Tải bản đầy đủ (.doc) (150 trang)

Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức học sinh THPT trường ngoài công lập thành phố Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.98 KB, 150 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa, ông cha ta đã đúc kết nhưng kinh nghiệm quý giá trong
giáo dục con người "Tiên học lễ, hậu học văn". "Lễ" ở đây chính là cách ứng
xử, giao tiếp có văn hóa giữa con người với con người trong xã hội theo một
chuẩn mực đạo đức nhất định. Hay nói cách khác "Lễ" chính là đạo đức, là
sự cư xử đúng mực, kính trên nhường dưới… Tinh thần đó đã được thấm
nhuần và xuyên suốt trong tư tưởng giáo dục Việt Nam. Bác Hồ đã dạy:"Có
tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì
cũng khó". Khó chứ không phải là không làm được, khác hẳn với vô dụng.
Qua đó mới thấy tài tuy rất quan trọng, rất cần thiết nhưng đức còn cần thiết
hơn, quan trọng hơn bởi lẽ người có tài mà chỉ dùng tài năng để phục vụ cho
bản thân mình thì chẳng có ý nghĩa gì, thậm chí với lối sống cá nhân và làm
việc như vậy có thể gây hại cho tập thể.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa có ghi: Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của
giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý
chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con
người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân,
làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ
năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật ; có
sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa
"chuyên" như lời dặn của Bác Hồ" [7;12].

1
Trong sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thị trường, sự bùng nổ về
công nghệ thông tin, xu thế toàn cầu hóa như hiện nay thì mặt trái của nó là


sự tác động mạnh mẽ, nhiều mặt đặc biệt là vấn đề đạo đức, lối sống đến thế
hệ thanh thiếu niên, thế hệ trẻ dẫn đến nhiều hậu quả khó lường mà Đảng ta
đã nhận định trong văn kiện hội nghị Ban chấp hành Trung ương 2, khóa
VIII là: "Đặc biệt đáng lo ngại trong một bộ phận sinh viên, HS có tình
trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu
hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước"[7;26].
Trước tình hình đó trong báo cáo kiểm điểm thực hiện nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII và phương hướng phát triển giáo dục đến năm 2010
có nêu: Vấn đề bức xúc nhất trong giáo dục nước ta hiện nay là giáo dục
toàn diện, trước hết là chất lượng giáo dục chính trị, lý tưởng, đạo đức và
lối sống; Nỗ lực phấn đấu toàn diện làm cho giáo dục thực sự là quốc sách
hàng đầu, trong đó giáo dục đạo đức là cái gốc.
Đặc biệt trong điều 2, luật giáo dục Việt Nam năm 2005 qui định mục
tiêu giáo dục Việt Nam là: " Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"[23;8].
Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục toàn diện HS thì đội ngũ nhà giáo
phải có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống lành mạnh Ngoài việc nắm
vững về kiến thức chuyên môn cần phải có năng lực sư phạm, năng lực giáo
dục. Việc này được thể hiện rõ trong điều 7, chương 2, tiêu chuẩn 4, "năng lực
giáo dục" của Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT, ban hành quy định "Chuẩn
nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở, giáo viên trung học phổ thông".
Từ đường lối, chủ trương trên của Đảng, nhà nước, trong nhiều năm
qua Bộ giáo dục và đào tạo đã phối hợp với các cấp, các ngành đặc biệt là các

2
cơ sở giáo dục cần thực hiện tốt việc giáo dục toàn diện cho HS. Tuy nhiên
một số nơi còn xem nhẹ hay chưa thực hiện triệt để vấn đề GDĐĐ, lối sống

cho HS. Đặc biệt là chưa có những chương trình, giáo trình hướng dẫn quản
lý, giảng dạy, giáo dục đạo đức cụ thể cho HS THPT. Việc giảng dạy, rèn
luyện đạo đức cho HS chỉ được thông qua các môn học như GDCD, văn học,
lịch sử nhưng hiệu quả chưa cao vì phần lớn thời gian tập trung vào việc
truyền đạt các kiến thức văn hóa và do một bộ phận HS còn nhận thức sai lệnh
về vấn đề đạo đức, có những hành vi, biểu hiện vi phạm đạo đức, bạo lực học
đường ngày càng cao trong giai đoạn hiện nay dẫn đến kết quả chưa tốt.
Trước thực trạng về đạo đức HS THPT nói chung, HS THPT trên địa
bàn thành phố Hải Dương và tại Trường THPT Thành Đông và Trường
THPT Marie Curie nói riêng còn nhiều vi phạm như bỏ học, nghỉ học tự do,
kết bè, kết phái, văng tục, chửi bậy, gian lận trong học tập, thi cử Công tác
quản lý giáo dục đạo đức cho HS ở Trường THPT Thành Đông và Trường
THPT Marie Curie còn nhiều bất cập về cách quản lý, nội dung, phương
thức, sự phối hợp chưa đồng bộ giữa các tổ chức trong và ngoài nhà trường
dẫn đến chất lượng giáo dục chưa cao.
Với lý do trên, tôi chọn nghiên cứu vấn đề: "Biện pháp quản lý giáo
dục đạo đức học sinh THPT trường ngoài công lập thành phố Hải Dương"
làm đề tài thạc sỹ khoa học giáo dục, chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý GDĐĐ cho HS, đề
tài đề xuất một số biện pháp quản lý phù hợp, khả thi, nhằm góp phần nâng
cao chất lượng GDĐĐ HS của trường THPT ngoài công lập trong giai đoạn
hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Công tác giáo dục đạo đức HS ở trường THPT ngoài công lập.

