Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

làng mộc thái yên Đức Thọ Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.24 KB, 34 trang )

Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Suốt chiều dài lịch sử dân tộc nền kinh tế nông nghiệp vẫn gắn bó và chi
phối mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Tuy nhiên nền kinh
tế nông nghiệp không phải là duy nhất. Bên cạnh nông nghiệp thì còn có những
ngành thủ công cũng ra đời, tồn tại và phát triển cho tới ngày nay, đã tạo nên
một nét đặc sắc, độc đáo và mang phong cách rất riêng của làng quê Việt Nam.
Hà Tĩnh mảnh đất có bề dày lịch sử văn hóa, trên mảnh đất ấy vẫn có nhiều
làng nghề truyền thống. “ Theo thống kê chưa đầy đủ, Hà Tĩnh hiện nay có
khoảng 60 làng nghề truyền thống, trong đó có nhiều làng nghề nổi tiếng từ lâu
đời như: Làng rèn Minh Lương (Trung Lương thị xã Hồng Lĩnh, làng rèn Vân
Chàng (Đức Thuận), làng đóng thuyền Trường Xuân (Trường Sơn – Đức Thọ ),
làng mộc Thái Yên (Đức Thọ ), làng nón Tiên Điền (Nghi Xuân ), …” Trong đó
có làng mộc Thái Yên (Đức Thọ ) đã góp phần làm vẻ vang miền quê nghèo Hà
Tĩnh này.
Thái Yên là một trong số ít đơn vị hành chính cấp xã trên đất Hà Tĩnh có bề
dày truyền thống lịch sử lâu đời được hình thành cách ngày nay hơn 700 năm.
Qua quá trình hình thành và phát triển cho tới nay làng mộc Thái Yên đang
vươn lên với nhiều cơ sở sản xuất tại địa phương, đã giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động trong vùng và tạo ra cuộc sống kinh tế xã hội ổn định mọi
mặt, mang lại đời sống ấm no hạnh phúc cho người dân. Bộ mặt nông thôn Thái
Yên đang được thay đổi từng ngày.
Trong thời gian gần đây, làng mộc Thái Yên đang có những cơ hội để thay
da đổi thịt thực sự. Đặc biệt ngày 02/07/2011, tại nhà hát lớn Hà Nội, làng mộc
Thái Yên đã được Hiệp hội làng nghề Việt Nam phong tặng là 1 trong 9 làng
nghề có sự đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tìm hiểu về làng mộc Thái Yên có thể khắc học một cách toàn diện về lịch
sử của nghề, kỹ thuật sản xuất, quá trình phát triển từ lúc ra đời cho đến nay,
cùng với hững bước thăng trầm của nó. Đay là nguồn tư liệu bổ sung để góp
phần gìn giữ, bảo tồn những giá trị vật thể và phi vật thể tại địa phương, quảng


bá sản phẩm và thương hiệu của làng nghề khắp trong nước. Đặc biệt trong điều
kiện hiện nay đất nước đang trong quá trình đổi mới, hội nhập nhiều giá trị bị
biến đổi, nhiều làng nghề truyền thống bị mai một dần, thì việc khôi phục, giữ
gìn những nét đẹp văn hóa, cùng với việc phát triển làng nghề là điều rất cần
thiết và bức xúc. Hơn nữa việc phát triển làng nghề cũng gắn liền với sự phát
triển du lịch, thu hút khách tham quan cũng mở rộng hướng phát triển mới cho
nền kinh tế địa phương.
Với ý nghĩa thực tiễn và khoa học như trên tôi chọn đề tài:
“Làng mộc Thái Yên (Đức Thọ - Hà Tĩnh )”
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
1
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
2. Lịch sử vấn đề:
Nghề làm mộc ở Thái Yên (Đức Thọ) đã hình thành và phát triển lâu đời.
về nguồn gốc của làng nghề có từ bao giờ và ai là “ông tổ” thì đến nay vẫn chưa
được xác định rõ ràng. Theo các bậc cao niên ở trong làng thì nghề mộc ở Thái
Yên ít nhất đã tồn tại khoảng 700 năm. Đến cuồi thế kỉ XIX nghề đã phát triển
mạnh và rất thịnh vào những năm của thế kỉ XX, đặc biệt là vào những năm cuối
thế kỉ XX được coi là bước phát triển vượt bậc của làng nghề và trở thành một
hiện tượng trong nền kinh tế của huyện Đức Thọ. Nhất là từ khi chính thức trở
thành làng nghề hoạt động theo cơ chế mới.
Tuy vậy tư liệu ngày trước về làng mộc Thái Yên chưa nhiều, những năm
gần đây đã có sách báo nhiên cứu vê các làng nghề ở Hà Tĩnh, trong đó có một
số tư liệu đề cập đến làng mộc Thái Yên, chẳng hạn như:
- Trong cuốn “Lịch sử Hà Tĩnh” của Đặng Duy Báu – Đinh Xuân Lâm Phan Huy
Lê đã có nhắc tới làng nghề Thái Yên với bề day lịch sử văn hóa;
- Trong cuốn “non nước Việt Nam”, do Vũ Thế Bình (chủ biên) của NXB lao
động xã hội, xuất bản 2010, cũng đã đề cập đến làng mộc Thái Yên và đến Thái
Yên một minh chững cụ thể cho “bảo tàng” về điêu khắc gỗ lâu đời thuộc hàng
tinh xảo của những người thợ mộc nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam

- Trong cuốn “làng cổ Hà Tĩnh – tập 1”, của Thái Kim Định và Võ Hồng Huy
cũng đề cập đến làng mộc Thái Yên với bề dày lịch sử văn hóa.
Bên cạnh đó còn có những sách báo và tạp chí ở địa phương và trung ương
cũng đề cập đến những khía cạnh của làng nghề này. Nhưng nhìn chung các tác
phẩm, bài viết ấy chỉ nói sơ qua hoặc đề cập qua một vài khía cạnh của làng
nghề, chứ chưa trình bày đầy đủ, sâu sắc và có hệ thống về tất cả các khía cạnh
của làng mộc Thái Yên (Đức Thọ - Hà Tĩnh)
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu về làng mộc Thái Yên nhằm tìm hiểu về quá trình hình thành,
phát triển, những bước thăng trầm của làng và những đóng góp của làng nghề
trong sự phát triển kinh tế văn hóa của nhân dân. Từ đó rút ra những nhận xét,
đánh giá, những kết luận cần thiết về những tác động của nghề đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về các mặt của nghề mộc Thái Yên sau: Nguồn gốc hình
thành, kỹ thuật sản xuất, tác động của nghề đối với địa phương và những mặt
tích cực, hạn chế trong quá trình phát triển đó.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Làng mộc Thái Yên là một đề tài lịch sử địa phương chưa được nhiều
người nghiên cứu, khai thác. Do hạn chế tài liệu, cũng như một số khó khăn
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
2
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
trong quá trình tìm hiểu, nên đề tài này chỉ tìm hiểu trong phạm vi nghề mộc
Thái Yên. Tìm hiểu các khía cạnh sau: Quá trình hình thành làng Thái Yên,
nguồn gốc nghề mộc, kỹ thuật sản xuất và bàn tay tài hoa của người nghệ nhân,
tác động của nghề đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của làng trong lịch sử từ
trước đến nay và phương hướng phát triển của làng nghề trong thời gian tới.
4. Nguồn tư liệu

