Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

quan hệ giữa anh và các tiểu quốc malaya từ nửa sau thế kỉ xviii đến đầu thế kỉ xix

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 72 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong nửa cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, dưới những tác động của
cuộc cách mạng công nghiệp, nhu cầu về tìm kiếm về thị trường và thuộc địa của
người Anh ngày càng trở nên cấp thiết. Đặc biệt, trong giai đoạn này, với sự mở
rộng của các hoạt động thương mại giữa Trung Quốc và Ấn Độ đã khiến người
Anh giành nhiều sự quan tâm trở lại đối với khu vực Đông Nam Á.
Trong bối cảnh đó, các tiểu quốc Malaya với vị trí chiến lược hết sức quan
trọng – nằm trên tuyến đường biển từ Ấn Độ đến Trung Quốc, đã nhanh chóng
thu hút được sự chú ý của chính quyền Anh. Từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế
kỉ XIX, người Anh đã nhanh chóng thiết lập được phạm vi ảnh hưởng của mình
tại các tiểu quốc Malaya thông qua việc xây dựng các mối quan hệ về kinh tế,
chính trị – quân sự, văn hóa – giáo dục với các tiểu quốc này. Những mối quan
hệ bước đầu được thiết lập giữa người Anh và các tiểu quốc Malaya trong giai
đoạn này được xem là những bước đệm quan trọng cho sự phát triển về sau của
mối quan hệ giữa Anh và toàn bộ bán đảo Malaya. Để trên cơ sở đó, người Anh
có thể duy trì được sự hiện diện của mình lâu nhất, thu được nhiều lợi ích nhất
và để lại nhiều dấu ấn nhất ở bán đảo Malaya.
Tuy có vai trò quan trọng như vậy trong suốt tiến trình lịch sử của Malaya
thời cận đại, nhưng cho đến nay vẫn chưa có thật nhiều công trình đi sâu vào
nghiên cứu về vấn đề này.
Việc đi sâu, làm rõ về mối quan hệ giữa Anh và các tiểu quốc Malaya từ
nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX không chỉ giúp chúng ta có cái nhìn sâu
hơn, hệ thống hơn về mối quan hệ này mà còn giúp chúng ta hiểu hơn về những
tác động của mối quan hệ này đối với người Anh và các tiểu quốc Malaya để từ
1
đó có thể thấy được những biểu hiện sinh động về phương thức xâm lược của
người Anh đối với bán đảo Malaya.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu vấn đề này còn có ý nghĩa sâu sắc về mặt
thực tiễn.Từ việc nhìn nhận những mặt tích cực và hạn chế của các tiểu quốc


Malaya trong mối quan hệ này sẽ giúp chúng ta có thêm được những bài học
kinh nghiệm quý báu để có được những điều chỉnh phù hợp trong mối quan hệ
quốc tế hiện nay. Đặc biệt là các vấn đề liên quan đến việc giữ vững nguyên tắc
chủ quyền và toàn vẹn lãnh vẹn lãnh thổ cũng như việc tận dụng các nguồn lực
từ bên ngoài để phát triển đất nước. Mặc khác, qua việc làm rõ nội dung của vấn
đề này, sẽ giúp chúng ta có cái nhìn chân thực về bức tranh tổng thể của các tiểu
quốc Malaya vào nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX. Để từ đó có thể hiểu
hơn về lịch sử và văn hóa của đất nước và con người Malaya.
Với những ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn như vậy, nên tôi chọn vấn đề
“Quan hệ giữa Anh và các tiểu quốc Malaya từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế
kỉ XIX” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến vấn đề này, hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu của
các học giả trong và ngoài nước đề cập đến, trong đó có thể kể đến một số công
trình sau:
Về các tác phẩm của các học giả nước ngoài. Nếu so sánh với các công
trình trong nước thì các công trình nước ngoài viết bằng tiếng Anh nghiên cứu về
tình hình Malaya nói chung và giai đoạn từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ
XIX nói riêng là khá phong phú.
Trong đó, có một số công trình đã được dịch sang tiếng Việt như “Lịch sử
Đông Nam Á” của D. G. E. Hall (Bùi Thanh Sơn, Nguyễn Thái Yên Hương,
Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn Vũ Tùng, Đoàn Thắng dịch), ấn hành năm 1997.
Công trình này đã nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các quốc gia
ở khu vực Đông Nam Á từ thời cổ đại cho đến giữa thế kỷ XX. Trong tác phẩm
này, D. G. E. Hall đã dành một phần nội dung để làm rõ về sự khởi đầu của Anh
ở Malaya và bối cảnh về Singapore, về sự hình thành của Khu định cư eo biển.
2
Qua các phần nội dung này, tác giả đã khái quát được toàn bộ quá trình người
Anh xâm nhập vào các tiểu quốc Malaya từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ
XIX.

Trong tác phẩm “In Seach of Southeast Asia a modern history” ấn hành
năm 1987 của nhóm tác giả David P. Chander, William R. Roff, John R. W.
Small, David Joel Steinberg, Roberttl H. Tuylor, Alexander Woodside, David K.
Wyatt đã nêu lên một số đặc điểm khái quát của các tiểu quốc Malaya suốt từ thế
kỉ XVI đến khi bán đảo Malaya thống nhất. Trong đó, một số đặc điểm về quá
trình xâm nhập của người Anh vào bán đảo này cũng đã được đề cập.
Trong công trình nghiên cứu “A history from Earliest times to the present”,
ấn hành năm 1963, tác giả N. J. Ryan đã có đề cập một cách cụ thể lịch sử của
bán đảo Malaya qua các thời kì. Trong đó, những hoạt động chính của người
Anh tại các tiểu quốc Malaya từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX đã
được tác giả làm rõ qua hai tiểu mục “Eighteenth - century Malaya and the
Bugis” và “The establishment of the Straits Settemrnts”.
Hay trong tác phẩm “Britsh Malaya” của William Brendon and son, ấn
hành năm 1906, tác giả đã đi sâu vào phân tích đặc điểm tình hình của bán đảo
Malaya kể từ khi người Anh thiết lập được Khu định cư eo biển năm 1824 đến
năm 1906. Trước đó, tác giả cũng đã đề cập đến tình hình của đảo Penang,
Singapore và thành phố Malacca trong khoảng thời gian từ nửa sau thế kỉ XVIII
đến đầu thế kỉ XIX.
Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về lịch sử của bán đảo Malaya từ
nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, chủ yếu mang tính chất đại cương.
Trong đó có thể kể đến một số công trình sau:
Tác phẩm “Lịch sử Đông Nam Á” (tập IV) do Trần Khánh chủ biên, xuất
bản năm 2012 đã đề cập đến lịch sử các quốc gia ở Đông Nam, trong đó có
Malaya từ thế kỷ XVI đến năm 1945. Ở phần này, tác giả đã có tập trung làm rõ
về sự bành trướng thương mại và thiết lập chế độ thuộc địa của Anh ở Malaya từ
nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX.
Còn trong tác phẩm “Lịch sử Đông Nam Á” của Lương Ninh, Đỗ Thanh
Bình, Trần Thị Vinh xuất bản năm 2008, các tác giả đã dành chương VII để trình
3
bày về quá trình xâm chiếm các quốc gia Đông Nam Á của chủ nghĩa thực dân

