Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Thực trạng hoạt động thị trường phái sinh Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.3 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA KẾ TOÁN – TÀI CHÍNH
CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG
THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH TẠI VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đặng Phương Quỳnh
Lớp: Đại học Tài chính – Ngân hàng 6C
Giáo viên: Trương Hoàng Phương
Cần Thơ, ngày 27 tháng 09 năm 2014
1
MỤC LỤC
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Lịch sử hình thành và phát triển………………………………… 3
2. Khái niệm về các công cụ phái sinh……………………………… 4
2.1Thị trường phái sinh hàng hóa………………………………… 5
a. Hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau
b. Hợp đồng quyền chọn
2.2Thị trường phái sinh ngoại hối……………………………… 5
a. Hợp đồng kỳ hạn………………………………………… 5
b. Hợp đồng hoán đổi………………………………………… 6
c. Hợp đồng giao sau………………………………………… 7
d. Hợp đồng quyền chọn………………………………………. 7
3. Cách thực hiện các giao dịch phái sinh:
3.1Thị trường phái sinh hàng hóa
a. Hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau…………………… 9
b. Hợp đồng quyền chọn………………………………………. 11
3.2Thị trường phái sinh ngoại hối
a. Hợp đồng kỳ hạn……………………………………………. 13
b. Hợp đồng hoán đổi………………………………………… 14


c. Hợp đồng giao sau………………………………………… 15
d. Hợp đồng quyền chọn………………………………………. 16
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG:
1. Thực trạng sử dụng công cụ phái sinh tại Việt Nam……………… 18
2. Thị trường phái sinh hàng hóa…………………………………… 21
3. Thị trường phái sinh ngoại hối…………………………………… 23
2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Lịch sử hình thành và phát triển
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát triển ngày một lớn mạnh, mở cửa thị trường là điều
tất yếu. Tuy nhiên, việc này có thể sẽ đem lại những rủi ro khá lớn khi lưu lượng vốn được tự do
luân chuyển. Nếu có bất kì sự rút ra hoặc chảy vào đột ngột của dòng vốn, sẽ dẫn đến những tổn
thất cho nền kinh tế. Do đó, việc sử dụng các công cụ tài chính để phòng ngừa rủi ro và thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế là một phương pháp đang được thế giới ưa chuộng và áp dụng một
cách hiệu quả.
Khoảng 30 năm trước đây, thị trường phái sinh chỉ mang tính nhỏ lẻ và nội bộ các nước.
Nhưng đến nay, thị trường phái sinh đã có những bước phát triển ấn tượng – gần 20% mỗi năm
trong thập kỷ qua – đóng góp vào thị trường tài chính toàn cầu con số khoảng 687 nghìn tỷ USD
tính theo tổng giá trị danh nghĩa hợp đồng giao dịch chưa đáo hạn. Chưa từng có công cụ tài
chính nào trải nghiệm sự đổi mới phát triển nhanh chóng như vậy. Sự đổi mới công nghệ và sản
phẩm cùng sự cạnh tranh tích cực trong thị trường phái sinh thế giới đã thúc đẩy sự tăng trưởng
ấn tượng đó, đóng góp vào sự phát triển của thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế thế giới
nói chung.
Sở giao dịch công cụ phái sinh đầu tiên trên thế giới được ra đời tại London, Anh với tên
gọi Sở giao dịch Hoàng Gia và cho phép giao dịch các hợp đồng kỳ hạn vào thế kỷ XVII.
Tiếp theo, vào năm 1650, các hợp đồng giao sau được chuẩn hóa đầu tiên được thực hiện
dựa trên cơ sở thị trường gạo tại Osaka, Nhật Bản. Các hợp đồng này tương đối giống với hợp
đồng giao sau ngày nay, tuy nhiên chúng vẫn chưa được bù trừ hàng ngày và đảm bảo bởi bên
thứ ba uy tín. Năm 1848, sự thành lập Ủy ban thương mại Chicago trở thành dấu mốc quan
trọng. Chicago khi đấy được xem như trung tâm dự trữ, mua bán và phân phối các loại ngũ cốc