- Bao gồm các tài liệu thành văn như các bài viết trong sách báo, các nội dung
liên quan đến nghề mộc ở làng Thái Yên.
- Tài liệu thu thập được qua thực địa ở địa phương, các văn bia làng, di tích văn
hóa (nhà thờ, đình chùa, ), và tài liệu thu thập từ nguồn cung cấp của chính
quyền địa phương nơi sở tại.
- Tài liệu khai thác tù những nhân chứng cụ thể tại làng Thái Yên, đặc biệt là
nguồn thông tin được cung cấp từ các bậc cao niên trong làng và các nghệ nhân
tại địa phương…
- Tài liệu thu thập trên báo và các phương tiện truyền thông, trên mạng internet và
các phương tiện khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này tôi sử dụng tổng hợp từ nhiều phương pháp nghiên cứu.
-Từ các tác giả đi trước đã từng nghiên cứu về các vấn đề liên quan, tôi tập
hợp, so sánh phân tích tổng hợp, hệ thống hóa tài liệu, đồng thời sử dụng
phương pháp logic, lịch sử, điều tra thực tế,…
-Thu thập và xử lí tài liệu dựa trên nhiều nguồn tài liệu khác nhau như
sách, báo, website…, để đối chiếu, so sánh và đánh giá vấn đề.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần làm sáng tỏ về lịch sử vùng đất Hà Tĩnh, đồng thời tìm
hiểu về bức tranh toàn cảnh về nghề mộc Thái Yên trên tất cả các mặt lịch sử,
văn hóa và hoạt động kinh tế của lành mộc Thái Yên. Thành công của đề tài còn
đóng góp nguồn tài liệu quan trọng cho việc tìm hiểu lịch sử địa phương. Bên
cạnh đó đề tài còn đưa ra một số kiến nghị phát triển làng nghề, cùng với việc
đẩy mạnh phát triển du lịch một cách hợp lý, đồng bộ, hiểu quả. Đồng thời sẽ
góp phần quảng bá thương hiệu và danh tiếng của làng nghề khắp trong nước.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài có 2 chương:
Chương 1: tổng quan về con người và vùng đất Thái Yên.
Chương 2: quá trình hình thành và sự phát triển của làng mộc Thái Yên.
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: Tổng quan về vùng đất và con người Thái Yên
1.1. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển đất
nước nói chung cũng như sự phát triển của làng xã nói riêng. Làng Thái Yên có
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
3
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
vị trí rất đặc biệt. Xã Thái Yên nằm về phía đông của huyện Đức Thọ, tỉnh Hà
Tĩnh cách quốc lộ 8A chừng 1km, cách trung tâm huyện chừng 13km. Phía bắc
giáp với xã Đức Thịnh – Đức Thọ nằm ở vị trí có địa hình thấp hơn so với khu
vực lân cận nên vào mùa mưa thường bị ngập lụt, cũng chính vì thế mà đất đai ở
đây rất màu mỡ thuận lợi cho phát triển công nghiệp, là vựa lúa lớn nhất của
huyện Đức Thọ. Phía nam giáp xã Đức Thanh – Đức Thọ là 1 xã độc canh cây
lúa từ lâu Đức Thanh đã có trình độ thâm canh cao, là xã đạt 5 tấn/ha đầu tiên
của tỉnh Hà Tĩnh. Phía tây giáp xã Đức Thủy – Đức Thọ thuộc địa hình đồng
bằng, đất thịt, là một xã thuần nông, có trình độ thâm canh lúa, màu cao, ngoài
ra Đức Thủy còn có nhiều nghề thủ công, một số nghề đã có từ lâu đời như làm
gạch ngói, thợ sơn, thợ nề, cưa,… từ đó tạo cho Thái Yên có điều kiện để giao
lưu, trao đối sản phẩm với các khu vực xung quanh, giáp ranh với các xã thuần
nông nên Thái Yên không phải quá chú tâm vào phát triển nông nghiệp mà có
thể chuyên tâm vào sản xuất đồ mộc. Phía đông giáp xã Thuận Lộc – Thị xã
Hồng Lĩnh có vị trí giao thương thuận lợi, gần quốc lộ 1A nên thuận lợi cho vận
chuyển, trao đổi hàng hóa. Xã Thái Yên có diện tích đất tự nhiên là 418 ha.
Trong đó đất nông nghiệp chiếm 276 ha, các loại đất khác chiếm khoảng 142 ha.
Thái Yên nằm trong vùng đất chiêm trũng nên có đất đai khá màu mỡ thuận lợi
cho việc phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên nông nghiệp không phải là ngành
sản xuất chính mà cư dân Thái Yên chủ yếu tập trung vào phát triển nghề mộc.
Về khí hậu Thái Yên có khí hậu Á nhiệt đới gió mùa, ngoài ra khu vực này
còn chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp của miền bắc và miền nam, với đặc
trưng của khí hậu nhiệt đới điển hình của miền nam và có 1 mùa đông giá lạnh

của miền bắc nên thời tiết và khí hậu nơi đây rất khắc nghiệt. Chính vì thế nên
mặc dù có diện tích đất đai rất màu mỡ nhưng mùa mưa lượng mưa rất lớn đặc
biệt là hạ tuần tháng 8,9 và trung tuần tháng 11 lượng mưa chiếm 54% tổng
lượng mưa cả năm nên vào thời gian này hằng năm nơi đây phải hứng chịu
những cơn bão từ biển đông nên tình trạng lũ lụt, mất mùa diễn ra liên miên.
Thời gian còn lại thì nắng gắt, gió tây nam khô nóng gây ra tình trạng hạn hán
nên cũng gây ra nhiều tổn thất cho sự phát triển nông nghiệp.
Xã Thái Yên có truyền thống lâu đời về nghề mộc. Hiện nay có khoảng
1.200 hộ, tức 80% số hộ toàn xã, làm nghề mộc. Hà Tĩnh là một tỉnh có tài
nguyên rừng phong phú với hơn 300.000 ha rừng và đất rừng cung cấp một
nguồn gỗ dồi dào cho sự phát triển nghề mộc ở Thái Yên.
1.2. Dân cư
Cư dân chủ yếu ở Thái Yên là cư dân bản địa vốn sinh sống lâu đời ở mảnh
đất này. Ngoài ra còn có một số ở Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định
di cư vào.
Tương truyền nhóm người đầu tiên khai lập cộng đồng làng xóm chỉ có vài
chục hộ, nguồn sống chính là khai phá đất hoang. Ngoài những vùng đất nhỏ
hẹp mà những con người đầu tiên đến để tự khai phá, để dựng lều lán tạm bợ,
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
4
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
còn lại xung quanh là vùng săng, lau, cây cỏ, hằng năm chỉ độc canh một vụ
trồng lúa nước. Người dân chủ yếu lên mạn rừng Hồng Lĩnh đào củ mài để ăn,
đời sống rất khó khăn. Trải qua hơn 1 thế kỷ đầu dân số ở đây cũng chỉ mới có
vài chục người.
Mãi cho đến thế kỷ XV – XVI làn sống di cư liên tục từ miền Bắc vào làm
dân số tăng lên, tới cuối thế kỷ XVI đến những thập niên đầu của thế kỷ XVIII
cư dân hầu như đã ổn định. Từ đó về sau dân số phát triển là do nội bộ của dòng
họ tăng trưởng.
Cư dân xã Thái Yên là một cộng đồng có tới 33 dòng tộc, một số dòng tộc

như: Nguyễn Viết, Phan Đăng, con cháu dòng họ lên tới 1300 – 1500 người.
Dòng họ Nguyễn Minh, Nguyễn Khắc, Nguyễn Trọng, Nguyễn Công, Phan
Công, con cháu mỗi dòng đều lên đến 600 người.
Hiện nay một số dòng tộc do hoàn cảnh lịch sử vẫn chưa tìm lại được
những dấu tích củ thể trong hệ thống Gia phả của tổ tiên mình. Một số dòng tộc
đã và đang công phu mới xác lập lại các hệ thống Gia phả cũ vì quá phức tạp.
Tuy nhiên qua các nguồn tư liệu còn sót lại con cháu của dòng tộc nào cũng đều
biết tổ tiên mình ngày xưa hầu hết từ miền Bắc di chuyển vào miền Trung và
dừng chân lại trên mảnh đất này. Theo nhiều nguồn thông tin sử liệu mà tôi thu
thập được tại xã Thái Yên: “Hầu hết các thủy tổ của các dòng tộc vào trú ngủ
trên đất Thái Yên đều đến đây từ cuộc binh biến từ thế kỷ XIII tới thế kỷ XIII
thường là những quan chức trên đường binh nghiệp dừng chân lại sau các đợt
đối đầu với kẻ thù xâm lược hoặc được mãn hạn sau thời gian trấn ải biên
cương. Cũng có thể là con cháu các danh gia, vọng tộc tìm đường lẫn tránh đối
phương sau các cuộc trừng phạt, thanh trừ nhau…”
Với nguồn gốc như vậy đã minh chứng một điều lớp con cháu hậu duệ Thái
Yên đã không ít người đỗ đạt cao, giữ nhiều cương vị và công tác trên mọi miền
tổ quốc.
1.3. Tên gọi và sự thay đổi về địa giới, đơn vị hành chính
Từ lúc mới thành lập làng có tên là Đại An. Tới triều đại Trần Minh Tông
(1314 – 1329) vào khoảng năm 1320 làng đổi tên thành Thái Bình.
Sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, Lê Lợi lên ngôi vua lập ra nhà
Hậu Lê, hiệu là Bình định vương (1428), những tên đất, tên làng phạm húy phải
đổi chệch sang tên khác. Làng Thái Bình cũng nằm trong trường hợp đó, từ
“Bình” được chuyển sang từ “Yên”. Từ đó làng có tên là Thái Yên.
Các vị thủy tổ của các dòng tộc di cư đến đây hầu hết là các dòng tộc từ
miền Bắc di tản vào và định cư ở vùng đất này. Chủ yếu là cư dân ở Thanh Hóa,
Thái Bình, Nam Định,… sau những hành trình gian truân, vất vả đầy biến động
tìm đến vùng đất mới họ muốn có một chỗ dừng chân yên ổn, lâu dài. Xuất phát
từ những yếu tố tâm lí đó những con người đầu tiên đã đặt tên cho mảnh đất này

những tên làng, tên xóm như Đại An, Thái Bình, hay Thái Yên sau này với ước
vọng cuộc sống an cư, lạc nghiệp, lâu dài.
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
5
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
Làng Thái Yên xưa thuộc phủ Đức Quang, huyện La Giang. Tên Phủ Đức
Quang tồn tại từ triều Hậu Lê đến triều Nguyễn Gia Long. Năm Minh Mạng thứ
ba (1821) đổi tên mới là phủ Đức Thọ. Tên đơn vị hành chính phủ Đức Thọ và
huyện La Sơn tồn tại đến cách mạng tháng 8 năm 1945 thì chuyển sang đơn vị
hành chính mới, xóa cấp phủ và cấp tổng huyện La Sơn, đổi tên là Đức Thọ. Từ
đó tới nay gọi là huyện Đức Thọ.
Thực hiện chủ trương của Đảng và chính phủ từ sau cách mạng tháng 8
năm 1945 đơn vị hành chính xã Thái Yên đã trải qua nhiều lần thay đổi về địa
giới hành chính và tên gọi:
Thái Yên thuộc địa giới xã Đồng Quang:
Thực hiện chủ trương mới, đầu năm 1946 thôn Thái Yên cùng với Quang
Chiêm, Gia Thịnh, Đông Cần hợp nhất lại thành một đơn vị hành chính cơ sở
gọi là Đồng Quang. Dân số xã Đồng Quang thời điểm này lên tới 6500 nhân
khẩu.
Căn cứ theo vị trí địa lí xã được chia thành 11 xóm theo số thứ tự: Xóm 1,
2, 3, thuộc thôn Quang Chiêm; xóm 4, 5 thuộc thôn Gia Thịnh; xóm 6 thuộc
thôn Đồng Cần ; xóm 7, 8, 9, 10, 11 thuộc xã Thái Yên ngày nay.
Mỗi đơn vị xóm có 1 xóm trưởng phụ trách công tác nội xóm và 1 công an
phụ trách công tác an ninh.
Thái Yên thuộc về địa giới xã Đồng Thanh:
Đến tháng 4-1949 chính phủcó chủ trương sát nhập các xã nhỏ và vừa, có
dân số ít thành các đơn vị xã lớn, mỗi xã tối thiểu không dưới 10000 dân. Thực
hiện chủ trương đó 2 đơn vị hành chính Đồng Quang và Tân Thanh hợp lại
thành 1 xã lớn gọi là xã Đồng Thanh. Dân số xã Đồng Thanh lúc vừa mới hình
thành lên tới 11200 nhân khẩu. Nhân khẩu đông đã tạo điều kiện thuận lợi cho

