tỷ giá với các đồng tiền khác, do đó tỷ giá của một đồng
tiền có thể được thả nổi với đồng tiền này nhưng lại được cố định với một đồng tiền
khác.
Vai trò của NHTW: trong chế độ tỷ giá cố định, NHTW buộc phải mua vào hay
bán ra đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì cố định tỷ giá trung tâm và
duy trì sự biến động cảu nó trong một biên độ hẹp đã định trước. Để tiến hành can

7
thiệp trên thị trường ngoại hối đòi hỏi NHTW phải có sẵn nguồn dự trự ngoại hối
nhất định.
Giới thiệu hệ thống chế độ tỷ giá ngày nay:
1. Chế độ tỷ giá không có đồng tiền pháp định riêng (Exchange rate arrangements
with no separate legal tender).
2. Chế độ bản vị tiền tệ (Currency board arrangements).
3. Chế độ tỷ giá cố định thông thường (Conventional pegged arrangements).
4. Chế độ tỷ giá cố định với biên độ giao động rộng (Pegged exchange rates within
horizontal bands).
5. Chế độ tỷ giá cố định trượt (Clawling pegs).
6. Chế độ tỷ giá cố định trượt có biên độ (Exchange rates within crawling bands).
7. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết không thông báo trước (Managed floating with
no preannounced path for exchange rate).
8. Chế độ tỷ giá thả nổi độc lập (Independent floating).
9. Cấu trúc tỷ giá (Exchange rate structure).
PHẦN II: CHÍNH SÁCH CAN THIỆP TỶ GIÁ CỦA NHẬT BẢN.
I. Giới thiệu về đất nước Nhật Bản:
Nhật Bản là tên của một quốc gia hải đảo hình vòng cung, có diện tích tổng cộng
là 377.834 km² nằm xoải theo bên sườn phía đông lục địa châu Á. Nó nằm ở phía
đông của Hàn Quốc, Nga và Trung Quốc và trải từ biển Okhotsk ở phía bắc đến
biển đông Trung Quốc ở phía nam . Nhật Bản thuộc vùng ôn đới, có 4 mùa rõ rệt.
Nước Nhật có 4 đảo lớn theo thứ tự từ Bắc xuống Nam là: Hokkaido (Bắc Hải
8
Đạo), Honshu (Bản Châu), Shikoku (Tứ Quốc) và Kyushu (Cửu Châu) cùng hàng
ngàn đảo nhỏ chung quanh.
Phần lớn đảo ở Nhật Bản có rất nhiều núi và núi lửa, tiêu biểu như ngọn núi cao
nhất ở Nhật Bản, núi Phú Sĩ. Nhật Bản là quốc gia có dân số lớn thứ mười thế giới
với ước tính khoảng 128 triệu người. Vùng Tokyo, bao gồm thủ đô Tokyo và một
vài quận xung quanh là trung tâm thủ phủ lớn nhất thế giới với khoảng 30 triệu

người sinh sống.
Nhật Bản cũng là nên kinh tế lớn thứ hai toàn cầu tính theo GDP chỉ sau Hoa
Kỳ. Quốc gia này là thành viên của tổ chức liên hiệp quốc, G8, G4 và APEC, Nhật
Bản là đất nước đứng thứ 5 trên thế giới trong lĩnh vực đầu tư cho quốc phòng. Đây
là đất nước xuất khẩu lớn thứ 4 thế giới và là nước nhập khẩu đứng thứ 6 thế giới.
Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu thế giới về khoa học công nghệ.
Văn hóa Nhật Bản:
Nhật Bản có mĩ danh là xứ sở hoa Anh Đào, vì người Nhật rất thích nên trồng
cây hoa anh đào khắp nước
Ngôn ngữ và phong tục của người Nhật gồm những thành tố văn hoá của cả
phương Bắc lẫn phương Nam. Dưới góc độ sử dụng và cú pháp, rõ ràng tiếng Nhật
thuộc hệ ngôn ngữ Altai của các dân tộc phía Bắc lục địa châu Á, song trong từ
vựng lại có nhiều từ gốc từ phía Nam. Trong các tập quán và tín ngưỡng, ta thấy các
lễ nghi gắn với văn hóa lúa nước vốn có nguồn gốc ở phía Nam; còn huyền thoại
lập nước bởi vị thần - ông tổ của nòi giống - từ thiên đường xuống hạ giới thì có
nguồn gốc ở phía Bắc. Vì vậy, người ta cho rằng dân cư ở đây có xuất xứ từ cả
phương Bắc lẫn phương Nam, đến quần đảo Nhật Bản từ thời tiền sử và qua một
quá trình hoà trộn các chủng tộc dần dần tạo ra dân tộc Nhật Bản.
