Free Wapbuilder
Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn “Hai
đứa trẻ” (Thạch Lam)
Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu của Tự Lực Văn Đoàn, thế nhưng ông lại có
một lối đi riêng khiến văn chương của ông vừa tràn đầy vẻ đẹp lãng mạn mà vẫn đậm chất
hiện thực. Truyện ngắn tiêu biểu Hai đứa trẻ của ông đã giúp người đọc không chỉ nhìn ra
sự thực cuộc đời mà còn thấy được những giấc mơ lãng mạn của con người dù cho họ có bị
bỏ rơi trong nghèo khổ. Và nhân vật trung tâm của câu chuyện đó là chị em Liên. Vũ trụ
nghệ thuật của Hai đứa trẻ là vũ trụ của bóng tối. Chọn cái “giờ khắc của ngày tàn” để khởi
đầu trang truyện và đặt nhân vật của mình vào lòng đêm thăm thẳm, bí mật và ngập tràn
bóng tối, nhà văn đã rất “hiện thực” trong việc miêu tả kiếp sống con người. Trên cái nền
kiến trúc cơ bản: sáng và tối, Thạch Lam đã triển khai cuộc sống cho các nhân vật của
mình, từ đó làm bật lên những điều bi thiết mà nhà văn muốn gửi gắm. Khung cảnh Hai đứa
trẻ xác xơ, tiêu điều và ngập đầy bóng tối. Thế giới nhân vật hiện hình hầu hết là những
cuộc đời bóng tối: đám trẻ con nhếch nhác nhặt rác ở mặt chợ, mẹ con chị Tí với một gia tài
nghèo nàn thảm hại, bác Xẩm mù chỉ biết bần bật mấy tiếng đàn trên chiếc chiếu rách với
cái thau sắt trắng chờ tiền thưởng nằm trống trơ trước mặt, rồi bà cụ Thi hơi điên điên, bác
phở Siêu gánh phở đi bán rong… Có thể nói, nhịp thở của phố huyện trong Hai đứa trẻ
phập phồng một sự sống tàn lụi, khuất lấp. Nó xào xạc, u tối và hiu quạnh. Trong cái ao tù
ấy, theo dòng chảy thời gian, những con người có tên lẫn không tên cứ hiện ra như những
vụn đời bé nhỏ âm thầm, yên lặng nhiều hơn là cử động, nếu cử động thì khẽ khàng, sè sẽ,
chầm chậm, từ từ: gượng nhẹ, cúi nhìn, lặng ngước mắt lên, gượng nhẹ ngồi, khẽ quạt… Họ
nghĩ nhiều hơn nói, nếu nói thì nhỏ nhẹ, chậm rãi, bâng quơ, vẩn vơ, ơ hờ,… hỏi cho có
chuyện, và đáp cũng vì thế phẳng lặng, nhạt nhẽo, rời rạc. Họ hoạt động theo một nếp sinh
hoạt có phần máy móc, quán tính, dọn hàng chờ đợi rồi dẹp hàng, gánh phở ra phố rồi kĩu
kịt gánh trở về. Dường như đối với họ, cuộc sống chẳng bao giờ đem lại một cơ may, vì thế
họ không có những dằn vặt nội tâm, hay những giằng xé về món nợ áo cơm. Ở họ, an phận
là lẽ sống. Cứ thế, họ sống lặng lẽ, bình tĩnh, nhẫn nhịn, một sự nhẫn nhịn bất đắc dĩ của
kiếp người. Vì thế, mong ước của họ chỉ là nỗi khắc khoải mơ hồ, chập chờn và vu vơ.