cung cấp nhân lực cho chiến trường. Hằng năm tới kì tuyển quân thanh niên tình
nguyện lên đường ra mặt trận rất đông. Nhân dân trong độ tuổi lao động ngoài
việc sản xuất còn tham gia các tổ chức quần chúng, dân quân du kích để bảo vệ
cuộc sống an bình cho địa phương.
Xã Đồng Thanh có 19 xóm trải rộng trên một đơn vị diện tích lớn, phía Bắc
giáp xã Đức Thuận, phía nam giáp xã Kim Lộc (Can Lộc), phía tây giáp xã Ngư
Lâm, phía đông giáp xã Thuận Lộc (Can Lộc).
Xã Đồng Thanh là một trong những xã có diện tích rộng, dân số đông, giàu
tiềm năng. Trong suốt thời gian dài, xã đã có đóng góp không nhỏ về người và
của cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thái Yên thuộc khu vực hành chính xã Đức Bình:
Sau 1954 để đáp ứng nhu cầu cần thiết về việc quản lí các cấp hành chính
phần lớn các đơn vị hành chính cũ được thiết lập trong cuộc kháng chiến chống
pháp nay được tách ra thành các đơn vị nhỏ hơn và mang các tên mới. Xã Đồng
Thanh được chia ra làm 3 đơn vị hành chính nhỏ là Đức Thanh, Đức Bình, Đức
Thịnh. Xã Đức Bình được hình thành từ tháng 7-1956 gồm 3 thôn là Thái Yên,
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
6
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
Thượng Xá và Phúc Lai, về mặt địa giới hành chính thì xã Đức Bình trước đây
và xã Thái Yên không có gì khác. Dân số xã Đức Bình lúc này dao động khoảng
4500-4700 nhân khẩu. Xã Đức Bình tồn tại trong khoảng 16 năm gắn liền với
công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa miền bắc và chống chiến tranh phá hoại
của Mĩ.
Trở lại tên cũ Thái Yên:
Nếu trước đây Thái Yên chỉ là đơn vị cấp thôn thì nay đã mở rộng thêm và
đã trở thành một đơn vị hành chính cấp xã. Từ năm 1972, chính phủ đã có quyết
định khôi phục mà mở rộng các làng nghề truyền thống lâu đời trên một số địa
phương, đồng thời cũng hoàn trả tên làng, tên xã vốn đã là những địa danh nổi
tiếng một thời lịch sử, từng ghi dấu ấn đậm nét trên chặng đường đấu tranh cách

mạng của dân tộc. Riêng huyện Đức Thọ, một số tên làng truyền thống đã trở
thành tên xã như Tùng Ảnh, Yên Hồ, Thái Yên,…
Tính đến năm 2002 dân số xã Thái Yên đã lên tới 6500 nhân khẩu, với
1500 hộ gia đình. Đến nay theo số liệu thống kê năm 2011 toàn xã có 6124 nhân
khẩu với 1717 hộ, trong đó hơn 80% làm nghề mộc.
Như vậy, trở lại với tên gọi Thái Yên là trở lại với cội nguồn của một làng
nghề truyền thống của địa phương mà các thế hệ cha ông đi trước đã dày công
xây dựng. Dù trải qua bao biến động lịch sử, xã hội có lúc phải chia tách hoặc
sáp nhập nhưng tên gọi Thái Yên chưa bao giờ bị xóa mờ trong tiềm thức của
nhân dân nơi đây, mãi là niềm tự hào, niềm tin của bao thế hệ con cháu.
1.4. Thái Yên vùng đất có bề dày lịch sử văn hóa
1.4.1. Thái Yên – vùng đất có bề dày lịch sử
Theo một số nguồn tài liệu còn lưu lại ở bảo tàng Nghệ Tĩnh như cuốn:
“Nghệ Tĩnh phong thổ ký” của Bùi Dương Lịch, “An Tĩnh cổ lục” của Hippolete
Breton hay cuốn “Lược sử một số làng nghề thủ công ở Nghệ Tĩnh”… đều cho
chúng ta biết là làng Thái Yên có bề dày lịch sử lâu đời. Làng Thái Yên xuất
hiện vào khoảng thế kỷ XIII thuộc triều đại Trần Nhân Tông vào khoảng năm
1280-1281 cách ngày nay khoảng 700 năm.
Khi Lê Lợi chiêu mộ quân khởi nghĩa ở Lam Sơn – Thanh Hóa để đánh
dẹp giặc Minh. Trong cuốn “Hồi kí cách mạng” của Ban nghiên cứu lịch sử
Đảng cộng sản – Đảng bộ Hà Tĩnh xuất bản năm 1974, có đoạn viết về vùng đất
Thái Yên như sau: “Tục truyền rằng: xưa kia quân minh sang xâm lược nước ta
(giai đoạn 1414 – 1427) đầu thế kỷ thứ XV từ Rù Thành ( nũi Thành thuộc
huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An) kéo sang đất Hà Tĩnh (lúc bấy giờ Hà Tĩnh
chỉ là một châu gọi là Châu Nam Tỉnh) chúng đã đi qua vùng này. Nhân dân ở
đây đã lấy củi khô, lá cây và cỏ tươi chất thành đống trên một cồn đất gọi là
“Cồn Bốn”, chờ khi nào giặc sắp đến đốt để khói bốc cao mà báo tin cho các
nơi khác biết”
Đến đời Lê Sơ, thời vua Lê Thánh Tông trị vì (1469-1497), có lần cất quân
đi đánh Chiêm Thanh, đến vùng này đã ra lệnh đào sông để vận chuyển lương

Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
7
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
thực cho thuận tiện. Những nhánh sông nhỏ từ Đò Trai len qua một số xã Thái
Bình, Gia Thịnh, Trang Cầu…có từ đó.
Đến 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc xâm
lược Việt Nam. Kể từ giờ phút đó lịch sử Việt Nam có biến động dữ dội. Cả dân
tộc trong đó có cả những người con của mảnh đất Thái Yên phải chịu biết bao
tai ương do kẻ thù gây ra. Trong khi đó thì triều Nguyễn tỏ ra bất lực, nhu nhược
từng bước nhượng bộ cho thực dân Pháp. Thực tế đau lòng đó đã thúc đẩy
phong trào yêu nước của sĩ phu và và nhân dân cả nước vùng lên mạnh mẽ dưới
ngọn lửa của phong trào Cần Vương. Trong đội ngũ hàng trăm con người sớm
tỉnh ngộ ấy có không ít những người con của mảnh đất Thái Yên, tiêu biểu kể
đến là ông Nguyễn Viết Hoàng, Nguyễn Viết Nhã đã từng tham gia tích cực vào
phong trào Bình Tây và cả hai đều giữ chức “Hiệp quản” trong nghĩa quân Cần
vương (1885-1895). Ngoài ra còn có các cụ Nguyễn Viết Tuấn, Trần Thước là
cận vệ đắc lực cho nhà yêu nước Phan Đình Phùng trong suốt cả thời gian dấy
nghĩa. Có thể nói suốt những năm tháng theo tiếng gọi yêu nước của chiếu cần
vương mảnh đất Thái Yên đã từng lưu dấu những chiến công, bao phen làm cho
kẻ thù sợ hãi, choáng váng. Trong những năm 1894-1895 nhiều căn cứ của
phong trào Cần vương ở Thái Yên đã làm cho quân địch nhiều phen hú vía. Suốt
những năm tháng diễn ra phong trào nhân dân Thái Yên là nơi cung cấp nhân
lực, vật lực cho cách mạng, sẵn sàng đón nhận mọi thử thách, hi sinh để mong
giành lại sự sống cho dân tộc.
Bên cạnh đó còn có nhiều người con của Thái Yên như Trần Định, Phủ
Ước, Mai Biện, Tư Nuôi còn tham gia vào khởi nghĩa nông dân Yên Thế của Đề
Thám…
1.4.2. Thái Yên vùng đất văn hóa
Cùng với đời sống vật chất, xây dựng làng nghề thì Thái Yên còn hình
thành cả nền văn hóa vật thể lẫn phi vật thể. Theo tôi khảo sát về địa linh ở đây,