Kinh tế:
Dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản, bán lẻ, giao thông, viễn thông tất cả
đều là ngành công nghiệp lớn của Nhật Bản, Nhật Bản có năng lực rất lớn về công
nghiệp, và đây là trụ sở của nhiều nhà sản xuất công nghệ tiên tiến bậc nhất thế giới
9
về các sản phẩm xe có động cơ, trang thiết bị điện tử, công cụ máy móc, thép, phi
kim loại, công nghiệp tàu thủy, hóa học, dệt may, thức ăn chế biến. Đây cũng là nơi
đặt trụ sở của các tập đoàn đa quốc gia và nhiều mặt hàng thương mại trong lĩnh
vực công nghệ và máy móc. Xây dựng từ lâu đã trở thành một trong những nền
công nghiệp lớn nhất của Nhật Bản.
Nhật Bản là trụ sở của ngân hàng lớn nhất thế giới, tập đoàn tài chính Mitsubishi
UFJ (Mitsubishi UFJ Financial Group) với số vốn ước tính lên đến 1.7 nghìn tỉ đô

la Mỹ. Nhật Bản cũng là nơi có thị trường chứng khoán lớn thứ hai thế giới - thị
trường chứng khoán Tokyo với khoảng 549.7 nghìn tỉ yên vào tháng 12/2006. Đây
cũng là trụ sở của một số công ty dịch vụ tài chính, những tập đoàn kinh doanh và
những ngân hàng lớn nhất thế giới. Ví dụ như những tập đoàn kinh doanh và công
ty đa quốc gia như Sony, Sumitomo, Mitsubishi and Toyota sở hữu hàng tỉ và hàng
nghìn tỉ đô la đang hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, nhóm các nhà đầu tư hoặc
dịch vụ tài chính như ngân hàng Sumitomo, ngân hàng Fuji, ngân hàng Mitsubishi,
Toyota Financial Services and Sony Financial Holdings.
Những đối tác xuất khẩu chính của Nhật là Hoa Kỳ 22.9%, Trung Quốc 13.4%,
Hàn Quốc 7.8%, Đài Loan 7.3% và Hồng Kông 6.1% (2005). Những mặt hàng xuất
khẩu chính của Nhật là thiết bị giao thông vận tải, xe cơ giới, hàng điện tử, máy
móc điện tử và hóa chất. Do hạn chế về tài nguyên thiên nhiên để duy trì sự phát
triển của nền kinh tế, Nhật Bản phải phụ thuộc vào các quốc gia khác về phần
nguyên liệu vì vậy đất nước này nhập khẩu rất nhiều loại hàng hóa đa dạng. Đối tác
nhập khẩu chính của Nhật là Trung Quốc 21%, Hoa Kỳ 12.7%, A Rập Xê Út 5.5%,
UAE 4.9%, Australia 4.7%, Hàn Quốc 4.7% và Indonesia 4% (số liệu 2005). Những
mặt hàng nhập khẩu chính của Nhật Bản là máy móc, thiết bị, chất đốt, thực phẩm
(đặc biệt là thịt bò), hóa chất, nguyên liệu dệt may và những nguyên liệu cho các
nghành công nghiệp của đất nước. Nhìn chung, Đối tác buôn bán tổng thể lớn nhất
của Nhật Bản là Trung Quốc.
Tính cách con người Nhật Bản:
10
Người Nhật Bản có tính cách hết sức đặc biệt, có lẽ nhờ những tính cách này,
người Nhật đã biến đất nước nghèo tài nguyên, khí hậu khắc nghiệt của mình thành
một cường quốc. Có thể tóm tắt những tính cách đặc trưng đó như sau.
• Có óc cầu tiến và rất nhạy cảm với những thay đổi trên thế giới.