Phần lớn các nhân vật trong Hai đứa trẻ được Thạch Lam lược giản tối đa để chỉ còn lại tựa
hồ như những cái bóng thầm trong một vũ trụ bóng tối rộng lớn vô cùng. Thế nhưng, trong
những cái bóng nhập nhòa của đời sống phố huyện ấy lại hiện diện chỉ một tâm hồn biết
sống. Tâm hồn ấy là Liên. Liên vừa hòa vào khối người trong bóng tối, vừa tách ra như một
điểm nhìn đầy ý thức của ”cái tôi”. Cô bé không chịu tự đánh mất mình trong một tổng thể
nhạt nhòa dễ lẫn. Mở đầu tác phẩm, người đọc bắt gặp hình ảnh Liên ngồi yên lặng bên
mấy quả thuốc sơn đen “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê
thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị” và “chị thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của
“ngày tàn”. Liên một cô bé – người lớn, nghĩa là Liên không còn hoàn toàn trẻ con, nhưng
cũng chưa phải là người lớn. Tác giả gọi Liên là “chị” vì cô bé như một trái cây chín sớm
trước dòng chảy nghèo khó của kiếp người. Liên đã biết quan tâm săn sóc em bằng tình cảm
trìu mến, dịu dàng như người mẹ. Liên lại đảm đang tảo tần thay mẹ quản lý cửa hàng tạp
1
hóa như một người lớn. Liên chính là một cô bé có tâm hồn trẻ dại với những khao khát hồn
nhiên, thơ ngây, bình dị nhưng đã sớm bước vào đời để kiếm kế sinh nhai. Liên chính là
hiện thân của một kiếp sống nghèo khổ, an phận của con người tại một phồ huyện nghèo
trước cách mạng tháng Tám. Thế nhưng, trong cái hun hút khuya đêm, trong bóng tối tĩnh
lặng của đời mình, Liên đã nhìn vào lòng đêm mà khắc khoải nhận ra một thứ hào quang
cao rộng, xa xôi hơn của kiếp người. Đôi mắt mở to của cô thiếu nữ không chịu ngủ yên.
Cuộc sống diễn ra trước mắt người khác sẽ lặng lẽ như một thứ ao tù, nhưng tâm hồn tinh tế
nhạy cảm của Liên đã tự thấy ở cõi lụi tàn ấy cả một sự sống xôn xao. Đằng sau dáng ngồi
bất động và gương mặt ưu phiền của Liên là cả một ”cái tôi” đa cảm và trầm tư. Bên
ngưỡng cửa của người lớn, Liên vừa cứ hồn nhiên vừa biết lo toan, Liên đã cảm nhận cái gì
đó thật mơ mộng, bâng khuâng mà cô bé không đặt tên nỗi: ”Liên không hiểu tại sao chị
thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Cho nên người đọc không lạ gì
khi đôi mắt ngập buồn của Liên có thể vừa nhận ra sự giống nhau vừa nhận ra sự khác nhau
trong các loại đèn: đèn nhà bác phở Mỹ, đèn Hoa kỳ leo lắt ở nhà ông Cửu, đèn dây sáng
xanh ở hiệu khách, đèn ma trơi của tàu,… Thế giới còm cõi, đơn điệu với cô vì thế chẳng
hề vô cảm. Tiễn một ngày tàn ở phố chợ hiu quạnh, từ cái mùi âm ẩm của xác lá và rác bốc
lên hơi nóng của ngày lẫn mùi cát bụi, cô cũng nhận ra ở đấy có mùi riêng của đất quê
hương, ở đấy có một cái gì rất đằm thắm, rất riêng tư. Cô còn nhận ra nỗi cô đơn muốn
đồng cảm níu kéo gặp gỡ của những con người ”mặc dù đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi”
nhưng cứ chưa rời nhau vì cố ”đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa”. Để lắng nghe và cảm
thức được những điều ấy, rõ ràng tâm hồn cô bé Liên phải hết sức gắn bó âu yếm với mảnh
đất này, một sự gắn bó chỉ ở một tâm hồn lãng mạn mới có. Ở nhân vật Liên, chúng ta có
cảm tưởng rằng, Liên cũng chỉ quẩn quanh trong cái ngõ cụt như bao kiếp phận khác. Vì có
