Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp trong cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.38 KB, 25 trang )

Phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp trong cách
mạng Việt Nam
Ngày 10/6/2003. Cập nhật lúc 17
h
58'
Hơn 60 nǎm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi
to lớn. Những thắng lợi đó do nhiều nhân tố tạo nên, trước
hết là do đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp
tiến hành cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta.
Phát huy sức mạnh tổng hợp bằng sự phối hợp nhiều lực
lượng, kết hợp nhiều hình thức đấu tranh là nét đặc sắc về
phương pháp tiến hành cách mạng và là quy luật phát triển
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
I- TẦM QUAN TRỌNG CỦA PHƯƠNG PHÁP CÁCH
MẠNG
Phương pháp cách mạng là một phạm trù lý luận chính trị
chỉ chung tất cả những hình thức hoạt động, những cách
thức tiến hành cách mạng mà chính đảng của giai cấp vô
sản sử dụng để đưa đông đảo quần chúng tham gia tích
cực vào các phong trào cách mạng nhằm đánh đổ chế độ
cũ, xây dựng chế độ mới.
Phương pháp cách mạng đúng đắn được thể hiện trước
hết ở sự kết hợp hài hoà giữa tính khoa học và tính nghệ
thuật trong việc tổ chức, xây dựng các lực lượng và sử
dụng các hình thức đấu tranh cách mạng. Trong lĩnh vực
phương pháp tiến hành cách mạng, mọi sự chủ quan, tùy
tiện, bất chấp quy luật, cũng như rập khuôn, máy móc,
thiếu uyển chuyển, nhanh nhạy trong việc sử dụng các lực
lượng, các hình thức đấu tranh, đều không thể đưa lại
thành công. Với ý nghĩa như vậy, Đảng ta cho rằng không


lĩnh vực nào lại đòi hỏi và mở ra nhiều khả nǎng phát huy
trí sáng tạo như trên lĩnh vực phương pháp cách mạng.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Phương pháp
cách mạng thể hiện quan điểm trên trong thực tiễn bằng
việc thường xuyên coi trọng việc giáo dục, tổ chức quần
chúng thành những lực lượng cách mạng tự giác, động
viên họ hǎng hái tham gia các phong trào cách mạng với
những hình thức và phương pháp sát hợp. Lênin nói: "Phải
biết cách đưa được đông đảo quần chúng tham gia vào
những hoạt động cách mạng thực tiễn. Không những phải
biết cách phân bố những lực lượng giai cấp, những đạo
quân đông đảo hàng triệu người vào đúng những vị trí xác
định của nó; mà còn phải biết xem xét và sử dụng đúng
những lực lượng còn có tác dụng lịch sử nhất định của tất
cả các giai cấp và các tầng lớp để có được một hoạt động
cách mạng thật sự có tính chất quần chúng sâu rộng".
Phương pháp cách mạng thể hiện quan điểm lịch sử - cụ
thể của phép biện chứng duy vật trong việc áp dụng các
hình thức, phương pháp tiến hành cách mạng sát hợp với
điều kiện từng nơi, từng lúc. Một hình thức, phương pháp
thích hợp với nơi này, lúc này thì đối với nơi khác, lúc khác
có thể không còn thích hợp nữa. Vì vậy, đòi hỏi phải luôn
luôn tìm tòi, đổi mới, tránh rập khuôn, sao chép hay tuyệt
đối hoá một hình thức, một phương pháp nhất định nào đó.
Lênin nói: Chủ nghĩa Mác tuyệt đối đòi hỏi phải xét vấn đề
hình thức đấu tranh về mặt lịch sử của nó. Đặt vấn đề đó
ra mà không hề dựa vào hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, tức là
không hiểu gì về chủ nghĩa duy vật biện chứng cả.
Với tinh thần trên, Đảng ta đã khẳng định: "Không bao giờ
có một công thức duy nhất về cách tiến hành cách mạng"

và "cách mạng là sáng tạo, không sáng tạo thì cách mạng
không thể thành công".
Phương pháp cách mạng thể hiện quan điểm thực tiễn của
chủ nghĩa Mác - Lênin một cách trực tiếp, sinh động bằng
sự gắn bó chặt chẽ với mọi lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội; qua đó mà thực hiện sự biến đổi cách mạng
sâu sắc và toàn diện. Lênin nói: "Phải ra sức hoàn thành
những nhiệm vụ thực tiễn ngày càng phức tạp, ngày càng
dính líu đến tất cả mọi ngành hoạt động của đời sống xã
hội và khiến cho có thể giành lại được hết ngành này đến
ngành khác, hết địa hạt này đến địa hạt khác của đời sống
xã hội, từ trong tay giai cấp tư sản".
Là bộ phận hữu cơ trong nghệ thuật lãnh đạo của Đảng,
phương pháp cách mạng bảo đảm thực hiện thắng lợi
những mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng theo đường lối của
Đảng. Định ra mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược đúng đắn là
điều quyết định nhất, nhưng chưa đủ, mà còn phải có
phương pháp tiến hành sát hợp bảo đảm đưa cách mạng
đến thành công, hạn chế được những khó khǎn, tổn thất.
Một khi mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng đã được xác định
thì điều có ý nghĩa quyết định thắng lợi là sự vận dụng
đúng đắn các phương pháp vận động cách mạng, các hình
thức tổ chức lực lượng và chỉ đạo đấu tranh một cách sáng
tạo, sát hợp với những điều kiện cụ thể ở từng nơi, từng
lúc, trong từng thời kỳ cách mạng.
Thực tiễn cho thấy, phong trào cách mạng có khi không
tiến lên được, thậm chí bị thất bại, không phải vì phương
hướng, mục tiêu, nhiệm vụ không rõ ràng, mà chính lại do
thiếu những hình thức, phương pháp sát đúng. Một
phương pháp cách mạng được xem là tốt nhất, sát đúng

