ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ TUYẾT MAI
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN HỒ THỦY GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thái Nguyên - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ TUYẾT MAI
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN HỒ THỦY GIANG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Đức Hạnh
Thái Nguyên – 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành
tới TS. Nguyễn Đức Hạnh đã trực tiếp hướng dẫn, đã tận tâm, nhiệt tình giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo
trong khoa Ngữ văn, khoa Sau Đại học - Trường ĐHSP Thái Nguyên đã
giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã
quan tâm, động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Với trình độ và kiến thức hạn chế của người viết, luận văn chắn chắn
không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự lượng thứ và góp
ý chân thành của các thầy cô giáo cùng bạn bè đồng nghiệp đã quan tâm đến
vấn đề được tìm hiểu trong luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Thái nguyên, tháng 08 năm 2011
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Tuyết Mai
PHẦN MỞ ĐẦU
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
1. Lý do chọn đề tài
1. Việt Bắc – Thái Nguyên thủ đô gió ngàn của cuộc kháng chiến
chống Pháp đã trở thành những cái tên đầy tự hào của những người yêu nước
Việt. Hình ảnh thiên nhiên và con người Thái Nguyên trở thành đề tài, nguồn
cảm hứng của rất nhiều văn nghệ sĩ như Vi Hồng, Ma Trường Nguyên, Bùi
Như Lan, Nguyễn Minh Sơn, Hồ Thủy Giang Những nhà văn, nhà thơ
thuộc nền văn học địa phương này có đóng góp lớn cho thành tựu chung của
văn học nước nhà, nhưng không phải nhà văn nào cũng được nghiên cứu đánh
giá xứng đáng với tài năng và đóng góp của mình. Bởi vậy, việc tìm hiểu
những tác giả xuất sắc của văn học địa phương là việc làm cần thiết.
2. Hiện nay, theo phân phối chương trình của Bộ giáo dục đào tạo, phần
văn học địa phương giảng dạy tại các trường Trung học cơ sở bao gồm 24
tiết. Trong chương trình Đào tạo giáo viên Trung học cơ sở của trường Đại
học Sư phạm Thái Nguyên, hai học phần lí luận văn học và văn học Việt Nam
hiện đại cũng yêu cầu tìm hiểu về văn học địa phương, nên việc thực hiện đề
tài này góp thêm một tài liệu bổ ích cho việc giảng dạy các phần học ấy.
3. Từ đổi mới năm 1986 trở lại đây, thể loại truyện ngắn ở Việt Nam có
rất nhiều cách tân mạnh mẽ và việc tranh luận thế nào là truyền thống, thế nào
là hiện đại vẫn đang diễn ra sôi nổi nhưng vẫn chưa có được câu trả lời thật rõ
ràng. Việc thực hiện đề tài về một tác giả với những truyện ngắn xuất sắc đã
đoạt nhiều giải thưởng ở trung ương như Hồ Thủy Giang sẽ góp phần đánh
giá toàn diện hơn về xu thế vận động và thành tựu của truyện ngắn nói riêng -
văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung.
Từ những lý do trên chúng tôi chọn đề tài: “Đặc điểm truyện ngắn Hồ
Thủy Giang”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
2. Lịch sử vấn đề
Nhà văn Hồ Thủy Giang viết nhiều thể loại như thơ, tiểu thuyết, truyện
ngắn, phê bình văn học, kịch bản phim truyện truyền hình. Nhưng thể loại
truyện ngắn được nhà văn quan tâm hơn cả và mang lại cho nhà văn những
thành công trong sự nghiệp văn chương của mình. Khi các tập truyện ngắn,
Bông hoa cô đơn (năm 1990), Ảo ảnh (năm 1997), Lúc ấy biển hoàng hôn
(năm 2000), Truyện ngắn chọn lọc (năm 2002) xuất hiện trên văn đàn, một số
bài báo của nhà văn Vũ Nho, tác giả Đặng Quyết Tiến, tác giả Phạm Đức và
một đề tài nghiên cứu khoa học năm 2005 của tác giả Phương Dung – Lệ
Hằng có những đánh giá nhận xét về các tập truyện ngắn này.
Các bài viết đã đề cập đến một số phương diện nội dung trong truyện
ngắn Hồ Thủy Giang.
Nhà văn Vũ Nho khi đọc tập truyện ngắn Ảo ảnh của Hồ Thủy Giang
nhận xét: “Với ngòi bút gần như chuyên chú, độc canh một thể loại, Hồ Thủy
Giang là ngườicó duyên với giải thưởng. Viết một hồi nhận giải thưởng, lại
viết, lại nhận giải, lại cặm cụi viết, lại nhận giải mỗi lần như thế Hồ Thủy
Giang phấn đấu, tự tin, nhưng cũng gặp khó khăn phải làm sao vượt lên
chính mình, phải thay đổi, biến hóa để không rơi vào nhàm chán. Vốn là một
giáo viên văn, những trang viết về đề tài nhà trường, về cuộc sống buồn vui
của nhà giáo thường là những trang viết hay, sâu sắc nhất của một người
trong cuộc, một người am tường”.
Truyện ngắn của Hồ Thủy Giang “mang nỗi cô đơn, bất an của tâm
hồn con người, những rung động sâu xa, chân thành trước tình yêu thương,
lòng nhân hậu của con người. Điều này khiến chúng ta luôn phải ngạc nhiên
ngỡ ngàng khi tự khám phá ra phần sâu kín trong tâm hồn mỗi con người qua
từng trang văn”. (Đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên, Phương Dung - Lệ
Hằng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Cũng về nội dung này tác giả Đặng Quyết Tiến khi đọc tập truyện
ngắn Bông hoa cô đơn nhận xét: “Cả tập truyện là tấm lòng lo âu nghĩ
ngợi đầy trách nhiệm của người viết trước cuộc đời. Đọc thấy buồn, nỗi buồn
thấm thía Bông hoa cô đơn là một tập sách hay. Khoan hãy nói đến những
chuyện to tát về nghệ thuật. Theo tôi, giữa cái lúc mà trên các quầy sách thưa
vắng đến những tác phẩm văn học đích thực thì nó đã từ tốn ra đời. Không ồn
ào, không được vồ vập một cách giả dối, nhưng những ai còn có nỗi lo âu về
cuộc đời chắc sẽ đọc Hồ Thủy Giang và chia sẻ cùng anh”.
Hồ Thủy Giang xông xáo, cập nhật vào tất cả những vấn đề bức xúc
của đời sống. Trong truyện tác giả còn đưa ra “những chiêm nghiệm, những triết lý
nhân sinh mang tầm tư tưởng sâu sắc vào những vấn đề có thể nói là nhỏ nhặt và
bình thường của cuộc sống”. (Đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên, Phương
Dung - Lệ Hằng).