cho khu vực quanh vùng. Một nhóm thương gia tại đây, để tránh việc chênh lệch giá quá lớn của
ngũ cốc qua từng mùa, đã tạo ra một loại hợp đồng hữu hiệu phòng ngừa rủi ro và đầu cơ do
chênh lệch giá mang lại, cho phép nông dân ấn định giá hợp đồng trước và giao ngũ cốc sau.
Những hợp đồng này đã được chuẩn hóa vào năm 1865. Và mãi đến năm 1925, trung tâm thanh
toán bù trừ đầu tiên cho hợp đồng giao sau được thành lập.
Khoảng thế kỷ XIX, Hussell Sage ở New York đã sử dụng nguyên lý ngang giá quyền
chọn bằng cách xác định trước các quyền mua, quyền bán và mức giá thực hiện, để tạo ra một
khoảng cho vay với mức lãi suất cao hơn nhiều lần so với mức lãi suất pháp luật quy định lúc
bấy giờ. Điều này đã khiến các hợp đồng quyền chọn, hợp đồng giao sau và các giao dịch phái
sinh khác bị cấm tại nhiều nơi trên thế giới. Đầu thế kỷ XX là thời kỳ đen tối của thị trường phái
sinh, do các công ty ma được thành lập, hoạt động trên các hợp đồng quyền chọn để thu hút giao
dịch và sau đó bỏ trốn với số tiền đạt được. Tại thời điểm này, các giao dịch phái sinh thỉnh
thoảng lại bị cấm ở các nước khác nhau trên thế giới.
Mãi đến năm 1973, sự ra đời của Sở giao dịch quyền chọn Chicago chính thức đánh dấu
ấn phẩm công thức nổi tiếng nhất trong lĩnh vực tài chính – Mô hình định giá quyền chọn của
Fischer Black và Myron Scholes. Sự kiện này đã tạo ra những thay đổi cách mạng trong thế giới
đầu tư, mở ra cơ sở cho sự bùng nổ của các giao dịch phái sinh trên thế giới.
3
Mặc dù các hợp đồng phi tập trung đã được xuất hiện từ trước đó rất lâu. Nhưng phải đến
những năm 80 của thế kỷ XX, kỷ nguyên của công cụ hoán đổi (swaps) chính thức được đánh
dấu. Đây là kết quả của việc nới lỏng và hòa nhập của thị trường vốn các nước cùng với sự biến
động mạnh của lãi suất trên thị trường. Đầu năm 1991, tổng số giao dịch lên đến 2 tỷ tỷ USD.
Tuy nhiên vào năm 1994, những khoản lỗ khủng khiếp của các tập đoàn lớn và giàu kinh nghiệm
được cho là do giao dịch phái sinh mang lại, đã dẫn đến làn sóng tẩy chay các công cụ và giao
dịch phái sinh. Dù vậy, cho đến nay, thị trường phái sinh vẫn phát triển mạnh mẽ, cung cấp đa
dạng cho nhu cầu phòng trừ rủi ro nền kinh tế của thế giới. Trong những năm gần đây, ở các
nước phát triển, các sàn giao dịch phái sinh mới đã bắt đầu cạnh tranh với các sàn giao dịch phái
sinh trước đây. Ví dụ, Sở giao dịch chứng khoán quốc tế ISE (The International Securities
Exchange) bắt đầu hoạt động vào năm 2000 và đến giữa năm 2003 trở thành sàn giao dịch đi đầu
trong giao dịch quyền chọn cổ phiếu, cùng với Sở giao dịch Chicago (CBOE). Năm 2004, BOX

tham gia thành công vào cung ứng giao dịch quyền chọn cổ phiếu tại Mỹ.
Ngoài thị trường phái sinh tại các nước phát triển, thị trường phái sinh ở các nước mới
nổi cũng đã định hình và phát triển chuyên sâu. Ba sàn giao dịch phái sinh đã bắt đầu đi vào hoạt
động ở Trung Đông từ năm 2005: Sở giao dịch vàng và hàng hóa Dubai, Sở Giao dịch Chứng
khoán Kuwait, và Sở Giao dịch IMEX Qatar. Riêng Ấn Độ thành lập các sàn giao dịch phái sinh
từ năm 2000 đến 2003: Sở Giao dịch Chứng khoán Quốc gia Ấn Độ, Sở Giao dịch Chứng khoán
Bombay, Sàn giao dịch MCX Ấn Độ, và Sàn giao dịch NCDEX Ấn Độ. Trung Quốc cũng hình
thành 2 sàn giao dịch phái sinh vào năm 2005: Sở giao dịch hợp đồng tương lai Thượng hải
(Shanghai Futures Exchange) và Sở giao dịch hợp đồng tương lai tài chính Trung Quốc (China
Financial Futures Exchange). Tuy đã có sự phát triển nhất định nhưng tại các thị trường phái sinh
các nước mới nổi này cũng chưa có các sản phẩm phái sinh đa dạng như ở các nước phát triển.
Đối với các nước đang và kém phát triển thì thị trường hàng hóa phái sinh chưa có định hình
hoặc chỉ phát triển các sản phẩm phái sinh truyền thống như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương
lai, quyền chọn và hoán đổi lãi suất.
2. Khái niệm về các công cụ phái sinh
Phái sinh là một công cụ tài chính mà giá trị của nó bắt nguồn từ giá trị của các hàng hóa
cơ sở. Chẳng hạn, phái sinh hàng hóa thì cà phê, đường, cao su, hay sắt thép, vàng bạc, kim loại
quý… là hàng hóa cơ sở tạo lập nên các phái sinh này; hoặc phái sinh chứng khoán thì cổ phiếu,
tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ là những hàng hóa cơ sở cho các phái sinh, còn phái sinh
tiền tệ thì tỷ giá, lãi suất, ngoại hối… là hàng hóa cơ sở.
Thị trường phái sinh bao gồm 4 công cụ chủ yếu, đó là: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán
đổi, hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn. Trong đó, 2 công cụ đầu tiên được thực hiện
giao dịch trên thị trường phi tập trung (thị trường OTC) còn 2 công cụ sau được giao dịch trên thị
trường tập trung.
Tại Việt Nam hiện nay, hai thị trường phái sinh chủ yếu đó là thị trường phái sinh ngoại
hối và thị trường phái sinh hàng hóa.
4
2.1 Thị trường phái sinh hàng hóa:
a. Hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau:
Hai hợp đồng này đều là hợp đồng mua hoặc bán một số lượng nhất định đơn vị tài sản