nhất, khi nó giải quyết được những yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng đặt ra trong từng thời kỳ với những điều kiện lịch sử
xác định, cho phép động viên được đến mức cao nhất các
lực lượng cách mạng và tiến bộ tham gia, phát huy được
cao nhất các tiềm nǎng cách mạng của quần chúng bằng
nhiều hình thức và phương tiện thích hợp tạo thành sức
mạnh tổng hợp to lớn đưa lại thắng lợi cho cách mạng.
Để vận dụng phương pháp cách mạng một cách đúng đắn,
từ trước đến nay Đảng ta thường xuyên chǎm lo nâng cao
trình độ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, nâng cao nǎng lực
hiểu biết thực tiễn đất nước và tổng kết kinh nghiệm tiến
hành cách mạng ở nước ta; đồng thời biết học hỏi có chọn
lọc những kinh nghiệm cách mạng các nước.
II - PHƯƠNG PHÁP PHÁT HUY SỨC MẠNH TỔNG HỢP
TRONG CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã khẳng định
những mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược cơ bản của giai đoạn
cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta là đấu tranh giành
độc lập dân tộc, giải phóng nhân dân, mà chủ yếu là nông
dân khỏi ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc và giai
cấp địa chủ phong kiến bằng con đường đấu tranh cách
mạng.
Quán triệt quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng và quan điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiêm
khắc phê phán những tư tưởng và hành động có tính âm
mưu, manh động, đồng thời xác định rõ là phải hết sức
chǎm lo giáo dục, tổ chức quần chúng thành những lực
lượng cách mạng tự giác, phải dựa vào phong trào cách
mạng thật sự có tính quần chúng sâu rộng, lấy giai cấp

công nhân và giai cấp nông dân làm nòng cốt để tiến hành
khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân.
Đảng ta sớm xác định rõ đặc điểm chính trị - xã hội của
nước ta là một nước thuộc địa, nửa phong kiến. ở đây bọn
đế quốc thi hành chế độ thống trị hết sức dã man, với một
bộ máy bạo lực phản động để thẳng tay đàn áp phong trào
đấu tranh cách mạng của nhân dân ta.
Đặc điểm trên quy định phương pháp cách mạng dân tộc
dân chủ ở nước ta là con đường cách mạng bạo lực. Chỉ
bằng sức mạnh bạo lực cách mạng của quần chúng mới
đánh đổ được bộ máy bạo lực phản cách mạng của đế
quốc và các thế lực tay sai.
Trải qua ba cao trào cách mạng ngày càng phát triển rộng
lớn bằng những lực lượng cơ bản và những hình thức đấu
tranh cơ bản của phương pháp cách mạng bạo lực quần
chúng Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám nǎm
1945 thành công. Trong hai cuộc kháng chiến lâu dài, đánh
thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng ta vẫn sử dụng
phương pháp cách mạng bạo lực, kết hợp chặt chẽ hai lực
lượng và hai hình thức đấu tranh cơ bản là chính trị và
quân sự.
Từ thực tiễn trên đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
của Đảng đã tổng kết những vấn đề cơ bản của phương
pháp tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam
nước ta là sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng:
lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân
dân; tiến hành khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi
nghĩa và từ khởi nghĩa từng phần chuyển sang tiến hành
chiến tranh cách mạng; kết hợp khởi nghĩa quần chúng với
chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến công và

nổi dậy; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi,
nông thôn đồng bằng và thành thị; đánh địch bằng cả hai
mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận; kết hợp ba
thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân
du kích; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính
quy; kết hợp đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ, thực hiện
làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; nắm
vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết
tạo thời cơ và nắm vững thời cơ, mở những trận tiến công
chiến lược làm thay đổi nhanh chóng cục diện chiến tranh,
tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy rộng khắp đè
bẹp quân địch, giành thắng lợi cuối cùng.
Sử dụng bạo lực cách mạng với sự kết hợp chặt chẽ hai
lực lượng chính trị, quân sự và hai hình thức đấu tranh
chính trị - quân sự là nội dung cơ bản của phương pháp
cách mạng đánh bại bọn đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai
của chúng.
Đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cơ bản, có ý
nghĩa quyết định trong mọi thời kỳ phát triển của cách
mạng. Phong trào đấu tranh chính trị của đông đảo quần
chúng có sức tiến công và tạo ra thế uy hiếp địch rất to lớn.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng việc xây dựng các
lực lượng chính trị. Các đoàn thể quần chúng cách mạng
thật sự là những đội quân đấu tranh chính trị chống địch ở
khắp nông thôn và thành thị. Khi thời cơ xuất hiện, khi kẻ
địch bị thất bại và hoang mang cực độ, những lực lượng
chính trị đông đảo có tổ chức của quần chúng, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, đã giữ vai trò quan trọng trong việc
giành thắng lợi của cách mạng. Trong tình thế chiến tranh

quyết liệt, những lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị
của quần chúng vẫn giữ vai trò to lớn trong việc phối hợp
với lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang để tiến công
uy hiếp quân địch, góp phần giành thắng lợi.
Nhưng chỉ có lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị thì
sức mạnh đấu tranh của quần chúng không phát huy được
đầy đủ. Đấu tranh chính trị tất yếu phải được kết hợp với
đấu tranh vũ trang mới đánh bại được hoàn toàn quân
địch.
Đấu tranh vũ trang cũng là hình thức đấu tranh cơ bản có
tác dụng trực tiếp tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch, đập tan
những âm mưu và hành động chính trị, quân sự của
chúng. Nhất là những lúc tình thế chiến tranh quyết liệt thì
việc phát triển lực lượng vũ trang và hình thức đấu tranh
vũ trang nổi lên hàng đầu. Nhưng nếu chỉ có lực lượng vũ
trang và đấu tranh vũ trang thì cũng không phải phát huy
được hết bản lĩnh và sức mạnh chiến đấu của quân đội
cách mạng, mà có khi lại rơi vào thế phòng ngự, bị động,
thậm chí có thể thất bại, vì mất đi mối liên hệ với quần
chúng - nguồn sức mạnh vô tận của quân đội cách mạng.
Vì thế, đấu tranh vũ trang tất yếu phải kết hợp với đấu
tranh chính trị mới tạo được sức mạnh tổng hợp đánh bại
hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi cao nhất.
Trải qua đấu tranh lâu dài, Đảng ta không những đã nhận
thức và xác định rõ mối quan hệ có tính quy luật giữa hai
lực lượng và hai hình thức đấu tranh cơ bản trên đây, mà
còn giải quyết thành công trong thực tiễn mối quan hệ kết
hợp ấy một cách linh hoạt, sáng tạo. Hai lực lượng và hai
hình thức đấu tranh chính trị và quân sự được kết hợp chặt
chẽ, nhưng không nhất loạt đặt ở vị trí ngang nhau ở mọi