hướng đông có miếu mộ, hướng tây có đền Thái Yên, hướng nam có đền Thánh
thợ, hướng bắc có chùa Vĩnh Phúc để trấn giữ xóm làng được bình yên, dân cư
phát đạt.
Trong đó khu di tích lịch sử văn hóa cụm đền thờ Thái Yên đã được xếp
hạng là di tích lịch sử văn hóa, suốt hàng trăm năm nay nó vẫn giữ một vị thế
hết sức đặc biệt. Ngôi đền được xây dựng cách đây khoảng hơn 5 thế kỷ. Lúc
đầu chỉ là một ngôi miếu nhỏ nằm ở phần đất xóm Cồn. Ngôi đền nằm trên một
khu đất cao, là nơi thờ Thánh sư nghề mộc của Thái Yên.Nét độc đáo của ngôi
đền chính là nhệ thuật chạm khắc gỗ điêu luyện với những tạo tác của những
bàn tay tài hoa những nghệ nhân Thái Yên.Tất cã các bộ phận bằng gỗ xà, cốn,
kè, các mảnh gỗ…và các đồ thờ từ long, hương án, tượng gỗ bài vị, long ngai…
đều được chạm trổ một cách rất tinh vi.
Dù trải qua những biến động của lịch sử nhưng đến nay hệ thống đền chùa
vẫn giữ được vè nguyên sơ, cổ kính của một thời kì lịch sử. Hiện tại ngôi đền
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
8
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
vẫn lưu giữ lại nhiều sắc chỉ, bi kí có giá trị về lịch sử và văn hóa. Hằng năm cứ
mỗi dịp rằm tháng giêng và rằm tháng 7 nhân dân trong làng đến đây dâng lễ vật
bái tạ.
Ngoài ra còn có khu nhà thờ Thánh Thợ là nơi thờ những vị tổ sư của nghề
mộc Lỗ Ban, Lỗ Bộc. Công trình này được xây theo kiểu kiến trúc trung đại,
mang tính biểu tượng đặc trưng của làng nghề. Để ghi nhớ công ơn vị tổ đưa
nghề mộc truyền bá cho dân làng, đầu năm 1892 nhân dân đã cùng nhau gây quỹ
công đức để cùng nhau xây dựng nên ngôi đền này. Ngôi đền Thánh thợ được
khánh thành vào năm 1893.
Nhà thờ Thánh Thợ nằm trong quần thể khu di tích cũ, ngày nay người dân
địa phương vẫn thờ tự chu đáo cả nhân thần và linh thần.
Cả đền Thái Yên và nhà thờ Thánh Thợ đều là các di tích kiến trúc mang
những nét chung của đền chùa xứ Nghệ, nhưng cũng có nét đặc trưng riêng, đó

là sự giản dị, không hoa mỹ mà vẫn thể hiện được nét tinh vi, sắc sảo, phản ánh
đúng tâm hồn, bản chất và tài năng của nghệ nhân làng mộc Thái Yên.
Chương 2: Quá trình hình thành và phát triển của làng mộc Thái Yên
2.1. Nguồn gốc ra đời
Một làng nghề muốn được xã hội tôn vinh là làng nghề truyền thống cần
phải bảo đảm các tiêu chí về thời gian, nghề nghiệp, tài năng của bao lớp nghệ
nhân và chất lượng sản phẩm… Vậy nghề mộc đến với Thái Yên từ lúc nào?, ai
là ông tổ?, cho đến hiện nay vẫn chưa có tài liệu nào thật chính xác và rõ ràng về
nguồn gốc của làng nghề. Theo các nguồn tài liệu mà tôi tìm hiểu ở địa phương
được biết rằng: “làng Thái Yên xuất hiện vào thế kỷ XIII thuộc triều đại Trần
Nhân Tông – năm thứ hai niên hiệu Thiệu Bảo, vào khoảng năm 1280-1281
cách đây hơn 700 năm, tuy nhiên lúc đó chưa có nghề mộc”
Tương truyền nghề mộc du nhập vào Thái Yên vào khoảng nửa sau thế kỷ
XVI, triều Lê Anh Tông (1557-1572), thời nhà Hậu Lê. Giai đoạn này các đơn
vị hành chính trong địa hạt phủ Đức Quang cơ bản đã ổn định, nhưng theo Gia
phả các dòng tộc hiện nay việc di dân từ miền bắc vào định cư ở đất Thái Yên
vẫn tiếp diễn, trong đó có một số từ Thanh Hóa di cư vào. Từ xưa Thanh Hóa
vốn là một tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng. Trong cuốn “Bách
nghệ tổ sư” có hàng chục tên tuổi làng nghề được nhân dân cả nước tôn vinh,
trong đó có những phường nghề nổi tiếng của làng mộc Thanh Hóa như : Thợ
mộc Đạt Tài, Thợ mộc Nam Hoa… danh tiếng của thợ mộc Thanh Hóa đã trở
nên nổi tiếng khắp các xứ Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài.
Các vị Thủy tổ của một số dòng tộc như Nguyễn Công Lê, Nguyễn Viết,
Phan Đăng đều có liên quan đến lịch sử vùng đất này. Trong một tư liệu ngắn về
“Sự tích đền Thái Yên” của cụ Nguyễn Viết Triêm có ghi : “lúc đầu Thái Yên
chưa có nghề mộc, vào khoảng năm 1527 có ông Nguyễn Viết Đức đến sinh cơ
lập nghiệp truyền bá nghề mộc cho con làng”. Cũng theo cuốn Gia phả họ
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
9
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh

Nguyễn Viết do ông Nguyễn Viết Sơn – 80 tuổi, hiện là tộc trưởng của họ
Nguyễn Viết cũng đã đưa ra bằng chứng viết trong Gia phả cho rằng ông
Nguyễn Viết Đức chính là người đã mang nghề mộc đến cho dân làng. Tuy chưa
có một nguồn sử liệu chính thức nào, nhưng nhiều thông tin truyền miệng gần
như là giống nhau của nhiều vị cao tuổi trong làng nghề xưa nay vẫn khẳng định
ông Nguyễn Viết Đức chính là vị tổ sư của làng nghề mộc Thái Yên vốn có
nguồn gốc từ Thanh Hóa. Hiện nay bài vị của ông Nguyễn Viết Đức đang được
dân làng thờ phụng trong đền Thái Yên.
2.1.2. Bước đầu phát triển
2.1.2.1 Những năm tháng đầu tiên của làng nghề
Sau khi vị tổ sư về định cư tại quê hương mới này đã truyền nghề
cho dân làng bước đầu biết cưa, xẻ và làm những đồ dùng thông dụng trong gia
đình như bàn ghế, giường, cũi… từ đó nghề nghiệp cứ nhân rộng và phát triển
dần. hoạt động sản xuất ở Thái Yên bắt đầu tấp nập hẳn lên. “Đàn bà con gái
thì chuyên làm ruộng, đàn ông thì nhóm cụm lại để tập nghề. Sau một thời gian
các đồ dùng thông dụng trong nhân dân đã tạm đủ, người thợ tiếp tục tìm mua
các vật liệu cưa xẻ rồi làm ra sản phẩm ghành gông đến các chợ của các địa
phương bán hoặc đổi lấy các hàng hóa cần thiết khác như lương thực, thực
phẩm, vải, dầu…”
Thời gian này kỹ thuật nghề nghiệp mới dừng lại ở mức độ đơn giản. Bên
cạnh các nhóm thợ sản xuất ở hộ gia đình, đã có một số nhóm thợ đi làm nhà
cửa và các công trình đình, chùa ở khắp trong và ngoài tỉnh: “Ở Thái Yên (Đức
Thọ) người thợ mộc ngoài sản xuất tại chỗ, đã tổ chức thành từng phường (có
từ 15-20 người) tỏa đi làm ăn ở khắp nơi trong tỉnh và ơ các tỉnh xa. Tay nghề
của thợ mộc Thái Yên được dân vùng Nghệ Tĩnh thừa nhận”
Tuy nhiên lớp thợ đầu tiên tài năng chưa bộc lộ, kỹ thuật chưa tinh xảo,
tính cạnh tranh nghề nghiệp cũng chưa cao. Tuy nhiên đó là bước khởi đầu cho
sự phát triển của làng nghề thủ công truyền thống. Ngoài nhóm thợ Thái Yên,
trong nội hạt tỉnh Hà Tĩnh còn có một nhóm thợ của Hương Sơn, Can Lộc, Nghi
Xuân… nhưng vì do nhu cầu cuộc sống thấp, người dùng chưa có đòi hỏi cao

như sau này nên dân thợ vẫn thường xuyên có công ăn việc làm và phát triển
dần nghề nghiệp. Trong một thời gian dài dân làng Thái Yên đã tích lũy được
vốn liếng, nghề nghiệp để trở thành những người thợ nổi tiếng.
2.1.2.2. Nguồn nguyên liệu và hệ thống công cụ sản xuất
Mảnh đất Hà Tĩnh với khí hậu rất khắc nghiệt, thiên tai tàn phá nặng nề.
Đất đai giàu tài nguyên, có những dải phù sa màu mỡ song cũng có những vùng
đất bạc màu, cằn cội, chua mặn, đồng bằng thì nhỏ hẹp, với diện tích đồi núi
chiếm phần lớn . Với những yếu tố đó là điều kiện cho Hà Tĩnh phát triển nghề
rừng và khai thác rừng: “ Với những diện tích rừng rất lớn trên 300000 ha rừng
và đất rừng (đứng thứ 3 trên miền Bắc), nghề rừng Hà Tĩnh phát triển rộng
khắp trong tỉnh. Trong số 252 xã của tỉnh có 192 xã có nghề rừng (1986)”.
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
10
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
Rừng núi bạt ngàn là kho của cải vô giá với đầy đủ các loại gỗ quý như lim, sến,
táu, dổi… đó là những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nghề mộc.
Về hệ thống công cụ sản xuất giai đoạn đầu rất đơn giản, bao gồm những
công cụ cầm tay như: Một bộ cưa gồm những chiếc cưa khác nhau về kích cỡ và
hình dạng của lưỡi; một bộ đục gồm đục phẳng, đục cong và đục tỉa, mỗi loại
đục lại bao gồm những chiếc đục khác nhau về kích cỡ; bào tay, dao gọt, nạo,
giấy ráp để đánh bóng… lúc đầu chủ yếu là gia công bằng tay và cần nhiều sức
lao động song năng suất và chất lượng còn thấp, độ tinh xảo và mẫu mã còn hạn
chế.
Từ khi bước vào cơ chế thị trường, đặc biệt là từ năm 1995 lại nay cùng với
sự du nhập và sử dụng rộng rãi máy móc vào sản xuất với nhiều loại máy như:
Máy cưa, máy bào, máy xẻ gỗ, máy tiện, máy đánh bóng… việc sử dụng máy
móc đã làm cho năng suất và chất lượng sản phẩm được tăng lên rõ rệt, mẫu mã
sản phẩm cũng đa dạng hơn, các chi tiết chạm trổ cũng tinh xạo hơn rất nhiều.
Nhờ vậy mà sản phẩm của làng mộc Thai Yên ngày càng đáp ứng được thị hiếu
của khách hàng trong và ngoài tỉnh, danh tiếng và uy tín của Thái Yên ngày