Nhà văn Vũ Nho nhận xét Truyện ngắn chọn lọc Hồ Thủy Giang
không chỉ là những trang viết đầy nỗi buồn và nước mắt, nhiều trang viết
còn“đề cao lối sống có tình thần nghĩa hậu, sống đằm thắm có trước có
sau của con người Việt Nam”.
Như vậy có thể thấy, với hơn 200 truyện ngắn Hồ Thủy Giang hướng
ngòi bút vào mọi vấn đề của đời sống, những câu chuyện về tình yêu lứa đôi,
hạnh phúc gia đình, những mối quan hệ giữa cha con, mẹ con, bạn bè, đồng
nghiệp, thầy trò đã được Hồ Thủy Giang khai thác triệt để. Bên cạnh đó
những vấn đề bức xúc của xã hội như: đề tài chống tham nhũng, về sự tha hóa
đạo đức của một số cán bộ nhà nước cũng được nhà văn quan tâm. Hồ Thủy
Giang viết nhiều về nỗi buồn, nhất là số phận bất hạnh, kém may mắn trong
cuộc sống. Nhà văn mong muốn những truyện ngắn của ông “không chỉ phản
ảnh và tái hiện đời sống, mà chính là để bù đắp vào khoảng trống cuộc đời đã
vĩnh viễn đánh mất”[19,tr183].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Các bài viết còn đề cập đến một số phương diện trong nghệ thuật của
truyện ngắn Hồ Thủy Giang.
Vũ Nho khi đọc tập truyện ngắn Ảo ảnh cũng nhận xét. “Truyện nào
cũng khá ngắn, cốt truyện đơn giản, mỗi truyện chỉ có từ hai đến bốn nhân
vật bao giờ cũng gắn bó hay liên quan trực tiếp đến một vấn đề nào đó trong
cuộc sống”.
Trong tập truyện Lúc ấy biển hoàng hôn, Vũ Nho nhận thấy “Hồ Thủy
Giang không bình luận nhiều (tuy nhiên trong một vài truyện đã thấy anh
thích đi ra, xưng danh hoặc cứ lừng lững xen vào câu chuyện). Tác giả chỉ
đưa ra các tình huống, kể cả các mẩu chuyện, phác thảo đôi nét chân dung để
bạn đọc suy ngẫm rồi phán xét”.
Tác giả Phương Dung - Lệ Hằng trong Đề tài nghiên cứu khoa học
của sinh viên nhận xét. Giọng điệu trong truyện ngắn của Hồ Thủy Giang khi
thì “kín đáo, mỉa mai, lúc công khai thẳng thừng châm biếm, đả kích, lúc lại
lạnh lùng dồn nén, khi lại ngậm ngùi, xót xa”. Ngôn ngữ của truyện “giản dị,
dễ hiểu, đời thường, đậm tính khẩu ngữ”.
Qua các bài viết đó có thể thấy được phần nào nghệ thuật trong truyện
ngắn Hồ Thủy Giang đó là: Tạo dựng cốt truyện đơn giản, không li kì, gay
cấn. Nhân vật ít, thường là tầng lớp trí thức và gắn bó với một vấn đề nhân
sinh của đời sống. Việc sử dụng ngôn ngữ hàng ngày đã tạo cho tác phẩm của
Hồ Thủy Giang nhiều giọng điệu khác nhau vừa ngậm ngùi xót va vừa mỉa
mai chua chát.
Như vậy, các bài viết có nhiều đánh giá nhận xét xác đáng, sắc sảo về
một số phương diện nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của Hồ Thủy Giang,
song chưa tác giả nào có một công trình nghiên cứu chuyên biệt, tất cả chỉ là mang
tính chất khái quát, sơ lược. Tuy nhiên đó cũng là những tư liệu quý gợi mở
cho
chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu đề tài “Đặc điểm truyện ngắn Hồ Thủy Giang”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Chúng tôi mong muốn luận văn sẽ lý giải, phân tích sâu hơn một số
đặc điểm nội dung và nghệ thuật mà Hồ Thủy Giang thể hiện trong truyện
ngắn của ông. Trên cơ sở đó thấy được vị trí, ý nghĩa và đóng góp những
truyện ngắn của Hồ Thủy Giang đối với nền văn xuôi Việt Nam hiện đại và
khẳng định cá tính sáng tạo độc đáo của nhà văn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đặc điểm truyện ngắn Hồ Thủy
Giang qua ba tập truyện.
1. Truyện ngắn chọn lọc – NXB Văn học. 2002
2. Mùa gió heo may – NXB Lao động. 2005
3. Người đẹp thường nhiều bí ẩn – NXB Văn học. 2010
Do khuân khổ của luận văn thạc sĩ, chúng tôi không thể tìm hiểu tất cả
các phương diện của đặc diểm truyện ngắn mà chỉ tập trung xoáy sâu vào một
số phương diện sau đây:
- Các kiểu nhân vật trung tâm, nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Không gian và thời gian nghệ thuật
- Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật trong các tập truyện ngắn kể trên
của Hồ Thủy Giang.
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một số vấn đề đặc điểm nội dung và nghệ thuật trong
truyện ngắn Hồ Thủy Giang, chúng tôi nhằm mục đích làm rõ hơn những nét
riêng trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, từ đó khẳng định cá tính sáng tạo
độc đáo và những đóng góp của ông vào nền văn xuôi Việt Nam đương đại.
Nếu đề tài thành công, chúng tôi hy vọng đây sẽ là một tư liệu tham
khảo bổ ích cho việc giảng dạy phần văn học địa phương trong các trường
Trung học cơ sở trên địa bàn Thái Nguyên. Đề tài này cũng góp thêm một tư
liệu tham khảo cho việc giảng dạy phần văn học địa phương trong chương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
trình Ngữ văn của khoa Đào tạo giáo viên Trung học cơ sở, trường Đại học sư
phạm Thái Nguyên.
5. phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi sử dụng và phối hợp các
phương pháp cơ bản sau
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp khái quát - tổng hợp.
- Phương pháp đối chiếu - so sánh.
- Phương pháp nghiên cứu tác giả văn học.
- Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại.
- Phương pháp nghiên cứu theo quan điểm thi pháp học.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn bao gồm ba phần, phần mở đầu, phần nội dung và phần kết
luận. Trong phần nội dung bao gồm 3 chương.
Chương1: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Hồ Thủy Giang.