• Người Nhật Bản rất coi trọng học vấn.
• Người Nhật rất chú trọng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
• Tinh thần làm việc tập thể.
• Người Nhật không thích đối đầu với người khác.

• Tính tiết kiệm và làm việc chăm chỉ.
• Lòng trung thành.
Bên cạnh những tính cách nêu trên, người Nhật còn có một số đặc tính:
• Luôn làm việc theo mục tiêu đã định.
• Tôn trọng thứ bậc và địa vị. Rất coi trọng tôn ti trật tự.
• Cần cù và có tinh thần trách nhiệm cao.
• Yêu thiên nhiên và có tính thẩm mỹ.
• Tinh tế, khiêm nhường.
• Trong kinh doanh người Nhật rất trọng chữ tín và phát triển mối làm ăn lâu dài.
II. Chính sách can thiệp tỷ giá của Nhật Bản:
1. Chính sách tỷ giá của Nhật giai đoạn 2003- 2004:
Nhật Bản chưa hề can thiệp để bán đồng Yên trên thị trường ngoại hối kể từ năm
2004 đến nay. Tỷ giá giao dịch thời điểm năm 2004 là 109 Yên Nhật/ USD.
Từ tháng 01/2003 đến tháng 01/2004, Nhật Bản đã bán tổng cộng khoảng 35
nghìn tỷ Yên trong nỗ lực giải quyết tình trạng giảm phát và làm chậm tiến trình
nâng giá đồng nội tệ. Tuy nhiên, hoạt động can thiệp vào thị trường có ít tác động
trong việc cản đồng Yên tăng giá.
2. Chính sách tỷ giá của Nhật ngày 15/09/2010:
11
a. Bối cảnh kinh tế trước khi Nhật can thiệp tỷ giá:
• Kinh tế thế giới:
Thoả thuận đạt được với các tiêu chuẩn cao hơn về nguồn vốn dự trữ của ngân
hàng trên toàn cầu như là một phần trong những nỗ lực của cộng đồng quốc tế nhằm
ngăn chặn các cuộc khủng hoảng tài chính trong tương lai. Sự phục hồi rõ nét của
kinh tế châu Âu,trong khi Mỹ đối mặt với tình trạng thâm hụt ngân sách nặng nề.
UNCTAD dự báo về kinh tế toàn cầu: Trong dự báo mới nhất về hiện trạng
nền kinh tế toàn cầu,UNCTAD đã dự báo, GDP thực tế của nền kinh tế toàn cầu
tăng 3,5% trong năm 2010. Sự gia tăng này đã dẫn đến sự phục hồi mạnh của
thương mại toàn cầu, nhưng theo UNCTAD, điều đó vẫn rất mong manh và không
đồng đều. UNCTAD cho biết các nền kinh tế mới nổi, chủ yếu là ở châu Á và Mỹ

Latinh, vẫn dẫn đầu thế giới về phục hồi kinh tế. Trong khi, các nền kinh tế chuyển
tiếp ở Trung và Đông Âu phục hồi yếu. Sự phục hồi yếu ớt cũng được ghi nhận ở
các nền kinh tế phát triển. Nhu cầu trong nước ở Mỹ phục hồi nhanh hơn ở các
nước có thặng dư tài khoản vãng lai hàng đầu như Nhật Bản và Đức. Châu Âu đã
trở thành trung tâm của khủng hoảng nợ và trì trệ trong phục hồi kinh tế. Các nền
kinh tế châu Phi ít bị tác động trực tiếp của khủng hoảng do ít hòa nhập vào thị
trường tài chính quốc tế.