càng vang xa.
2.1.2.3. Quy trình sản xuất
Để sản xuất ra một sản phẩm mộc cần rất nhiều thời gian và công sức của
người thợ. Đòi hỏi sự cần cù, chịu khó và bàn tay khéo léo của người thợ mộc.
Nhưng nhìn chung quy trình sản xuất sản phẩm từ gỗ đi theo một số bước chung
từ khâu cắt xẻ ban đầu đến khâu đánh bóng hoàn thiện. Sự khác nhau chủ yếu về
quy trình sản xuất giữa các hộ sản xuất là do sản phẩm thô mộc hay hoàn chỉnh
và tùy thuộc vào từng loại sản phẩm cũng như thị hiếu của khách hàng. Ở đây
tôi đưa ra quy trình sản xuất hiện nay của làng mộc Thái Yên mà tôi thu thập
được qua chuyến thực tế tại địa phương. Quy trình sản xuất có thể được chia làm
chín khâu như sau:
- Cưa gỗ khối: khâu này sử dụng máy cưa lớm để xẻ khối gỗ kích thước lớn thành
kích thước từng khối kích thước nhỏ hơn làm chân bàn ghế hoặc thành tấm
mỏng làm mặt bàn theo kích thước nhất định. Khâu này thường được thực hiện
ở những xưởng cưa xẻ với những máy cưa lớn.
- Cưa gồ theo hình: gỗ khối nhỏ được vẽ định hình theo mẫu hình dáng chi tiết
sau đó được cưa định hình sơ bộ để thuận tiện cho bước gia công tiếp theo.
Khâu này sử dụng máy vanh (một loại máy cưa trung bình)
- Bào phẳng, lấy mực: Gỗ đã được cưa định hình được đưa vào bào phẳng và
nhẵn, sau đó người thợ lấy dấu chuẩn để gia công chi tiết theo mấu hoa văn và
kiểu dáng. Khâu này sử dụng máy bào cố định.
- Đục, cắt mộng: Các chi tiết của sản phẩm được liên kết với nhau chủ yếu bằng
ghép mộng. Ở khâu này chi tiết gỗ được tạo mộng theo dấu mực chuẩn bằng đục
tay hoặc bằng một số máy cầm tay. Đục mộng bằng tay thường tiến hành với
các chi tiết nhỏ, phức tạp đòi hỏi sự khéo léo. Tạo mộng bằng máy (máy khoan,
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
11
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
máy bào, máy tiễn) thường tiến hành với các chi tiết lớn, hiệu quả và năng suất
cao hơn và ít phức tạp.

Hình 1: người thợ đang lấy mộng bằng máy khoan

Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
12
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
Hình 2: các thợ tạo mộng bằng đục tay
- Dựng khung sơ bộ: Các chi tiết sau khi đã tạo mộng được ghép nối với nhau
được dựng thành khung sản phẩm sơ bộ nhằm chỉnh sửa hình dáng và khắc phục
các khuyết tật, gia công lại trước khi tiến hành các khâu hoàn thiện bề mặt. Khi
dựng khung người ta kết hợp cả ghép mộng và gắn keo để liên kết các chi tiết
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
13
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
chính.
Hình 3: người thợ đang gắn mộng
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
14
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
- Làm phẳng và tạo hình: Khâu này sử dụng các loại máy chà, máy đánh nền cầm
tay để gia công bề mặt phẳng và nhẵn. Máy chà là một loại máy mài dùng để
làm mất các chỗ lồi lõm, nhấp nhô tạo cho bề mặt chi tiết độ nhẵn, phẳng nhất
định. Máy đánh nền dùng để tạo các bề mặt phẳng như mặt bàn, các đường khe
rãnh phẳng lớn. Ngoài ra để tiến hành tạo các họa tiết cho sản phẩm người ta
chủ yếu tiến hành chạm trổ thủ công bằng các loại đục, bạt truyền thống.
Hình 4: Người thợ đang chạm trổ thủ công bằng đục truyền thống
- Làm nhẵn và sửa vùng khuyết tật: Trong khâu này các bề mặt chi tiết được làm
nhẵn tinh bằng phương pháp thủ công quen thuộc như nạo, cạo gọt, đánh giấy
ráp nhằm tạo bề mặt thật nhẵn. Độ bóng của sản phẩm cuối cùng phụ thuộc vào
mức độ làm nhẵn ở khâu này. Gần đây người ta sử dụng máy đánh giấy ráp bằng
tay để làm nhẵn những chi tiết và bề mặt lớn. Ngoài ra ở khâu này việc sửa

Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
15
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
khuyết tật cuối cùng được tiến hành trước khi đưa đi đánh vecni hoặc phun sơn.

Hình 5: Người thợ đang làm nhẵn và sửa vùng khuyết tật
- Khảm trai: Các sản phẩm có chi tiết khảm trai được chạm khắc chìm và khảm
mảnh vỏ trai sau đó được làm nhẵn lần cuối.
Hình 6: Người thợ đang khảm trai
- Sơn bóng và đánh vecni: Sơn bóng và đánh vecni là khâu cuối cùng để tạo sản
phẩm hoàn chỉnh nhằm tạo cho sản phẩm độ bóng đẹp và lớp phủ bảo vệ cho gỗ.
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
16
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
Hình 7: Sản phẩm sau khi đánh vecni
2.1.2.4. Các loại sản phẩm
Làng mộc Thái Yên có bề dày truyền thống, sản xuất ra nhiều loại sản
phẩm, nhiều mặt hàng, với nhiều mẫu mã đa dạng đáp ững nhu cầu tiêu dùng
của khách hàng trong và ngoài tỉnh.
Lúc đầu họ chỉ làm các đồ vật thông thường như mâm, khay, hương án …
để thờ tự, rồi trai làng Thái Yên tỏa đi khắp nơi học hỏi kinh nghiệm về đóng
bàn ghế, giường tủ, xa long, tràng kỷ… bán ra ngoài thị trường.
Trải qua quá trình phát triển đến thế kỷ XIX làng đã phát triển rất mạnh và
rất thịnh đạt. Những năm đầu thế kỷ XIX sản phẩm của làng mộc so với trước
có bước phát triển cao hơn, kỹ thuật chế tác tinh xảo hơn và bắt đầu trở thành
một thứ hàng hóa khá rộng rãi trong các vùng lân cận. Thái Yên đã bắt đầu trở
thành một làng nghề khá nổi tiếng được gần xa biết tới. Ngoài các loại sản phẩm
mẫu mã đơn giản như bàn, ghế, tủ, giường, mâm, cũi,… còn sản xuất các mẫu
hàng hóa phức tạp hơn như vò hương, mâm thờ để hoa quả, long ngai, hương án,
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng

17
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
… trình độ kỹ thuật chạm trổ đã đạt dần đến độ tinh vi. Bởi có trình độ độc lập
trong nghề nghiệp, nên giai đoạn này ngoài việc sản xuất hàng ở địa phương đã
xuất hiện các tốp đi làm ăn quanh năm ở các vùng xa.
Thái Yên mở rộng thị trường cạnh tranh và từng bước chiếm lĩnh từng độ
cao trong nghề nghiệp. Trải qua bao thế hệ làng nghề luôn có những thợ tài hoa,
ít nơi sánh kịp. Những tên tuổi như Cửu Ngại, ông Hồng, Võ Em được dân làng
tôn vinh là những bậc kì tài về chạm trổ “Long, ly, quy, phượng” tại các đình
chùa, lăng tẩm.
Thời kì kháng chiến chống Pháp những người thợ Thái Yên sản xuất ra
nhiều loại súng kíp, vỏ mìn, lựu đạn. Bên cạnh đó những người thợ này còn làm
ra loại bút máy Thái Yên với mẫu mã có phần tân thời hơn các loại bút Pác-ke,
Pi lốt.
Sản phẩm bút máy Thái Yên đáp ứng kịp thời phong trào bình dân học vụ
của địa phương.
Ngoài ra những người thợ Thái Yên còn sáng chế ra những chiếc máy phức
tạp hơn thay thế dần những chiếc xe kéo sợi và cung bông lạc hậu. Với năng
khiếu và khả năng cảm thụ tuyệt vời của mình, những người thợ còn làm các
loại nhạc cụ như đàn ghitar, vĩ cầm…
Từ năm 1995 lại nay được xem là thời kì hoàng kim của làng mộc Thái
Yên cùng với việc sử dụng máy móc vào sản xuất và chế tác đồ mộc. Các xưởng
đều được trang bị các máy móc hiện đại như máy cưa, máy bào nhờ vậy mà
năng suất tăng gấp 10 lần so với trước đây. Chất lượng và độ tinh xảo của sản
phẩm làng nghề cũng nâng lên rõ rệt, ngày càng đáp ứng nhu cầu cũng như thị
hiếu của khách hàng trong và ngoài tỉnh. Với những sản phẩm độc đáo như đôc
bình, bàn ghế, xa lông, giường môdec, tủ tường, lan can, hương án, với nhiều
mẫu mã đẹp, tinh tế. Để nâng cao năng lực sản xuất với mục đích sản phẩm làm
ra nhiều hơn, đẹp hơn, thu hút khách hàng nhiều hơn các chủ làm đồ mộc đã đầu
tư hàng tỷ đồng mua sắm phương tiện, máy móc. 5 năm gần đây trung bình mỗi