Chương 2: Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn
Hồ Thủy Giang
Chương 3: Giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn
Hồ Thủy Giang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
CHƢƠNG 1
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN HỒ THỦY GIANG
1. Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Hồ Thủy Giang
Hồ Thủy Giang sinh ngày 20/06/1947 tại quận Kiến An thành phố Hải
Phòng. Hiện ông thường trú tại số nhà 16, tổ 16, phường Trưng Vương, thành
phố Thái Nguyên. Hồ Thủy Giang là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội
viên Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số Việt Nam. Hiện nay, Hồ
Thủy Giang đang giữ chức Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật – Hội Văn học
Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên.
Năm 1960 Hồ Thủy Giang theo gia đình từ Hải Phòng lên Thái Nguyên
sinh sống. Hồi nhỏ Hồ Thủy Giang rất thích đọc các tác phẩm văn chương và
làm thơ để tặng bạn bè. Năm 19 tuổi, thơ của ông đã được in. Thành công của
truyện ngắn đầu tay “Ngàn làm máy”, năm 21 tuổi, in trên báo tạp chí Văn
nghệ Việt Bắc, với truyện ngắn này, ông là người đầu tiên đưa hình ảnh phụ
nữ của nền công nghiệp hiện đại vào văn học. Sau đó Hồ Thủy Giang viết tiếp
một loạt tác phẩm về đề tài “công nghiệp hóa nông thôn” và nhận được giải
thưởng của Báo Văn nghệ - Hội nhà văn Việt Nam năm 1971 với tác phẩm
“Cô bánh xích”.
Từ 1969 – 1980, Hồ Thủy Giang là giáo viên dạy văn ở trường Trung
học cơ sở Đại Từ. Trong 11 năm vừa dạy học, vừa sáng tác, ông còn tự học
hết chương trình Đại học, với ông tự học là điều rất quan trọng.
Năm 1980, Hồ Thủy Giang chuyển về công tác ở Sở Văn hóa Thông tin
tỉnh Thái Nguyên. Từ đó ông thực sự dành nhiều thời gian, tâm huyết vào sáng
tác văn chương và đoạt nhiều giải thưởng của trung ương và địa phương.
Năm 1983, Hồ Thủy Giang làm Phó phòng Xuất bản Sở Văn hóa Bắc
Thái. Năm 1987 ông chuyển sang làm Ủy viên Thường vụ Thường trực Hội
Văn học Nghệ thuật Bắc Thái. Năm 1992 đến nay Hồ Thủy Giang giữ chức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
vụ Phó chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên, Chủ tịch Hội
đồng Nghệ thuật- Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên.
* Những tác phẩm tiêu biểu
Với bốn mươi năm cầm bút, Hồ Thủy Giang được nhận hơn hai mươi giải
thưởng của trung ương và địa phương. Sau đây là một số giải thưởng tiêu biểu:
- Giải thưởng báo văn nghệ - Hội nhà văn Việt Nam năm1971
- Giải thưởng báo Giáo viên Nhân dân năm 1976
- Giải thưởng Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm1981, 1990
- Giải thưởng Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt
Nam năm 1997.
- Giải thưởng Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số Việt Nam năm
2002, 2004, 2008, 2009
- Giải thưởng truyện ngắn Tạp chí Tài hoa trẻ năm 2001
- Giải thưởng kịch bản phim truyện của Bộ văn hóa năm 2007.
- Giải thưởng liên hoan phim truyện truyền hình toàn quốc năm 2010.v.v.
Hồ Thủy Giang là người ham học hỏi, có niềm đam mê mãnh liệt với
văn chương. Đến nay tác giả cho ra mắt độc giả 16 tập truyện ngắn, hai tập
thơ, một tiểu thuyết, hai cuốn phê bình văn học và ba kịch bản phim truyền
hình. Các tác phẩm tiêu biểu như:
- Bạn cùng lớp (truyện vừa) năm 1981
- Cô bánh xích (tập truyện ngắn) năm 1985
- Có một cô gái trong đời (tập truyện ngắn) năm 1987
- Con tàu đến muộn (tập truyện ngắn) năm 1989
- Bông hoa cô đơn (tập truyện ngắn) năm 1990
- Biệt li (tiểu thuyết) năm 1994. Tái bản năm 2006 với nhan đề Những
phương trời lá rụng
- Ảo ảnh (tập truyện ngắn) năm 1997
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
- Truyện ngắn chọn lọc (tập truyện ngắn) năm 2002
- Văn học Thái Nguyên – Tác giả, tác phẩm (phê bình văn học) năm 2004
- Mùa gió heo may (tập truyện ngắn) năm 2005
- Bạn với cỏ cây (tập thơ) năm 2009
- Dưới cờ phục quốc (kịch bản phim) năm 2010
2. Quan niệm nghệ thuật về cuộc sống, con ngƣời và văn chƣơng trong
truyện ngắn Hồ Thủy Giang
Văn chương là niềm đam mê, là ước mơ từ bé của Hồ Thủy Giang. Từ
nhỏ ông ước mơ rằng sẽ trở thành một nhà văn. Và hiện tại Hồ Thủy Giang đã
thực sự trở thành một nhà văn và đạt được trao nhiều giải thưởng cao ở Thủ đô
gió ngàn. Ông viết nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, phê bình văn học
và kịch bản phim nhưng thể loại mà ông dành nhiều tâm huyết nhất và đạt được
nhiều thành công nhất là truyện ngắn. Hồ Thủy Giang rất thích đọc truyện ngắn,
bởi vì theo ông: Truyện ngắn là thể loại có kết cấu ngắn gọn để đưa ra một triết
lý, mang hơi thở của cuộc sống. Đọc nhiều truyện ngắn, mỗi người sẽ tìm thấy
một phần cuộc đời và hình ảnh mình trong đó. Với ông, thực tại sống một nửa
ngoài đời và một nửa là sống trong những tác phẩm văn học, chính vì vậy, Hồ
Thủy Giang thường đặt ra quan niệm nghệ thuật về cuộc sống, con người và văn
chương trong truyện ngắn của mình.