3
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp quản lý của Hiệu trưởng đối với công tác giáo dục đạo đức

HS THPT trường ngoài công lập.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Giới hạn đối tượng nghiên cứu:
Đề tài này chỉ nghiên cứu đề xuất biện pháp quản lý GDĐĐ HS THPT
đối với trường ngoài công lập.
4.2. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu:
Đề tài chỉ nghiên cứu tại hai trường THPT ngoài công lập ở thành phố Hải
Dương là: Trường THPT Thành Đông và Trường THPT Marie Curie. (Hiện
nay, trên toàn thành phố Hải Dương có 03 trường THPT ngoài công lập).
4.3. Giới hạn về mẫu khách thể nghiên cứu:
- Hiệu trưởng nhà trường và các thành viên khác trong BGH: 04 người
- GVCN, GVBM, CBQS, CB Đoàn: 34 người
- Học sinh: 300 HS
5. Giả thuyết khoa học
Hiện nay việc quản lý GDĐĐ cho HS THPT của Trường THPT Thành
Đông và Trường THPT Marie Curie thành phố Hải Dương còn một số hạn
chế, bất cập trong phương pháp quản lý, nội dung thực hiện, phương thức
hoạt động, sự phối hợp chưa đồng bộ giữa nhà trường, gia đình, các tổ chức
đoàn thể - xã hội. Từ đó cần thiết phải có những biện pháp phù hợp, khả thi
hơn nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
6.1. Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quản lý GDĐĐ HS THPT.
6.2. Khảo sát, phân tích thực trạng quản lý GDĐĐ HS THPT trường ngoài
công lập.
6.3. Đề xuất biện pháp quản lý phù hợp, khả thi của Hiệu trưởng đối với công
tác GDĐĐ HS THPT trường ngoài công lập tại thành phố Hải Dương.

4
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu:

Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu, tư liệu có liên quan đến
công tác quản lý GDĐĐ cho HS nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
7.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi:
Xây dựng các phiếu trưng cầu ý kiến (dành cho CBQL trường THPT
ngoài công lập, giáo viên đang giảng dạy THPT ngoài công lập, CBQS, CB
Đoàn đang làm việc tại trường THPT ngoài công lập, HS THPT trường
ngoài công lập) để tìm hiểu thực trạng quản lý GDĐĐ HS THPT ngoài công
lập tại Trường THPT Thành Đông và Trường THPT Marie Curie, đồng thời
để xin ý kiến chuyên gia về tính phù hợp và tính khả thi của các biện pháp do
đề tài đề xuất.
7.3. Phương pháp chuyên gia:
Được sử dụng nhằm tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh
vực GDĐĐ và quản lí GDĐĐ cho HS để triển khai nghiên cứu các vấn đề lý
luận, xây dựng phiếu hỏi, đánh giá chung về thực trạng quản lý công tác
GDĐĐ HS.
7.4. Phương pháp phỏng vấn và tọa đàm nhóm:
Được sử dụng để thu thập các thông tin bổ trợ, cần thiết cho việc nghiên
cứu thực trạng. Việc phỏng vấn và tọa đàm được thực hiện đối với GVCN,
CBQS, CB Đoàn và một số đại diện của các lực lượng giáo dục khác.
7.5. Phương pháp thống kê toán học:
Sử dụng một số công thức thống kê toán học nhằm xử lí, phân tích định
lượng và định tính kết quả nghiên cứu, như: Tần suất; tỉ lệ phần trăm; điểm
trung bình cộng; tương quan thứ bậc Spearman.
8. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu, nội dung, kết luận và khuyến nghị, danh
mục tài liệu tham khảo.

5
Nội dung luận văn:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục đạo đức HS THPT.

Chương 2: Thực trạng GDĐĐ và quản lý GDĐĐ HS THPT tại trường
THPT Thành Đông và THPT Marie Curie thành phố Hải Dương.
Chương 3: Biện pháp quản lý của Hiệu trưởng đối với công tác
GDĐĐ HS THPT trường ngoài công lập trong giai đoạn hiện nay.

6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC HỌC SINH THPT
1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu:
Đạo đức là một hình thái ý thức phản ánh sự tồn tại xã hội, là sản
phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế -
xã hội. Nó có vai trò quan trọng trong bất kỳ xã hội nào từ trước đến nay. Do
đó, từ xa xưa con người đã rất quan tâm nghiên cứu đạo đức, xem nó như
động lực tinh thần để hoàn thiện nhân cách con người trong từng giai đoạn
lịch sử nhất định.
Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy định chuẩn mực hướng
con người tới cái chân - thiện - mỹ chống lại cái giả, cái ác, cái xấu… các
chuẩn mực đạo đức xuất hiện do nhu cầu của đời sống xã hội, là sản phẩm
của lịch sử xã hội, do cơ sở kinh tế - xã hội quyết định. Trong bất kỳ giai
đoạn lịch sử nào, đạo đức con người đều được đánh giá theo những khuôn
phép và qui tắc chuẩn mực. Đạo đức là sản phẩm của xã hội, cùng với sự
phát triển của sản xuất, của các mối quan hệ xã hội, hệ thống các quan hệ
đạo đức, ý thức đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo đó ngày càng phát triển,
ngày càng nâng cao, phong phú, đa dạng và phức tạp hơn.
Ở phương Tây, thời Hy Lạp cổ đại, nhà Triết học Socrate (469-399
TCN) cho rằng cái gốc của đạo đức là tính thiện, bản tính con người vốn
thiện, nếu tính thiện ấy được lan tỏa thì con người sẽ có hạnh phúc. Muốn
xác định được chuẩn mực đạo đức, theo ông phải nhận thức bằng lý tính với
phương pháp nhận thức khoa học [8;34].

Ở phương Đông cổ đại, Khổng Tử (551-479 TCN) là nhà hiền triết nổi
tiếng của Trung Quốc. Ông xây dựng học thuyết "Nhân - Lễ - Chính danh",
trong đó, "Nhân" - Lòng thương người, là yếu tố hạt nhân, là yếu tố cơ bản