phương Tây (thế kỉ XVI - XIX). Trong đó, quá trình người Anh xâm chiếm bán
đảo Malaya từ nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX cũng đã được nhóm tác giả
khái quát.
Trong khi đó, ở tác phẩm “Lịch sử thế giới cận đại” của của Vũ Dương
Ninh, Nguyễn Văn Hồng ấn hành năm 2007, cũng đã đề cập đến quá trình xâm
nhập của người Anh vào bán đảo Malaya từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ
XIX cũng như chính sách cai trị của người Anh tại bán đảo này. Nhìn chung
trong tác phẩm này, nhóm tác giả do quá chú trọng đến bản chất thực dân xâm
lược của người Anh nên chưa có những đánh giá thật sự khách quan về vai trò
của người Anh đối với các tiểu quốc Malaya trong giai đoạn này.
Liên quan đến vấn đề nghiên cứu hiện nay cũng đã có một số công trình
công bố trong những năm gần đây như: năm 2010 tác giả Ngô Văn doanh có viết
bài “Cộng đồng Maly Muslim – từ những Hồi quốc đến thuộc địa của Anh” (Tạp
chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 7). Trong bài viết này, tác giả đã tập trung làm
rõ về sự ra đời của các Hồi quốc ở Malay cho đến khi người Anh hoàn thành
xong quá trình xâm lược bán đảo Malaya. Cũng trong năm 2010, tác giả Trịnh
Hải Yến có bài viết “Chính sách cai trị của Anh tại Singapore và hệ quả của
nó” (tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 7), tập trung đi sâu vào việc phân tích
về các hệ quả của các chính sách cai trị của người Anh tại Singapore, trước đó
quá trình thành lập Khu định cư eo biển của người Anh cũng đã được đề cập.
Bên cạnh đó chúng ta có thể kể đến một số bài viết như “Công ty Đông Ấn thế kỉ
XVII, XVII” của tác giả Trần Thị Thanh Vân đăng trên tạp chí Nghiên cứu châu
Âu, số 10, năm 2009; “Sự thành lập Công ty Đông Ấn và những nổ lực thâm
nhập phương Đông trong thế kỉ XVII” của tác giải Nguyên Văn Linh đăng trên
tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 134, năm 2011.
Ngoài ra, lịch sử Malaya còn được đề cập trong một số công trình nghiên
cứu các vấn đề rộng lớn hơn. Có thể kể đến một số tác phẩm như: “Lịch sử các
nước ASEAN” của Nguyễn Khắc Thành, Sanh Phúc được ấn hành năm 2001;
“Lịch sử phát triển nhân loại thời cận đại” của Đăng Trường – Lê Minh ấn hành
năm 2012…

4
Nhìn chung, những tác phẩm trên về tuy có đề cập đến mối Quan hệ của
Anh và các tiểu quốc Malaya từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, nhưng
chưa đi sâu vào phân tích nhiều khía cạnh của mối quan hệ này cũng như chưa
rút ra được các đặc điểm cũng như những tác động của mối quan hệ này đối với
cả người Anh và người Malay. Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu kiến thức từ các
nguồn tư liệu trên sẽ giúp chúng ta có thể đi sâu vào nghiên cứu và hệ thống hóa
kiến thức cho đề tài nghiên cứu “Quan hệ của Anh và các tiểu quốc Malaya từ
nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu của khóa luận: Mối quan hệ giữa Anh và các tiểu
quốc Malya từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX.
- Về phạm vi nghiên cứu: Trên cơ sở nguồn tài liệu khai thác được, tôi đã
tập trung làm rõ về mối quan hệ của Anh và các tiểu quốc Malaya trong phạm vi
sau:
+ Về thời gian: Khóa luận tập trung nhiên cứu mối quan hệ của Anh với các
tiểu quốc Malaya trong khoảng thời gian từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ
XIX.
+ Về mặt không gian: khóa luân tập trung đi sâu phân tích về mối quan hệ
giữa Anh và các tiểu quốc Malaya trên một lĩnh vực trọng tâm như: kinh tế,
chính trị - quân sự, văn hóa – giáo dục.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là xây dựng một bức tranh tương đối đầy
đủ về mối quan hệ giữa Anh và các tiểu quốc Malayaa từ nửa sau thế kỉ XVIII
đến đầu thế kỉ XIX. Trên cơ sở đó, rút ta một số nhận xét về những đặc điểm của
mối quan hệ giữa Anh và các tiểu quốc Malaya cũng như những tác động của
mối quan hệ đó đối với người Anh và các tiểu quốc Malaya trong giai đoạn này.
- Từ việc xác định mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ:
+ Làm rõ các nhân tố tác động đến mối quan hệ giữa Anh và các tiếu quốc
Malaya từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX.

+ Trình bày một cách hệ thống, đầy đủ về mối quan hệ giữa Anh và các tiếu
quốc Malaya từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX
5
+ Rút ra một số đặc điềm cũng như tác động của mối quan hệ này đối với
người Anh và các tiểu quốc Malaya.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
- Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài, tác giả đã kế thừa những kết quả
nghiên cứu của các tác giả đi trước, thể hiện qua việc khai thác và sử dụng các
nguồn tư liệu sau đây:
Kế thừa kết quả nghiên cứu về Malaya của các nhà nghiên cứu đi trước đã
được công bố trong các công trình chuyên khảo về lịch sử thế giới, lịch sử Đông
Nam Á; các công trình có nội dung phản ánh trực tiếp đến lịch sử Malaya nói
chung và lịch sử Malaya thời thuộc Anh nói riêng; các công trình nghiên cứu
liên quan đến nội dung đề tài công bố trên các tạp chí chuyên ngành trong nước:
Nghiên cứu Đông Nam Á, Nghiên cứu Châu Âu
Bên cạnh đó một số tài liệu tiếng Anh về lịch sử Malaya cũng đã được khai
thác để phục vụ cho quá trình nghiên cứu và làm rõ nội dung của đề tài.
- Về phương pháp nghiên cứu:
Về phương pháp luận: trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi quán triệt
phương pháp luận Sử học mác-xít về mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện,
nhằm đảm bảo tính chân thực, khách quan của lịch sử.
Về phương pháp nghiên cứu: để đảm bảo tính khách quan và khoa học
trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp lịch sử
và phương pháp logic. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khác trong khoa học Lịch sử như: phương pháp phân tích, chọn lọc, phân
loại, tổng hợp, so sánh, đối chiếu nhằm xử lý nguồn tư liệu.
6. Đóng góp của khóa luận
Qua việc nghiên cứu và làm rõ về mối quan hệ giữa Anh và các tiểu quốc
Malaya từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, sẽ có những đóng góp về
mặt khoa học và thực tiễn sau:

Về mặt khoa học: Qua nghiên cứu, sẽ góp phần hoàn thiện hơn kiến thức về
mối quan hệ giữa Anh và các tiểu quốc Malaya từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu
thế kỉ XIX cũng như đi sâu vào phân tích các đặc điểm của mối quan hệ này và
6
những tác động của nó đối với hai chủ thể trong mối quan hệ này: người Anh và
các tiểu quốc Malaya.
Về mặt thưc tiễn: khóa luận văn là công trình tập hợp nhiều nguồn tư liệu
khá phong phú về mối quan hệ giữa Anh và các tiểu quốc Malaya từ nửa sau thế
kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX. Do vậy, bên cạnh những đóng góp về mặt khoa học
nói trên khóa luận sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích, phục vụ cho việc học tập,
nghiên cứu và tìm hiểu về lịch sử Malaya nói riêng và lịch sử Đông Nam Á nói
chung.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung luận văn
được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Các nhân tố tác động đến mối quan hệ của Anh và các tiểu quốc
Malaya từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX.
- Chương 2: Quan hệ giữa Anh và các tiểu quốc Malaya từ nửa sau thế kỉ XVIII
đến đầu thế kỉ XIX.
- Chương 3: Một số nhận xét về mối quan hệ giữa Anh và các tiểu quốc Malaya từ
nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX.
7
NỘI DUNG
Chương 1
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỐI QUAN HỆ CỦA ANH VÀ CÁC
TIỂU QUỐC MALAYA TỪ NỬA SAU THẾ KỈ XVIII ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XIX
1.1. Bối cảnh các nước phương Tây và nước Anh từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ
XIX
1.1.1. Bối cảnh các nước phương Tây từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XIX
Ở Tây Âu nhất là các nước dọc theo bờ Địa Trung Hải, vào thế kỉ XIV –