năm người dân Thái Yên thu về 12 tỉ đồng từ sản phẩm mộc. Vào những ngày
nghỉ cuối tuần khách thập phương tới tham quan và mua hàng rất đông. Bởi sản
phẩm của làng nghề đã được người tiêu dùng tin tưởng và bắt đầu nổi tiếng với
thương hiệu “Mộc Thái Yên”.
2.1.2.5. Thị trường trao đổi
Thời gian đầu khi nghề mộc mới truyền vào mảnh đất này, người dân chủ
yếu là sản xuất ra các đồ dùng thông dụng trong gia đình như bàn ghế, giường,
cũi… sau một thời gian các đồ dùng thông dụng của nhân dân đã tạm đủ, người
thợ tiếp tục tìm mua các nguồn vật liệu cưa, xẻ làm ra các sản phẩm rồi ghánh
gồng đến các chợ của các địa phương lân cận để bán hoặc đổi lấy các hàng hóa
cần thiết khác như lương thực, thực phẩm, vải, dầu…
Trải qua thời gian, sản phẩm của nghề mộc so với trước đây đã có bước
phát triển cao hơn và bắt đầu trở thành một sản phẩm hàng hóa khá phổ biến
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
18
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
rộng rãi trong các vùng lân cận. Thái Yên bắt đầu trờ thành một làng nghề được
nhiều vùng gần xa biết đến. Thời kỳ Pháp xâm lược nước ta các làng nghề
truyền thống có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ, tìm chỗ đứng ổn định và
phát triển kinh tế. Những người thợ mộc Thái Yên có mặt khắp các nơi trong
nước và sang tận các nước bạn Lào, Campuchia để hành nghề. Trên các vùng
Phú Xuân, Bạch Mã, Đà Lạt, Tuy Hòa, Bình Định, đã xuất hiện các cửa hiệu
“Mộc Thái Yên” sản xuất đủ các loại đồ dân dụng với mẫu mã đẹp, đa dạng,
phong phú. Sản phẩm của mộc Thái Yên đã có mặt tại nhiều thị trường trong
nước, đặc biệt là các mặt hàng cao cấp đã có chỗ đứng trên thị trường Hà Nội,
Tp Hồ Chí Minh, Vũng Tàu… Riêng Tp Vinh và các vùng phụ cận tỉnh Nghệ
An đồ mộc Thái Yên chiếm khoảng 30% thị phần, còn ở Hà Tĩnh khi nói đến đồ
mộc thì người ta nghĩ ngay đến mộc Thái Yên.
Cùng với sự quan tâm của Đảng cùng với chính quyền địa phương, sự sáng
tạo của đôi bàn tay tài hoa, người thợ mộc Thái Yên đã chắp cánh cho sản phẩm

làng nghề vươn tới xa hơn trong tương lai không chỉ bó hẹp trong nước mà còn
lan ra cả khu vực và thế giới.
2.2. Bước phát triển của làng mộc Thái Yên từ 1995- nay, cơ hội và
thách thức trong thời kì hội nhập.
2.2.1. Làng mộc Thái Yên bước phát triển vượt bậc từ 1995 – nay.
Làng mộc Thái Yên đã trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài
hàng mấy thế kỷ, đã có những bước phát triển thăng trầm và đạt được nhiều
thành tựu rực rỡ. Từ năm 1995 – nay được coi là “Thời kì phát triển hoàng
kim” của làng mộc Thái Yên. Các thế hệ đi sau đã không ngừng học hỏi kinh
nghiệm để làm ra những sản phẩm đẹp hơn, tinh xảo hơn. Đặc biệt là từ năm
1995 lại nay, sự du nhập của máy móc đã làm cho năng suất tăng lên rõ rệt. Để
nâng cao năng lực sản xuất với mục đích sản phẩm làm ra nhiều hơn, đẹp hơn,
thu hút khách hàng nhiều hơn các chủ xưởng làm đồ mộc đã đầu tư hàng tỉ đồng
để mua sắm phương tiện máy móc. Các xưởng đều được trang bị các máy móc
hiện đại như máy cưa, máy bào, máy xẻ gỗ, máy tiện… nhờ vậy mà năng suất
tăng lên đáng kể so với trước đây. Nhờ có máy móc mà sản phẩm của nghề mộc
làm ra vừa nhanh, đẹp, đam bảo chất lượng đảm bảo yêu cầu và người thị hiếu
của người tiêu dùng. Trên toàn xã hiện nay có hàng chục chiếc máy cưa xẻ lớn
ngày đêm hoạt động liên tục. Hiện tại toàn xã có khoảng 50 xưởng sản xuất đồ
mộc lớn, trung bình mỗi xưởng giải quyết việc làm thường cho 15 – 20 lao động
với thu nhập bình quân từ 2 – 3 triệu đồng/ người/ tháng. Dân thợ nghề bây giờ
ngoài việc sử dụng các đồ dùng cầm tay nhẹ nhàng như bào, cưa, khoan,…còn
sử dụng các cổ máy lớn, hiện đại như: máy tiện, máy cưa…
Do nhu cầu của thị trường về trang bị đồ nội thất bằng sản phẩm gỗ hiện
nay nên việc sản xuất làng nghề hình thành 2 bộ phận: Một bộ phận dân thợ
chuyên sản xuất các loại đồ cao cấp như xa lông, giường môdec, các loại tủ
chạm trổ kỳ công, một bộ phận nữa lại chuyên sản xuất các đồ dùng dân dụng
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
19
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh

thông thường phục vụ nhu cầu của tầng lớp bình dân. Tuy nhiên do nhu cầu và
đòi hỏi của thị trường ngày càng cao, Thái Yên vốn có những nhóm thợ chuyên
chạm trổ, nhưng trong thực tế không đáp ứng đủ nhu cầu về số lượng và chất
lượng của khách hàng nên trong những năm qua dân thợ Thái Yên còn phối hợp
với một số nhóm thợ kỹ thuật chạm khảm của làng thợ xứ bắc như: Hải Dương,
Hà Nam… để sản xuất và hoàn chỉnh các loại sản phẩm mộc cao cấp. Số lượng
các thợ ngoại tỉnh này trung bình hàng năm trên dưới 80 người. Mỗi nhóm thợ
còn kéo theo hàng chục nhân lực lao động phụ đánh trơn, đánh bóng, phun sơn,
…lực lưỡng này chủ yếu là chị em phụ nữ. Thu nhập bình quân của thợ kỹ thuật
là 3 -4 triệu đồng/ tháng và 1,2 – 1,5 triệu đồng/ tháng đối với thợ phụ. Ngoài ra
bộ phận dân thợ còn lại chuyên sản xuất các loại hàng thông dụng phục vụ nhu
cầu tiêu dùng của tầng lớp bình dân, nhóm sản xuất này chủ yếu là lớp thợ đã
luống tuổi. Nhu cầu của loại hàng này hằng năm tung ra thị trường bán buôn,
bán lẻ và các hợp đồng với các cơ quan, trường học, xí nghiệp, nông trường mỗi
năm với số lượng khá lớn. Giá cả bán buôn, bán lẻ của sản phẩm mộc Thái Yên
hiện nay có nhiều mức độ khác nhau, chênh lệch rất xa nhau, nhưng cũng rất dễ
mua, dễ bán. Một bộ bàn ghế xa long mẫu mã tiên tiến bằng các loại gỗ quý
hiếm như: Trắc, mun, gụ có thể lên tới vài chục triệu đồng, bên cạnh đó thì một
bộ bàn ghế bình dân thì giá cũng có thể chỉ vài trăm nghìn. Tức là tùy theo nhu
cầu sử dụng và túi tiền của từng đối tượng khách hàng.
Do hệ thống giao thông phát triển, phương tiện vận tải nhiều và thông tin
liên lạc nhanh chóng nên việc mua bán, vận chuyện ngày càng thuận tiện. Hiện
nay sản phẩm của nghề mộc Thái Yên đã chiếm khoảng 30% thị phần Tp Vinh
và các vùng phụ cận Nghệ An, còn ở Hà Tĩnh khi nhắc tới sản phẩm mộc thì
người ta nghĩ ngay tới mộc Thái Yên. Mặc dù là một vùng chiêm trũng nhưng
sản xuất nông nghiệp ở Thái Yên không phát triển mà chủ yếu là để giải quyết
nguồn lương thực tại chỗ, còn thu nhập chính của người dân vẫn là nghề mộc.
Đời sống vật chất của cư dân làng nghề Thái Yên chưa phải gia đình nào
cũng khá giả như nhau, nhưng nhìn chung cả 2 phương diện vật chất và tinh
thần đều khá đầy đủ và phong phú.

