Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Nhìn lại hải triều và cuộc tranh luận nghệ thuật năm 1936 1939

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.87 KB, 10 trang )

Nhìn lại Hải Triều và cuộc tranh luận nghệ thuật
năm 1936 – 1939 ở Việt Nam
Lịch sử lí luận văn học Mác xít Việt Nam không thể không nhắc đến
tên tuổi Hải Triều, nhà lí luận tiên phong. Sớm giác ngộ chủ nghĩa
Mác, sớm dịch, giới thiệu một số phần tác phẩmTư bản luận của Mác
vào Việt Nam, từ một nhà báo cách mạng sắc bén, bị giam cầm, được
tha, quản thúc, mở của hàng sách, vừa sinh sống vừa hoạt động Hải
Triều trở thành nhà lí luận mác xít đầu tiên ở Việt Nam. Hải Triều đã
nhận thấy vai trò quan trọng của lí luận văn học đối với cách mạng,
ông đã sớm có ý thức xây dựng quan niệm văn nghệ mác xít, biến văn
học thành công cụ đắc lực của cách mạng.
Có quan điểm mác xít là một chuyện, làm thế nào để đưa tư tưởng ấy
vào xã hội, gây thanh thế cho nó, lại là chuyện khác. Xét từ điểm này
ta thấy Hải Triều chính là người đã gây nên cuốc tranh luận nghệ
thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh sôi nổi nhất, kéo dài
nhất, số người tham gia đông nhất, có ảnh hưởng rộng lớn nhất từ
năm 1935 đến 1939 trong số các cuộc tranh luận văn nghệ ở Việt
Nam. Năm 1944 trong Văn học khái luận của Đặng Thai Mai nói đây
đã là câu chuyện cũ, thực ra là không đúng. Bởi trong cuốn sách đó,
Đặng Thai Mai vẫn giành nhiều trang để nói lại câu chuyện vị nghệ
thuật vị nhân sinh, mà cho đến những năm sau, trong các cuộc tranh
luận văn nghệ và tuyên truyền ở Việt Bắc vấn đề nêu trên lại quay trở
lại. Điều đó chứng tỏ tầm vóc cuộc tranh luận còn có ảnh hưởng lâu
dài.
Nói Hải Triều là người chủ động gây ra cuộc tranh luận để tuyên
truyền lí luận mác xít, là bởi vì, các hoạt động lí luận của ông đều do
ông chủ động khởi xướng, chứ không phải ông phải ứng phó, bị động.
Ông khởi xướng cuộc tranh luận duy vật, duy tâm với Phan Khôi.
Phan Khôi bị ông lôi vào cuộc. Ông là người chủ động tranh luận với
cụ Phan Sào Nam, cụ Phan Sào Nam bị ông lôi vào cuộc. Ở đây cụ
Phan chỉ là cái cớ để ông tuyên truyền quan niệm văn học là sản