Viết về cuộc sống Hồ Thủy Giang hướng ngòi bút đến những câu chuyện
tình yêu và hạnh phúc. Khi khảo sát tìm hiểu truyện ngắn Hồ Thủy Giang
chúng tôi nhận thấy, chiếm hơn nửa tác phẩm của ông là những truyện viết về
tình yêu. Người ta cứ nghĩ rằng tình yêu là phải đẹp, lãng mạn, ngọt ngào, êm ái,
mộng mơ. Nhưng cuộc đời đâu chỉ có một chiều như vậy. Để có được tình
yêu, con người phải vượt qua bao khó khăn, thử thách. Mỗi câu chuyện tình
yêu trong truyện ngắn của nhà văn đều có những gai góc và chan chứa buồn
thương, đau đớn, nước mắt, máu, thậm chí cả cái chết. Trong Con tàu đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
muộn chỉ vì sự ghen tuông của người chồng, vì “tính sĩ diện của người đàn
ông” mà dẫn đến cả hai tuy còn rất yêu nhau nhưng phải phải chia tay và
sống trong niềm xót xa, ân hận. Châu và Tùng trong Sao xanh họ yêu nhau,
quan tâm đến nhau nhưng chỉ vì tự mình đã tạo ra những rào cản nên họ đều
phải chấp nhận sống cô đơn đến cuối đời. Hoặc chỉ vì sự cám dỗ của đồng
tiền mà cô gái đã bỏ người yêu theo một giám đốc trẻ, để rồi “nhiều đêm nằm
cạnh vợ mà chàng trai ấy vẫn âm thầm đón người yêu cũ”. Vì danh vọng mà
Thinh đã quên đi mối tình đầu tuyệt đẹp với Sâm để rồi bao nhiêu năm trôi
qua nhưng Thinh luôn day dứt về tình yêu đấy. Những câu chuyện về tình yêu
trong truyện ngắn Hồ Thủy Giang thường mang nhiều bi kịch, ít có những câu
chuyện tình có hậu. Chính vì vậy nhà văn nhắn nhủ mọi người “đừng để nhìn
thấy những cặp mắt tình yêu suốt đời phải khóc, thậm chí khóc bằng máu của
cả kiếp người”[19,tr.74].
Hạnh phúc cũng vậy, hạnh phúc đích thực của con người là gì? Có đầy đủ
tiền tài, danh vọng, quyền lực liệu đã hạnh phúc chưa? Bằng rất nhiều những
truyện ngắn Bông hoa cô đơn, Ngõ nhỏ, Con tàu đến muộn, Tro tàn, Tàu đêm,
Chuyện tình ở dốc Nguy Hiểm Nhà văn đưa ra quan niệm: Hạnh phúc đích
thực đâu chỉ là quyền lực, danh vọng và tiền tài. Trong cuộc đời nhiều khi chúng
ta phải sống ước lệ nhiều quá. Đến mức, con người ước lệ đã chiến thắng con
người thực, con người bản thể, con người tự nhiên nên đã đánh mất đi hạnh phúc
đích thực của đời mình và suốt đời không bao giờ có thể tìm lại được.
Do vậy thông qua nhưng câu chuyện của vị chủ tịch tỉnh, của Tùng, thầy
giáo Thanh nhà văn mong muốn con người hãy trở lại với chính mình, đừng
để cho con người ước lệ chiến thắng. Muốn có được tình yêu, hạnh phúc, mỗi
người phải biết vị tha, bao dung, biết cảm thông, chia sẻ cùng nhau những nỗi
buồn, niềm vui trong cuộc sống. Vấn đề thật nghiêm túc và cấp bách nhưng
không phải ai cũng nhìn ra.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Nằm trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam hiện đại, với quan niệm
nghệ thuật về con người thế sự - đời tư, Hồ Thủy Giang không chỉ nhìn cuộc đời
và con người một chiều mà nhìn con người trong nhiều mối quan hệ bộn bề
phức tạp, bí ẩn đặt con người trong muôn mặt của cuộc sống đời thường. Trong
những truyện ngắn Cỏ dại, Cuồng phong, Hoa Phặc Phiền vẫn nở, Hoa
Phượng nhà văn cho thấy con người luôn tồn tại hai mặt: đẹp – xấu, thiện –
ác, cao cả - thấp hèn, yêu – ghét, vui – buồn, trong sáng – tối tăm, hạnh phúc –
khổ đau, tự nhiên – xã hội. Đứng giữa những ranh giới mỏng manh đó, con
người không khéo sẽ bị kéo ngã về phía con người tự nhiên với những sai lầm
vấp váp, ngược lại con người sẽ hướng về phía con người xã hội. Bằng những
truyện ngắn của mình, Hồ Thủy Giang cũng như nhiều nhà văn khác đã cố gắng
thức tỉnh lương tri của mỗi người để giúp họ vươn tới cái chân – thiện – mỹ.
Quan niệm về con người, Hồ Thủy Giang còn đề cập đến sự tác động của
hoàn cảnh đối với nhân cách của con người. Đó là sự thay đổi nhanh chóng của
Vĩnh từ một người anh hùng trong những năm tháng chiến tranh bỗng trở thành
một kẻ đê tiện trong thời bình (Cỏ dại). Một người vợ vốn nết na, chung thủy
vậy mà khi bị mất nhà đã bán đi cả nhân phẩm của mình (Tro tàn). Xuyến từ
một học sinh ngoan, học giỏi vậy mà chỉ vì những lời phê trong quyển học bạ,
đã bỏ học trở thành một cô gái giang hồ rồi nhận lấy cái chết đau đớn. Tuynh
một cán bộ trẻ vừa ra trường đầy năng lực và triển vọng nhưng sống trong một
cơ quan mà cấp trưởng và cấp phó đấu đá nhau kịch liệt, Tuynh không giữ được
chính mình và thành một kẻ không có chính kiến suốt đời là “nô lệ” của quyền
lực Từ những nhân vật đó, nhà văn như muốn gửi tới thông điệp: Chúng ta
đừng để cho hoàn cảnh làm thay đổi đến nhân cách của mình. Và mọi người
đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh mà hãy tự nhìn lại mình. Dù gặp bất hạnh, trắc trở
con người hãy cố gắng vươn lên làm chủ và chiến thắng hoàn cảnh đó mới là
điều đáng quý.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Hồ Thủy Giang đưa ra những quan niệm nghệ thuật về văn chương: Văn
chương không hề đơn giản chỉ phản ánh đời sống đang tồn tại mà nó còn phản
ánh những “ẩn số” của cuộc sống. Từ đó, văn chương phải có nhiệm vụ thúc
đẩy cuộc sống của con người, giúp nhân loại thoát khỏi những bất an, phải đem
lại sự an ủi cho con người. Văn chương không chỉ là “tấm gương” phản chiếu
cuộc sống, mà luôn song hành cùng cuộc sống.Văn chương và thực tại là hai
đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau, nhưng văn chương lại vừa phản
ánh hiện thực trong cái ảo ảnh để làm xoa dịu đi nỗi đau của thực tại đời
sống[22]. Phải chăng đây là quan điểm nghệ thuật cần suy ngẫm trong sáng tác
Hồ Thủy Giang.
Văn chương không chỉ có tính giáo dục mà còn tự giáo dục. Thầy giáo
Sơn qua những câu chuyện đáng xót xa của đời mình đã nhận ra “Viết văn
hoặc dạy văn không chỉ là phản ánh hoặc tái hiện đời sống mà chính là để bù
đắp vào khoảng trống mà cuộc đời đã vĩnh viễn đánh mất”[19,tr.183].