XV đã diễn ra quá trình giải thể chế độ phong kiến. Nền kinh tế hàng hóa Tây
Âu ngày càng phát triển mạnh, quan hệ sản xuất tư bản bắt đầu được hình thành,
nhu cầu về vật chất của thị dân và quý tộc ngày càng tăng cao. Trong bối cảnh
đó, phương Đông với nhiều của ngon vật lạ, nhất là vàng bạc và các nguồn
nguyên, hương liệu quý hiếm được xem là điểm đến lí tưởng trong giấc mơ vàng
của thị dân và quý tộc ở Tây Âu.
Tuy nhiên, con đường đến phương Đông của các thương nhân Tây Âu lại
gặp nhiều khó khăn do thương nhân Ảrập đã khống chế con đường buôn bán ở
Địa Trung Hải và người Thổ Nhĩ Kì đã khống chế toàn bộ khu vực Trung Đông
làm gián đoạn con đường bộ giao thương từ Trung Quốc qua Trung Á. Vì vậy,
trong nửa đầu thế kỉ XV chương trình khám phá phương Đông đã được khởi
xướng và đã tạo ra được những đột phá lớn trong phát kiến địa lý vào cuối thế kỉ
XV, đầu thế kỉ XVI với các cuộc thám hiểm xuyên Đại Tây Dương của người Bồ
Đào Nha và Tây Ban Nha. Đặc biệt, với những hệ quả mà các cuộc phát kiến này
đem lại đã mở ra một thời kì mới cho tích lũy tư bản, cạnh tranh thương mại và
thôn tính thuộc địa trên quy mô toàn cầu.
Sau các cuộc phát kiến, cùng với sự gia tăng cạnh tranh thương mại giữa
các nước phương Tây đặc biệt là giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, nhu cầu
truyền bá đức tin của tòa thánh Vatican đã làm tăng tốc độ, quy mô hành trình
của người châu Âu hướng về phương Đông. Cụ thể đến nửa cuối thế kỷ XVI,
nửa đầu thế kỉ XVII nhiều Hiệp hội, Công ty thương mại tư nhân và của nhà
nước (Hoàng gia) đã ra đời. Ví dụ như “Hội đồng Ấn Độ và Guine” của Bồ Đào
8
Nha; “Hội đồng hợp tác và Hội đồng tối cao các xứ Ấn Độ” của Tây Ban Nha
(thế kỉ XVI); “Công ty thương mại ở Luân Đôn của Đông Ấn” gọi tắt là “Công
ty Đông Ấn Anh” của người Anh (1600); “Công ty của những vùng đất xa” và
nhất là “Công ty Đông Ấn Hà Lan” của Hà Lan (1602); “Công ty Đông Ấn Đan
Mạch” của Đan Mạch (1616); “Công ty Đông Ấn Genoese” của Italia (1647);
“Công ty Đông Ấn Pháp” của Pháp (1664). Sang thế kỉ XVIII, nhiều công ty
Đông Ấn của các nước khác như Bỉ, Thụy Điển, Áo – Hung…. cũng lần lượt ra

đời. Các công ty này không chỉ tăng cường cạnh tranh tại thị trường châu Âu, mà
còn ráo riết tìm kiếm và giành giật thị trường mới ở bên ngoài, trong đó phương
Đông là mục tiêu hàng đầu [4, tr. 20 - 21].
Bên cạnh đó, với sự bùng nổ và giành thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản
Hà Lan (1566), cách mạng tư sản Anh (1642), cách mạng tư sản Pháp (1789) đã
mở ra một thời kì mới trong tiến trình lịch sử của nhân loại gắn liền với sự bùng
nổ và giành thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu và Bắc Mĩ.
Sau những cuộc biến động chính trị đó, ở Anh trong 30 năm đầu của thế kỉ
XVIII đã diễn ra một cuộc cách mạng công nghiệp tư bản chủ nghĩa đầu tiên trên
thế giới. Với những thành quả to lớn mà cuộc cách mạng này đã làm thay đổi
một cách căn bản bộ mặt của nước Anh và sau đó là các nước Pháp, Hà Lan…
Từ đó đã tạo ra một nguồn lực vật chất mới giúp các quốc gia này vươn lên trở
thành những quốc gia hùng mạnh về hải quân. Điều này cho phép Hà Lan, Anh
và Pháp dần dần lấn át người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha trong cạnh tranh
thương mại và xâm chiếm thuộc địa trên thế giới.
Trong khung cảnh của xu thế toàn cầu hóa lần thứ nhất diễn ra dưới tác
động của cuộc phát kiến địa lý trong những năm cuối của thế kỉ XV đầu thế kỉ
XVI, đã tác động một cách sâu sắc đến tình hình của các nước Tây Âu nói chung
và làm thay đổi một cách căn bản, toàn diện quan hệ quốc tế trong thời gian này.
Sau các cuộc phát kiến, thế giới phương Đông đã được mở ra trước mắt các
thương nhân Tây Âu, sự xâm nhập của các nước Tây Âu vào các thị trường rộng
lớn này đã làm tăng thêm tính phức tạp trong quan hệ quốc tế với sự đan xen
giữa mối quan hệ cạnh tranh giành giật thị trường, thuộc địa giữa các nước
phương Tây và mối quan hệ giữa các nước Tây Âu và các quốc gia khác ngoài
9
châu Âu. Trong mối quan hệ tương hỗ và tác động đa chiều đó, phạm vi của
quan hệ quốc tế thời kì này cũng dần đươc mở rộng trên quy mô toàn cầu chứ
không còn manh mún như trước. Trên thực tế, những biến đổi quan trọng này
trong quan hệ quốc tế là xuất phát từ sự xuất hiện và phát triển của quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Trong guồng quay của sự phát triển đó, đã thúc đẩy các

nước phương Tây đã đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động tìm kiếm và thiết lập
thuộc địa của mình ở các nước châu Á, châu Phi và châu Mĩ để đáp ứng kịp thời
cho những yêu cầu phát triển của quan hệ sản xuất mới này. Trước xu thế chung
đó của quan hệ quốc tế, nước Anh cũng dần mở rộng tầm nhìn của mình đến thế
giới phương Đông nơi mà những biến động về chính trị, kinh tế cũng đang diễn
ra để tìm kiếm cho mình một cơ hội lớn tại những vùng đất trù phú và giàu có
nơi đây.
1.1.2. Tình hình nước Anh từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XIX
Cũng như nhiều quốc gia khác ở Tây Âu, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
ở Anh đã bắt đầu manh nha từ thế kỉ XIV và phát triển từ những năm đầu của thế
kỉ XVI. Tuy nhiên sự phát triển này, lại vấp phải sự cản trở của chế độ phong
kiến lạc hậu. Chính sự gián đoạn đó đã làm gay gắt thêm mâu thuẫn giữa quan
hệ sản xuất phong kiến lạc hậu và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển,
đặt tiền đề cho những biến đổi lớn, quan trọng về mặt chính trị, kinh tế, xã hội ở
nước Anh trong suốt từ thế kỉ XVII cho đến đầu thế kỉ XIX.
Về mặt chính trị, ở nước Anh vào giữa thế kỉ XVII đã diễn ra một cuộc
cách mạng tư sản do tầng lớp quý tộc mới và giai cấp tư sản lãnh đạo để lật đổ
ách thống trị của chế độ phong kiến bảo thủ, lạc hậu mở đường cho chủ nghĩa tư
bản phát triển. Sau cuộc biến động chính trị này, một thể chế nhà nước mới đã
được thiết lập ở Anh – thể chế quân chủ lập hiến. Với thể chế nhà nước này, vua
tuy vẫn là người đứng đầu bộ máy nhà nước nhưng trên thực tế tính chuyên chế
của nhà vua đã không còn mà mọi quyền hành lại tập trung trong tay Quốc hội.
Ở nước Anh trong giai đoạn này, tầng lớp tư sản thương nghiệp có vai trò
hết sức quan trọng trong bộ máy chính quyền. Do vậy, nhiều chính sách đầu tư
cho các hoạt động thương mại đã được xúc tiến một cách mạnh mẽ. Trên thực tế,
trong thời gian này, Công ty Đông Ấn Anh là lực lượng đã thay mặt chính phủ và
10
nữ hoàng Anh để tiến hành xâm lược và cai trị tại các thuộc địa của Anh ở châu
Á, châu Âu và châu Mĩ.
Về mặt kinh tế, sau khi cuộc cách mạng tư sản Anh thắng lợi, tình hình