phẩm của xã hội. Thiết nghĩ, nếu chỉ muốn trình bày tư tưởng ấy, Hải
Triều chỉ cần nêu, ngày xưa người ta hiểu văn học là văn trời, văn đất,
văn người, nay phải hiểu khác là văn của xã hội là được, không việc gì
phải lôi cụ Phan vào. Nhưng nếu làm như thế thì không mấy ai chú ý.
Vì cụ Phan là nhân vật nổi tiếng, danh vọng cao, uy tín lớn, cho nên
Hải Triều mượn danh cụ, mượn uy cụ, nhân cãi với cụ để gây chú ý
cho toàn xã hội về tư tưởng của mình. Có thể nói đó là nghệ thuật PR
gây thanh thế của Hải Triều, một thanh niên mới 26 tuổi.
Hiểu như vậy ta sẽ hiểu thêm, chính Hải Triều là người gây ra cuộc
tranh luận nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh.
Nguyên năm 1933,khi Thiếu Sơn viết bài Hai cái quan niệm văn học,
phê phán quan điểm của Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Học, đề cao văn
chương giáo huấn, tải đạo, coi đó là văn có ích, còn xem thơ, tiểu
thuyết chỉ là thứ văn chơi, không có giá trị gì. Phải nói rằng đó là một
quan niệm rất sai, có hại cho nền văn học mới, và việc Thiếu Sơn phê
bình hai ông là hoàn toàn đúng đắn và rất cần thiết. Thiếu Sơn không
hề nhằm nêu khẩu hiệu nghệ thuật vị nghệ thuật. Ông chỉ muốn
khẳng định rằng, văn học, thi ca, tiểu thuyết cũng là văn chương có
ích, vị nhân sinh, không phải văn chơi, thậm chí là có ích lâu dài hơn
văn chương học thuật, giáo huấn. Ông chỉ phê phán hai ông Quỳnh,
Học về quan niệm xem văn học thẩm mĩ là vô ích. Quan điểm của
Thiếu Sơn là rất quan trọng, nó nêu lên tính chất thẩm mĩ của nền
văn học mới, mà hai ông Quỳnh, Học, vì quan điểm thủ cựu trong
vấn đề này mà hạ thấp vai trò và giá trị của văn học nghệ thuật. Tiếp
theo đó, ông Hoài Thanh cũng khẳng định tính chất thẩm mĩ của văn
học trong bài Văn chương là văn chương, một thuộc tính mới của
văn học hiện đại so với văn học trung đại mà hai ông Quỳnh, Học đại
diện. Cuộc tranh luận này, nếu được tiếp tục, sẽ có ý nghĩa không nhỏ
đối văn học hiện đại Việt Nam trên con đường hiện đại hóa.
Nhưng cuộc thảo luận đó không thể xảy ra được, bởi vì Hải Triều đã

giật lấy cuộc tranh luận của Thiếu Sơn, mà gây ra cuộc tranh luận
khác: nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh. Phải nói
rằng ông Thiếu Sơn hoàn toàn không ngờ và không chuẩn bị, ông đã
bị Hải Triều đưa vào tròng, khi bị phê phán, ông đã phát biểu những
câu đúng là nghệ thuật vị nghệ thuật và bị Hải Triều phê phán không
thể nào chạy thoát được. Sang bài thứ hai của Thiếu Sơn, Nghệ thuật
với đời người, ông nêu quan niệm phân biệt nghệ thuật với tôn giáo,
chính trị, chủ nghĩa, mang hơi hướng của quan niệm “nghệ thuật vị
nghệ thuật”, “chủ nghĩa duy mĩ” rất thịnh hành ở phương Tây. Ông
chủ trương “chủ nghĩa” của văn chương là “phô bày cái đẹp”, còn các
chủ nghĩa khác có thể có ích cho đời, song tác dụng khác hẳn văn
học. Ông chủ trương “Muốn sống với nghệ thuật thì phải giải phóng,
phải thoát li với các thành kiến về luân lí, xã hội, chính trị, tôn giáo,
mà chỉ biết có nghệ thuật mà thôi”. Ông đã tự trở thành cái bia cho
ông Hải Triều bắn vào.
Về phía ông Hoài Thanh, lúc đầu ông Hải Triều không tranh luận với
Hoài Thanh, mà chính ông Hoài Thanh chủ động tranh luận với Hải
Triều. Nhân chuyện ông Hải Triều phê bình cuốn Kép Tư Bền của
Nguyễn Công Hoan, ông Hoài Thành không phục, cho nên lên tiếng
chỉ trích ông Hải Triều và nêu quan niệm văn học của mình, nhân thể
bộc lộ quan điểm văn học của ông. Nhân đó Hải Triều phê phán Hoài
Thanh một thể. Thế là ông Hoài Thanh lúc đầu chủ động, tự coi quan
điểm của mình là đúng, sau bị ông Hải Triều quay ngược lại phê bình,
ông Hai Triều chủ động, Hoài Thanh lại bị động, ứng phó. Diễn biến
cuộc tranh luận cho thấy tài năng, trí tuệ, vốn hiểu biết, chiến lược,
chiến thuật của ông Hải Triều đều rất cao tay. Nhờ cuộc thảo luận ấy
mà quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh, văn học bình dân và sau đó
văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa được truyền bá rất sớm vào xa hội
Việt Nam. Chỉ cần qua mấy số liệu sau đây để thấy tài nhạy bén của
ông Hải Triều. Năm 1933 ở Liên Xô mới có sách trích tuyển ý kiến