Chuẩn mới cho NH toàn cầu- Thoả thuận Basel III: 12/9 vừa qua, Nhóm các
Thống đốc NHTW và người đứng đầu cơ quan thanh tra, giám sát đã tổ chức họp
bàn về các quy định mới về vốn của Ủy ban Basel tại Basel, Thụy Sỹ. Theo đó,
Nhóm các Thống đốc NHTW và người đứng đầu cơ quan thanh tra, giám sát đã
công bố thỏa thuận đạt được về các tiêu chuẩn cao hơn về nguồn vốn dự trữ của
ngân hàng trên toàn cầu. Các quy định mới này được đưa ra như là một phần trong
những nỗ lực của cộng đồng quốc tế nhằm ngăn chặn các cuộc khủng hoảng tài
chính trong tương lai.Thỏa thuận mang tên "Basel III" yêu cầu các ngân hàng duy
trì nguồn vốn dự trữ lớn hơn nhiều: vốn điều lệ tăng từ 2% hiện nay lên 4,5%, bắt
đầu từ ngày 1/1/2015; vốn đệm tăng lên 2,5% từ ngày 1/1/2019. Như vậy, tổng số
vốn dự trữ của các ngân hàng sẽ lên đến 7%. Thỏa thuận sẽ được đưa ra thảo luận
12
tại cuộc họp của G20, dự kiến diễn ra ở Hàn Quốc vào tháng 11/2010 và phải được
chính phủ các nước tham gia thông qua mới có hiệu lực.
EC dự báo, GDP của 16 nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu có thể
tăng trưởng 1,7% trong năm nay thay cho con số 0,9% của dự báo trước đó. Tốc
độ tăng trưởng của quý 3/2010 có thể là 0,5% và quý 4/2010 dự kiến là 0,3%. Ủy
ban cũng dự báo, kinh tế của 27 nước thuộc Liên minh châu Âu có thể tăng trưởng
1,8% trong năm nay, thay cho mức dự báo 1% trước đó.
Nền kinh tế hàng đầu châu Âu- Đức với một số tin không mấy khả quan khi
chỉ số niềm tin nhà đầu tư Đức tháng 9/2010 bất ngờ rơi xuống mức thấp nhất trong
19 tháng, giảm xuống mức âm 4,3 từ mức 14 của tháng 8/2010. Cũng tại châu Âu,
Hy Lạp tiếp tục nhận được cứu trợ của IMF trong gói giải cứu. Cuối tuần qua, IMF

thông báo sẽ giải ngân thêm 2,57 tỷ euro cho Hy Lạp, lần cấp vốn thứ hai trong gói
giải cứu kinh tế Hy Lạp của IMF trị giá 30 tỷ USD. Đây cũng là một phần gói cứu
trợ 110 tỷ euro (140 tỷ USD) của IMF và EU nhằm giúp Hy Lạp vượt qua cuộc
khủng hoảng nợ. Kết thúc đợt giải ngân mới nhất này, Aten sẽ nhận được 8,3 tỷ
euro (10,5 tỷ USD).
Tình trạng thâm hụt ngân sách Mỹ cho thấy vị trí siêu cường kinh tế của
nước này đang bị đe doạ. Bộ TC Mỹ thông báo thâm hụt ngân sách tháng 8 đứng
ở mức 90,53 tỷ USD, thấp hơn so với dự báo thâm hụt 95 tỷ USD của các nhà kinh
tế và mức 103,56 tỷ USD trong cùng kỳ năm ngoái. Thâm hụt ngân sách từ đầu năm
tài chính 2010 đến nay là 1.200 tỷ USD, thấp hơn mức 1.400 tỷ USD trong 11 tháng
đầu năm 2009. Theo Bộ TC, đây là tháng thứ 23 liên tiếp, ngân sách liên bang bị
thâm hụt. Thâm hụt ngân sách năm 2010 của Mỹ được dự đoán lên tới 1.340 tỷ
USD và trường hợp xấu nhất, nợ công lên tới 18,5% GDP cho tới năm 2035. Theo
ông Henry Paulson – Cựu Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ, nước này sẽ có nguy cơ mất
đi vị trí siêu cường nếu không bắt tay vào giải quyết tình trạng thâm hụt.
Mỹ tính “mạnh tay” với Trung Quốc trong vấn đề đồng NDT. Giám đốc
Phòng Thương mại Mỹ phụ trách các vấn đề Trung Quốc, Jeremie Waterman đánh
giá: “Khả năng Mỹ hành động đối phó với Trung Quốc trong vấn đề đồng NDT đã
tăng lên do hai lý do: Thứ nhất là sức ép chính trị tại nội bộ nước Mỹ trước thềm
13
cuộc bầu cử QH diễn ra vào ngày 2/11 tới. Thứ hai là Bắc Kinh dù đã tuyên bố điều
chỉnh linh hoạt tỷ giá đồng NDT, song tiến độ diễn ra rất chậm chạp. Kể từ tháng
6/2010 đến nay, đồng NDT chỉ tăng giá khoảng 0,6% so với USD”. Dự kiến ngày
15/9 tới, Uỷ ban Đường lối và Chính sách Mỹ sẽ tổ chức phiên điều trần để lắng
nghe ý kiến của các thành viên QH ủng hộ kế hoạch “mạnh tay” hơn đối với đồng
NDT của Trung Quốc.