nơi và mọi lúc. Tùy theo tương quan lực lượng giữa ta và
địch và nhiệm vụ chính trị cụ thể ở từng địa bàn chiến lược
khác nhau mà vận dụng sự kết hợp ấy cho sát.
Miền rừng núi địa hình hiểm trở thường được chọn làm
cǎn cứ địa cách mạng và kháng chiến, là nơi đóng quân và
huấn luyện bộ đội chủ lực của ta, v.v Thế và lực của địch
ở đây thường yếu và bất lợi hơn ta. Vì vậy, ta có điều kiện
lấy đấu tranh quân sự tiêu diệt lực lượng địch là chủ yếu.
Nhưng phải coi trọng xây dựng lực lượng chính trị và kết
hợp đấu tranh chính trị của quần chúng.
Nông thôn đồng bằng là nơi đông dân, nhiều của, kẻ địch
thường ra sức giành giật sức người, sức của với ta. Về cơ
sở và tiềm nǎng, lực lượng địch ở đây thường yếu hơn ta,
nhưng khi chúng tập trung lực lượng càn quét, đóng thêm
đồn bốt, thì có nơi chúng tạm thời mạnh hơn. Do vị trí quan
trọng và tính chất giành giật giữa địch và ta như trên, nên
phương châm chỉ đạo đấu tranh của Đảng ở nông thôn
đồng bằng là tiến hành song song cả đấu tranh quân sự và
đấu tranh chính trị, coi trọng xây dựng cả lực lượng chính
trị và lực lượng quân sự tại chỗ, kết hợp chặt chẽ giữa
chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch với bảo vệ cơ sở,
bảo vệ lực lượng và tính mệnh, tài sản của nhân dân.
Nông thôn đồng bằng phải luôn luôn là địa bàn vững chắc,
đấu tranh mạnh mẽ, phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ trực tiếp
cho việc xây dựng cơ sở và đấu tranh ở các thành phố, thị
xã.
Thành thị là địa bàn xung yếu, địch thường tập trung ở đây
những lực lượng mạnh và tinh nhuệ nhất. Hoạt động và
đấu tranh của các lực lượng và cơ sở cách mạng trong
thành thị mang ý nghĩa chiến lược rất quan trọng và có

nhiều khó khǎn, phức tạp hơn so với các địa bàn chiến
lược khác. Nhưng Đảng ta luôn luôn có phương châm chỉ
đạo và có hình thức đấu tranh thích hợp, khoét sâu và lợi
dụng được những mặt yếu, mặt sơ hở của địch, nhất là về
mặt chính trị, tinh thần, vì thế Đảng ta thường phát động
được những phong trào đấu tranh chính trị rộng lớn ở khắp
các thành phố, thị xã, gây tiếng vang lớn trong nước và
trên thế giới. Nói chung, thành thị phải lấy việc xây dựng
cơ sở, phát triển lực lượng và đấu tranh chính trị chống
địch là chủ yếu, có kết hợp với lực lượng quân sự và đấu
tranh quân sự ở mức độ thích hợp. Khi tương quan lực
lượng chung đã thay đổi có lợi cùng tình thế và thời cơ
thuận lợi có thể tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, Đảng
lãnh đạo tiến hành tổng tiến công và nổi dậy mạnh mẽ
bằng cả hai lực lượng và hai hình thức đấu tranh chính trị
và quân sự ngay ở các trung tâm đô thị lớn. Cuộc tổng
khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám nǎm 1945, và cuộc
Tổng tiến công kết hợp quần chúng nổi dậy giải phóng Sài
Gòn cùng toàn miền Nam trong những ngày cuối tháng 4-
1975 là những thành công xuất sắc nhất về nghệ thuật chỉ
đạo, phương pháp đấu tranh cách mạng của Đảng ta.
Kết hợp chặt chẽ hai lực lượng, hai hình thức đấu tranh
như trên cùng với sự triển khai đều khắp trên cả ba vùng
chiến lược với quy mô và phương thức thích hợp, đã tạo ra
thế chiến lược vững chắc của cách mạng và chiến tranh
nhân dân, đã phát huy cao nhất sức mạnh của hai động
lực cách mạng cơ bản là công nhân và nông dân. Từ đó
cách mạng nước ta luôn luôn đứng vững ở cả nông thôn
và thành thị; không nơi nào, lúc nào không có cơ sở và
không có lực lượng được tổ chức một cách phù hợp. Do

đó, khi có tình thế và thời cơ thuận lợi đã kịp thời phát
động được những phong trào cách mạng có tính chất quần
chúng sâu rộng, đều khắp ở cả nông thôn và thành thị, tạo
thế phát triển liên hoàn và hỗ trợ nhau một cách tích cực
dưới sự lãnh đạo thống nhất của các tổ chức Đảng từ trên
xuống dưới.
Tiến hành đồng thời và phối hợp chặt chẽ các phong trào
cách mạng ở nông thôn và thành thị trong tất cả các thời
kỳ là một kinh nghiệm lớn của cách mạng Việt Nam, phù
hợp với những điều kiện địa lý, dân cư và truyền thống của
nhân dân ta, nên đã phát huy được lớn nhất sức mạnh
toàn dân, giành thắng lợi kịp thời và nhanh chóng vào
những thời điểm lịch sử quyết định.
Khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa trong Cách
mạng Tháng Tám 1945 và tiến hành "đồng khởi" chuyển
sang chiến tranh cách mạng ở miền Nam trong thời kỳ
chống Mỹ, là sự phát triển hợp quy luật của phương pháp
cách mạng bạo lực ở Việt Nam. Trong chiến tranh cách
mạng, công kích quân sự vẫn kết hợp chặt chẽ với khởi
nghĩa quần chúng, phối hợp nhịp nhàng giữa tiến công
quân sự và phong trào nổi dậy của quần chúng ở cả nông
thôn và thành thị với những khẩu hiệu và hình thức đấu
tranh thích hợp.
Kết hợp công kích quân sự và nổi dậy của quần chúng
được thực hiện trên những địa bàn rộng lớn với quy mô
chiến dịch, nhưng cũng có thể vận dụng khéo léo với
những hình thức và mức độ thấp hơn trong từng trận đánh
giữa tiêu diệt đồn bốt địch với phá ấp chiến lược, giành
quyền làm chủ thôn ấp, ruộng vườn của nhân dân. Sự nổi
dậy của quần chúng trong chiến tranh thường diễn đi, diễn