7
nhất của con người. Đứng trên lập trường coi trọng GDĐĐ, ông có câu nói
nổi tiếng truyền lại đến ngày nay "Tiên học lễ, hậu học văn" [8;21].
Thế kỷ XX, một số nhà giáo dục nổi tiếng của Xô Viết cũng nghiên
cứu về GDĐĐ HS như: A.S. Macarenco, V.A. Xukhômlinxky… nghiên cứu
của họ đã đặt nền tảng cho việc GDĐĐ mới trong giai đoạn xây dựng CNXH
ở Liên Xô trước đây.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm đến
đạo đức và GDĐĐ cho cán bộ, HS. Bác cho rằng đạo đức cách mạng là gốc,
là nền tảng của người cách mạng. Bác cũng căn dặn Đảng ta phải chăm lo
GDĐĐ cách mạng cho đoàn viên, thanh niên, HS thành những người thừa kế
xây dựng CNXH vừa "Hồng" vừa "Chuyên".
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi nội dung cơ bản trong quan điểm đạo đức
cách mạng là: "Trung với nước, hiếu với dân"; "Cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư"; yêu thương con người; tinh thần quốc tế trong sáng.
Trong những năm gần đây, nhiều giáo trình đạo đức được biên soạn
khá công phu. Tiêu biểu như giáo trình của Trần Hậu Kiêm; Phạm Khắc
Chương - Hà Nhật Thăng; Giáo trình đạo đức học của Nguyễn Ngọc Long;
Giáo trình đạo đức học Mác-Lê nin…
Vấn đề GDĐĐ cũng được nhiều các tác giả khác quan tâm nghiên cứu
như: "Đặc trưng của đạo đức và phương pháp GDĐĐ"(Hoàng An,1982);
"Giáo dục đạo đức trong nhà trường" (Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt, 1988);
"Các nhiệm vụ GDĐĐ" (Nguyễn Sinh Huy, 1995); "Tìm hiểu định hướng
giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường" (Thái Duy
Tuyên chủ biên, 1994); "Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn" (Hà
Nhật Thăng,1998); "Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn bị giá trị xã

hội" (Huỳnh Khải Vinh, 2001); "Giáo dục giá trị truyền thống cho học sinh,
sinh viên" (Phạm Minh Hạc, 1997); "Một số nguyên tắc giáo dục nhân cách

8
có hiệu quả trong nhà trường phổ thông" (Nguyễn Thị Kim Dung, 2005);
"Tổ chức Hoạt động Giáo dục Ngoài giờ Lên lớp ở trường THPT" (Phùng
Đình Mẫn chủ biên, 2005)…
Khi nghiên cứu về vấn đề GDĐĐ các tác giả đã đề cập đến mục tiêu,
nội dung, phương pháp GDĐĐ và một số vấn đề về quản lý công tác GDĐĐ.
Về mục tiêu GDĐĐ, Phạm Minh Hạc đã nêu rõ: "Trang bị cho mọi người
những tri thức cần thiết về tư tưởng chính trị, đạo đức nhân văn, kiến thức
pháp luật và văn hóa xã hội. Hình thành ở mọi công dân thái độ đúng đắn,
tình cảm, niềm tin đạo đức trong sáng đối với bản thân, mọi người, với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc và với mọi hiện tượng xảy ra xung
quanh. Tổ chức tốt giáo dục giới trẻ; rèn luyện để mọi người tự giác thực
hiện những chuẩn mực đạo đức xã hội, có thói quen chấp hành qui định của
pháp luật, nỗ lực học tập và rèn luyện, tích cực cống hiến sức lực, trí tuệ vào
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [19;168].
Riêng đối với vấn đề quản lý nhằm nâng cao chất lượng GDĐĐ HS
THPT trong giai đoạn hiện nay còn rất ít công trình nghiên cứu, đặc biệt đối
với HS THPT ngoài công lập. Riêng đối với địa bàn tỉnh Hải Dương hiện
chưa có một công trình nào nghiên cứu về các biện pháp quản lý công tác
GDĐĐ HS THPT nói chung và HS THPT ngoài công lập nói riêng. Trong
khi đó đối tượng này, như đã trình bày ở phần mở đầu, có những đặc điểm
khác biệt với đối tượng HS tại các trường THPT trên địa bạn thành phố Hải
Dương. Chính vì vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài "Biện pháp quản lý giáo
dục đạo đức học sinh THPT trường ngoài công lập thành phố Hải
Dương" là rất thiết thực, nhằm góp phần ngăn ngừa, đẩy lùi các hiện tượng
tiêu cực ở HS, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện HS THPT ngoài công
lập nói chung và Trường THPT Thành Đông – THPT Marie Curie nói riêng.

1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu

9
1.2.1. Khái niệm "Quản lý":
Quản lý là một thuộc tính của xã hội ở mọi giai đoạn lịch sử, đây là
một hoạt động có ý thức của con người nhằm đạt được những mục đích nhất
định. Ngay từ thủa sơ khai, còn sống bầy đàn thì quản lý đã có mầm mống
xuất hiện trong cuộc sống lao động, cuộc đấu tranh sinh tồn của loài người.
Dần dần theo sự tiến hóa của loài người, phát triển của xã hội thì hoạt động
quản lý dần phát triển, tiến tới hoàn thiện và phát huy vai trò hết sức quan
trọng trong đời sống xã hội hiện nay.
Có nhiều quan niệm khác nhau về Quản lý
Theo quan niệm truyền thống: "Quản lý" là quá trình tác động có ý
thức của chủ thể quản lý vào đối tượng quản lý bằng cách vạch ra mục tiêu
cho đối tượng quản lý, tìm kiếm các biện pháp tác động để đối tượng quản lý
đạt tới mục tiêu đã xác định.
Theo quan niệm hiện nay: "Quản lý" là những hoạt động có phối hợp
nhằm định hướng và kiểm soát quá trình tiến tới mục tiêu.
Theo góc độ chính trị xã hội: "Quản lý" được hiểu là sự kết hợp giữa
tri thức với lao động. Vận hành sự kết hợp này cần có một cơ chế quản lý
phù hợp. Cơ chế đúng, hợp lý thì xã hội phát triển, ngược lại thì xã hội phát
triển chậm hoặc rối ren [13;40].
Theo góc độ hành động: "Quản lý" được hiểu là "Chỉ huy, điều khiển,
hành động" [13;4].
Ngoài ra, khái niệm Quản lý còn được một số tài liệu, tác giả quan
niệm như sau:
Theo tác giả Trần Quốc Thành thì: "Quản lý" là sự tác động có ý thức
của chủ thể quản lý để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội,
hành vi và hoạt động của con người nhằm đạt mục đích, đúng với ý chí nhà
quản lý, phù hợp với quy luật khách quan [27;1]".