Khi bàn về giá trị của văn chương tác giả cũng đưa ra những nhận xét
“Giá trị của văn chương quả là to lớn. Một truyện ngắn chục trang có thể
làm thay đổi cả nếp nghĩ của cộng đồng. Một bài thơ ngắn ngủi mà có sức
mạnh bằng mấy binh đoàn”. Và “Văn chương đã làm cho thiện thắng ác, cái
đẹp tràn lên cái xấu, làm cho con người không ăn thịt lẫn nhau”[19,tr.91].
Hay “văn chương làm cho con người trở nên lương thiện”[19,tr.119]. Văn
chương có thể giúp ta vượt qua được những nỗi đau của cuộc đời.
Qua cuộc đối thoại của người thầy giáo và ông biên tập trong trong truyện
ngắn Giấy vụn ta cũng thấy được những tranh luận của tác giả về văn chương.
“Một giọng khê khê những ra chiều bề trên:
- À! Tác giả trẻ Thanh Tâm hả? Có chút ít năng khiếu đầy nhưng văn
chương ở tuổi nứt mắt ra sao mà buồn như đưa đám vậy. Ở tuổi này văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
chương phải vui tươi, lạc quan mới hợp lẽ. Già! Già trước tuổi! Dù rất nể
ông nhưng tôi vẫn không thể cho đăng được.
Giọng thầy hơi căng thẳng:
- Là biên tập viên tới hơn chục năm mà ông vẫn nghĩ sơ đẳng thế sao?
Ông nghĩ văn chương là gì mà có thể thay giọng văn như thay áo vậy? Hơn
nữa, chắc ông cũng hiểu nỗi đau mới chính là bản chất của văn chương chứ
đâu phải là những thứ lạc quan như ông nói. Những điều nó viết ra là đúng
với những biến động của gia đình nó đấy. Vốn sống từ trong tâm can của nó
là như vậy”[21,tr116]. Qua câu chuyện, ta thấy Hồ Thủy Giang có phần nào
gần gũi với quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nam Cao trong truyện ngắn
Trăng sáng, khi muốn nói tới khuynh hướng văn học chạy theo thị hiếu tầm
thường, bán rẻ ngòi bút và lương tâm “Nghệ thuật không cần phải là ánh
trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng
đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”.
Những quan niệm nghệ thuật về cuộc sống, con người và văn chương
của Hồ Thủy Giang rất rõ ràng, thiết thực, mộc mạc và chân thành, không xa
rời viển vông. Mỗi truyện ngắn nhà văn trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra quan
điểm, triết lý mang tính thông điệp, là những điều tâm huyết mà nhà văn
muốn gửi đến người đọc. Theo tác giả đã viết văn thì: Tác phẩm đó phải
nhằm phục vụ cho cuộc đời và con người, an ủi họ thoát khỏi sự bất an luôn
tiềm ẩn trong cuộc sống hiện tại. Chính vì vậy, tìm hiểu về quan điểm nghệ
thuật của nhà văn sẽ giúp độc giả hiểu đúng và sâu sắc hơn về những sáng tác
của Hồ Thủy Giang.
3. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Hồ Thủy Giang
3.1. Khái niệm nhân vật văn học
Đối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con người
luôn giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
tranh thiên nhiên, những lời bình luận đều góp phần tạo nên sự phong phú,
đa dạng cho tác phẩm nhưng điều quyết định chất lượng tác phẩm văn học
chính là việc xây dựng nhân vật. Đọc một tác phẩm, đọng lại sâu sắc nhất
trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của
những con người được nhà văn thể hiện. Nhà văn Tô Hoài có lí khi cho rằng:
“Nhân vật là nơi tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong mọi sáng tác”.
Theo cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Nhân vật văn học là con
người cụ thể được trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên
riêng như Tấm Cám, chị Dậu, anh Pha, cũng có thể không có tên riêng như
thằng bán tơ, một mụ nào trong truyện Kiều ” [24,tr.202].
Có thể nói nhân vật là “linh hồn” của tác phẩm văn học. Ở góc độ lý
luận, nhân vật là “xương sống” trong kết cấu tự sự. Xét ở góc độ thực tiễn
sáng tạo nhân vật là sự thể hiện những quan niệm nghệ thuật của nhà văn về
con người và cuộc đời. Nhưng tùy theo quan điểm nghệ thuật của mỗi thời
đại, tùy theo mục đích sáng tác và ý đồ của mỗi nhà văn mà đặc điểm nhân
vật trong các sáng tác của họ khác nhau.
Trong cuốn 150 Thuật ngữ văn học cho rằng: “Truyện ngắn thường ít
nhân vật, ít sự kiện chồng chéo. Nhân vật truyện ngắn ít khi trở thành một thế
giới hoàn chỉnh, một tính cách đồng điệu, thường khi là hiện thân cho một
trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con
người” [1,tr.346]. Nhân vật, đó là nơi tập trung giá trị tư tưởng nghệ thuật của
tác phẩm văn học “nhân vật là phương tiện khái quát các tính cách, số phận
con người, và các quan niệm về con người”. (Trần Đình Sử).
Nhân vật trong truyện ngắn không được miêu tả trọn vẹn như nhân vật
của tiểu thuyết. Nó chỉ được khắc họa bằng những đường nét sắc sảo nhất, cơ
bản nhất, bản chất nhất của nhân vật. Những đặc điểm của nhân vật được biểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
hiện sinh động qua các phương diện như ngoại hình, hành động, ngôn ngữ, cử
chỉ, nội tâm
Mỗi nhà nghiên cứu có cách phân loại nhân vật khác nhau. Cuốn giáo
trình Lý luận văn học do Phương Lựu chủ biên phân loại nhân vật trong tác
phẩm tự sự như sau:
Phân loại theo vị trí, vai trò của nhân vật trong tác phẩm có: nhân vật
chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm.
Phân loại theo cấu trúc hình tượng nhân vật có: nhân vật loại hình,
nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng và nhân vật chức năng.
Phân loại theo tiêu chí ý thức hệ có: nhân vật chính diện và nhân vật
phản diện[16,tr.282-290].