36 hiệp hội thương mại Mỹ cùng gửi một bức thư lên Hạ viện nước này phản đối
việc thông qua luật để buộc NDT tăng giá hơn nữa. Ngày 15-9 và 16-9, Hạ viện Mỹ
sẽ tổ chức phiên điều trần với trọng tâm là tỷ giá NDT và sẽ chất vấn Bộ trưởng Tài
chính Mỹ Timothy Geithner làm thế nào để thúc đẩy Trung Quốc nhượng bộ về vấn

đề này. Trước đó, ông Geithner đã 3 lần từ chối liệt Trung Quốc vào danh sách các
nước thao túng tỷ giá trong báo cáo nửa năm.
Thặng dư thương mại của Trung Quốc trong tháng 8 vừa qua đạt 20,03 tỷ
USD, giảm gần 8,7 tỷ USD so với tháng 7. Báo cáo của Cơ quan thống kê Trung
Quốc cho thấy, sản lượng công nghiệp trong tháng 8 của nước này tăng 13,9% so
với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng tăng 3,5% trong khi đó mức tăng tháng
7 chỉ là 3,3%. NHTW Trung Quốc (PBOC) công bố, tổng giá trị các khoản vay mới
trong tháng 8 tại Trung Quốc đạt 545,2 tỷ NDT (80 tỷ đôla). Tăng trưởng cung tiền
M2 đạt 19,2%. Đáng chú ý là dòng vốn FDI thực tế chảy vào Trung Quốc sau thời
gian tăng mạnh trong từ năm 2005 đến 2008, dường như có biểu hiện chậm lại khi
năm 2009 chỉ số này giảm 2,6%, so với mức tăng 23,5% và 28,7% của năm 2008 và
2007. Trong tháng 8, dòng vốn FDI thực tế cũng đã giảm 44,8% so với tháng 7.
NDT tăng cao nhất, cụ thể phiên giao dịch 13/9, Ngân hàng Trung ương
Trung Quốc công bố tỷ giá ở mức 6,7509 Nhân dân tệ/USD, cao hơn so với tỷ giá
6,7625 Nhân dân tệ/USD trong phiên giao dịch ngày 10/9. Tỷ giá giao ngay vào
giữa phiên giao dịch ngày 13/9 ở mức 6,7568 Nhân dân tệ/USD từ mức 6,7692
Nhân dân tệ/USD đóng cửa phiên ngày 10/9.
• Tình hình kinh tế của Nhật:
14
Thị trường chứng khoán Nhật Bản tới giờ gần như vẫn chưa thoát khỏi mức đáy
của năm thiết lập hồi tháng 7, với chỉ số Nikkei 225 vẫn thấp hơn 15% so với mức
đỉnh của năm thiết lập hồi tháng 4. Thêm vào đó, mây đen đang tiếp tục bao phủ
tâm lý của các cổ đông, các nhà hoạch định chính sách và nhiều lãnh đạo doanh
nghiệp Nhật.
Tờ Financial Times cho biết, nguyên nhân hàng đầu cho thực trạng này của các
công ty Nhật nằm chính ở đồng Yên. Sau khi liên tục tăng giá trong cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu 2007-2009, đồng Yên giờ lại tiếp tục tăng giá. Tỷ giá
Yên/USD hiện đang ở gần mức cao nhất trong 14 năm (thiết lập t11/2009), với
84,80 Yên ăn 1 USD.
“Hiện chỉ có các công ty Nhật là phải làm ăn trong bối cảnh rủi ro tỷ giá hối

đoái lớn”, Bộ trưởng Bộ Thương mại Nhật Bản Masayuki Naoshima phát biểu hồi
tuần trước. Ông Takahiko Ijichi, một giám đốc của Toyota thì cho rằng, viễn cảnh
tỷ giá đồng Yên “không biết đường nào mà lần”.