10
Theo tác giả Trần Kiểm thì: "Quản lý" là nhằm phối hợp nỗ lực của
nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu
của xã hội, quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy
động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực trong
và ngoài tổ chức một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu
quả cao nhất"[28;8].
Từ những địch nghĩa trên ta thấy có một số phần tương đồng, thống
nhất sau:
Về đối tượng: Trong quản lý có hai đối tượng là chủ thể quản lý và
đối tượng bị quản lý trong một tổ chức, đơn vị hay nhóm.
Về mục đích: Quản lý nhằm để đạt được một kết quả, một mục tiêu
nhất định đã đề ra.
Về phương thức: Quản lý là một quá trình điều khiển, phối hợp, tác
động giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu.
Về điều kiện quản lý: Thực hiện trong một hoàn cảnh, thời gian với
các nguồn lực trong và ngoài tổ chức.
Như vậy thông qua các định nghĩa trên, ta hiểu "Quản lý" là sự điều
khiển, chỉ huy, phối hợp, tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý
trong một quá trình hoạt động (học tập, lao động, nghiên cứu ) của một tổ
chức, đơn vị với các điều kiện nhất định về không gian, thời gian, nguồn
lực nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
1.2.2. Khái niệm "Đạo đức"
Theo từ điển Triết học, "Đạo đức" là một trong những hình thái ý thức
xã hội, phản ánh sự tồn tại về mặt tinh thần của một cá nhân, một trong
những đòn bẩy tinh thần cho quá trình phát triển xã hội. Theo nghĩa hẹp,
"Đạo đức" là sản phẩm của quá trình lịch sử, xã hội thể hiện qua sự nhận
thức và quyền tự do của con người.
Theo từ điển Tiếng Việt, Đạo đức có hai nghĩa:


11
- Theo nghĩa tổng quát thì "Đạo đức" là những tiêu chuẩn, nguyên tắc
được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối
với nhau và đối với xã hội.
- Theo nghĩa hẹp thì: "Đạo đức" là những phẩm chất tốt đẹp của con
người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức mà có [29;390].
Theo Đạo đức học Mác-Lê Nin, đạo đức gồm 3 yếu tố cơ bản: Tri thức
(ý thức đạo đức); Tình cảm (niềm tin đạo đức); Hành vi đạo đức và quan hệ
đạo đức. Tuy nhiên có một số quan niệm cho rằng, đạo đức do các yếu tố
hợp thành là: ý thức đạo đức, thực tiễn đạo đức và quan hệ đạo đức.
Theo tác giả Trần Hậu Kiêm thì: "Đạo đức" là tổng hợp những nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi
của mình vì lợi ích xã hội, hạnh phúc của con người trong mối quan hệ giữa
con người với con người, giữa cá nhân với tập thể hay toàn xã hội [26;3].
Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù
chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách,
phản ánh bộ mặt nhân cách của một cá nhân đã được xã hội hoá. Đạo đức
được biểu hiện ở cuộc sống tinh thần lành mạnh, trong sáng, ở hành động
giải quyết hợp lý, có hiệu quả những mâu thuẫn. Khi thừa nhận đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội thì đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi
tầng lớp giai cấp trong xã hội cũng phản ánh ý thức chính trị của họ đối với
các vấn đề đang tồn tại [25;153].
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: "Đạo đức là một hình thái
ý thức xã hội đặc biệt bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm,
những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ
nhu cầu của xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho
phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong
mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội" [25;12].


12
Bản chất đạo đức là những qui tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã
hội, nó được hình thành, tồn tại và phát triển trong cuộc sống, được xã hội
thừa nhận và tự giác thực hiện. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản
ánh những quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở kinh tế, xã hội. Mỗi
hình thái kinh tế hay mỗi giai đoạn đều có những nguyên tắc, chuẩn mực đạo
đức tương ứng. Vì vậy, đạo đức có tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại.
Nghĩa là những giá trị đạo đức của ngày hôm qua nhưng lại không phù hợp
với ngày hôm nay hoặc có những giá trị đạo đức phù hợp với giai cấp này
nhưng lại không phù hợp với giai cấp khác, dân tộc khác.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc tế, thì khái
niệm "Đạo đức" cũng có thay đổi theo tư duy và nhận thức mới. Tuy nhiên,
không có nghĩa là các giá trị đạo đức cũ hoàn toàn mất đi, thay vào đó là các
giá trị đạo đức mới. Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, các giá trị
đạo đức hiện nay là sự kết hợp sâu sắc truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân
tộc với xu hướng tiến bộ của thời đại, của nhân loại. Đó là tinh thần cần cù
lao động, sáng tạo, tình yêu quê hương đất nước gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có nếp sống văn minh
lành mạnh, có tinh thần nhân đạo và tinh thần quốc tế cao cả. Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế vật chất xã hội,
đồng thời nó cũng có quan hệ tương tác với các hình thái ý thức xã hội khác
như pháp luật, văn hoá, nghệ thuật, giáo dục, khoa học…Vì vậy trong quá
trình hình thành và phát triển nhân cách có 3 thành tố: Hành vi đạo đức;
Hành vi pháp luật; Hành vi văn hoá.
Con người hoàn thiện bao gồm hai mặt Đức và Tài, trong đó mặt đạo
đức được đánh giá là quan trọng nhất, theo triết lý: "Pháp luật là đạo đức tối
thiểu; Đạo đức là pháp luật tối đa".

13
Theo triết lý trên thì Pháp luật và đạo đức là hai bậc thang của một

hành vi liên quan chặt chẽ với nhau cùng một mục đích làm điều thiện, tránh
điều ác. Pháp luật là đạo đức tối thiểu, chung quy lại là không được làm điều
ác. Đạo đức là pháp luật tối đa, chung quy lại là không những không làm
điều ác mà cần tự nguyện làm điều thiện đem lại lợi ích vật chất hay tinh
thần cho người khác.
Qua những biện giải trên ta thấy có những kiến giải khác nhau về đạo
đức, tuy nhiên về mặt tổng quát các quan điểm, ý những kiến trên đều có
những điểm cơ bản thống nhất như sau:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, phản
ánh hiện thực đời sống xã hội.
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người, giúp
con người ngày càng hoàn thiện hơn theo tiểu chuẩn của xã hội, giúp xã hội
ngày càng phát triển hơn.
Đạo đức là một hệ các giá trị, các quy tắc, các chuẩn mực mà mọi
người phải tuân thủ theo trong mối quan hệ giữa cá nhân với các nhân, giữa
cá nhân với tập thể, với xã hội.
Tóm lại đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực do xa hội đề ra nhằm mục đích đánh giá và
điều chỉnh hành vi của cá nhâu trong quan hệ xã hội, với người khác, với bản
thân, làm cho hành động của cá nhân phù hợp với lợi ích xã hội.
1.2.3. Khái niệm "Giáo dục đạo đức"
Theo giáo sư Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: "Giáo dục đạo đức" là
quá trình biến các chuẩn mực đạo đức, từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội
đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin,
nhu cầu, thói quen của người được giáo dục".
"Giáo dục đạo đức" là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, có
tổ chức của nhà giáo dục (nhằm trang bị cho HS tri thức, tình cảm, hành vi