lại trong thế giằng co giữa địch và ta, nên phải khéo kết
hợp tiến công địch với giành quyền làm chủ ở mức độ
thích hợp, vừa tiêu hao, tiêu diệt được địch, vừa bảo vệ
được nhân dân, bảo vệ được cơ sở và giữ gìn được lực
lượng.
Mối quan hệ giữa công kích quân sự và nổi dậy của quần
chúng trong chiến tranh cách mạng ở nước ta là mối quan
hệ phối hợp tích cực giữa các lực lượng chính trị và quân
sự và các hình thức đấu tranh chính trị, quân sự dưới sự
chỉ đạo thống nhất của đường lối chính trị, quân sự và
phương pháp cách mạng của Đảng. Quần chúng nổi dậy
tạo điều kiện cho chiến tranh phát triển thuận lợi, có tác
dụng mở rộng địa bàn, tạo thế đứng chân cho lực lượng
quân sự hoạt động, đồng thời đóng vai trò một mũi tiến
công lợi hại từ trong hậu phương của địch. Ngược lại,
công kích quân sự càng mạnh, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực
địch ngày càng nhiều, thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho
quần chúng nổi dậy.
Trong quá trình chiến tranh, sự nổi dậy của quần chúng có
thể đi trước, hoặc công kích quân sự có thể đi trước, tuỳ
theo điều kiện cụ thể về tương quan lực lượng và nhiệm vụ
chính trị ở từng nơi. Nhưng ở thời kỳ kết thúc, tổng công
kích quân sự phải đi trước một bước, tạo điều kiện cho
quần chúng nổi dậy phối hợp tiến công, tạo sức mạnh tổng
hợp to lớn đè bẹp quân thù, giành thắng lợi hoàn toàn.
Cách mạng nước ta có đặc điểm là thường phải đương
đầu với những tên đế quốc và các thế lực phản động lớn
mạnh. Chúng lại thường cấu kết và thay thế nhau chống
phá cách mạng nước ta hết sức dai dẳng, hàng mấy thập
kỷ. Phương châm tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng ta

là quyết tâm chiến đấu lâu dài, đánh lui từng bước, đánh
đổ từng bộ phận kẻ địch, giành thắng lợi từng phần, tiến
lên giành thắng lợi hoàn toàn. Tương quan lực lượng lúc
đầu giữa địch và ta thường chênh lệch nhiều, chưa có lợi
về phía ta, nên phải biết cách đánh và cách thắng để từng
bước khắc phục được sự bất lợi ban đầu, vừa giữ vững
được vị trí và thành quả cách mạng đã giành được, vừa
tạo thêm thế và lực để tiến lên vững chắc. Nắm vững
phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết tạo
thời cơ, nắm vững thời cơ, mở những cuộc tiến công chiến
lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện
tiến công và nổi dậy mạnh mẽ đè bẹp hẳn sức chống cự
của quân địch để giành thắng lợi cuối cùng, là một trong
những cách đánh và cách thắng sát đúng với đặc điểm và
thực tiễn cách mạng nước ta.
Tư tưởng chỉ đạo của phương châm trên là kết hợp tinh
thần cách mạng tiến công với những hình thức và bước đi
vững chắc. Nó hoàn toàn khác với quan điểm trường kỳ
mai phục, chờ đợi thời cơ, phòng ngự thụ động, hay phiêu
lưu, nóng vội. Nắm vững phương châm chiến lược trên,
cách mạng nước ta luôn luôn giành được thế chủ động tiến
công bằng những hình thức và quy mô thích hợp, ngay cả
những khi lực lượng còn nhỏ hơn địch. Khi đã giành được
những thắng lợi có tính chất quyết định và tương quan lực
lượng đã thay đổi có lợi thì kiên quyết tiến lên làm chủ tình
thế, làm chủ chiến trường, khoét sâu và lợi dụng những
mâu thuẫn, những sai lầm, sơ hở của địch, tạo ra thời cơ
thuận lợi lớn để giành thắng lợi hoàn toàn. Thực tiễn cuộc
kháng chiến chống Pháp và nhất là cuộc kháng chiến
chống Mỹ ở miền Nam, đã thể hiện một cách sinh động và

chứng minh sự đúng đắn của phương châm chiến lược
trên.
Trong quá trình chỉ đạo, có nơi, có lúc cũng nảy sinh
những tư tưởng và hành động chủ quan, nóng vội, muốn
đánh lớn, kết thúc chiến tranh nhanh, khi tương quan lực
lượng giữa ta và địch chưa thật có lợi về phía ta, nên ít
nhiều đã gây thêm khó khǎn, thiệt hại, làm chậm sự phát
triển của cuộc chiến đang tiến tới thắng lợi. Trong kháng
chiến chống thực dân Pháp, từ đầu những nǎm 50, chúng
ta đã sớm nêu khẩu hiệu "tích cực cầm cự và chuyển
mạnh sang tổng phản công" mà không có sự quán triệt,
nhận thức đúng đắn nên đã phát sinh tư tưởng chủ quan,
khinh địch, nặng về tác chiến tập trung, xem nhẹ những
hoạt động chiến tranh du kích, xem nhẹ việc xây dựng thế
trận chiến tranh nhân dân vững chắc Những cuộc Tổng
tiến công mùa Xuân 1968 và Xuân Hè 1972 ở miền Nam
trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ ít nhiều đã mắc
lại những khuyết điểm và thiệt hại tương tự.
Kết hợp chặt chẽ ba mặt chính trị, quân sự và ngoại giao là
một phương thức đấu tranh và giành thắng lợi sát hợp với
truyền thống và đặc điểm của cách mạng nước ta và xu
thế khách quan của thời đại được mở ra từ sau những
thắng lợi lịch sử của các lực lượng cách mạng và tiến bộ
trên thế giới như Cách mạng Tháng Mười Nga thành công
và chiến thắng chủ nghĩa phátxít trong Chiến tranh thế giới
lần thứ hai v.v Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn
trân trọng, kế thừa và phát huy truyền thống, kinh nghiệm
của ông cha, luôn biết lấy chính nghĩa để thắng bạo tàn,
giương cao ngọn cờ chính nghĩa đấu tranh bảo vệ chủ
quyền độc lập thiêng liêng của đất nước để đánh thắng