của Marx Engels bàn về nghệ thuật, năm 1934 , sau đại hội nhà văn
Liên Xô mới có đề xuất phương pháp hiện thục xa hội chủ nghĩa, mà
đến năm 1936- 39 Hải Triều đã giới thiệu các vấn đề đó vào Việt Nam
thì quả thật là mau lẹ. Cuộc tranh luận này đã là tiền đề cho đồng chí
Trường Chinh khởi thảo Đề cương văn hóa năm 1943 và để Đặng
Thai Mai viết Văn học khái luận năm 1944. Hải Triều đúng là nhà lí
luận tiên phong, đã nhạy bén truyền bá lí luận mác xít và lí luận văn
học mác xít vào Việt Nam. Công lao đó sẽ còn được nhắc mãi. Đối với
văn học, cuộc tranh luận đã nâng cao ý thức tự giác của nhà văn đối
với sự nghiệp văn học của mình. Nhà văn bây giờ không thể sáng tác
chỉ do thích thú cá nhân mà không quan tâm tới xã hội được nữa, và
đó cũng là thành tựu to lớn của cuộc tranh luận.
Tuy nhiên, ngày nay nhìn lại, xét từ nhu cầu hiện đại hóa khách quan
của nền văn học và quan niệm văn học Việt Nam, từ giả các quan
niệm cổ lỗ lỗi thời thời trung đại, thì ta phải thấy rằng, quan niệm của
Thiếu Sơn cũng như quan niệm của Hoài Thành về cơ bản không phải
là quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật. Đọc bài Văn học bình dân của
Thiếu Sơn, đọcVăn chương và hành động, Xin mach một nguồn
văn, thì thấy rõ hai ông này không hề phủ nhận văn học vị nhân sinh,
không hề coi cái đẹp là vô ích như Theophile Gautiere chủ trương,
mà chủ trương khẳng định tính đặc thù của văn học nghệ thuật, và
chức năng đặc thù của văn học ấy. Tôi đã có bài khẳng định Hoài
Thanh cũng như Thiếu Sơn là người đầu tiên nêu thuộc tính thẩm mĩ
của Văn học trong văn học Việt Nam hiện đại. Hải Triều là người đầu
tiên khẳng định bản chất xã hội, tính chất xã hội của văn học. Tính xã
hội và tính thẩm mĩ đều là hai thuộc tính căn bản của nền văn học
hiện đại. Đáng tiếc là do điều kiện xã hội đương thời, đặc biệt là
không khí đấu tranh giai cấp, đấu tranh ý thức hệ, và phân nào vì
định kiến đã làm cho một trong hai thuộc tính quan trọng ấy bị trở
thành đối đầu, thậm chí thù địch và tính thẩm mĩ bị thua trong một