kinh tế của nước Anh có nhiều biến chuyển và nhiều đột phá lớn.
Ở nước Anh, sau khi giai cấp tư sản và quý tộc mới lên nắm chính quyền đã
ban hành nhiều đạo luật xác nhận quyền sở hữu rộng đất của mình. Thực trạng
đó đã góp phần thúc đẩy nhanh hơn nữa hiện tượng địa chủ bao chiếm ruộng đất
đuổi nông dân ra khỏi đất canh tác. Đến thế kỷ thứ XVIII, quá trình này được
tiến hành trên một quy mô lớn. Do vậy đã tạo điều kiện cho sự phát triển của chế
độ điền trang trong nông nghiệp và góp phần thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp ở
Anh phát triển.
Đặc biệt, trong 30 năm đầu của thế kỷ XVIII, nước Anh đã tiến hành cuộc
cách mạng công nghiệp tư bản chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử. Với những
thành quả mà cuộc cách mạng này đem lại đã làm thay đổi một cách căn bản bộ
mặt của nước Anh. Với việc áp dụng các cải tiến kĩ thuật và những thành quả của
cuộc cách mạng công nghiệp vào trong thực tế đã tạo nên những bước đột phá
lớn trong các ngành kinh tế. Khối lượng hàng hóa do máy móc chế tạo tăng lên
rõ rệt. Tốc độ phát triển của các ngành công nghiệp nặng cũng tăng lên nhanh
chóng. Diện mạo nước Anh cũng từng bước được thay đổi. Như Ăngghen đã
từng miêu tả: Cách đây 60 hoặc 80 năm, Anh là một nơi như một nước khác với
những thành phố nhỏ bé, công nghiệp ít ỏi và rất thô sơ, dân số thưa thớt và chủ
yếu là dân nông nghiệp thì ngày nay là nơi có một không hai với thủ đô gần 2,5
triệu dân, nhiều thành phố công nghiệp khổng lồ, với nền công nghiệp cung cấp
hàng hóa cho toàn thế giới bằng những thứ máy móc phức tạp nhất.
Trước sự phát triển mạnh mẽ đó của nền công nghiệp Anh cùng với sự gia
tăng của khối lượng hàng hóa những yêu cầu về thị trường, nguyên liệu phục vụ
cho các hoạt động sản xuất và tiêu thụ hàng hóa ngày càng trở nên bức thiết.
Trong bối cảnh đó, đã thúc đẩy người Anh đẩy nhanh hơn nữa quá trình xâm
chiếm thuộc địa tại các khu vực khác ngoài châu Âu trong đó có khu vực Đông
Nam Á.
Về mặt xã hội, trước những biến động về mặt chính trị và kinh tế đã tác
động đến tình hình xã hội nước Anh lúc bấy giờ. Cụ thể là với những hệ quả mà
11

của cuộc cách mạng công nghiệp đem lại, một mặt đã làm cho nội bộ giai cấp tư
sản bị phân hóa, mặt khác đã dẫn đến sự xuất hiện của một giai cấp mới trong xã
hội – giai cấp vô sản công nghiệp. Ở Anh, sau cuộc cách mạng công nghiệp giai
cấp tư sản công nghiệp giàu lên nhanh chóng và ngày càng mâu thuẫn với tư sản
thương nghiệp và quý tộc mới. Do một số chính sách phục vụ cho quyền lợi của
tư sản thương nghiệp đã gây ảnh hưởng đến quyền lợi của tư sản công nghiệp:
chế độ công ty độc quyền, chế độ quan thuế,…. Trong khi đó, cùng với sự xuất
hiện của nền công nghiệp đại cơ khí, ở Anh giai cấp vô sản công nghiệp cũng đã
được hình thành. Trong bối cảnh, địa vị kinh tế và ý thức chính trị của giai cấp
vô sản ngày càng được nâng cao, đã làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và
vô sản ngày càng sâu sắc.
Nhìn chung những biến động chính trị, kinh tế diễn ra ở nước Anh từ nửa
cuối thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XVIII đã tạo nên những sắc thái mới trong diện
mạo của nước Anh. Thể chế chính trị mới được thiết lập đã phù hợp và tạo ra
được những kết nối tích cực với sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Sự phát triển của nền công nghiệp đại cơ khí ở Anh vừa đặt ra những yêu cầu
cấp thiết về việc tìm kiếm thị trường, nguyên liệu và nhân công phục vụ cho cho
các hoạt động sản xuất trong nước vừa tạo điều kiện cho nước Anh có thể xúc
tiến nhanh hơn nữa quá trình tìm kiếm này.
Trong bối cảnh đó, từ thế kỉ XVI, XVII nước Anh đã bắt đầu thực hiện
chính sách bành trướng xâm lược thuộc địa. Để phục vụ cho chính sách xâm
lược thuộc địa này, người Anh đã không ngừng đầu tư vào các thương thuyền và
hạm đội hải quân của mình. Bên cạnh đó người Anh còn tiến hành các cuộc
chiến tranh với người Hà Lan (1652 - 1667), với người Pháp (trong thế kỉ XVII -
XVIII) để giành giật thuộc địa.
Đến thế kỉ XVIII, nước Anh đã chiếm được địa vị hàng đầu về mặt biển. Hệ
thống thuộc địa được mở rộng trên quy mô toàn cầu. Ở Bắc Mỹ, Anh đã thành
lập được 13 bang thuộc địa dọc theo bờ Đại Tây Dương, chiếm Canađa và một
số hòn đảo ở Caribe. Ở Tây Phi người Anh thống trị vùng đất Senegal và Gambia
(Nam Phi) vào thế kỉ XIX. Đặc biệt là ở Ấn Độ, người Anh cũng đã xâm chiếm

được vùng đất rộng lớn này vào cuối thế kỉ XVIII. Trong quá trình chạy đua vũ
12
trang với Pháp để tranh giành ảnh hưởng đối với Ấn Độ và nắm giữ độc quyền
con đường giao thương từ Ấn Độ sang Trung Quốc, các tiểu quốc Malaya đã lọt
vào tầm ngắm của nước Anh trong việc tìm kiếm một địa điểm làm trạm trung
chuyển, sửa chữa tàu thủy và nghỉ chân, cho thương nhân, hạm đội Anh trong
quá trình thực hiện những chuyển đi biển dài ngày từ Ấn Độ sang Trung Quốc.
Trên cơ sở đó, những nền tảng bước đầu trong quan hệ kinh tế, chính trị - quân
sự, văn hóa – giáo dục đã được thiết lập giữa Anh và một số tiểu quốc ở Malaya.
1.2. Bối cảnh khu vực Đông Nam Á và các tiểu quốc Malaya từ thế kỉ XVII đến
đầu thế kỉ XIX
1.2.1. Bối cảnh khu vực Đông Nam Á từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XIX
Đông Nam Á nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của gió mùa, khí hậu
nóng ẩm. Nơi đây nổi tiếng có những cánh rừng nhiệt đới phong phú về thảo
mộc, chim muông và là quê hương của những cây gia vị, hương liệu như hồ tiêu,
đinh hương, đậu khấu, quế, trầm hương…
Về mặt vị trí, Đông Nam Á được xem là cửa ngõ quốc tế. Do nằm án ngữ
trên con đường hàng hải nối liền giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, khu
vực Đông Nam Á từ lâu vẫn được coi là cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản và
Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải. Bên cạnh đó, khu vực Đông Nam Á còn đóng
vai trò chủ động trên các lộ trình thương mại đường biển Đông – Tây và là
nguồn cung cấp các mặt hàng trao đổi. Với vị trí địa lý chiến lược hết sức qua
trọng đó, Đông Nam Á nhanh chóng trở thành đối tượng chinh phục của các
nước phương Tây .
Trong khi đó, đến khoảng đầu thế kỉ XVI, đa số các quốc gia Đông Nam Á
đã bước vào giai đoạn suy thoái. Quá trình này bắt nguồn trong lòng chế độ
phong kiến của mỗi nước với mức độ suy thoái diễn ra không đồng đều.
Về mặt kinh tế, nền nông nghiệp trồng lúa nhất là lúa nước vẫn là hình thức
đặc trưng ở Đông Nam Á. Trong đó, nền sản xuất tiểu nông, khép kín tự cung tự
cấp với hộ gia đình vẫn là chủ đạo. Một số ngành thủ công nghiệp phát triển