Khảo sát một số tập truyện ngắn của nhà văn Hồ Thủy Giang chúng tôi
nhận thấy hầu hết các truyện rất ngắn, ít sự kiện, ít nhân vật. Nhân vật trong
truyện ngắn của Hồ Thủy Giang thường là những con người thuộc tầng lớp trí
thức. Đó là các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, thầy giáo (Bản quyền, Hoa Phặc
Phiền vẫn nở, chuyện của thầy giáo Sơn, Lúc ấy biển hoàng hôn); Những
ông giám đốc, cán bộ viên chức (Bông hoa cô đơn, Đối thủ, Tàu đêm, Thông
reo); Bên cạnh đó có nhân vật chú bé lang thang (Chú bé đi giày một chân);
Có những nhân vật gặp bất hạnh, mất mát trong cuộc sống như anh Vênh (Cỏ
biếc đồng quê), chị Thúy (Nỗi buồn hãy tan đi); Ngoài ra còn có cả cô, cậu
học trò (Hoa phượng, Học trò cũ, Giấy vụn, Quyển học bạ)… Tất cả những
nhân vật này đều là những con người nhỏ bé, bình thường trong cuộc sống với
những cảnh đời khác nhau, nhưng bao giờ cũng gắn bó hay liên quan trực tiếp
đến một vấn đề của đời sống xã hội, nhân sinh. Chính nhiều tầng lớp xã hội
như vậy, nên thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Hồ Thủy Giang rất đa
dạng, phong phú có người tốt, kẻ xấu, người bất hạnh khổ đau, người hạnh
phúc, người thì có tấm lòng nhân hậu, kẻ lại tha hóa về nhân cách…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
3.2. Các kiểu nhân vật trung tâm trong truyện ngắn Hồ Thủy Giang
3.2.1. Những nhân vật cô đơn, bất an, mất mát
Đọc truyện ngắn Hồ Thủy Giang, điều đầu tiên ta cảm nhận đó là nỗi
buồn man mác len lỏi vào tâm hồn. Buồn trước sự cô đơn, mất mát bất an ngự
trị trong tâm hồn con người. Nhà văn hầu như không thể hiện nỗi buồn, nỗi
đau qua các hành động hoặc qua những biểu hiện cụ thể mà Hồ Thủy Giang
thường đi sâu vào tìm hiểu những diễn biến tâm lý tinh tế, phức tạp trong tâm
hồn con người.
Truyện ngắn Bông hoa cô đơn, là câu chuyện của một cô thư ký xinh
đẹp, có thể nói là “tuyệt vời” trong công việc. Cô góa chồng hai mươi năm và
đã mười năm phục vụ trong quân đội. Cô làm thư ký cho vị chủ tịch tỉnh, vợ
cũng mất cách đây mười năm. Nhưng một phần do công việc quá bận, một
phần do phải giữ ý trước địa vị của mình nên vị chủ tịch không xây dựng lại
gia đình một lần nữa. Vị chủ tịch và cô thư kí tuy không ai nói ra nhưng họ
hiểu tình cảm mà mình dành cho nhau. “Một bông hoa lặng lẽ xuất hiện trên
bàn, một lời chào duyên dáng buổi sáng, một nụ cười dịu dàng của cô vào
những lúc anh mệt nhoài vì công việc Tất cả những cửa chỉ tuy nhỏ bé và
bình thường ấy đã làm lòng anh tươi sáng lại, tiếp sức cho anh, kéo anh ra
khỏi những giây phút tuyệt vọng”[19,tr.6]. Có lúc, ông thầm ước ao và mong
muốn có được người vợ như cô thư ký. Nhưng mỗi khi ý nghĩ đấy lóe lên thì
lại bị dập tắt ngay vì ông sợ làm như vậy mình sẽ trở thành kẻ thô lỗ, kệch
cỡm, như là một sự vi phạm về chuẩn mực đạo đức nào đấy. Trong căn phòng
mà lúc nào cũng ngập đầy những ngôn từ cung kính “Thưa chủ tịch…”, “Báo
cáo đồng chí…”, “Kính thưa thủ trưởng…” thì những lời yêu thương, những
lời tỏ tình như “Anh yêu em, em yêu anh” đã quá xa lạ. Và ông nhắm mắt bỏ
qua cơ hội của đời mình để cô phải ra đi trong đau khổ. Hơn ai hết, chính ông
là người hiểu rõ nhất, cô ra đi sẽ để lại một khoảng trống trong công việc của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
ông, để lại một khoảng trống trong cuộc đời ông, thiếu cô cuộc đời ông sẽ khô
khan biết mấy. Nhưng đã quá muộn, ông đã chính thức ký vào lá đơn xin nghỉ
hưu của cô. Mối tình không ai nói ra mà ai cũng hiểu kia đã nhường chỗ cho
con người của công việc, con người chức năng, con người khoác áo chủ tịch
và thư ký. Thật bất hạnh biết bao, khi yêu nhau mà không dám bày tỏ tình
cảm, chỉ vì quyền cao chức trọng, sợ suy giảm tư cách mà cả cả cô và vị chủ
tịch đều mãi mãi chỉ là những “bông hoa cô đơn”.
Thuần trong truyện ngắn Con tàu đến muộn, cũng phải sống trong sự
cô đơn mười năm nay. Trước kia, Thuần có một gia đình hạnh phúc yên ấm
cùng vợ và con gái. Thuần là người yêu vợ tha thiết đến si mê, những ngày
còn ở trong quân ngũ, trước lúc đi ngủ bao giờ Thuần cũng phải bật đèn pin
ngắm ảnh vợ ít nhất mười phút. Vậy mà đến khi Thuần trở về, ngọn lửa ghen
tuông trong người anh lớn đến mức, anh phá tan cái hạnh phúc gia đình đẹp
như mơ ấy. Vợ con anh phải rời bỏ cái tổ ấm sống hơn chục năm để vào Nam.
Thật trớ trêu thay vì “trên đời, không yêu nhau bỏ nhau đã đành, yêu nhau
mà lại bỏ nhau mới thật là đau xót”. Mười năm trôi qua đủ để dập tắt ngọn
lửa dữ dằn trong Thuần, nhưng một phần vì xấu hổ và vì“cái tính sĩ diện của
người đàn ông trong anh lớn quá” mà anh không muốn hạ mình đến xin lỗi
vợ con. Khi Thuần hiểu ra thì đã quá muộn, vợ mất mà anh không được gặp
mặt lần cuối cùng, con gái của anh cũng không chịu trở về với anh, mà đã
nhận một người thương binh khác làm bố nuôi. Thuần phải tự gánh lấy nỗi cô
đơn, ân hận do chính mình tạo ra và rồi suốt đời không bao giờ có thể tìm lại
được điểm tựa tinh thần của mình. Qua câu chuyện này, nhà văn muốn nhắn
nhủ với người đọc. Gia đình là tài sản quý nhất đối với tất cả chúng ta, nó như
một bình pha lê, đẹp nhưng mỏng manh dễ vỡ. Vì vậy mỗi người hãy tự biết
quý trọng và nâng niu tổ ấm của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Với truyện ngắn Sao xanh, nỗi cô đơn cũng ám ảnh Châu và Tùng suốt
ba mươi năm “cái khoảng thời gian khắc nghiệt đủ để cho một cô gái trẻ
trung biến thành một bà già khó tính, đủ để chuyển thành muối tiêu mái tóc
xanh mướt của một chàng trai…”. Lẽ ra, cả hai con người cô đơn này có thể
sống hạnh phúc bên nhau. Xưa kia, Châu là một cô gái trẻ đẹp, cô dám hy
sinh cả mạng sống của mình để cứu người mình yêu, thậm chí Châu còn là
một người rất mạnh mẽ dám bày tỏ tình cảm với người mà cô thầm yêu. Có
lẽ, ở cái bản này chỉ mình Châu mới làm một việc tưởng như trái quy luật ấy.