14
đạo đức) và yếu tố tự giáo dục của người học để trang bị cho HS tri thức, ý

thức đạo đức, niềm tin, tình cảm đạo đức và quan trọng nhất là hình thành ở
các em hành vi, thói quen đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội.
Giáo dục đạo đức HS là một quá trình lâu dài, liên tục về thời gian,
không gian, từ mọi phương diện, mọi lực lượng trong xã hội. Trong đó, nhà
trường đóng vai trò hết sức quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đến đạo đức
HS; Là một quá trình hình thành và phát triển các phẩm chất đạo đức của
nhân cách dưới tác động, ảnh hưởng có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch,
có sự lựa chọn về nội dung, phương pháp, hình thức.
Giáo dục đạo đức trong trường phổ thông là một bộ phận của của quá
trình giáo dục tổng thể có quan hệ biện chứng với các quá trình giáo dục
khác như giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo dục lao
động và giáo dục hướng nghiệp nhằm hình thành cho HS niềm tin, thói quen,
hành vi, chuẩn mực về đạo đức.
Giáo dục đạo đức HS là quá trình tác động tới HS của nhà trường, gia
đình và xã hội, nhằm hình thành cho HS ý thức, tình cảm, niềm tin đạo đức
và xây dựng thể hiện được những thói quen, hành vi đạo đức trong đời sống
xã hội. Song giáo dục trong nhà trường giữ vai trò chủ đạo định hướng.
Ngày nay, giáo dục đạo đức cho HS là giáo dục đạo đức xã hội chủ
nghĩa. Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, đạo đức, pháp luật, làm cho
HS có tinh thần yêu nước, thấm nhuần lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thật sự say
mê học tập, có ý thức tổ chức kỷ luật, kính thầy, yêu bạn, có nếp sống lành
mạnh, biết tôn trọng pháp luật.
1.2.4. Khái niệm "Biện pháp"
Theo từ điển Tiếng Việt thì: "Biện pháp" là cách làm, cách thức tiến
hành, giải quyết một vấn đề cụ thể". Trong quản lý đối tượng quản lý có tính
phức hợp và phức tạp, đòi hỏi phải có biện pháp quản lý đa dạng và phù hợp

15
đối tượng. Do đó, biện pháp quản lý thường được dùng với nghĩa cụ thể hóa
các phương pháp quản lý trong các công việc cụ thể.

Theo nghĩa khoa học thì: "Biện pháp" là hệ thống những nguyên tắc
được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động
nhận thức và thực tiễn nhằm thực hiện mục đích nhất định.
"Biện pháp" là phạm trù gắn liền với hoạt động có ý thức của con
người, phản ánh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Do đó biện pháp là một trong những yếu tố quyết định thành công hay thất
bại trong hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực.
Từ các định nghĩa trên, ta thấy biện pháp có đặc điểm sau:
Biện pháp xuất hiện khi có một vấn đề mới cần giải quyết hoặc đã giải
quyết nhưng chưa đem lại kết quả như mong muốn.
Biện pháp là căn cứ vào các điều kiện để đưa ta và thực hiện những
hoạt động, những cách thức, những việc làm, cách làm làm, cách giải quyết
vấn đề đang đặt ra.
Đối tượng thực hiện biện pháp là sự phối hợp một cách thống nhất
giữa chủ thể biện pháp và người có liên quan.
Việc đề ra biện pháp và thực hiện các biện pháp là nhằm đạt được một
mục tiêu nhất định.
1.2.5. Khái niệm "Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức"
a. "Biện pháp quản lý":
Biện pháp quản lý là cách thức mà chủ thể quản lý sử dụng các công cụ
quản lý tác động vào việc thực hiện từng khâu của chức năng quản lý trong
mỗi quá trình quản lý nhằm tạo thêm năng lực thực hiện mục tiêu quản lý.
Trong giáo dục, biện pháp quản lý là cách thức mà nhà quản lý giáo
dục khai thác, sử dụng các công cụ quản lý giáo dục (nhân lực, tài lực, vật
lực ) vào việc tổ chức các hoạt động, các cách thức cho giáo viên, HS và
các lực lượng xã hội phối hợp một cách thống nhất việc thực hiện các nội

16
dung giáo dục trong quá trình quản lý giáo dục nhằm đạt được mục tiêu nhất
định đã đề ra.

b. "Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức":
Biện pháp quản lý GDĐĐ cho HS THPT là hệ thống những tác động
có kế hoạch, có hướng đích của chủ thể quản lý đến tất cả các khâu, các bộ
phận của nhà trường nhằm giúp nhà trường sử dụng tối ưu các tiềm năng,
các cơ hội để thực hiện hiệu quả các mục tiêu quản lý GDĐĐ cho HS ở cấp
học này.
Đó là một quá trình, bao gồm nhiều cấp độ và nhiều phạm vi:
* Về cấp độ
- Quản lý hoạt động GDĐĐ cấp hệ thống giáo dục quốc gia: Đó chính
là công tác GDĐĐ cho thế hệ trẻ, với tư cách một nhiệm vụ giáo dục cơ bản
nhằm thực hiện mục đích giáo dục toàn diện nhân cách. Ở cấp độ này, quản
lý hoạt động GDĐĐ là công tác quản lý hệ thống xã hội, mà nòng cốt là hệ
thống nhà trường, các bậc học, các cấp học, thuộc các cấp quản lý vĩ mô
(Quốc hội, Chính phủ, các đoàn thể, các cơ quan QLNN về GDĐT…)
- Quản lý hoạt động GDĐĐ HS cấp cơ sở giáo dục - đào tạo (các nhà
trường) là quản lý các hoạt động GDĐĐ tác động trực tiếp đến sự hình thành
các phẩm chất của nhân cách người HS.
* Về phạm vi
Quản lý hoạt động GDĐĐ HS được xác định chính là một nội dung
quan trọng đặc biệt trong công tác quản lý nhà trường của Hiệu trưởng. Điều
đó cũng đồng nghĩa đề tài chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu về quản lý hoạt
động GDĐĐ HS trong trường THPT ngoài công lập và một số nội dung cơ
bản của quản lý hoạt động này là:
- Mục tiêu quản lý hoạt động GDĐĐ HS
- Nội dung cơ bản của quản lý hoạt động giáo dục đạo đức HS
- Các phương pháp, phương tiện quản lý hoạt động GDĐĐ HS