nhưng chủ yếu do nhà nước nắm giữ và bị kìm hãm bới tư tưởng “trọng nông ức
thương”. Đặc biệt trong bối cảnh hàng hải mới, khi các thương nhân châu Âu đã
có mặt ở Đông Nam Á, khi nền thương mại Hoa Kiều ở Đông Nam Á hồi sinh…
đã tạo điều kiện cho nền kinh tế thương nghiệp, đặc biệt là hải thương ở một số
13
nước phát triển với sự xuất hiện của một số thương cảng, địa điểm buôn bán nổi
tiếng như: Ayutthaya, Luzon, Manila, Malacca,….
Khác với một số nét khởi sắc trong lĩnh vực kinh tế, trong giai đoạn này,
nền quân chủ chuyên chế ở nhiều nước Đông Nam Á lại lâm vào tình trạng
khủng hoảng sâu sắc. Nhà nước bỏ bê công tác thủy lợi mà lao vào các cuộc
chiến tranh hao người tốn của hay xây dựng các công trình kiến trúc đồ sộ. Cho
đến thế kỉ XVII, nhiều cuộc xung đột vẫn diễn ra, tiêu biểu là cuộc tranh chấp,
chiến tranh giữa Lào - Ayutthaya – Miến Điện, giữa Ayutthaya – Campuchia –
Đại Việt. Tất cả những gánh nặng từ các cuộc chiến tranh đó đều đổ lên đầu của
người dân, làm cho đời sống của nhân dân hết sức khó khăn, dẫn đến sự bùng nổ
nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân. Bên cạnh đó, từ cuối thế kỉ XVI, một số
quốc gia ở Đông Nam Á lại đang trên đà phát triển như quốc gia – dân tộc của
người Thái – Ayutthaya, nhà nước Lạn Xạng của người Lào.
Đặc biệt trong giai đoạn này, ở một số quốc gia lại diễn ra quá trình hình
thành và củng cố các nhà nước, quốc gia – dân tộc chủ yếu dựa trên cơ sở tộc
người. Đó là sự hình thành của người Java và các tộc người khác ở Inđônêxia,
của người Malay trên bán đảo Malacca, tại Miến Điện từ thế kỉ XVI – XVII đã
diễn ra quá trình củng cố thế lực của tộc người Miến và tiếp tục theo đuổi chính
sách thống nhất quốc gia – dân tộc lấy người miền Trung làm trung tâm… [4, tr.
34 - 35]
Một biến chuyển quan trọng khác, diễn ra trong đời sống tinh thần của cư
dân Đông Nam Á trong giai đoạn này, là đến thế kỉ thứ XV, một vương quốc
Hồi giáo đã ra đời – vương quốc Hồi giáo Malacca. Sau khi xuất hiện, vương
quốc Hồi giáo này đã nhanh chóng bành trướng thế lực của mình, trở thành kình
địch của Majapahit và được xem là trung tâm thương mại quốc tế, truyền bá Hồi

giáo trong khu vực. Thông qua các hoạt động buôn bán với Malacca các tiểu
quốc khác trên quần đảo Malaya đã dần trở thành những quốc gia Hồi giáo. Đến
đầu thế kỉ XVII, Hồi giáo được tiếp nhận rộng rãi ở miền Trung của đảo Java,
miền Nam đảo Sulawesi, Button, Lombok, Sumbawa, Mindanao và Nam Borneo
cùng với sự mở rộng ảnh hưởng của các nhà nước hồi giáo ở Aceh, Johor, Patani,
Bantam, Ternate, Demak. Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của đế chế Majapahit (1527),
14
các tiểu quốc Hồi giáo lại trở thành kình địch của nhau, các cuộc xung đột diễn
ra liên miên. Do vậy đã tạo điều kiện cho các nước thực dân phương Tây xâm
nhập vào các nhà nước này.
Trên thực tế, từ sau thế kỉ thứ XVI một số quốc gia ở châu Âu đã có mặt và
thiết lập được khu vực ảnh hưởng của mình ở Đông Nam Á. Năm 1511, Bồ Đào
Nha xâm chiếm Malacca mở đầu cho quá trình chinh phục Đông Nam Á của
thực dân châu Âu. Tây Ban Nha xâm chiếm Philippin. Đến thế kỉ XVII, người
Hà Lan cũng đã nhanh chóng hất cẳng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha để chiếm lĩnh
nhiều hòn đảo quan trọng ở Inđônêxia, chiếm Malacca… nắm độc quyền thương
mại ở khu vực Đông Nam Á Hải đảo. Trong thế kỉ XVIII, người Anh cũng dần
khẳng định được vai trò của mình tại khu vực Đông Nam Á , thiết lập được cho
mình một số cơ sở thương mại ở khu vực này và giành được nhiều ưu thế trong
hoạt động thương mại so với các đối thủ khác.
Nhìn chung, Đông Nam Á từ sau thế kỉ XVI là một thực thể kinh tế - chính
trị - xã hội phức tạp với sự đan xen của nhiều loại hình kinh tế, thể chế chính trị
khác nhau. Trong cấu trúc kinh tế, chính trị của Đông Nam Á lúc bấy giờ tuy
một số yếu tố tích cực đã xuất hiện nhưng nó vẫn chưa đủ lớn, đủ mạnh để đưa
khu vực Đông Nam Á có thế thoát khỏi sự khủng hoảng lúc bấy giờ. Về cơ bản,
ở Đông Nam Á, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu vẫn là chính. Sự phát triển của
hoạt động thương nghiệp ở một số nước tuy đã đem lại những biến chuyển bước
đầu cho một số quốc gia hải đảo nhưng nó chỉ dừng lại ở việc nhằm thỏa mãn
một phần nhu cầu củng cố quyền lực của giới cầm quyền, chứ chưa có tác động
lớn đến phát triển quan hệ hàng hóa – tiền tệ trong nông nghiệp, nông thôn. Do

vậy nền kinh tế ở các nước này vẫn chưa thể bức phá và trở thành một nền sản
xuất kinh tế hàng hóa, kinh doanh theo phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
như ở một số nước tư bản phương Tây [4, tr. 31]. Trong khi đó, sự hình thành và
củng cố của các nhà nước, của các quốc gia - dân tộc trên cơ sở tộc người ở một
số nơi vẫn chưa đủ để đưa quốc gia mình thoát khỏi sự khủng hoảng. Khi những
mâu thuẫn trong xã hội, tình trạng cát cứ và sự xung đột giữa các quốc gia vẫn
diễn ra liên miên và phổ biến ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á. Thực trạng
đó đã làm suy yếu sức đề kháng của các quốc gia trong khu vực và tạo điều kiện
15
cho các nước phương Tây đẩy mạnh hơn nữa quá trình xâm chiếm thuộc địa ở
khu vực Đông Nam Á.
1.2.2. Tình hình các tiểu quốc Malaya từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XIX
Án ngữ cửa ngõ của con đường qua lại giữa nhiều đại dương, bán đảo
Malaya chiếm một vị trí địa lí lịch sử đặc biệt. Nơi đây từng chứng kiến sự gặp
gỡ những trào lưu văn minh phương Đông. Nền văn minh Ấn Độ, Trung Hoa đã
để lại đây nhiều dấu ấn. Vào thời kì cận đại, eo biển Malaya trở thành nơi thông
thương quan trọng giữa châu Á phì nhiêu và châu Âu tư bản đang khao khát thị
trường, vì thế Malaya trở thành miếng mồi tranh chấp giữa các nước tư bản [8,
tr. 401].
Sau sự sụp đổ của vương quốc Malacca, lịch sử Malaya trong suốt thế kỉ
XVI đến thế kỉ XVIII xuất hiện nhiều biến động lớn về mặt chính trị, kinh tế, xã
hội do sự có mặt và cạnh tranh quyền lực của của nhiều thế lực ngoại quốc ở
Malaya.
Về mặt chính trị, ở bán đảo Malaya suốt từ thế kỉ XVI, XVII, bắt đầu có
những biến chuyển mới. Trong giai đoạn này bên cạnh sự nổi lên của tiểu quốc
Johore và xuất hiện một số nhà nước Malaya khác sau khi Malacca không còn
thì khu vực ảnh hưởng của người Bồ Đào Nha trong thế kỉ XVI, của người Hà
Lan trong thế kỉ XVII ở Malaya cũng đã được xuất hiện. Sự tồn tại song song
của hai thế lực chính trị ở bán đảo Malaya có thể được giải thích từ các nguyên
nhân sau:

- Thứ nhất, do thực lực chưa đủ mạnh nên cả Bồ Đào Nha và Hà Lan vẫn không
thể tiêu diệt các tiểu quốc còn lại để thống trị toàn bộ bán đảo Malaya. Do vậy,
các tiểu quốc Malaya tuy bị người Bồ Đào Nha và Hà Lan khống chế nhưng vẫn
tồn tại được và tiếp tục phát triển được trong phạm vi cho phép mặc dù không
thể có được vị trí cường quốc như Malcaca trước đó.
- Thứ hai, giữa hai thế lực chính trị này tuy có mâu thuẫn với nhau nhưng lại
không xem nhau là đối thủ đáng gờm mà lại đặt mối quan tâm của mình nhiều
hơn đến tham vọng của các thế lực ngoại bang khác với bán đảo Malaya. Tiểu
quốc Johore và người Bồ Đào Nha trong thế kỉ XVI đều xem Acheh là đối thủ
đáng gờm và nhiều cuộc xung đột đã diễn ra giữa Acheh với Johore, Acheh với
người Bồ Đào Nha tại Malacca.
16
Đến thế kỉ XVIII các tiểu quốc Malaya đứng trước nhiều thách thức lớn khi
một số nhà nước của người ngoại bang đã được thiết lập. Nhóm người Bugis gốc
ở Sulawesi (người Celebes) đã đến và định cư ở nhiều nhà nước trên Bán đảo,
Quần đảo và trở thành lực lượng thống trị ở một số nơi mà họ đến định cư. Bán
đảo Selagor trở thành nhà nước của người Bugis. Trong khi đó người
Minnangkabau đến từ cao nguyên Tây Sumatra cũng đang xâm chiếm làm thuộc
địa vùng biển phía Đông Sumatra và băng qua eo biển Malacca đến bán đảo để
thành lập nên nhà nước Negeri Sembilan. Bên cạnh đó, trên bán đảo, người Thái
cũng trở thành đối tượng xâm lược lớn góp phần làm gia tăng thêm sự bất ổn của
thế giới Malaya trong thời kì này.
Đặc biệt trong thế kỉ này, người Anh cũng đã có mặt tại Malaya. Với những
tiềm lực trội hơn hẳn so với các nước phương Tây khác cùng với sự thúc ép của
việc tìm kiếm một hải cảng ở Đông Nam Á vừa kết hợp được lợi thế của một
trạm trung chuyển thương mại và của một căn cứ quân sự chính ở Đông Nam Á,
đã thúc đẩy người Anh đẩy mạnh việc xâm chiếm các tiểu quốc Malaya. Trong
suốt quá trình đó, người Anh khéo léo tận dụng những bất ổn chính trị của các
nước Malaya để làm suy giảm tầm ảnh hưởng của người Hà Lan ở bán đảo
Malaya và nhanh chóng thiết lập mối quan hệ, tầm ảnh hưởng của mình tại nhiều

tiểu quốc ở Bán đảo này.
Về mặt kinh tế, trong khi bị thực dân phương Tây xâm chiếm, quan hệ
phong kiến và chế độ kinh tế tự nhiên chiếm địa vị thống trị. Vào thế thế kỉ XVII
đến thế kỉ XVIII, đại đa số người dân làm nghề nông, nghề cá. Họ tụ tập theo
dọc hai bên triền sông, ven biển và những bơi đất đai phì nhiêu như Pahang,
Pêrắc, Kêlanta, Mua, Bênam, Tơrenganu… và những vùng ven biển phía Tây,
phía Đông giàu có, đặc biệt là những cánh đồng phía Bắc phì nhiều [8, tr. 402].
Tuy vậy, tình trạng nông nghiệp của bán đảo Malaya trong giai đoạn này là hết
sức lạc hậu do sự lũng đoạn ruộng đất của các chúa phong kiến. Bên cạnh đó, để
tăng thêm nguồn thu nhập, ở Malaya người nông dân còn trồng một số loại cây
hương liệu để bán cho thương nhân nước ngoài. Thủ công nghiệp của Malaya
trong giai đoạn này cũng tương đối phát triển nhưng lại không đóng vai trò gì
trong nền kinh tế xã hội. Các ngành nghề trong lĩnh vực làm đồ trang sức bằng
17
vàng, ngọc châu… tuy phát triển nhưng chủ yếu để nhằm phục vụ cho đời sống
xa hoa của vua chúa.
Thương nghiệp Malaya trong đoạn này, hết sức phát triển. Nếu trong thế kỉ
XV, dưới tác động của những thương nhân Ả Rập đã làm tăng lên nhanh chóng
mối quan hệ thương mại giữa các tiểu quốc Malaya với khu vực Tây Á, Địa
Trung Hải thì trong các thế kỉ XVI, XVII, XVIII, sự có mặt của các thương nhân
châu Âu ở một số tiểu quốc Malyaa đã góp phần giúp nền thương nghiệp Malaya
hội nhập vào lộ trình thương mại quốc tế. Trong đó, một số cơ sở thương mại
của người Bồ Đào Nha thế kỉ XVI, của Hà Lan thế kỉ XVII, của Anh thế kỉ
XVIII đã được thành thành lập ở các tiểu quốc Malaya. Tuy nhiên, sự phát triển
này chỉ khu hẹp trong một số rất ít các tiểu quốc hải đảo có vị trí địa lí thuận lợi,
về cơ bản nền kinh tế bán đảo Malaya lúc bấy giờ vẫn là nền kinh tế tế phong
kiến tự nhiên.
Về mặt xã hội, đời sống nhân dân rất khó khăn. Sự bóc lột nặng nề của giai
cấp thống trị thông qua chế độ thuế khóa hết sức nặng nề cùng những quan hệ
rằng buộc phong kiến phức tạp đã làm cho đời sống của người nông dân ngày

càng nghèo khổ. Bên cạnh đó, những gánh nặng phí tổn của các cuộc chiến tranh
liên miên đều đổ lên đầu của người nông dân và thợ thủ công. Do vậy đã làm
cho các mâu thuẫn trong xã hội lên cao, gây tác hại lớn cho việc phòng thủ đất
nước. Bên cạnh đó, sự tồn tại của nhiều cộng đồng dân tộc khác nhau trên các
tiểu quốc Malaya cũng làm cho tình hình xã hội ở đây thêm phức tạp.
Trong suốt thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, trong lộ trình tìm kiếm thị trường
thuộc địa của các nước phương Tây ở thế giới trù phú phương Đông, bán đảo
Malaya với vị trí chiến lược hết sức quan trọng đã nhanh chóng lọt vào tầm
ngắm của các nước phương Tây. Trước nguy cơ tiềm ẩn to lớn đó, các tiểu quốc
Malaya vẫn chưa nhận thức một cách đầy đủ mối đe dọa to lớn từ các nước
phương Tây mà vẫn còn xem nặng những nguy cơ tiềm ẩn từ các thế lực phong
kiến ở Xiêm, Indonesian và các thế lực ngoại bang khác, chính đặc điểm này
cùng với sự suy yếu của các tiểu quốc Malaya đã tạo điều kiện cho các nước
phương Tây xâm nhập và nhanh chóng thết lập được phạm vi ảnh hưởng của
mình trên bản đồ chính trị của thế giới Malaya. Trong quá trình đó, Anh tuy là
18
nước thiết lập được ảnh hưởng của mình ở Malaya muộn hơn so với Bồ Đào Nha
và Hà Lan nhưng với tiềm lực sẵn có cùng những tính toán và bước đi khéo léo
của mình, người Anh đã tạo ra được những mối quan hệ có ảnh hưởng lâu dài và
bề vững hơn hẳn hai đối thủ đó ở thế giới Malaya.
Như vậy, xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn của Anh và các tiểu quốc
Malaya trong mối tương quan giữa việc đáp ứng những nhu cầu phát triển của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Anh và việc giải quyết các mâu thuẫn nảy
sinh ở các tiểu quốc Malaya, đã tạo ra những tiền đề quan trọng trong việc đặt
nền tảng cơ bản, bước đầu cho mối quan hệ giữa Anh và tiểu quốc Malaya trong
nửa cuối thế kỉ XVIII cho đến đầu thế kỉ XIX. Và khi đặt mối quan hệ này trong
bối cảnh chung của khu vực Đông Nam Á và châu Âu lúc bấy giờ,ta dễ dàng
nhận thấy tính tất yếu (xuất phát từ những nhu cầu cấp thiết của nước Anh và
bản thân các tiểu quốc Malaya cũng đã tạo điều kiện cho quá trình xâm lược
này) và phù hợp với xu thế của mối quan hệ này. Bởi trên thực tế nó đã phản ánh