thời gian dài. Điều đó làm hạn chế sự phát triển của bản thân văn
học, nhất là văn học cách mạng. Phải đến thời đổi mới bản tính thẩm
mĩ mới thực sự được thừa nhận.
Tranh luận nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh là
cuộc tranh luận của phương Tây, nảy sinh ở phương Tây. Cuộc tranh
luận ở Việt Nam chỉ là tia hồi quang, là cái bóng của cuộc tranh luận
ấy. Trong cuộc tranh luận của mình ông Hải Triều và các đồng chí của
ông phần nào đã đem cuộc đối đầu nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ
thuật vị nhân sinh ở nước ngoài áp dụng vào Việt Nam, chụp lên
Thiếu Sơn, Hoài Thanh, tạo nên phái vị nghệ thuật của Việt Nam,
dùng đó làm cái bia để đấu tranh phê phán. Thành ra sự phê phán có
thể đúng về phương diện lí thuyết và ý thức hệ, mà không thật đúng
người, đúng việc ở trong nước. Ông Hoài Thanh đã nổi khùng và
tuyên bố “một lời vu cáo đê hèn”, vì ông chỉ chủ trương sự khác biệt
giữa văn học nghệ thuật và các sang tác khác phi văn học, như báo
chí, phóng sự, chính luận. Tất nhiên sự phân biệt nhà văn và người
cầm bút… của ông chưa được thuyết phục lắm, song nói cho đúng,
cho đến bây giờ, về lí thuyết sự xác định đặc trưng văn học nghệ thuật
với các sáng tác phi văn học vẫn còn là một vấn đề rất khó, chưa được
giải quyết xong xuôi, nhất là trong thời hiện đại, hậu hiện đại.
Một mặt, cần phân biệt văn học và phi văn học, như mong muốn của
các ông Hoài Thanh và Thiếu Sơn, và mặt khác khái niệm văn học
của hai ông rất mơ hồ về nội hàm và ngoại diên, cho nên lí thuyết
phân biệt chưa thể giải quyết rốt ráo vấn đề này, do đó lập luận lúng
túng của hai ông là dễ hiểu. Về một mức độ nào đó phê bình của ông
Hải Triều ít nhiều có tính chất quy chụp, mặc dù các ông Hoài
Thanh, xét về sự non nớt của các ông thì bị phê bình cũng không oan.
Chúng ta nên nhớ các ông này lúc ấy chỉ mới 26, 27 tuổi. Chúng ta
phải nghiêng mình khâm phục tài ba khác thường của họ, cho dù có
chút ít non nớt của tuổi tác.

Điểm thứ ba, xét về cung cách tranh luận, chúng ta biết, tranh luận
nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh là sản phẩm của
phương Tây, bắt nguồn từ điều kiện xã hội. Đầu thế kỉ XIX ở Nga
cũng có nghệ thuật vị nghệ thuật, giữa thế kỉ XIX ở Pháp có chủ nghĩa
duy mĩ của Th. Gotiere, Baudelaire, Mallarrme, ở Mĩ có Oscar Wild,
các quan điểm này cũng xuất hiện ở Nhật bản, và đầu thế kỉ XX xuất
hiện ở Trung Quốc và Việt Nam. Quan điểm duy mĩ của Wild lại có
tính chất thương mại. Ông chủ trương cái đẹp đi trước hướng dẫn
cuộc sống. Luân Đôn có sương mù, nhưng chỉ từ khi có họa sĩ vẽ cái
đẹp của sương mù thì người Luân Đôn mới thấy sương mù là đẹp.
Nghệ thuật thời trang phải tạo ra các mod mới, sau đó người ta mới
bắt đầu sử dụng các mod vào đời sống. Ró rang nghệ thuật dạy cho
người ta sống đẹp. Như thế mọi người thưởng thức, ăn mặc theo cái
đẹp của nghệ thuật. Đương thời Plekhanov giải quyết lí thuyết nghệ
thuật vị nghệ thuật bằng cách nêu câu hỏi, vì sao mà người ta có xu
hướng nghệ thuật vị nghệ thuật. Đó là vì nghệ sĩ bất hòa với xã hội. Đi
tìm nguyên nhân ở xã hội hơn là phán xét đúng sai. Hải Triều cũng
đọc Plekhanov, nhưng ông chưa học được bài học này. Ở Trong Quốc
vào năm 1921 Hội nghiên cứu văn học do Mao Thuẫn, Chu Tác Nhân,
Diệp Thánh Đào 21 người chủ trương văn học vị nhân sinh, chủ
trương chủ nghĩa hiện thực, văn học bình dân, quan tâm phơi bày
mọi ung nhọt đời sống, tố cáo hiện thực đen tối. Cùng thời Quách
Mạt Nhược, Thành Phỏng Ngô, Úc Đạt Phu…thành lập Sáng tạo xã ,
chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật, văn học sang tạo từ bản ngã cái
tôi, biểu hiện lí tưởng, tôn thờ cái đẹp, thoát li nhân sinh. Hai bên
cũng tranh luận, nhưng không sát phạt gay gắt. Chẳng bao lâu, phái
nghệ thuật vị nghệ thuật thừa nhận nghệ thuật có ích cho nhân sinh,
Quách Mạt Nhược theo văn học cách mạng, văn học vô sản, rồi hai
phái xích gần nhau. Trong khi đó thì ở Việt Nam hai quan niệm đối
lập tuyệt đối về quan điểm. Điều đó chứng tỏ chúng ta chưa hiểu hết

quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật ở phương Tây, mà ít nhiều còn
mang định kiến.
Xét về quan niệm văn nghệ mác xít, thì đương thời, trình bày quan
niệm chủ nghĩa tả thực như Hải Triều trong bài Đi tới chủ nghĩa tả
thực trong văn chương là một đóng góp tài năng. Ông không chỉ
trình bày nội dung của chủ nghĩa tả thực, mà còn phân tích tính
khuynh hướng khách quan của nó, chống lối khuynh hướng chủ quan
như thầy tuồng nhắc vở, là một đóng góp đột xuất, đi trước thời gian.
Điều này chứng tỏ ông đã tiếp cận tư tưởng của F. Engels về chủ
nghĩa hiện thực trong bức thư gửi nữ nhà văn Anh Maguerit
Hackness. Bức thư này công bố năm 1932, chúng tôi chưa biết bằng
cách nào mà Hải Triều tiếp cận được. Tuy nhiên, xét nội dung lí
thuyết marxiste của ông, chủ yếu ông chịu ảnh hưởng của Nicola
Bukharin, ủy viện bộ chính trị Đảng Bolsevich, một nhà lí thuyết tài
năng, năm 1938, ông bị Stalin tử hình vì bị quy tội phản quốc. Tư
tưởng Bukharin chủ yếu là giai cấp luận, ý thức hệ luận, kinh tế luận
và công cụ luận (xem văn học là vũ khí đấu tranh giai cấp). Bukharin
có khuynh hướng tả khuynh, chỉ muốn sau cách mạng xây dựng ngay
nền văn học vô sản, đánh đổ các nghệ thuật truyền thống, chẳng hạn
theo ông, sau cách mạng tháng 10 thì không cần phải diễn vở
kịch Vườn Anh đào của Chekhov nữa. Đó là tư tưởng đi ngược lại
Lênin. Sau đó do học tập Lenin ông đã khắc phục phần nào tư tưởng
tả khuynh ấy. Trong quan niệm văn học của Hải Triều ta thấy có dấu
ấn của Bukharin khá rõ, khi ông tuyên bố khi nền kinh tế cũ sụp đổ
thì cái nghệ thuật xây dựng trên nền tảng đó cũng sụp đổ theo. Trong
lí luận ông cũng thiên vè nội dung, ít bàn về hình thức, không nói
đến cái đẹp. Trong khi đó nghệ thuật sáng tạo theo quy luật cái đẹp là
một quan điểm cơ bản bên cạnh quan điểm xã hội, lịch sử và ý thức
hệ của chủ nghĩa Mác về văn học. Nêu qua mấy điểm để thấy rằng
quan điểm văn nghệ mác xít của Hải Triều lúc ấy khó tránh khỏi

khiếm khuyết, bởi lí luận mác xít thời đó mới được xác lập chưa lâu,
trước tác của Marx, Engels cũng chưa được công bố đầy đủ. Nhắc đến
điều này chỉ để thấy thêm tài năng và đảm lược, sự nhạy bén của Hải
Triều mà thôi.
Kỉ niệm 60 năm ngày mất của Hải Triều, nhớ lại cuộc tranh luận học
thuật do Hải Triều khởi xướng và thực hiện gần 70 năm trước, chúng
ta ôn lại tài nưng, trí tuệ của ông, đồng thời cũng có thể rút ra những
bài học bổ ích để tiến hành các cuộc thảo luận lí thuyết tiếp theo
trong quá trình xây dựng nền lí luận văn nghệ Việt Nam hiện đại.

×