mọi thế lực bành trướng, xâm lược. Đồng thời luôn luôn
gắn liền cách mạng nước ta với phong trào cách mạng các
nước, kết hợp chặt chẽ việc thúc đẩy phong trào cách
mạng ở trong nước với sự vận động các lực lượng cách
mạng và tiến bộ trên thế giới, cùng phối hợp hành động
chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc, thực dân.
Nguyên tắc chỉ đạo sự kết hợp chặt chẽ ba mặt đấu tranh
trên đây, trước hết phải lấy đấu tranh chính trị và đấu tranh
quân sự trên chiến trường là chính. Chỉ trên cơ sở những
thắng lợi về chính trị và quân sự đã giành được mới có khả
nǎng, điều kiện đấu tranh ngoại giao có kết quả. Không có
thắng lợi toàn diện của chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954
mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử thì không
thể buộc thực dân Pháp phải đàm phán, thương lượng, ký
Hiệp định Giơnevơ nǎm 1954, kết thúc chiến tranh. Cũng
như không có những thắng lợi to lớn cả về chính trị và
quân sự đánh bại các hành động chiến tranh của đế quốc
Mỹ trên cả nước ta, đặc biệt là hơn ba nǎm đương đầu và
đánh thắng đội quân viễn chinh Mỹ trên chiến trường miền
Nam, mà đỉnh cao là các cuộc tổng tiến công chiến lược
nǎm 1968 và nǎm 1972 thì không thể buộc đế quốc Mỹ
ngồi vào bàn đàm phán thương lượng tìm giải pháp kết
thúc chiến tranh, rút quân về nước theo Hiệp định Pari đầu
nǎm 1973.
Kết hợp chặt chẽ ba mặt đấu tranh chính trị, quân sự và
ngoại giao là sự chỉ đạo nhất quán của Đảng trong suốt
quá trình cách mạng nước ta trước đây, đặc biệt là trong
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Ngay từ đầu hai cuộc kháng chiến trên, trong nhiều chỉ thị,
nghị quyết và lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí

Minh luôn đặt rõ quyết tâm chiến lược là đánh bại mọi âm
mưu và hành động quân sự, chính trị của địch; đồng thời
cũng luôn nêu cao thiện chí hoà bình thương lượng và mở
ra những khả nǎng và điều kiện đàm phán, đình chiến, tìm
giải pháp kết thúc chiến tranh, từng bước buộc đối phương
phải chấp nhận những mục tiêu, yêu cầu cơ bản của ta là
hoàn toàn độc lập và thống nhất đất nước.
Trong quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng ta luôn kiên
định những mục tiêu chiến lược cơ bản, đồng thời mềm
dẻo về chủ trương sách lược và linh hoạt về hình thức, giải
pháp thương lượng. Từng thời kỳ với những điều kiện lịch
sử cụ thể, cần thiết và có sự nhân nhượng nhất định với
đối phương trên một số vấn đề cụ thể và có giới hạn,
không có phương hại đến những lợi ích cơ bản, lâu dài
của cách mạng và không làm giảm sút tinh thần đấu tranh
của quần chúng để đi tới mục tiêu cuối cùng của cuộc
chiến giữa ta và địch Hiệp định sơ bộ ngày 6-9-1946 có
tính chất hoãn chiến và Hiệp định Giơnevơ ngày 20-7-1954
đi tới kết thúc chiến tranh với thực dân Pháp, cũng như
Hiệp định Pari ngày 27-1-1973 buộc đế quốc Mỹ phải rút
toàn bộ quân viễn chinh và quân các nước chư hầu ra khỏi
miền Nam nước ta, là sự thể hiện đúng đắn nguyên tắc
trên.
Luôn luôn giành và giữ được thế chủ động là một kinh
nghiệm lớn về nghệ thuật chỉ đạo đấu tranh ngoại giao của
Đảng ta. Trong đấu tranh cách mạng nói chung và đấu
tranh ngoại giao nói riêng, giành và giữ được thế chủ động
là một tiền đề quan trọng cho việc đi tới thắng lợi. Thế chủ
động được hình thành một cách khách quan từ những
thắng lợi về chính trị và quân sự đã giành được cùng với

thực lực của cách mạng đã phát triển. Nhưng sử dụng,
phát huy được hay không và nhiều hay ít vào từng hình
thức, phương pháp đấu tranh lại tùy thuộc vào nǎng lực
lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, nhanh nhạy nhiều hay ít. Đấu
tranh ngoại giao được thể hiện trước hết ở: nắm đúng thời
cơ đưa ra những "sáng kiến ngoại giao" đúng nơi, đúng lúc
với những yêu cầu và điều kiện hợp lý, có tính thuyết phục,
dễ tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi trên thế
giới, làm đối phương bị động, đối phó lúng túng và khó bề
từ chối việc đàm phán, thương lượng theo điều kiện của
ta. Từ đây mở rộng khả nǎng kết hợp đấu tranh trực tiếp
với đối phương trong cuộc đàm phán và những hoạt động
đối ngoại, vận động, thuyết phục các lực lượng cách mạng
và tiến bộ trên thế giới ngày càng đồng tình, ủng hộ ta và
gây sức ép với đối phương phải nhượng bộ. Cuộc đấu
tranh ngoại giao với đế quốc Mỹ ở Pari trong gần 5 nǎm
đàm phán thương lượng đã thể hiện rõ kinh nghiệm trên.
Giữ vững tính độc lập, tự chủ là một nguyên tắc chỉ đạo
đấu tranh ngoại giao và hoạt động đối ngoại nói chung của
Đảng và Nhà nước ta. Nó xuất phát từ nét đặc trưng mang
tính khách quan của mặt hoạt động này là quan hệ rộng rãi
với nhiều nước, giao tiếp với nhiều chính kiến, quan điểm,
lợi ích chung và riêng khác nhau. Trước hết phải lắng
nghe, tìm hiểu hết mọi tiếng nói, mọi quan điểm, mọi chính
kiến với phương pháp phân tích, xét đoán đúng đắn, theo
tinh thần độc lập, tự chủ. Trong cuộc đấu tranh chính nghĩa
vì độc lập, tự do của nhân dân ta, ngày càng được sự
đồng tình, ủng họ rộng rãi của nhiều nước, của hết thảy
các lực lượng cách mạng và tiến bộ ở khắp các nước,
trước hết là các đảng cộng sản và công nhân theo chủ