Mấy năm nay người dân nơi đây lại có thêm niềm vui khi được biết làng
mộc Thái Yên là một trong 10 làng nghề truyền thống được tỉnh Hà Tĩnh xếp
vào danh sách khôi phục và phát triển. Theo đó, một cụm sản xuất công nghiệp
tập trung trên diện tích khoảng 3,5 ha đã được xây dựng xong với tổng nguồn
vốn đầu tư 1,7 tỉ đồng.
Với sự khéo léo, sáng tạo, sức lao động cần mận, miệt mài của những nghệ
nhân tài hoa và những đóng góp của người dân Thái Yên trong kháng chiến,
Thái Yên đã được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lưỡng vũ trang
nhân dân. Bên cạnh đó huyện Đức Thọ và tỉnh Hà Tĩnh đang lập hồ sơ đề nghị
nhà nước phong tặng cho Thái Yên danh hiệu Anh hùng thời kì đổi mới.
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
20
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
Đặc biệt là ngày 2/7/2010, làng mộc Thái Yên là một trong 9 làng nghề đã
được hiệp hội làng nghề Việt Nam phong tặng danh hiệu “Làng nghề tiêu biểu”
có đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
2.2.2. Cơ hội và thách thức của làng mộc Thái Yên trong thời kì hội
nhập
Nghề mộc ở Thái Yên với lịch sử hình thành và phát triển hơn 400 năm
cũng có những lúc thăng trầm, biến động. Đã có những lúc người dân Thái Yên
tay đục, tay cưa đi khắp miền quê để kiếm sống bằng chính nghề mà cha ông để
lại, tài năng và danh tiếng của họ được nhiều người biết đến. Đó cũng chính là
cơ hội để làng nghề truyền thống này phát triển xa hơn nữa. Trong quá trình
hình thành và phát triển Thái Yên đã đóng góp không nhỏ vào công cuộc xóa
đói giảm nghèo, CNH – HĐH địa phương cũng như đất nước.
Từ những năm đất nước bước vào thời kì đổi mới, hàng hóa được thông
thương sản phẩm của nghề mộc Thái Yên cũng vì thế mà được nhiều người biết
đến. Với truyền thống làm mộc lâu đời, dân cư tập trung, cần cù, chịu khó lao
động, cộng thêm cái tâm của người thợ, sản phẩm nghề mộc của Thái Yên đã
chiếm được lòng tin của người tiêu dùng trong vùng và trong tỉnh Hà Tĩnh. Tỉ lệ

người lao động tham gia làm nghề cao, người lao động có trình độ tay nghề
vững vàng. Địa phương có vị trí địa lí nằm sát quốc lộ 8A thuận lợi cho việc
giao thương, hệ thống giao thông vận tải đáp ứng yêu cầu cho việc sản xuất, vận
chuyển hàng hóa.
Phát huy truyền thống xã Anh hùng lực lưỡng vũ trang nhân dân, những
năm gần đây nhờ được sự quan tâm của các cấp, các ngành của Đảng và chính
quyền, sự chỉ đạo sâu sát của sở công thương và tỉnh Hà Tĩnh trong việc ưu tiên
khôi phục và phát triển làng nghề, đồng thời bàn giao mặt bằng, đầu tư xây dựng
tiểu cụm tiểu thụ công nghiệp, cộng với nhu cầu ngày càng cao của thị trường
nhờ vậy mà nghề mộc ở Thái Yên có điều kiện mở rộng sản xuất, cụm tiểu thụ
công nghiệp tập trung, bước đầu hình thành một nền sản xuất công nghiệp tại
một làng nghề truyền thống. Theo ông Đoàn Đình Hoạt – chủ tịch UBND xã
Thái Yên cho biết: “chúng tôi đang tìm kiếm đối tác liên doanh để xây dựng
thương hiệu sản phẩm mộc Thái Yên và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Mục tiêu giai đoạn 2005 – 2015 phấn đấu mỗi năm đạt khoảng 15 tỉ đồng từ sản
xuất đồ mộc”.
Bên cạnh đó, để duy trì và phát triển tốt hoạt động sản xuất kinh doanh có
thể diễn ra một cách liên tục, không bị gián đoạn thì cần luôn phải đảm bảo yếu
tố đầu tiên là về nguồn vốn. Trogn thời buổi khủng hoảng kinh tế thường xuyên
diễn ra như hiện nay ngoài số vốn hộ tự có để có thể đầu tư cho sản xuất, kinh
doanh thì các hộ dân vẫn thường xuyên phải bổ sung bằng nguồn vốn đi vay bên
ngoài. Và một trong những nguồn vốn quan trọng đó chính là tín dụng ngân
hàng : “Từ năm 1986, chính phủ Việt Nam đã xây dựng và theo đuổi chiến lược
giảm nghèo quốc gia. Trọng tâm của chính sách này là cung cấp các cơ hội cho
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
21
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
người nghèo thoát khỏi tình trạng nghèo đói thông qua phát triển các hoạt động
sản xuất. Gần đây nhất là tháng 6/2000 bôn NN & PTNT đã xây dựng một hệ
thống nông nghiệp trên cơ sở hàng hóa như mục tiêu chính cho sự phát triển

của ngành trong những năm tới”
Lợi dụng cơ hội này, Thái Yên đã đầu tư cho phát triển nghề mộc, cải tạo
trang thiết bị và mở rộng quy mô sản xuất để tăng số lượng và chất lượng sản
phẩm .
Ngày nay các máy móc phục vụ cho ngành gỗ cũng phát triển, vì vậy mà
năng suất cũng như chất lượng, độ tinh xảo của các sản phẩm làng nghề cũng
được nâng lên rõ rệt ngày càng đáp ứng nhu cầu cũng như thị hiếu của khách
hàng trong và ngoài khu vực.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, những cơ hội cho sự phát triển thì
bước vào cơ chế mới làng mộc Thái Yên cũng gặp phải rất nhiều khó khăn và
thách thức. Để đáp ứng nhu cầu và thị hiếu cảu khách hàng sản phẩm của làng
mộc Thái Yên làm ra không chỉ đẹp, mẫu mã đa dạng, phong phú, uy tín, chất
lượng mà số lượng sản phẩm làm ra cũng phải ngày càng nhiều để đáp ứng đủ
nhu cầu của thị trường trong khi đó nguồn nguyên vật liệu cung cấp cho sản
xuất ngày càng khan hiếm, giá cả tăng cao. Thái Yên phải nhập khẩu gỗ từ nước
Lào nữa mới đủ sản phẩm để cung cấp cho thị trường trong nước, đặc biệt là
trong địa bàn tỉnh và một số thị trường truyền thống như: Đà Nẵng, Quảng Ninh,
Nghệ An… ngoài ra do phong tục tập quán nên việc chuyển nhận thức từ sản
xuất hộ cá thể nhỏ lẻ sang hình thức doanh nghiệp làm ăn lớn mở rộng quy mô
đòi hỏi cần phải có thời gian. Các doanh nghiệp thì lại thiếu vốn đầu tư, nhu cầu
mặt bằng, thuê đất ngày một cao, tỉnh cho quy hoạch 5,5 ha nay đã lấp đầy,
trong khi đó nhu cầu mở rộng diện tích để sản xuất kinh doanh trong dân thì lại
rất lớn. Trong sản xuất thì điện cung ứng cho sản xuất không ổn định, chưa đáp
ứng đủ nhu cầu và chưa được sự ưu tiên. Cùng với đó là vấn đề ô nhiễm môi
trường đang là một vấn đề khá bức xúc của làng nghề, song vẫn chưa thể tìm ra
biện pháp hữu hiệu để giải quyết.
Bên cạnh đó hệ thống quản lí còn yếu kém, sản xuất kinh doanh còn mang
tính cá thể, sản xuất chủ yếu là theo hộ gia đình, trình độ chuyên môn hóa còn
thấp kém.
Với truyền thống có hàng trăm năm như hiện nay làng mộc truyền thống

Thái Yên vẫn chưa có một đầu mối kinh doanh lớn tập hợp mọi nguồn lực để
phát triển cũng như chưa xây dựng được một thương hiệu sản phẩm lớn để đồ
mộc Thái Yên có thể vươn xa hơn ra tầm quốc tế và tăng giá trị sản phẩm đồ
mộc có giá trị truyền thống lâu đời. Tuy nhiên với nỗ lực của bản thân và truyền
thống làng nghề những thành công và vận hội mới đang chờ đón Thái Yên ở
phía trước.
2.3. Tác động của làng nghề đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
22
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
Qua quá trình hình thành và phát triển trải qua những bước thăng trầm nghề
mộc đã có tác động và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế xã hội của người
dân nơi đây:
2.3.1. Đối với đời sống của người thợ mộc
Những người thợ mộc Thái Yên đã gắn bó với nghề mộc suốt bao nhiêu thế
kỷ, có những lúc phải vật lộn với nhiều khó khăn vất vả, nhưng bằng lòng yêu
nghề, nhiệt huyết nghề nghiệp và ân tình đối với làng quê mà họ vẫn gắn bó, duy
trì và phát triển nghề cho đến tận ngày nay.
Cư dân làng Thái Yên sống chủ yếu bằng nghề mộc với hơn 80% dân số
lao động trong nghề. Thu nhập bình quân của người thợ mộc Thái Yên là
khoảng từ 25 – 30 triệu/người/năm.
Từ khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường những người thợ Thái Yên
đi làm xa đều trở về quê hương thành lập các xưởng các công ty sản xuất lớn.
Đến nay trong xã đã có 24 xưởng, 3 công ty chuyên sản xuất đồ mộc. Để nâng
cao năng lực sản xuất với mục đích sản phẩm làm ra nhiều hơn, đẹp hơn, thu hút
khách hàng nhiều hơn, các chủ cơ sở làm đồ mộc đều đầu tư hàng tỉ đồng để
mua sắm phương tiện, máy móc. Nếu tính cả xưởng sản xuất nhỏ, hộ gia đình thì
hiện tại cả làng có khoảng 100 xưởng sản xuất đồ mộc, trung bình mỗi xưởng
giải quyết việc làm thường xuyên cho 15 – 30 lao động phổ thông với mức thu
nhập bình quân hơn 2 triệu đồng/người/tháng.