một cách sinh động cuộc chạy đua tranh giành thị trường thuộc địa giữa các
nước phương Tây ở các nước châu Á, châu Phi và châu Mĩ.
19
Chương 2
QUAN HỆ CỦA ANH VÀ CÁC TIỂU QUỐC MALAYA TỪ NỬA SAU
THẾ KỈ XVIII ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XIX
2.1. Khái quát mối quan hệ của Anh và các tiểu quốc Malaya từ giữa
thế kỉ XVII đến nửa đầu thế kỉ XVIII
Từ cuối thế kỉ XVI, nước Anh đã bắt đầu xúc tiến kế hoạch xâm chiếm
thuộc địa. Để nâng cao hơn nữa hiệu qủa của các hoạt động xâm chiếm thuộc
địa, vào năm 1600 công ty Đông Ấn Anh được thành lập (EIC) với sứ mệnh thay
mặt chính phủ Anh đảm đương công việc hệ trọng này. Trong lộ trình khám phá
phương Đông của EIC, từ giữa thế kỉ XVII cho đến nửa đầu thế kỉ XVIII, người
Anh cũng đã đặt chân đến bán đảo Malaya và thiết lập được một số nền tảng
bước đầu trong quan hệ với một số tiểu quốc ở đây. Tuy nhiên trong giai đoạn
này, quan hệ của Anh và các tiểu quốc Malaya là hết sức mờ nhạt. Sự mờ nhạt
này có thể được lí giải từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, về phía người Anh, trong hoảng thời gian này những hiểu biết
của họ về khu vực Đông Nam Á cũng như bán đảo Malaya là không nhiều. Các
chuyến hành trình đến Đông Nam Á của người Anh trong giai đoạn này bên cạnh
mục đích tìm kiếm thị trường còn mang dấu ấn của sự tìm tòi, khám phá thêm về
tri thức Đông Nam Á. Liên quan đến các vấn đề như vị trí địa lí, lịch sử cũng
như con người nơi đây để giúp người Anh có thể tiếp cận một cách hiệu quả hơn
đối với các hoạt động thương mại tại khu vực này. Do vậy, EIC vẫn chưa thật tự
tin để mạn dạn đầu tư vào việc xâm nhập đối với khu vực Đông Nam Á. Đặc
biệt, ở giai đoạn này, trong tầm nhìn chiến lược của mình, người Anh đã chú
trọng hơn các hoạt động buôn bán với Ấn Độ, Trung Quốc và chưa định hướng
cho mình một chiến lược lâu dài ở khu vực Đông Nam Á nói chung và bán đảo
Malaya nói riêng. Mặc khác, tiềm lực nước Anh lúc bấy giờ tuy đã được củng cố
hơn so với giai đoạn trước nhưng vẫn chưa đủ mạnh để có thể đánh bại hoàn

toàn các đối thủ cạnh tranh thương mại khác tại khu vực Đông Nam Á cũng như
ở bán đảo Malaya – nơi mà người Hà Lan và một số nước khác đã thiết lập được
cho mình một phạm vi ảnh hưởng nhất định.
20
Thứ hai, về phía các tiểu quốc Malaya, với tầm ảnh hưởng của người Hà
Lan đối với các tiểu quốc Malaya trong suốt thế kỉ XVII đã hạn chế phần nào
quyền lực của các tiểu quốc này. Lo ngại về sự can thiệp của Hà Lan, các tiểu
quốc Malaya cũng khó lòng tiếp nhận những hoạt động thương mại của Anh tại
vùng lãnh thổ của mình.
Trên thực tế, trong buổi đầu gặp gỡ giữa EIC và một số tiểu quốc ở Malaya
từ giữa thế kỉ XVII, một số thỏa thuận về mặt thương mại đã bước đầu được
manh nha trong quan hệ kinh tế giữa EIC và các tiểu quốc Malya.
Nhận thấy được vị trí chiến lược quan trọng của eo biển Malacca trong lộ
trình thương mại quốc tế, người Anh có ý định giành quyền thương mại trên eo
biển này. Để hiện thực hóa được tham vọng đó, năm 1647, EIC đã yêu cầu
Vương quốc Johore cho phép họ được tự do buôn bán ở đây. Tuy nhiên, do
không nhận được một sự cam kết nào về mặt quân sự từ phía EIC và lo ngại về
sự can thiệp người Hà Lan nên Hồi vương đã từ chối. Và trong khuôn khổ quyền
hạn cho phép của mình, Hồi vương Johore đã đồng ý cho người Anh đậu tàu
thuyền tại các cảng của mình và trao đổi hàng hóa với mức thuế là 5%.
Sau Johore, tại Kedah những mầm mống trong quan hệ thương mại của EIC
bắt đầu được thiết lập. Vào năm 1660, EIC đã cùng hợp tác với các thương gia
Ấn Độ lập lại đại diện thương mại tại Kedah, đồng thời năm 1669 xây lại văn
phòng mới [3, tr. 63].
Tuy vậy, những tiền đề ban đầu trong quan hệ thương mại đó giữa EIC và
các tiểu quốc Johore, Kedah về sau đã không được duy trì. Chính sự cạnh tranh
quyết liệt của người Hà Lan và các hãng buôn tư nhân khác của nước Anh tại các
tiểu quốc Malaya, cùng với những hoạt động thương mại chưa đem lại kết quả
như mong muốn của EIC đã khiến người Anh không còn thiết tha cho việc đầu
tư vào các đầu mối thương mại tại bán đảo Malaya nữa để tập trung mở rộng

buôn bán với Trung Quốc và Ấn Độ - những đối tượng thương mại được EIC
đánh giá cao hơn. Đến cuối thế kỉ XVII những cơ sở kinh tế thương mại này đã
không còn tồn tại nữa.
Vào giữa thế kỉ XVIII, khi nước Anh đã vươn lên và trở thành nước có nền
công nghiệp phát triển nhất châu Âu, trước những yêu cầu ngày càng tăng của
nền sản xuất trong nước, cùng với những kinh nghiệm có được trong bước đầu
21
chinh phục Ấn Độ, người Anh đã quay trở lại Đông Nam Á. Trong bối cảnh mới
đó, EIC đã quan tâm hơn đến việc tìm kiếm một cơ sở đồn trú đặt nền tảng bước
đầu cho việc thúc đẩy thương mại của Anh ở Đông Nam Á. Tuy nhiên trong lộ
trình mới này, khu vực eo biển Malacca cùng các tiểu quốc Malaya vẫn không
nằm trong tầm ngắm của EIC. Do trong thời gian này, người Hà Lan đã bám rễ
khá chắc tại bán đảo Malaya, để tranh xung đột với người Hà Lan, EIC chỉ tập
trung xây dựng các cơ sở thương mại và phòng thủ của mình ở những địa điểm
mà ở đó, tầm ảnh hưởng của người Hà Lan không nhiều. Vì vậy, quan hệ của
Anh và các tiểu quốc Malaya trong suốt thời gian này bị bỏ ngõ. Có chăng chỉ là
những hoạt động kinh doanh đơn lẽ của các công ty tư nhân ở Anh với một số
tiểu quốc ở bán đảo Malaya.
Như vậy, trong suốt từ nửa cuối thế kỉ XVII cho đến nửa đầu của thế kỉ
XVIII, quan hệ của Anh và các tiểu quốc Malaya đã được thiết lập trong khuôn
khổ của những hoạt động thương mại. Nhìn chung, mối quan hệ này mang nặng
về hình thức và chưa có chiều sâu, những cam kết mà hai bên đạt được chỉ dừng
lại ở những thỏa thuận mang tính nhất thời chứ chưa có một văn bản hay cơ sở
pháp lý nào để ràng buộc và đảm bảo cho sự tồn tại của mối quan hệ này. Chính
sự lỏng lẻo đó đã làm cho những nền tảng bước đầu trong quan hệ của Anh và
các tiểu quốc Malaya không có nhiều điều kiện để phát triển và nhanh chóng tàn
lụi trong thời gian sau đó. Sự bỏ ngõ này trong quan hệ của Anh với các tiểu
quốc Malaya kéo dài từ cuối thế kỉ XVII cho đến nửa đầu thế kỉ XVIII, mãi cho
đến nửa cuối của thế kỉ XVIII với những hoạt động kinh doanh lớn của EIC với
Trung Quốc, đã làm sống dậy giá trị và tầm quan trọng của hoạt động thương