nghĩa Mác - Lênin. Nhưng trên từng vấn đề cụ thể của ta,
sự đồng tình, ủng hộ đó không phải không mang theo quan
điểm, tư tưởng gắn với lợi ích riêng của mỗi nước. Với tinh
thần độc lập, tự chủ, Đảng ta và Nhà nước ta trân trọng
tiếp nhận vấn đề gì là khách quan, cần thiết với trách
nhiệm cao cả trước lợi ích của nhân dân và đất nước.
Nhưng không phải không có lúc, có việc chúng ta đã sai
phạm tinh thần trên, nên đã dễ tin và nghe theo ý kiến của
nước này, nước khác trong đấu tranh ngoại giao, đàm
phán ký kết Hiệp định Giơnevơ về đình chiến ở Đông
Dương (7-1954), ít nhiều đã gây thiệt hại và bất lợi cho
cuộc đấu tranh của chúng ta.
Tóm lại, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám nǎm 1945,
của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, đã chứng minh sự đúng đắn và thành công của
phương pháp cách mạng cùng những nguyên tắc, tư
tưởng chỉ đạo trên đây của Đảng ta. Bằng việc sử dụng
nhiều lực lượng, nhiều hình thức đấu tranh, kết hợp các
hình thức, các lực lượng một cách hài hoà, Đảng ta đã tạo
ra sức mạnh tổng hợp của cách mạng dân tộc dân chủ ở
nước ta, đủ sức đánh bại những thế lực đế quốc và phản
động lớn. Có thể nói, phát huy sức mạnh tổng hợp là một
nét đặc sắc của phương pháp cách mạng Việt Nam và là
quy luật phát triển thắng lợi của cách mạng nước ta. Đây là
một bài học thành công và kinh nghiệm tốt, cần và có thể
vận dụng phát triển trong giai đoạn cách mạng mới.
III- PHÁT HUY SỨC MẠNH TỔNG HỢP TRONG CÁCH
MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Sau khi hoàn thành về cơ bản những nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng Việt

Nam đã từng bước chuyển sang thời kỳ quá độ tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội với đặc điểm lớn nhất là từ một
nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đảng ta cần và có thể tìm ra những nội dung, cách
thức và biện pháp thích hợp với tinh thần nỗ lực và sáng
tạo cao nhất.
Biết cách tạo ra và phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi
nhân tố, mọi lực lượng kinh tế - xã hội tham gia vào tiến
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một trong
những nội dung, cách thức và biện pháp ấy. Đây không chỉ
là sự kế thừa và phát triển bài học kinh nghiệm thành công
của cách mạng nước ta trong thời kỳ trước, mà còn là yêu
cầu cấp thiết mang tính tất yếu, hợp quy luật trên bước
đường đi lên của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới.
Tiến lên bằng sức mạnh tổng hợp không chỉ là quy luật của
một nước nhỏ đánh thắng những tên đế quốc lớn, mà còn
là quy luật của một nước từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa, không qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa.
Trước hết, trong đường lối chiến lược cách mạng xã hội
chủ nghĩa, Đảng ta cần xác định đúng đắn những mục tiêu,
nhiệm vụ cơ bản, những lực lượng, những thành phần kinh
tế - xã hội tham gia, cùng những mối quan hệ lợi ích cơ
bản, những chính sách và cơ chế hoạt động của chúng
v.v
Thực tiễn giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân
trước đây và những nǎm đầu thời kỳ quá độ xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa qua cho thấy không phải ngay từ đầu
chúng ta đã nhận thức được thật rõ và xác định được đúng
đắn tất cả các vấn đề cơ bản. Lúc đầu mới là sự định

hướng chiến lược cơ bản đúng đắn và phác thảo những
đường nét, những nọi dung nhiệm vụ mở đầu bước vào
giai đoạn cách mạng mới mà thôi. Trải qua mấy chục nǎm,
với thực tế: biết bao khó khǎn, phức tạp, cùng với những
thành tựu bước đầu và những sai lầm, khuyết điểm về một
số đường lối, chủ trương và cơ chế, chính sách cụ thể v.v.,
Đảng ta đã từng bước nhận thức rõ hơn về nội dung và
hình thức, bước đi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, thứ
IV và thứ V đến Đại hội lần thứ VI và thứ VII của Đảng với
chủ trương đổi mới và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
những vấn đề cơ bản trên đây mới ngày càng được nhận
thức rõ hơn và những nội dung, nhiệm vụ kinh tế- xã hội
mới dần dần được cụ thể hoá sát đúng với thực tiễn cách
mạng nước ta trong chặng đầu thời kỳ quá độ.
Trước sau như một, Đảng ta cùng nhân dân ta quyết tâm
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu
phấn đấu của Đảng ta và nhân dân ta trước đây cũng như
từ nay về sau để xây dựng một xã hội trong đó con người
thật sự được giải phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột, nhân dân
lao động làm chủ đất nước, có nền kinh tế phát triển cao
và nền vǎn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, công bằng
xã hội được bảo đảm. Đây là những lợi ích cơ bản nhất,
đồng thời cũng là lợi ích chung của mọi tầng lớp nhân dân
ta. Mọi người đều nhận thấy có quyền lợi và nghĩa vụ của
mình trong sự nghiệp chung xây dựng chủ nghĩa xã hội
đưa lại những gì gần gũi, thiết thân với mọi người dân Việt
Nam yêu nước. Nó thể hiện trong thực tiễn một cách nhất

quán đường lối kết hợp giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã xác định ngay từ đầu. Từ đây mở rộng khả nǎng tập
hợp, phát huy mọi thành phần, lực lượng của đất nước
trong mặt trận dân tộc thống nhất, tạo thành sức mạnh
tổng hợp to lớn làm nên sự nghiệp dân giàu, nước mạnh.
Lực lượng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta là hệ thống chính trị gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã
hội, được tổ chức và hoạt động theo một cơ chế dân chủ,
bảo đảm đầy đủ quyền lực của nhân dân, dưới sự lãnh
đạo thống nhất của Đảng. Hệ thống chính trị là những
động lực, lực lượng cơ bản bảo đảm xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chỉ có tổ chức, điều hành một
cơ chế hoạt động thống nhất, một sự liên kết, phối hợp
hành động chặt chẽ như một thể hữu cơ giữa các lực
lượng trên thì mới phát huy được sức mạnh to lớn trong
đời sống kinh tế - xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chǎm lo xây
dựng và kiện toàn hệ thống chính trị, xem đó là điều cơ
bản nhất bảo đảm cho cách mạng thành công. Ngày nay,
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, hệ thống chính trị càng
cần được phát triển, đổi mới và hoàn thiện không ngừng từ
nội dung hoạt động, hình thức tổ chức và cơ chế chính
sách, v.v Thực chất của đổi mới và kiện toàn hệ thống
chính trị là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho mọi công dân thực sự là
người chủ công cuộc xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh
vực kinh tế, chính trị, xã hội, vǎn hoá, tinh thần Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng với tinh thần đổi