Ngày nay các máy móc phục vụ cho ngành mộc cũng phát triển vì vậy mà
năng suất cũng như chất lượng, độ tinh xảo của các sản phẩm làng nghề cũng
được nâng lên rõ rệt ngày càng đáp ứng nhu cầu cũng như thị hiếu của khách
hàng trong và ngoài khu vực. Sản phẩm bán chạy hơn, đời sống của người thợ
mộc cũng được cải thiện đáng kể, nhiều gia đình giàu lên trông thấy. Dân thợ
Thái Yên không cần phải mang đồ nghề tới các vùng khác để kiếm sống hay
ghánh gồng sản phẩm đi các vùng lân cận để bán nữa mà hiện nay họ đã có
xưởng sản xuất của riêng mình và có những đơn đặt hàng thường xuyên hay
những hợp đồng lớn của những bạn hàng tin cậy.Tên tuổi của mộc Thái Yên
cũng đã được nhiều người biết đến.
Trăn trở của lãnh đạo xã Thái Yên là phải vươn lên làm ăn lớn, đưa công
nghệ tiên tiến vào sản xuất thì hàng mộc quê nhà mới trụ vững trong thời kì hội
nhập và xuất khẩu bền vững được. Sau khi tham quan, học tập tổ chức làng nghề
ở Hà Tây, Bắc Ninh, năm 2002 xã quyết định cắt 5,5 ha xây dựng khu tiểu thủ
công nghiệp. Địa phương đã phải bỏ ra 3,2 tỉ đồng để san lấp mặt bằng. Đến nay
khu tiểu thủ công nghiệp đã có 12 xưởng và 3 công ty đi vào sản xuất. Từ khi
khu tiểu thụ công nghiệp hoạt động sản xuất đồ mộc đã đi vào chuyên môn hóa
với trình độ ngày càng cao. Đời sống của dân thợ ngày càng được cải thiện.
Cùng với sự quan tâm của chính quyền địa phương, sự sáng tạo của những
đôi bàn tay tài hoa, người thợ mộc ở Thái Yên đã chắp cánh cho sản phẩm làng
nghề vươn xa hơn trong tương lai.
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
23
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
2.3.2. Tác động đến đời sống kinh tế vật chất của nhân dân
Nhờ duy trì và phát triển nghề nghiệp, nhất là thời kì làm ăn phát đạt, đời
sống vật chất của cư dân Thái Yên cũng được cải thiện đáng kể.
Tuy là một vùng chiêm trũng nhưng sản xuất nông nghiệp đối với người
dân Thái Yên chỉ là để giải quyết nhu cầu lương thực tại chỗ, còn dựa vào nghề
mộc mới có thể làm giàu được. Sản phẩm họ làm ra có giá trị, đem lại nguồn lợi

kinh tế lớn, nâng cao thu nhập cho người dân, giải quyết việc làm cho người lao
động trong xã và các vùng lân cận, đông thời thu hút một số thợ giỏi và lao động
phổ thông ngoài bắc ở các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa vào đây hành
nghề. Bộ mặt nông thôn Thái Yên đang thay đổi từng ngày. Đời sống của người
dân ngày càng ổn định, khấm khá hơn, thu nhập bình quân đầu người của người
dân ngày càng tăng lên rõ rệt. Đến thời điểm hiện tại thì hộ đói không còn, hộ
nghèo giảm chỉ còn 0.6%. Hệ thống giao thông nông thôn phát triển mạnh,
đường sá đều được rải nhựa, và bê tông hóa. Đến thời điểm hiện tại toàn xã đã
xây dựng được 26 km đường nhựa và bê tông nông thôn, hơn 20 km mương
máng cứng nội đồng, tu sửa nâng cấp 4 km đường cấp phối, cầu cống các loại,
xây dựng hoàn thiện hệ thống đường điện cho cụm tiểu thủ công nghiệp, hoàn
tất hồ sơ thiết kế cho việc chuẩn bị xây dựng chợ Hôm…
Nghề mộc phát triển đã kéo những dịch vụ xung quanh cũng phát triển như:
Nghề bốc vác, chở hàng hóa thuê, hàng cơm, phở… ở trong làng cũng phát
triển.
Tuy nhiên tương lai của làng nghề Thái Yên phải tìm cho mình một hướng
phát triển đồng bộ nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa không chỉ đáp
ứng nhu cầu nội địa trong nước, mà còn có hàng hóa xuất khẩu. Có vậy đời sống
của dân làng mới ổn định lâu dài và vững chắc được.
2.3.3. Tác động đến đời sống văn hóa – xã hội
Cùng với phát triển kinh tế thì đời sống văn hóa xã hội cũng rất được quan
tâm. Ngoài việc đầu tư xây dựng công xưởng, thiết bị máy móc để phát triển
nghề nghiệp thì các công trình phúc lợi xã hội như trường học, trạm y tế, hội
quán đều được xây dựng khanh trang.
Nhân dân Thái Yên còn chăm lo tu sửa đình, đền, chùa, và các công trình
công cộng, duy trì những truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp như thờ cúng
tổ tiên, thành hoàng làng, giỗ tổ sư,… “Theo tục lễ của làng qua hàng trăm năm
để tỏ bày sự biết ơn cho người có công đã xây dựng và truyền lại nghề mộc cho
dân làng. Đặc biệt là việc trùng tu lại đền Thái Yên, nhà thờ Thánh thợ và việc
tổ chức lễ hội đền Thái Yên vào 7 tháng giêng kết hợp với hội xuân và được tổ

chức 3 năm một lần”.
Bên cạnh đó phong trào VHVN-TT quần chúng ở địa phương được duy trì
và ngày càng phát triển đã góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội, đảm bảo trật tự an
ninh xã hội trên địa bàn. Qua tìm hiểu tại địa phương, tôi được biết cùng với
việc đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, ký cam kết không vi
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
24
Đề tài: làng mộc Thái Yên Đức Thọ - Hà Tĩnh
phạm các tệ nạn xã hội đến tận các tổ chức, cá nhân, tăng cường công tác tuần
tra canh gác nên tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn ổn
định. Nhân dân an tâm tập trung phát triển sản xuất kinh doanh.
Tuy là một vùng quê sản xuất nông nghiệp, năng động phát triển nhiều
ngành nghề trong đó đặc biệt có nghề mộc truyền thống nhưng không vì thế mà
sao nhãng chuyện học hành của con trẻ. Trong những năm qua cùng với phát
triển mạnh mẽ phong trào xã hôi hóa giáo dục, Thái Yên đã chú trọng đầu tư
đúng mực cho sự nghiệp trồng người, vì thế chất lượng dạy và học không ngừng
được nâng lên, hằng năm tỉ lệ học sinh đậu vào các trường Đại Học, Cao Đẳng
thường năm sau cao hơn năm trước. Được biết nhiều năm liên tục phong trào
GD-ĐT Thái Yên luôn là một trong những đơn vị dẫn đầu toàn huyện.
Có thể nói xã Thái Yên là một trong số ít địa phương của vùng dân cư vùng
Nghệ Tĩnh có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời, gồm 2 phương diện vật thể
và phi vật thể, đông thời là một làng nghề truyền thống nổi tiếng từ xưa đến nay.
Những tiềm năng đó sẽ là nội lực để Thái Yên tiếp tục phát triển và ngày càng
giàu đẹp, văn minh hơn.
2.4. Một số định hướng và giải pháp cho sự phát triển làng nghề trong
thời gian tới.
2.4.1. Đối với nguồn nguyên liệu
2.4.1.1. Thực trạng
Trong sản xuất đồ mộc nguồn nguyên liệu gỗ là yếu tố sống còn cho việc
sản xuất sản phẩm mộc. Hà Tĩnh là tỉnh có diện tích rừng rộng lớn với trên

300.000 ha rừng và đất rừng, trong đó huyện Đức Thọ có 3.128.68 ha rừng và
đất rừng chiếm 15,48 ha diện tích đất tự nhiên, với nhiều loại gỗ quý như: lim,
sến, táu,… Hà Tĩnh lại giáp với Nghệ An và nước bạn Lào cũng là những nơi có
nguồn gỗ rất phong phú, đây là nguồn nguyên liệu khá dồi dào cho sản xuất mộc
Thái Yên không ngừng cải tiến kỹ thuật sản xuất, nâng cao chất lượng cũng như
cải tiến về mẫu mã để sản phẩm mộc Thái Yên làm ra không chỉ đẹp mà còn
tinh xảo đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Sản phẩm làm ra ngày
càng nhiều hơn , vì vậy câu hỏi đặt ra về nguồn nguyên liệu để đáp ứng đủ cho
nhu cầu sản xuất lại trở thành nỗi băn khoăn, trăn trở của các cấp chính quyền xã
Thái Yên, thêm vào đó nạn khai thác rừng bừa bãi ở Hà Tĩnh như hiện nay càng
làm cho tình trạng thiếu nguyên liệu của Thái Yên ngày càng trầm trọng hơn.
Vấn đề thiếu nguyên liệu cho sản xuất ở một số xưởng sản xuất diễn ra thường
xuyên. Vì thế việc tìm ra nguồn nguyên liệu để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất
đang trở thành một vấn đề cấp bách.
2.4.1.2. Định hướng và giải pháp
Để giải quyết bài toán đau đầu về nguồn nguyên liệu này ngoài các nguồn
gỗ khai thác trong địa bàn tỉnh, các cấp chính quyền địa phương và người dân xã
Thái Yên đã tìm các mối liên hệ gỗ ở khắp nơi, nhất là các tỉnh có nguồn gỗ lớn
như Đaklak, Bắc Cạn, Quảng Bình… đồng thời nhập khẩu gỗ từ các nước láng
Sv thực hiện: Nguyễn Đình Hưng
25

×