Nhưng, vì trước kia từng là thầy giáo hướng dẫn thực tập của Châu mà Tùng
không dám cất lên câu nói “Anh yêu em, em là cô gái đẹp và dịu dàng nhất ở
trên đời này”. Đến khi Tùng nhận ra “hình như mất Châu, anh sẽ mất tất cả”
thì điều đó đã quá muộn. Bây giờ trở lại ngôi trường Bằng la hẻo lánh này
biết Châu sống một mình, Tùng ngỡ tưởng “biết đâu cả hai người sẽ được
đền đáp sau ngót một phần ba thế kỷ cô đơn, anh sẽ không để mất Châu lần
nữa”. Nhưng điều đó là không thể, vì Châu sống quen với kí ức tươi đẹp của
mối tình đầu đã gần trọn đời, chính nhờ những ảo ảnh, những kí ức đó mà
Châu sống vô tư, tươi vui và có ích biết bao năm. Bây giờ tuy Tùng trở lại và
muốn xây dựng lại cuộc sống với cô, nhưng Châu không thể phản bội lại cái
kí ức đó. Câu nói của Châu thật đúng và cũng như nhắc nhở mọi người rơi
vào hoàn cảnh như cô “đừng nên xáo trộn cuộc sống lên nữa, mọi chuyện
chắc gì đã tốt hơn, thà cả hai chấp nhận sống cô đơn hơn là những nụ cười
gượng gạo”.
Mặt hồ trong lẻo, là câu chuyện kể về một nhà đạo diễn của những vở
bi kịch khá nổi tiếng một thành phố lớn, nay về già, lại sống trong một căn
nhà nhỏ bé, yên tĩnh ở làng quê. Trong cuộc đời, ông làm bạn với hàng trăm
diễn viên vậy mà bây giờ ông lại làm bạn với con Lu lu - một con chó ông
nhặt được khi nó nằm chờ chết bên đống rác, để hàng ngày ông và con chó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
cùng chiêm nghiệm sự đời. Nhà đạo diễn quan niệm rằng: "Bi kịch chỉ thành
công khi mà chính cái chết lại trở thành nhịp cầu để con người quay trở về
với cuộc sống”, đời ông dàn dựng nhiều vở bi kịch và giờ đây ông đang ngẫm
nghĩ để dựng một “vở bi kịch cuối cùng”, vở bi kịch của cuội đời mình. Ông
từng có gia đình, bạn bè, sự nghiệp nhưng những thứ đó lần lượt ra đi khỏi
đời ông. “Người vợ sau vài năm chung sống với ông do một sự nhàm chán
nào đó đã tếch theo một nhà doanh nghiệp giàu có. Con trai ông, đứa con mà
ông đã chăm bẵm từ lúc còn mặc quần thủng đít đến khi trở thành một thanh
niên cường tráng đã cuỗm sạch tài sản của ông để trốn sang Hồng Kông. Còn
ông bạn vàng, người đã được ông giúp đỡ từ thủa sinh viên nghèo đến lúc
mấp mé cái chức Phó giám đốc nhà hát, chỉ vì lo ông – một nhà đạo diễn tài
năng tranh mất ghế, đã ngầm báo lên cấp trên ông là một kẻ có tư tưởng chống
đối. Suốt bao nhiêu năm ông bị rầy rà vì chuyện đó”. Ông đã từ bỏ tất cả để đi
vào cõi hư vô với sự cô đơn buồn thảm mà không có một người thân thích bên
cạnh, chỉ có chú chó Lu lu lao nhanh xuống mặt hồ với những tiếng gâu gâu
nghe như những tiếng “Cha ơi!”, “Anh ơi!”, “Bạn ơi!” thật đáng buồn biết
bao, khi một con vật không có ngôn ngữ, lại nói hộ những người có ngôn ngữ
và loài vật lại có nghĩa tình hơn hẳn một số người bạc tình, bạc nghĩa.
Tiếp tục với cảm hứng viết về những nhân vật cô đơn, Hồ Thủy Giang
còn phát hiện nhiều nhân vật đạt được danh vọng, tiền tài, quyền lực tưởng
như họ chỉ biết đến niềm vui, hạnh phúc, nhưng đâu phải trong tâm hồn họ
luôn phải đối diện với nỗi cô đơn. Đó là sự cô đơn của vị phó chủ tịch tỉnh
Nguyễn Thinh (Tàu đêm) hơn ba mươi năm nay. Cho dù sống với một người
vợ, kiều diễm, quý phái và những đứa con xinh đẹp trong ngôi nhà bốn tầng.
Tất cả những điều ấy, khiến cho gia đình ông được xếp vào thứ hạnh phúc ở
tầm cao và luôn trong con mắt nể trọng của thiên hạ. Nhưng trái tim ông từ
biết bao năm vẫn không ngừng rỉ máu, vì mối tình cũ không thành với một cô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
công nhân. Khi sắp bước vào tuổi sáu mươi ông mới thấm thía rằng: “Mọi
danh vị, mọi thứ xa xỉ vật chất dù to tát đến đâu cũng không thể lấp đầy được
khoảng trống của trái tim, nhất là một trái tim đầy tì vết như ông”[21,tr.79].
Đó là nỗi buồn của một thủ trưởng trong một cơ quan cấp cao ở trung
ương nhưng chính cái quyền cao và sự nể trọng của mọi người lại là “cái
barie đáng gờm” khi ông muốn tìm hiểu cô kĩ sư cùng cơ quan. Chính vì thế,
mà thành ra suốt hai mươi năm nay ông phải ở vậy một mình (Ngõ ngỏ).
Đó là nỗi cô đơn của một nữ tỷ phú, khi mới mười tuổi cô đã mất cả bố
lẫn mẹ trong khi cả hai người vẫn sống nguyên vẹn. Mẹ cô vì không chịu
được cảnh nghèo túng bỏ chồng theo một ông giám đốc vào trong Nam sinh
sống để cuối cùng bị ruồng bỏ rồi bị mắc bệnh tâm thần. Bố cô lên Lai Châu
sáng tác âm nhạc qua đời ở đó vì căn bệnh ung thư. Suốt bao nhiêu năm lăn
lộn để kiếm sống, hiện giờ cô đã trở thành một tỷ phú không thiếu thứ gì,
nhưng những kí ức về tuổi thơ, của gia đình đầy buồn đau luôn luôn ám ảnh
tâm hồn cô không dứt (Nỗi ám ảnh của một nữ tỷ phú).