mới, đã nghiêm túc tự phê bình và phê bình, thẳng thắn chỉ
ra những khuyết điểm, hạn chế về mặt này trong những
nǎm đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Vai trò, hiệu lực cũng như cơ chế hoạt động của hệ thống
chính trị với tính cách là những động lực, những lực lượng
cơ bản trong công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh
theo con đường xã hội chủ nghĩa chưa được phát huy đầy
đủ.
Về những mối quan hệ cơ bản trong hoạt động kinh tế - xã
hội, Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thức, phát hiện
những mối quan hệ cơ bản như: kết hợp công nghiệp với
nông nghiệp, kết hợp các ngành kinh tế - kỹ thuật từ trung
ương đến các địa phương, vùng lãnh thổ thành một cơ cấu
kinh tế quốc dân thống nhất, kết hợp phát triển lực lượng
sản xuất và từng bước xác lập, hoàn thiện quan hệ sản
xuất mới với nhiều hình thức và trình độ khác nhau trên cơ
sở đa dạng hoá về sở hữu, kết hợp phát triển tiềm nǎng,
sức mạnh kinh tế trong nước với mở rộng quan hệ kinh tế
với các nước, kết hợp kinh tế với quốc phòng, v.v
Những mối quan hệ cơ bản nói trên không những ngày
càng được nhận thức và làm rõ trong các chủ trương, các
cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước, mà đã được
thể hiện cụ thể trong thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội ở
nước ta. Nhưng mỗi phương thức sản xuất xã hội là một
phương thức hoạt động kết hợp nhất định, với những mối
quan hệ kinh tế- xã hội hết sức đa dạng và phức tạp, nên
việc nhận thức, phát hiện cũng như sự vận dụng trong
thực tiễn phải là một quá trình tìm tòi, bổ sung và cụ thể
hoá không ngừng. Chỉ có như thế mới có thể giải quyết
được kịp thời và đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh

trong những mối quan hệ ấy. Thực tiễn những nǎm qua
cho thấy, chúng ta chỉ mới thấy được những nét cơ bản có
tính chất định tính, chứ chưa định lượng cụ thể được
những mối quan hệ nhiều mặt trong các hoạt động kinh tế -
xã hội nói chung và hoạt động sản xuất kinh doanh của các
ngành, các thành phần kinh tế nói riêng. Do đó, nhiều nơi,
nhiều lúc đã phát sinh những vướng mắc, lộn xộn, thậm
chí rối ren trong quan hệ hoạt động giữa các ngành, các
địa phương và các thành phần kinh tế mà Đảng và Nhà
nước đã phải có những giải pháp cấp bách để lập lại trật tự
và đưa dần vào nề nếp theo kỷ cương pháp luật.
Về tổ chức, quản lý và điều hành các hoạt động kinh tế - xã
hội một cách đồng bộ. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây
dựng cả một hình thái kinh tế - xã hội mới, bao quát mọi
lĩnh vực hoạt động của xã hội. Nó đặt trước Đảng và Nhà
nước ta công tác tổ chức thực tiễn rộng lớn. Không những
phải biết cách tập hợp, khai thác được hết thảy mọi tiềm
nǎng, mọi lực lượng kinh tế - xã hội vào quỹ đạo xã hội chủ
nghĩa, mà còn phải quản lý, điều hành được sự hoạt động
của chúng một cách đồng bộ, hài hoà hướng theo mục
tiêu, lợi ích chung của đất nước, cùng với mục tiêu, lợi ích
riêng của từng thành phần, từng lực lượng. Đồng thời, phải
phát hiện và ngǎn ngừa kịp thời những thành phần, những
lực lượng có khuynh hướng đi chệch khỏi quỹ đạo và mục
tiêu ấy. Trong điều kiện nền kinh tế còn phổ biển là sản
xuất nhỏ thì khuynh hướng trên dễ nảy sinh.
Về mặt này, thực tiễn những nǎm qua cho thấy chúng ta có
nhiều yếu kém, bất cập với yêu cầu quản lý, điều hành các
hoạt động kinh tế - xã hội trên tầm vĩ mô cả nước, cũng
như từng địa phương và đơn vị cơ sở; nhất là từ khi đổi

mới cơ chế quản lý sản xuất - kinh doanh theo nguyên tắc
hạch toán, tự chủ về vốn, vật tư, giá cả, v.v
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà
nước ta chủ trương phát triển có kế hoạch nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần với nhiều loại hình sở hữu,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế đa dạng và ngày càng phát
triển các tổ chức kinh doanh hỗn hợp dựa trên ba loại hình
sở hữu cơ bản. Với cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần,
trong đó kinh tế quốc doanh giữ những vị trí then chốt, liên
kết và hỗ trợ với các thành phần kinh tế khác, trước hết với
kinh tế tập thể, cùng phát triển có lợi cho quốc kế dân sinh.
Nó nhằm phát huy mọi tiềm nǎng vốn có trong các thành
phần kinh tế như: vốn, sức lao động, trình độ kỹ thuật, kinh
nghiệm quản lý, v.v., cùng góp phần tạo ra một nǎng lực
sản xuất to lớn của nền kinh tế quốc dân thống nhất.
Nhưng trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức quản lý kinh tế,
quản lý xã hội, phải luôn luôn thấy rõ đây là một thể thống
nhất có mâu thuẫn về từng lợi ích cụ thể nhất định của mỗi
thành phần kinh tế. Vì vậy, một mặt phải coi trọng phát huy
tính thống nhất, mặt tích cực; đồng thời không xem nhẹ
đấu tranh ngǎn chặn những hiện tượng, những hành vi tiêu
cực trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Có thể nói, ở đây
mọi kết quả, thắng lợi đều tuỳ thuộc ở nǎng lực lãnh đạo,
quản lý của các cấp, các ngành, với sự kết hợp chặt chẽ
các loại biện pháp kinh tế, hành chính, tổ chức và giáo dục.
Chỉ có như thế mới sử dụng được một cách có lợi nhất
những nhân tố tích cực trong sản xuất - kinh doanh của
các thành phần kinh tế, góp phần tạo nên sức mạnh tổng
hợp của các hoạt động kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam còn được
tạo thành bằng sự kết hợp đúng đắn sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ngày nay, trên cơ sở khai thác và phát huy tối đa
mọi tiềm nǎng, lực lượng trong nước, chúng ta cần và có
thể mở rộng quan hệ trao đổi, hợp tác sản xuất - kinh
doanh với các nước, các khu vực trên thế giới, tranh thủ
thêm nguồn vốn, công nghệ mới và thị trường xuất nhập
khẩu, phục vụ việc mở mang phát triển kinh tế, khoa học -
kỹ thuật và vǎn hoá - giáo dục của nước ta. Nhưng để bảo
đảm cho sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta luôn
luôn trong thế chủ động, trước hết phải dựa vào sức của
mình, không ỷ lại trông chờ bên ngoài, đồng thời mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại theo nguyên tắc giữ vững độc
lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Trong điều kiện quốc tế ngày nay, Đảng và Nhà nước ta có
chính sách kinh tế đối ngoại đúng đắn và bảo đảm môi
trường chính trị - xã hội ổn định là những điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của đất nước và quan hệ giao lưu,
hợp tác với bên ngoài được vững chắc.
Quy luật tạo thành sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh
cách mạng, cũng như mọi quy luật kinh tế - xã hội khác, chỉ
có thể phát huy được trong những tiền đề, điều kiện xác
định. Những tiền đề, điều kiện này là khách quan, nhưng
phải được nhận thức và tác động thúc đẩy. Trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần và có thể
tạo được những tiền đề, điều kiện kinh tế - xã hội - chính trị
nhất định cho sự vận dụng quy luật tạo thành sức mạnh
tổng hợp ngày càng có kết quả trong thực tiễn.
Trước hết, về cơ sở kinh tế phải tìm tòi, lựa chọn đổi mới