17
- Quản lý giáo viên, nhân viên
- Quản lý HS

- Quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả GDĐĐ
- Quản lý đa dạng các hình thức phối kết hợp giữa gia đình, nhà
trường, các tổ chức đoàn thể xã hội trong GDĐĐ.
1.3. Một số đặc điểm tâm sinh lý của HS THPT và công tác giáo dục đạo
đức HS trường THPT
1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lý của HS THPT và trường THPT Thành Đông,
THPT Marie Curie thành phố Hải Dương
1.3.1.1. Đặc điểm tâm sinh lý của HS THPT
a. Về mặt thể lực và trí lực:
HS THPT có độ tuổi từ 15 đến 18, được coi là giai đoạn đầu của tuổi
thanh niên (hay còn gọi là tuổi thanh niên mới lớn). Là thời kỳ đầu đang đạt
được sự tăng trưởng về mặt thể lực. Nhịp độ tăng trưởng về chiều cao và
trọng lượng cơ thể đã chậm lại. Các em đã có một thân hình phát triển về
chiều cao, cân nặng, cơ bắp, sức khỏe dồi dào Đa số các em đã vượt qua
thời kỳ phát dục.
Trong giai đoạn này sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi
quan trọng do cấu trúc của não phát triển, số lượng dây liên hợp thần kinh
tăng lên, chức năng của não phát triển nên các em có khả năng tư duy lý
luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, chặt chẽ, sáng tạo, có căn cứ,
mang tính nhất quán cao. Khả năng phân tích, tổng hợp, suy luận, phát đoán.
Tính chủ động trong nhận thức, ghi nhớ được phát triển mạnh. Ghi nhớ có
chủ định giữ vai trò chủ đạo trọng hoạt động trí tuệ, đồng thời vai trò của ghi
nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt. Tư duy các em
chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn, đồng thời tính phê phán trong tư
duy cũng phát triển. Đặc biệt là tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao.

18
Tuy nhiên một số HS THPT chưa đạt đến mức độ trên, nhiều em còn
chưa chủ động, sáng tạo, tích cực trong suy nghĩ, tư duy, thường hay có những
kết luận vội vàng, cảm tính, thiếu căn cứ Tóm lại ở giai đoạn này các em đã

có những biết đổi về mặt trí tuệ, thể lực một cách tương đối hoàn thiện.
b. Đặc điểm tính cách:
Có sự bộc lộ hết sức mạnh mẽ về mặt tính tình, thường không ổn định,
dễ chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác, từ tích cực sang tiêu cực, từ
yêu sang ghét, vui sang buồn Đa số các em khi gặp những tình huống
thuyết phục, cảm động liền hạ quyết tâm làm bằng được hoặc khi gặp những
gương tốt, điển hình thì sẽ học theo, lấy đó làm thần tượng để làm theo.
Nhưng mỗi khi gặp khó khăn cũng hay thường thối chí, chùn bước, bỏ cuộc.
Ở giai đoạn này, chức năng nội tiết phát triển mạnh, tác động ức chế
của vỏ não chưa đến mức hoàn thiện nên tính tình thường hay thất thường,
có nhiều nhu cầu nhưng chưa có những nhận thức đầy đủ về tính phức tạp
của xã hội, chưa hiểu rõ, hiểu hết về hành vi bản thân, chưa có một thế giới
quan, nhân sinh quan đầy đủ, đúng đắn. Chính vì vậy sự phát triển tính cách
chưa thật sự ổn định, chưa hoàn thiện, nhất là ở đầu tuổi THPT.
Bên cạnh đó, ở giai đoạn này sự tự ý thức của các em diễn ra mạnh mẽ
và có tính đặc thù riêng của lứa tuổi. "Cái Tôi" của mình đã được các em
khẳng định, nó thể hiện qua nhận thức của các em trong vị trí của xã hội, gia
đình, tập thể lớp, bạn bè; Các em bắt đầu thích thể hiện mình, khẳng định
mình trước tập thể, đám đông, bạn bè để mong được sự thừa nhận của mọi
người. Ngoài nhu cầu được đánh giá thì các em còn có khả năng đánh giá về
những phẩm chất, mặt mạnh, mặt yếu của người xung quanh và của chính
bản thân. Tuy nhiên, trong đánh giá của các em tính chính xác còn chưa cao,
thường hay cường điệu. Trong khi đánh giá, hoặc các em thường hay đánh
giá thấp cái tích cực, tập trung nhiều vào cái tiêu cực để phê phán, hoặc đôi
khi đánh giá quá cao bản thân dẫn đến việc tự cao, tự đại, coi thường người

19
khác. Việc các em đã có nhu cầu đánh giá và tự đánh giá một cách có chủ
định, có ý thức, có mục đích là một dấu hiệu cần thiết của một nhân cách
đang trưởng thành và là tiền đề cho việc tự giáo dục có mục đích.