mại tại bán đảo Malaya.
2.2. Quan hệ của Anh với các tiểu quốc Malaya từ nửa cuối thế kỉ
XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX
Vào những năm 60, 70 của thế kỉ XVIII, những cơ sở thương mại mà người
Anh thiết lập được ở khu vực Đông Nam Á trong nửa đầu thế kỉ XVIII đã bị phá
hủy hoặc phải trao trả lại cho người Tây Ban Nha. Thực trạng đó, đã khiến người
Anh trở nên sốt sắng tìm kiếm các thương điếm thương mại then chốt của họ ở
Đông Nam Á. Đặc biệt, vào giữa thế kỉ XVIII, trước những yếu tố mới phát sinh
22
từ cuộc cách mạng thương mại diễn ra ở Ấn Độ Dương, người Anh đã chuyển sự
chú ý của mình đến bán đảo Malaya – nơi có vị trí chiến lược hết sức quan trọng
trong con đường thương mại từ Trung Quốc đến Ấn Độ, để tìm kiếm ở nơi đây
“một hải cảng mà có thể kết hợp lợi thế của một trạm sữa chữa tàu thủy và của
một trung tâm thương mại cho quần đảo Malaya, và đồng thời nằm trên đường
biển chủ yếu tới Trung Quốc” [1, tr. 734].
Trong bối cảnh mới đó, quan hệ của Anh và các tiểu quốc Malaya đã được
thiết lập và xúc tiến một cách mạnh mẽ hơn so với thời kì trước, với những sự
biến đổi lớn cả về nội dung lẫn hình thức.
2.2.1. Quan hệ của Anh và các tiểu quốc Malaya trên lĩnh vực kinh tế từ
nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX
Kinh tế là một trong những lĩnh vực then chốt được người Anh đặc biệt chú
ý trong quan hệ với các tiểu quốc Malaya. Bởi trên thực tế, thương mại chính là
động lực, là con đường mà người Anh đã xâm nhập và thiết lập mối quan hệ với
các tiểu quốc ở đây nhằm tìm kiếm và xây dựng ở bán đảo Malaya những cơ sở
thương mại chiến lược để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh trong lộ trình
thương mại từ Ấn Độ đến Trung Quốc.
Sau những nổ lực tìm kiếm của mình, trong những năm từ nửa cuối thế kỉ
XVIII cho đến đầu thế kỉ XIX, người Anh đã tìm thấy được những địa điểm lí
tưởng ở bán đảo Malaya để xây dựng ở đây các trạm trung chuyển thương mại
trên tuyến đường biển từ Ấn Độ tới Trung Quốc. Trong đó đáng lưu ý hơn cả là

đảo Penang của tiểu quốc Kedah và đảo Singapore thuộc phạm vi ảnh hưởng của
tiểu quốc Johore. Để nhanh chóng nắm giữ các hoạt động kinh tế, đặc biệt là các
hoạt động thương mại ở những địa điểm này, người Anh đã đáp ứng một số
quyền lợi kinh tế cho các Hồi vương Kedah, Johore và khéo léo tận dụng những
mâu thuẫn nội tại của các tiểu quốc Malaya để buộc các Hồi vương này thông
qua những bản hiệp ước khẳng định quyền làm chủ và các đặc quyền kinh tế của
người Anh tại các đảo Penang, Singapore.
23
2.2.1.1. Quan hệ trên lĩnh vực kinh tế của Anh và đảo Penang thuộc tiểu
quốc Kedah từ nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX
Penang là một đảo rất nhỏ ở phía Bắc cuối eo biển Malacca, cách bờ biển
Coromandel
1
một tuần đi bằng biển. Với vị trí địa lí thuận lợi đó, Penang đã được
các giám đốc EIC lựa chọn để xây dựng thành một trạm trung chuyển, nhằm mục
đích giúp các tiểu vương Malaya chống lại “âm mưu nô dịch của Hà Lan” và đảm
bảo độ an toàn lớn hơn cho buôn bán đường biển đối với Trung Quốc. Ngày 11
tháng 8 năm 1786 theo một thảo thuận với vua Kedah, Anh chiếm giữ Penang và
Francis Light được cử làm giám thị đầu tiên ở hòn đảo này. Đến năm 1791, sau
khi Light đánh bại cố gắng yếu ớt của nhà vua hòng lấy lại hòn đảo, vua đã kí vào
một hiệp ước nhượng hòn đảo để đổi lấy khoảng trợ cấp 6.000 đôla Tây Ban Nha
một năm.
Ngay khi chiếm được Penang một loạt các hoạt động, chính sách nhằm thúc
đẩy và thu hút thương mại ở Penang phát triển, đã được Franci Light xúc tiến
một cách mạnh mẽ.
Các sử sách ghi chép rằng: “Khi đó Penang gần như là hoang vắng, chưa
có dấu vết của con người. Lúc đổ bộ lên mọi người chỉ có thể ngủ trong các lều
vải. Ngày hôm sau, một số người Hoa cũng theo lên bờ. Đến ngày thứ hai mới
phát hiện có một số người Malay trên đảo. Để thu hút thương nhân lên đảo buôn
bán, người Anh khuyến khích người nhập cư phát rừng, khai khẩn đất hoang và

được quyền sở hữu. Đến đầu tháng Tám, trên đảo đã hình thành một số khu nhà
lợp bằng cỏ tranh và xuất hiện chợ phiên. Ngày 10 tháng 8, hai chiếc thuyền của
Anh từ Trung Quốc đã mang chè đến đảo Penang để bán” [4, tr. 109] .
Với đoạn trích trên đã cung cấp cho chúng ta một số dữ liệu về thực trạng
của Penang trước khi người Anh đặt chân đến và những việc làm bước đầu của
người Anh để kích thích nền kinh tế tại Pennag phát triển.
Một trong những chính sách quan trọng của người Anh góp phần thu hút
các hoạt động thương mại của các nước đến Penang đó là chính sách tự do
1 Coromandal là tên được đặt cho bờ biển phía Đông của Ấn Độ dọc theo Vịnh
Bengal, một trong nhưng tuyến đường biển quan trọng trong hoạt động thương
mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á, Trung Quốc.
24
thương mại. Trong một bức thư được ngài John Macpherson - thống đốc Ấn Độ
lúc bấy giờ, viết cho ông Light chỉ sau sáu tháng hòn đảo Penang bị chiếm đóng
có đoạn viết: “Nếu điều kiện thuận lợi, các thương nhân sẽ tìm thấy lợi ích trong
việc dùng đến hàng hóa của họ, và như một điều khích lệ dành cho họ, chúng tôi
mong muốn Ngài sẽ cố gắng không thu bất cứ loại thuế nào đối với bất kì loại
hàng hóa nào được đưa vào hay tàu thuyền đang nhập khẩu ở hòn đảo Hoàng tử
Wales (tên mà người Anh đặt cho hòn đảo Penang), và đó là mong muốn của
chúng tôi để mở cửa cảng tự do cho tất cả các nước” [21, tr. 54].
Trên thực tế với chế độ tự do buôn bán được duy trì ở Penang từ khi bị
chiếm đóng cho đến năm 1802 đã thu hút được thương nhân từ tất cả các nước
đổ về Pennang như người từ bán đảo Malacca, đảo Sumatra, từ Trung Quốc và
Ấn Độ. Penang nhanh chóng trở thành trung tâm phân phát quý giá, nơi mà sản
phẩm của Ấn Độ và Anh được đổi lấy hàng hóa của Malaya như gạo, thiếc, gia
vị, mây, bụi gai, ngà voi, gỗ mun, hạt tiêu [1, tr. 750]. Qua đó, đã giúp người Anh
giải quyết được những khó khăn trong việc tìm vốn xuất khẩu sang Trung Quốc
mà không phải xuất khẩu bạc từ châu Âu sang, qua lộ trình trao đuổi đem hàng
của Ấn Độ tới Malaya, để đổi lấy đôla hoặc hàng hóa khác được cần đến ở
Quảng Châu và Macao. Tuy nhiên, đến năm 1801, thuế xuất, nhập khẩu 5% đã

được đưa ra và thực hiện ở các hải cảng của Penang, nhằm tăng thêm nguồn thu
để bù đắp cho những khoản chi phí mà chính phủ Ấn Độ phải hỗ trợ cho các
hoạt động của chính quyền sở tại ở Penang. Từ đó, các hoạt động trao đổi buôn
bán tại Penang không còn được thuận tiện và tự do như trước.
Với những hoạt động buôn bán tấp nập đó, đã làm thay đổi một cách căn
bản bộ mặt của Penang. Dưới sự chiếm đóng của Anh, Penang đã trở nên tấp
nập, phồn hoa hơn trước. Dân số của đảo ngày một tăng lên, từ vài chục người
năm 1786 lên tới 10.000 người vào năm 1790. Tổng giá trị xuất nhập khẩu tại
hòn đảo này này cũng ngày một tăng cao. Năm 1789 tổng giá trị xuất – nhập
khẩu của Penang lên tới 853.592 đôla Tây Ban Nha, và năm năm sau tăng lên
gần gấp đôi con số này [1, tr. 750].
25

×