những hình thức quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ tổ
chức, quản lý và cơ sở vật chất - kỹ thuật trong từng chặng
đường phát triển nhất định của nước ta. Trong nền kinh tế
nhiều thành phần với nhiều loại sở hữu, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, nên có nhiều kiểu quan hệ sản xuất khác
nhau. Quá trình xã hội hoá nền sản xuất gắn với quá trình
tích tụ, tập trung đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa sẽ có
nhiều hình thức liên kết các thành phần kinh tế, trong đó có
vai trò nòng cốt của kinh tế quốc doanh ngày càng được
củng cố. Từ đó có thể hình thành một kiểu quan hệ hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ quá độ, làm
cơ sở kinh tế cho quy luật trên dần dần phát huy được tác
dụng.
Về điều kiện chính trị - xã hội, thấm nhuần sâu sắc quan
điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò quần chúng trong
lịch sử, Đảng ta luôn luôn thấy rõ sức mạnh cách mạng
của nhân dân lao động nước ta và đã phát huy sức mạnh
ấy đến mức cao nhất trong giai đoạn cách mạng trước đây.
Chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng
ta đã sớm khẳng định vai trò làm chủ của nhân dân lao
động trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
và đang ngày càng được thể chế hoá thành luật pháp và
cơ chế dân chủ hoá trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội.
Giữ vững sự lãnh đạo và chỉ đạo tập trung thống nhất của
Đảng và Nhà nước ta là điều kiện tiên quyết để tạo ra sức
mạnh tổng hợp trong đời sống kinh tế - xã hội - chính trị
của nước ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bằng những kinh nghiệm lịch sử của mình, Đảng ta luôn
luôn coi trọng giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa sự
lãnh đạo tập trung thống nhất với phát huy vai trò chủ

động, sáng tạo của các cấp, các ngành và thường xuyên
phát hiện, ngǎn ngừa những hiện tượng sai trái như tập
trung quan liêu, hoặc phân tán, cục bộ, bản vị, địa phương
chủ nghĩa, v.v
Sự lãnh đạo và chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng và
Nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân
chủ. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt
động kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa là kết hợp chặt chẽ
sự lãnh đạo và chỉ đạo tập trung của Đảng và Nhà nước
với phát huy cao độ tính tích cực của người lao động, tính
chủ động sáng tạo của các địa phương và cơ sở trong việc
khai thác tiềm nǎng, sức mạnh, góp phần tốt nhất vào việc
phát triển nền kinh tế quốc dân và tổ chức đời sống xã hội.
Theo Lênin, chế độ tập trung dưới chủ nghĩa xã hội phải
hiểu theo nghĩa thực sự dân chủ và phải áp dụng chế độ
tập trung dân chủ trong hoạt động kinh tế - xã hội. Nó bảo
đảm cho các ngành kinh tế, các tổ chức xã hội và các địa
phương trong cả nước có thể vừa hoạt động nhịp nhàng
trong một guồng máy thống nhất, lại vừa phát huy được
đầy đủ mọi tiềm nǎng, sáng kiến của mình để hoàn thành
tốt nhất mọi nhiệm vụ và góp phần nhiều nhất vào sự
nghiệp chung. Thực tiễn những nǎm qua cho thấy chúng ta
chưa quán triệt và thực hiện được tốt cả hai mặt trên của
nguyên tắc này, nên nhiều nơi, nhiều lúc đã nảy sinh
những khuynh hướng tư tưởng và việc làm sai trái làm hạn
chế thắng lợi.
Tóm lại, phát huy sức mạnh tổng hợp là một sáng tạo có
giá trị trong phương pháp cách mạng của Đảng ta. Nhưng
quy luật sức mạnh tổng hợp cũng như mọi quy luật kinh tế
- xã hội khác đều phải trải qua một quá trình nhận thức và

vận dụng trong thực tiễn mới thật sự phát huy đầy đủ tác
dụng.
Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ trước đây đã
trải qua các thời kỳ: Cách mạng Tháng Tám, kháng chiến
chống thực dân Pháp và kháng chiến chống đế quốc Mỹ,
sức mạnh tổng hợp mới ngày càng phát huy được tốt hơn.
Sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, với tất cả sự
mới mẻ và khó khǎn, phức tạp của nó, Đảng ta lại phải có
quá trình nhận thức, vận dụng mới, với những nội dung và
phương thức thích hợp. Thực tiễn hoạt động kinh tế - xã
hội những nǎm đầu thời kỳ quá độ vừa qua, tuy kết quả
vận dụng quy luật này còn nhiều hạn chế, nhưng Đảng ta
đã bước đầu rút ra được những kinh nghiệm quý để ngày
càng phát huy được sức mạnh tổng hợp to lớn trong công
cuộc đổi mới, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

×