c. Đời sống tình cảm và giao tiếp:
Lứa tuổi THPT là lứa tuổi mang tính chất tập thể cao, điều quan
trọng và nhu cầu của các em là được sinh hoạt, hoạt động với các bạn cùng
trang lứa, là cảm thấy mình cần cho nhóm, có vị trí nhất định trong nhóm,
được nhóm tin cậy. Trong một tập thể bắt đầu dần dần có sự phân cực nhật
định, xuất hiện người được nhiều người quý mến, người không được nhiều
người quý mến. Những em có vị trí thấp trong nhóm, không được bạn bè
tin cậy, quý mến thường xuất hiện sự băn khoăn, suy nghĩ nhiều về nhân
cách của mình.
Ở giai đoạn này, quan hệ bạn bè chiếm vị trí lớn hơn hẳn, nhu cầu tâm
tình cá nhân được tăng lên rõ rệt. Các em có các yêu cầu cao hơn, cung bậc
khác nhau về tình bạn (yêu cầu sự chân thành, lòng vị tha, sự tin tưởng lẫn
nhau, tôn trọng nhau, sẵn sàng giúp đỡ bạn bè…) coi tình bạn là mối quan hệ
rất quan trọng, lý tưởng hóa tình bạn, nghĩ và mong muốn ở bạn nhiều điều
lý tưởng chính vị vậy nhiều khi đánh giá chưa thật đúng mực về bạn.
Ở lứa tuổi THPT đa số các em đã có cảm giác mình là người lớn, thích
thể hiện mình là người lớn, hành động giống như người lớn. Đây là giai đoạn
thích làm duyên, làm dáng, thích trình diện, thích biểu hiện trước mọi người,
đặc biệt trước người khác giới. Các em đã có những biến đổi mạnh mẽ về
tâm sinh lý dẫn đến những biến đổi về tâm lý, đã bắt đầu ý thức được sự
khác biệt một cách rõ ràng giữa hai giới nên nhiều em đã dẫn đến việc nảy
sinh tình cảm với bạn khác giới, sự mến mộ, đôi khi có một số em xuất hiện
tình yêu học trò. Trong các em thường bộc lộ những mâu thuẫn gay gắt giữa
nhu cầu, hứng thú, sở thích cá nhân với các khả năng vốn có của bản thân
cùng với các quy tắc, quy phạm của xã hội.

20
Lứa tuổi THPT là lứa tuổi các em thể hiện được sự nhanh nhẹn, hoạt
bát, nhiệt tình, sôi nổi, dũng cảm nhưng lý tưởng chưa rõ ràng, chưa đủ độ
chín, sức kiềm chế kém, tình cảm thường bộc phát mãnh liệt, tràn đầy nhiệt

huyết. Nhưng khi tình cảm bất ổn thì rất dễ bị kích động, dễ dẫn đến cực đoan,
dễ xảy ra xung đột giữa lý chí với hành động, dễ dấn đến những hành động
thiếu suy nghĩ, bồng bột, thô bạo, bất chấp hậu quả. Đặc biệt ở lứa tuổi này
ranh giới giữa cái tốt, cái tích cực với cái xấu, cái tiêu cực là rất mong manh,
các em dễ bị lôi cuốn vào các thói hư, tật xấu của môi trường xung quanh.
1.3.1.2. Đặc điểm tâm sinh lý của HS THPT Thành Đông và THPT
Marie Curie:
HS trường THPT Thành Đông – THPT Marie Curie thành phố Hải
Dương có những đặc điểm chung của HS THPT, ngoài ra còn có những đặc
điểm riêng như sau:
Do là trường ngoài công lập tuyển sinh theo phương thức xét tuyển
những HS không đỗ vào hệ công lập vì thế đa phần các em đều có lực học
trung bình, dưới mức trung bình; Mất kiến thức cơ bản cấp THCS; Không có
thói quen, nền nếp học tập, cách thức học tập, không có thói quen tư duy độc
lập, sáng tạo; Khả năng tự học kém, không có động cơ học tập đúng đắn…
Tính tình thất thường, không ổn định mang đặc điểm của thanh niên
mới lớn, nhiều hoài bão viển vông, hay mơ mộng, thiếu ý chí, nghị lực đúng
đắn để thực hiện ước mơ, hoài bão của mình. Một số ít chây lười, không có
chính kiến rõ ràng, a dua, bất cần; có xu hướng kết thân theo nhóm không
chính thức, thường hay rủ rê nhau chơi bời; ý thức kỷ luật chưa cao, hay vi
phạm nội quy của lớp, của trường. HS có nguy cơ vi phạm pháp luật cao hơn
so với HS các trường THPT công lập trên địa bàn với các biểu hiện, như:
đánh nhau, vi phạm luật giao thông, cá độ đá bóng, chơi lô, đề, hút thuốc,
uống rượu, trộm cắp, bỏ giờ, bỏ tiết, nghỉ học tự do, chơi games, nói tục,
chửi bậy…thậm chí va chạm, xung đột bằng bạo lực.

21
Về đời sống tình cảm, nhiều em có hoàn cảnh đặc biệt nên thiếu thốn
tình cảm, sự quan tâm của gia đình, như: bố mẹ bỏ nhau; nghiện ngập, rượu
chè; mải mê làm ăn, kiếm tiền; không có phương pháp giáo dục con đúng

đắn, nuông chiều thái quá, đáp ứng mọi yêu cầu của con, đặc biệt về vật chất,
tiền bạc, xe máy…Nhiều gia đình do thiếu hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý
của con dẫn đến việc cư xử không đúng cách, cư xử thô bạo dẫn đến hiệu
quả giáo dục kém, bất lực với con. Thậm chí một số gia đình tỏ ra bất lực với
con cái, phó mặc trách nhiệm giáo dục con cái cho nhà trường, không hợp
tác với nhà trường do đó việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cho HS còn gặp
nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, giữa trường THPT Thành Đông và Marie Curie cũng có sự
khác biệt, đó là trường THPT Marie Curie hướng đào tạo theo xu hướng chất
lượng cao, thu học phí cao, yêu cầu xét tuyển cao hơn so với trường Thành
Đông. Chính vì vậy đại đa số HS ở trường Marie Curie là trong địa bàn
thành phố, là con nhà khá giả, làm kinh doanh, buôn bán nên gia đình thường
nuông chiều con, ít quan tâm đến con do mải mê công việc. Còn trường
Thành Đông đầu vào thấp hơn, đa phần là HS từ các gia đình có hoàn cảnh
đặc biệt, kinh tế khó khăn, ở xa trường do đó cũng ảnh hưởng rất lớn đến vấn
đề quản lý và giáo dục các em.
1.3.2. Công tác GDĐĐ HS THPT trường ngoài công lập
Quá trình GDĐĐ cho HS bao gồm tác động của nhiều yếu tố khách
quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong. Có thể hiểu rằng có bao nhiêu
mối quan hệ trong nhà trường và xã hội mà HS tham gia hoạt động thì có
bấy nhiêu yếu tố tác động đến HS. Đó là gia đình, nhà trường và xã hội. Mỗi
lực lượng có tầm quan trọng, có nhiệm vụ, có phương pháp và tính ưu việt
riêng.
Gia đình là một tế bào xã hội, là nơi lưu giữ và phát triển vững chắc
nhất giá trị truyền thống. Từ gia đình có thể giáo dục tất cả các lứa tuổi lòng