Mối đe dọa lớn nhất trong những tháng sắp tới là, tương tự như thời gian sau
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, đồng Yên vẫn mạnh dù kinh tế toàn cầu giảm
tốc. Sản xuất công nghiệp ở Nhật trong tháng 6 vừa qua đã giảm sút, và các chuyên
gia kinh tế cho rằng, kinh tế Nhật trong nửa cuối của năm nay sẽ trong tình trạng trì
trệ.
Mặc dù tỷ giá đồng Yên đang leo thang so với USD, trong dự báo về triển vọng
lợi nhuận của nhiều doanh nghiệp Nhật, bao gồm các “đại gia” như Toyota, Sony và
Canon, mức tỷ giá bình quân cho năm nay vẫn được cho là mức 90 Yên/USD.
Toyota đã tăng mức dự báo lợi nhuận ròng của hãng thêm 30 tỷ Yên lên 340 tỷ Yên
cho năm tài khóa 2010 kết thúc vào cuối tháng 3/2011.
Chiến lược gia thị trường chứng khoán Nicholas Smith tại công ty MF Global
cho rằng: “Đồng Yên mạnh giờ không còn đồng nghĩa với thị trường chứng khoán
tại Nhật mạnh nữa. Trước đây, đồng Yên mạnh nhờ thành công của các công ty
Nhật khiến các tài sản Nhật hấp dẫn, đẩy Yên tăng giá. Giờ đây, sức mạnh của đồng
Yên chỉ phản ánh những yếu kém của kinh tế Mỹ và Eurozone. Đối với một quốc
15
gia sống chết phụ thuộc vào xuất khẩu như Nhật Bản, thị trường xuất khẩu xuống
dốc đúng là thảm họa”.
Đồng Yên mạnh càng khiến những thách thức mà các công ty Nhật đương đầu
trong cuộc suy thoái gần đây thêm phần tồi tệ, vì đồng nội tệ mạnh khiến hàng xuất
khẩu của đất nước mặt trời mọc giảm sức cạnh tranh giữa lúc nhu cầu tại các thị
trường bên ngoài co rút nhanh chóng. Trong khi đó, sự mất giá của đồng Won Hàn
Quốc diễn ra cùng khoảng thời gian đã cho phép các doanh nghiệp của xứ kim chi
như Samsung hay Hyundai tranh thủ chiếm thị phần.
Theo Toyota, biến động tỷ giá đã “cướp” mất 760 tỷ Yên khỏi kết quả kinh
doanh của công ty này trong thời kỳ tồi tệ nhất của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế. Kể từ đó, đồng Yên đã tăng giá thêm 15% so với đồng USD, buộc

Toyota phải cắt giảm chi phí và thu hẹp sản xuất trong nước mạnh tay hơn nữa.
Tháng trước, hãng xe lớn nhất thế giới này đã công bố một kế hoạch 5 năm nhằm
giảm sự phụ thuộc vào hoạt động xuất khẩu bằng cách xây nhà máy tại Trung Quốc,
Ấn Độ, Brazil và Mỹ.
Lĩnh vực xuất khẩu đóng góp 15% vào GDP của Nhật, một tỷ lệ thậm chí là
thấp so với nhiều nước trên thế giới - như ở Đức, tỷ lệ này là 1/3, ở Anh là trên một
nửa. Tuy nhiên, vấn đề đáng bàn ở đây là nền kinh tế quy mô lớn của Nhật đang
trong tình trạng đình trệ, và những công ty lớn nhất, nhiều lợi nhuận nhất của Nhật
lại phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường bên ngoài hơn ở các quốc gia khác.
Các doanh nghiệp Nhật đã đẩy mạnh xây nhà máy ở nước ngoài từ thập niên
1980, nhưng hầu hết vẫn phụ thuộc vào xuất khẩu, một phần vì những áp lực xã hội
mà họ có thể phải đối mặt nếu đóng cửa nhà máy ở nội địa. Toyota dự báo sẽ xuất
khẩu một nửa số xe hơi sản xuất trong nước trong năm nay. Đối với các tập đoàn
lớn khác như Canon, Nikon và Mazda, tỷ lệ này là trên 75%, không thay đổi gì mấy
so với cách đây một thập kỷ.