Các nhân vật trong truyện ngắn Hồ Thủy Giang không chỉ sống trong
cô đơn, mà còn sống trong trạng thái bất an mất mát. Cô Đào trước đây là một
người phụ nữ đẹp nhất làng vậy mà cô lại có một lý lịch thật buồn thảm. Cô
lấy chồng ba lần thì cả ba người chồng xấu số lại chết ngay trên cái giường tre
nghèo nàn của cô. Từ đấy dân làng sợ và xa lánh cô, họ coi cô là người đàn bà
quái dị, có tướng sát chồng thậm chí họ còn cho rằng cô là yêu tinh, phù thủy
đến nỗi lũ trẻ đang chơi mà nhìn thấy cô Đào từ xa liền trốn sạch. Định kiến
và những lời nói, cử chỉ nanh độc của dân làng đã đẩy cô Đào phải vào khu
rừng Hom Giỏ rậm rịt và đầy rắn rết. Ở đó, cô Đào phải sống trong sự cô đơn
mất mát cả về vật chất lẫn tinh thần. Thật xót thương thay cho cuộc đời của cô
Đào, từ một người phụ nữ trẻ đẹp vậy mà nay trở thành một bà già gầy guộc,
tóc bạc phơ hàng ngày vẫn phải sống trong một căn lều nhỏ rách nát và những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
vật dụng như thời nguyên thủy. Suốt mấy chục năm trôi qua vậy mà sự khắc
nghiệt của cuộc đời vẫn không chịu buông tha cô (Thiên truyện cổ).
Chị Thúy trong truyện ngắn Nỗi buồn hãy tan đi cũng rơi vào tình
cảnh như vậy. Chị Thúy là một phụ nữ thông minh, dịu dàng chỉ vì định tố
cáo một việc làm sai trái của cơ quan chị đang làm việc mà chị bị chúng hại
phải vào tù oan. Đến khi được ra tù, thì người chồng vốn không chung thủy
bỏ vào Nam cùng đứa con trai năm tuổi. Chị như rơi vào một cái hố sâu
không đáy, buồn chán, mất mát suy sụp chị đã bị mắc bệnh tâm thần. Trong
khu tập thể giờ đây chị trở thành “một con điên” nhiều kẻ độc ác còn gọi chị
là “con Thúy rồ”. Tác phẩm kết thúc thật buồn, trong một đám cháy, chị
Thúy lao mình vào để cứu mấy đứa trẻ đang mắc kẹt trong đó, bất ngờ chị bị
một thanh xà trên cao rơi trúng vào người. Khi mọi người lôi được chị ra, chị
đã gần tắc thở. Thật bất hạnh cho chị Thúy người ta vây quanh chị khoa chân,
múa tay nhưng không ai đưa chị đi cấp cứu vì họ cho rằng đó là một con điên
chứ đâu phải là một con người. Câu chuyện khiến chúng ta xót xa thương cảm
cho số phận của chị Thúy và lên án sự dửng dưng vô cảm của những người
hàng xóm.
Xây dựng những nhân vật cô đơn, bất an mất mát Hồ Thủy Giang đi
sâu tìm hiểu đời sống nội tâm của con người, miêu tả những dằn vặt trăn trở
của họ, cảm thông chia sẻ với những nỗi đau tinh thần mà họ phải gánh chịu.
Từ đó, để người đọc nhận ra và đừng đẩy mình hay những người thân phải rơi
vào tình cảnh như vậy. Đó chính là chiều sâu nhân bản trong các sáng tác của
Hồ Thủy Giang
3.2.2. Những nhân vật tha hóa về đạo đức
Với mọi thời đại, đạo đức như một sự vẫy gọi mà các nhà văn luôn kiếm
tìm và thể hiện. Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện, đời sống
xã hội biến đổi nhanh chóng theo vòng quay hối hả của cơ chế thị trường thì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
tiếng gọi khẩn thiết về đạo đức của con người được đặt ra bức thiết hơn lúc
nào hết. Sự phát triển như vũ bão của xã hội là những điều kiện có thể đưa
con người ngự trị trên những vinh quang nhưng cũng sẵn sàng tước đoạt đi
“nhân tính” thiêng liêng của mỗi người. Bằng trực cảm và trí tuệ sắc sảo, Hồ
Thủy Giang nhận ra, đứng trước vòng xoáy của đồng tiền, địa vị, danh vọng,
đạo đức bị đẩy lùi, cái ác, cái xấu tăng thêm, con người nhiều khi không còn
giữ được chính mình.
Trong truyện ngắn Mây gió ngẩn ngơ, người đọc được chứng kiến sự tha
hóa đạo đức của nhà thơ Thục Phi. Nhà văn miêu tả ngoại hình mà Thục Phi
tự tạo cho mình, “uốn hàng ria mép theo kiểu ghi đông cong veo như hai dấu
phẩy ngược, chiếc mũ phớt, cái áo hoa văn mường cộng thêm đôi mắt giương
giương đỏ cạch”, điều này làm Thục Phi trở thành vừa bặm trợn vừa xa lạ
trước những hội viên của mình. Ngoại hình đã vậy, tính cách Thục Phi cũng
khác người, khi nào mà sáng tác được bài thơ ưng ý, thì dù mười hai giờ đêm
vẫn đến nhà người quen đập cửa, xông vào oang oang đọc thơ bất chấp cả
giấc ngủ của mọi người, có lần do say quá, Thục Phi còn gác chân ngủ ở
ngoài đường tròn thành phố. Trước sự cám dỗ của đồng tiền Thục Phi bỏ hẳn
việc sáng tác thi ca vì “thơ phú làm cái mẹ gì! Nghèo kiết xác” để trở thành
một giám sát viên tham nhũng, phá hoại về xây dựng công trình.
Đồng tiền chi phối mọi mối quan hệ cha con, vợ chồng, bạn bè, đồng
nghiệp. Trong Tình phụ tử là câu chuyện đáng buồn của một cô con gái.
Người cha muốn thừa kế cho cô ngôi nhà nhưng với một điều kiện là không
chấp nhận chàng trai mà cô đang yêu. Để chiếm được ngôi nhà hàng tỷ đồng
và để nó không rơi vào tay của mẹ kế, cô gái giả vờ chia tay với người yêu cũ
và dẫn về một người yêu mới thậm chí còn có đầy đủ giấy đăng ký kết hôn.
Người cha vui sướng ra đi sau ngày cưới của cô con gái trong tình phụ tử
thiêng liêng không một vết rạn. Nhưng người cha đâu biết rằng chàng con rể