22
kính yêu cha mẹ, người thân trong gia đình, yêu thương đồng loại. Gia đình
hạnh phúc dựa trên nguyên tắc cơ bản là mọi người đều phải yêu thương quý
mến nhau, giúp đỡ nhau trong công việc và là chỗ dựa tinh thần cho mỗi

thành viên.
Nhà trường là một tổ chức xã hội đặc thù với cấu trúc tổ chức chặt
chẽ, có nhiệm vụ chuyên biệt là giáo dục, đào tạo nhân cách HS theo những
định hướng của xã hội.
Quá trình thể hiện các chức năng trên là quá trình tổ chức các hoạt
động dạy học, hoạt động giáo dục theo hệ thống chương trình, nội dung
được tổ chức một cách chặt chẽ, có kế hoạch.
Các lực lượng xã hội bao gồm: Các cơ quan, các tổ chức chính trị, xã
hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức đoàn thể quần chúng, các cơ quan chức
năng Trong các lực lượng giáo dục đạo đức, nhà trường có vai trò chủ đạo,
là trung tâm tổ chức phối hợp và dẫn dắt công tác giáo dục bởi vì:
+ Nhà trường là cơ quan thuộc sự quản lý của Nhà nước, được sự lãnh
đạo trực tiếp và chặt chẽ của Đảng, nắm quan điểm và đường lối giáo dục xã
hội chủ nghĩa, có đội ngũ chuyên gia sư phạm xã hội chủ nghĩa.
+ Nhà trường có chức năng thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo nhân cách.
+ Nhà trường có nội dung giáo dục và phương pháp giáo dục được
chọn lọc và tổ chức chặt chẽ.
+ Nhà trường có lực lượng giáo dục mang tính chất chuyên nghiệp.
+ Môi trường giáo dục trong nhà trường có tính chất sư phạm, có tác
dụng tích cực trong quá trình giáo dục đạo đức.
1.3.2.1. Vị trí, vai trò của hoạt động giáo dục đạo đức đối với HS THPT
- GDĐĐ cho thế hệ trẻ là trách nhiệm của toàn xã hội, song giáo dục ở
nhà trường giữ vai trò chủ đạo. GDĐĐ trong nhà trường là quá trình giáo
dục bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể. GDĐĐ có quan hệ biện chứng
với các bộ phận khác, như: Giáo dục trí tuệ (Trí dục); Giáo dục thể chất;

23
Giáo dục thẩm mỹ (Mỹ dục); Giáo dục lao động kỹ thuật tổng hợp, hướng
nghiệp, trong đó GDĐĐ là nền tảng, là gốc rễ để tạo ra nội lực tiềm năng
vững chắc cho các mặt giáo dục khác.

- GDĐĐ tạo ra nhịp cầu gắn kết giữa nhà trường và xã hội, giữa con
người và cuộc sống.
Nhà trường THPT coi GDĐĐ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
Mục đích giáo dục của nhà trường không nằm ngoài mục đích hình thành và
phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ.
GDĐĐ cho HS là hình thành ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức, hành
vi và thói quen đạo đức của HS theo những nguyên tắc đạo đức dân tộc, đạo
đức cách mạng, đạo đức XHCN.
1.3.2.2. Mục tiêu, nhiệm vụ và các con đường GDĐĐ cho HS THPT
* Mục tiêu, nhiệm vụ GDĐĐ cho HS THPT
GDĐĐ ở trường THPT là một hoạt động có tổ chức, có mục đích, có
kế hoạch nhằm biến những nhu cầu, chuẩn mực đạo đức theo yêu cầu của xã
hội thành những phẩm chất, giá trị đạo đức cá nhân HS, nhằm góp phần phát
triển nhân cách của mỗi cá nhân vá thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã hội.
Quản lý tốt hoạt động GDĐĐ HS ở trường THPT là góp phần thực hiện
nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục, đào tạo trong thời kỳ CNH-HĐH
là "Nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng
độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội".
a. Kiến thức:
- Biết được biểu hiện và ý nghĩa của một số giá trị đạo đức cơ bản,
phù hợp với lứa tuổi.
- Biết được những nội dung cơ bản của một số quyền và nghĩa vụ công
dân trong các lĩnh vực xã hội.

24
- Có những hiểu biết sơ bộ về tổ chức bộ máy Nhà nước cộng hòa
XHCN Việt Nam, về trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực
hiện các quyền của công dân.
- Hiểu những yêu cầu về đạo đức và ý thức tuân thủ Pháp luật trong
đời sống hàng ngày.

b. Kỹ năng:
- Biết sống và ứng xử theo các giá trị đạo đức đã học;
- Biết ứng xử giao tiếp có văn hóa;
- Thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân phù hợp với lứa tuổi.
c. Thái độ:
- Yêu quê hương, đất nước Việt Nam, tự hào, có ý thức giữ gìn, phát
huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tôn trọng đất nước, con người
và các nền văn hóa khác.
- Yêu thương, tôn trọng mọi người xung quanh.
- Tự trọng, tự tin trong giao tiếp và các hoạt động hàng ngày. Có ý
thức thực hiện quyền và nghĩa vụ của bản thân, đồng thời tôn trọng các
quyền của người khác.
- Có ý thức học tập và vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn; Có ý
thức định hướng nghề nghiệp đúng đắn. Bước đầu hình thành được một số
phẩm chất cần thiết của người lao động như cần cù, sáng tạo, trung thực, có
trách nhiệm, có ý thức kỷ luật và có tác phong công nghiệp, biết hợp tác
trong công việc.
- Tích cực tham gia các hoạt động tập thể, hoạt động xã hội phù hợp
với khả năng.
- Có ý thức rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh bảo vệ môi trường.
- Bước đầu có ý thức thẩm mỹ, yêu và trân trọng cái đẹp.
* Các con đường GDĐĐ cho HS THPT:

25

×