gì buồn bằng bóng tối, có gì đáng sợ hơn bóng tối, ấy thế mà giữa cái tối vây quanh hun
hút, Liên không thấy buồn, nhất là “đêm tối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa”. Thực
ra, tâm cảm của Liên đã quên bóng tối, cô để cho đôi mắt của mình bắt lấy mọi thứ ánh
sáng, từ vệt đom đóm bay đến ngọn đèn con của chị Tí, từ những hột lửa của đoàn tàu bắn
ra đến ”hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”, nghĩa là từ mặt đất quá thiểu não, nặng nề,
tâm hồn bay bổng đã lặng lẽ tách Liên ra khỏi cuộc đời tăm tối để sống những phút giây mơ
ước hi vọng, dẫu đó chỉ là những giấc mơ hão huyền. Hình ảnh đoàn tàu với Liên vì thế
chất chứa một vẻ đẹp của ngày qua. Ở đó, lặng theo mơ tưởng, một thế giới hoài niệm nơi
ký ức sâu đằm hiện lên ngân nga một dư vị ngọt ngào. Đó là một trang cổ tích ngày xưa bỏ
quên ở Bờ Hồ, nơi hai chị em đã từng ”uống cốc nước lạnh xanh đỏ thần tiên”. Quá vãng đã
trào lên muôn sắc hào quang, dù không rõ rệt nhưng vẫn hấp dẫn và quyến rũ mê hồn với
những nhân vật lãng mạn. Vì vậy, ta hiểu vì sao Liên là nhân vật duy nhất trong phố huyện
cố thức không phải chỉ để ”may ra còn có người mua” mà chỉ muốn được nhìn chuyến tàu.
Đó là hạnh phúc duy nhất trong ngày, và phải chăng còn là mơ ước cả một đời ở con người.
Vì thế con tàu trong mắt Liên đồ sộ lạ lẫm và đi với tốc độ phi thường, vừa tới đã vụt qua.
Và cô bé đã xốn xang như uống lấy tiếng động của nó, sắc màu của nó. Thế nhưng, như một
thứ trò chơi của số phận, con tàu mà Liên ngưỡng mộ khát khao đến rồi đi, trả lại cho cuộc
đời thực cái bóng đêm cố hữu như số phận. Nó chỉ là một con sóng đột nhiên dội tới mặt
nước bằng phẳng từ hãm của cuộc đời. Cái còn lại sau đó là môt bầu trời đầy sao, và Liên
cũng như bao con người khuất lấp khác lại tiếp tục lầm lũi cẩn thận gài then cửa, vặn nhỏ
ngọn đèn, khép lại cánh cửa thường nhật để gieo mình câm lặng trong bóng tối. Nhưng
2
ngày mai, ngày mai lại bắt đầu, và giấc mơ của Liên sẽ trở lại,… Trong mắt nhìn của Thạch
Lam, nhân vật Liên là thế đấy, một nhân vật lãng mạn. Có thể nói, thiên truyện Hai đứa trẻ
vừa là một bức tranh hiện thực độc đáo, vừa là một phát hiện lãng mạn đáng giá về con
người. Nói như một nhà nghiên cứu, hai đứa trẻ vừa nhỏ nhoi như hạt bụi vô thường vừa là
một chủ thể nhạy cảm biết nhận ra mối liên hệ với thời gian và vũ trụ, với cuộc sống và con
người, luôn khát khao tự tìm kiếm lại mình trên mảnh đất đầy nỗi buồn và sự gian khó này.
Chính điều này, dù chỉ với một kiếp sống mỏng manh cùng một đời văn ngắn ngủi nhưng
chỉ vài trang văn ít ỏi đối thoại với đời, Thạch Lam là nhà văn gây nhiều vang vọng nhất
trong sự suy tư về kiếp người. Bằng một thứ ngôn ngữ đầy ám ảnh, ngân vang chất thơ, chất
nhạc, Thạch Lam đã “phản ánh” được hiện thực những cuộc đời bé nhỏ như ”những chiếc
đèn con”, nhưng tất cả tình thương của ông lại tụ hội nơi quầng sáng bé nhỏ của những tâm
hồn biết đi tìm cái đẹp, niềm mơ ước, mang khát vọng được chia sẻ, được sống trong hạnh
phúc ấy. Và nhờ thế khiến ông là thành viên duy nhất của Tự Lực văn đoàn đã ghi tên mình
vào phía vĩnh cửu.
3