Cách đây vài năm, lãnh đạo doanh nghiệp Nhật có thể chờ Bộ Tài chính nước
này bán ra đồng Yên ở những thời điểm tỷ giá đồng tiền này tăng cao nhằm hạ nhiệt
tỷ giá. Nhưng từ năm 2004 tới nay, Nhật Bản đã không can thiệp vào thị trường
ngoại hối, và các chuyên gia cho rằng, với sự ảm đạm của kinh tế thế giới và Trung
16
Quốc chịu sự chỉ trích của phương Tây về chính sách tỷ giá Nhân dân tệ thấp, sẽ
khó có chuyện Nhật áp dụng chính sách can thiệp như trước.
b. Chính sách can thiệp tỷ giá của Nhật ngày 15/09/2000:
Chính phủ Nhật đã đưa ra 2 gói giải pháp:
Bộ Tài chính Nhật Bản ngày 15/9 đã đơn phương can thiệp vào thị trường ngoại
hối thông qua nghiệp vụ bán yên - mua USD để chặn đà tăng giá của đồng yên. Đây
là lần đầu tiên kể từ năm 2004, Nhật Bản can thiệp vào thị trường ngoại hối. Động
thái này được đưa ra ngay sau khi tỷ giá giữa đồng yên và USD trên thị trường
Tôkyô giảm xuống 82,9 yên/USD vào sáng 15/9, mức thấp nhất kể từ ngày
31/5/1995. Bộ Tài chính thông báo sẵn sàng đưa ra động thái tương tự trong tương

lai để ngăn đà tăng giá của đồng yên.
Ngày 27/9, Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan đã ra lệnh soạn thảo ngân sách bổ
sung cho tài khóa 2010 để tài trợ cho gói kích cầu bổ sung , nhằm đối phó với tình
trạng thiểu phát và vực dậy nền kinh tế nước này, sau khi nội các của ông tuần
chính thức thông qua gói kích thích kinh tế trị giá 915 tỷ yên (10,9 tỷ USD) trong
tuần trước, nhằm tạo thêm việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
c. Kết quả động thái can thiệp của Nhật Bản:
Trong phiên giao dịch ngày 15/9 trên thị trường Châu Á, đồng Yên giảm giá
mạnh. Vào đầu phiên, đồng Yên đã có lúc vượt lên mức cao nhất so với USD khi 1
USD chỉ đổi được 82,86 Yên, trước khi các quan chức Nhật Bản vào lúc 8h30 (giờ
Việt Nam) quyết định can thiệp vào thị trường bằng cách bán Yên và mua vào
USD.
Sau quyết định này, đồng Yên ngay lập tức giảm mạnh xuống 85,13 yên ăn 1
USD - mức thấp nhất kể từ 3/9.
Đến cuối phiên, đồng yên đã phục hồi lên chút 84,85 yên đổi 1 USD, song vẫn
giảm mạnh so với 83,06 yên phiên trước tại New York.
17
Quyết định can thiệp cào thị trường tiền tệ của Nhật Bản cũng góp phần đẩy
đồng USD lên giá so với các đồng tiền khác, nhất là Euro và bảng Anh.
Tại Tokyo, đồng Euro đã giảm từ 1,2994 USD xuống 1,2982 USD.
Chỉ số chứng khoán Nikkei-225 tăng 1,84% so với cuối phiên trước, lên
9.470,31 điểm.
Chỉ số Topix cũng tăng 1,46% lên mức 847,05 điểm.
PHẦN III: ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH CAN THIỆP TỶ GIÁ
CỦA NHẬT BẢN:
- Thành công:
Về phía Chính Phủ, Nhật Bản cho rằng sự can thiệp này chắc chắn sẽ tác động
tích cực tới thị trường, góp phần hình thành một tỷ giá hối đoái ổn định. Đây là một
quyết định kịp thời và sẽ có tác dụng đảo ngược thị trường vốn đang đi xuống.
- Hạn chế:

Theo giới chuyên gia phân tích thị trường Nhật Bản, hành động của Tokyo chỉ
có tác dụng tích cực nhất thời và chứng tỏ với các nhà đầu tư Nhật Bản sẵn sàng can
thiệp vào thị trường khi cần thiết.
• Hiệu quả của các biện pháp của Chính phủ sẽ không kéo dài nếu việc can thiệp
không được tiến hành một cách có chiến lược và dài hơi. Ông sự đoán đồng Yên
có thể sẽ tăng giá trở lại, khi giữa Mỹ và Nhật Bản vẫn tồn tại khác biệt trong các
đánh giá về tình trạng lạm phát, dẫn tới các biện pháp can thiệp vào thị trường
cũng khác nhau và phần thua thiệt sẽ thuộc về Nhật Bản.
• Do sự can thiệp của Nhật Bản thiếu sự phối hợp với các thị trường quốc tế nên sẽ
chỉ mang lại hiệu quả nhất thời chứ không đủ sức tạo ra yếu tố tích cực cho nền
kinh tế trong nước. Một khi các thông tin xấu về nền kinh tế Mỹ được đưa ra, nó
sẽ trở thành một yếu tố quan trọng để Washington tiếp tục duy trì chính sách
18
đồng Đôla yếu và bơm tiền vào thị trường, qua đó tạo sức ép khiến đồng Yên
tăng giá trở lại.
• Hiệu quả tích cực của đợt can thiệp này là có, nhưng tồn tại bao lâu còn tùy
thuộc vào quyết tâm chính trị. Do vậy, Chính phủ Nhật Bản cần nhanh chóng có
các chính sách tiền tệ hợp lí và mang tính lâu dài cũng như có các biện pháp hỗ
trợ bổ sung cho các thị trường ngoài việc bơm tiền.
Về phía dư luận quốc tế, nhiều người cũng nhận thấy có nhiều vấn đề còn tồn tại
với chính sách tiền tệ hiện nay của Nhật:
• Nhật Bản sẽ vẫn phải đối mặt với nhiều thử thách khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ
(FED) hoặc các ngân hàng lớn trên thế giới tiến hành chính sách nới lỏng tiền tệ.
Ông cũng nhận định Nhật Bản khó có thể liên kết với thị trường nước khác vì khi
đó, họ sẽ phải chịu sức ép mạnh mẽ từ Mỹ.
• Các biện pháp can thiệp của Nhật Bản không mang lại một hiệu quả tích cực vì
nước này vẫn chưa ổn định được chính trường. Chỉ khi có ổn định chính trị,
Chính phủ Nhật Bản mới có thể đưa ra các chính sách và tiến hành các biện pháp
can thiệp mang tín dài hơi, khi đó đồng Yên mới thực sự giảm giá.
Để khắc phục và xóa bỏ những hạn chế đó, Nhật Bản phải sớm thực hiện

được những điều sau:
1. Củng cố sự ổn định chính trị.
2. Xây dựng các chính sách tiền tệ hợp lí và lâu dài.
3. Đa dạng các hình thức can thiệp thị trường.
4. Phối hợp với thị trường quốc tế, Chính phủ các nước trong khu vực và
trên thế giới cùng điều chỉnh chính sách tiền tệ, tránh tình trạng đơn
phưong can thiệp, điều này có thể gây ra sự bất ổn, ảnh hưởng đến
triển vọng phát triển kinh tế toàn cầu.
19
Kết luận
Trong tình hình kinh tế đầy biến động năm 2010, với sự bất ổn của các đồng
tiền mạnh trên thế giới, động thái can thiệp vào thị trường tiền tệ của Nhật Bản
nằm trong xu hướng chung của thế giới nhằm ngăn chặn sự tăng giá của đồng nội
tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế. Động thái này là cần thiết và kịp thời đối với một
nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu như Nhật Bản. Tuy nhiên, do sự thực
hiện đơn phương, thiếu liên kết quốc tế nên hiệu quả của động thái này chưa cao.
Sự thành công và những mặt hạn chế của nó chính là bài học cho các quốc gia
khác trên thế giới trong điều hành chính sách tiền tệ.
20
Các nguồn thông tin sử dụng:
[1] PGS. TS. Nguyễn Văn Tiến, 2010, “Giáo trình Tài chính quốc tế”.
[2] />[3] />[4] />[5] />[6] />…

×