cơ sở ở một thời điểm xác định trong tương lai theo mức giá đã được xác định ngay tại thời điểm
thỏa thuận hợp đồng. Tuy nhiên hợp đồng kỳ hạn sẽ được thỏa thuận trực tiếp giữa hai bên ký
kết hợp đồng, hợp đồng giao sau lại được thỏa thuận và thực hiện mua bán thông qua một bên
thứ ba. Hợp đồng giao sau được thực hiện trên thị trường tập trung và hợp đồng kỳ hạn được
thực hiện trên thị trường phi tập trung.
Mặc dù hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai có thể sử dụng để phòng ngừa rủi ro (do
giá đã xác định trong tương lai), nhưng vì cả 2 dạng hợp đồng này đều bắt buộc thực hiện khi
đến hạn nên nó cũng mất cơ hội kinh doanh, nếu như sự biến động giá thuận lợi
b. Hợp đồng quyền chọn:
Để khắc phục được nhược điểm của hai hợp đồng kỳ hạn và giao sau, hợp đồng quyền
chọn được thành lập, cho phép người mua có quyền, nhưng không bắt buộc, được mua hoặc
được bán một số lượng xác định các đơn vị tài sản cơ sở, tại một thời điểm hay trước một thời
điểm xác định trong tương lai, với mức giá được đưa ra tại thời điểm thỏa thuận hợp đồng.
3.2 Thị trường phái sinh ngoại hối
a. Hợp đồng kỳ hạn:
Giao dịch ngoại tệ kỳ hạn được thực hiện trên thị trường hối đoái kỳ hạn.Hợp đồng mua
bán ngoại tệ kỳ hạn là một công cụ tài chính dùng để mua hoặc bán một số lượng tiền nhất định,
với một tỷ giá nhất định, và được thực hiện sau một thời hạn nhất định kể từ khi thỏa thuận hợp
đồng.
Các giao dịch kỳ hạn không diễn ra trên sở giao dịch, mà giống như giao dịch giao ngay.
Đây là thị trường phi tập trung của các ngân hàng và các nhà môi giới được liên kết với nhau
bằng điện thoại, vi tính và hệ thống SWIFT. Bộ phận liên ngân hàng của thị trường hối đoái kỳ
hạn hoạt động liên tục thông qua việc đấu giá mở hai chiều giữa các thành viên tham gia. Nghĩa
là mỗi ngân hàng yết tỷ giá kỳ hạn mua vào, bán ra liên tục cho các ngân hàng khác và ngược lại.
Trên thị trường này nhìn chung có hai loại hợp đồng hối đoái kỳ hạn. Gồm: Hợp đồng
outright và hợp đồng swap.
 Hợp đồng outright: là sự thỏa thuận giữa một ngân hàng và một khách hàng
không phải là ngân hàng, nhằm phòng ngừa rủi ro hối đoái cho khách hàng. Về
bản chất, trước hợp đồng thực hiện thì không có bất cứ sự chuyển giao tiền tệ nào
giữa các bên tham gia. Tuy nhiên ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng ký quỹ

với một mức tối thiểu nào đó hoặc thế chấp tài sản, nhằm đảm bảo việc thực hiện
hợp đồng. Tiền ký quỹ trong phạm vi tối thiểu không được hưởng lãi, nhưng có
thể được hưởng lợi tức phát sinh từ tài sản thế chấp (nếu tài sản thế chấp là tài sản
chính)
 Hợp đồng swap là hợp đồng có kỳ hạn giữa hai ngân hàng, theo đó hai bên thỏa
thuận hoán đổi một số lượng ngoại tệ nhất định vào một ngày xác định và sau đó
hoán đổi ngược lại ở một ngày trong tương lai với tỷ giá khác tỷ giá hoán đổi ban
đầu.
5
Tỷ giá trên thị trường hối đoái có kỳ hạn thường được niêm yết theo bội số của 30 ngày
và năm tài chính thường được xác định là 360 ngày. Vì thế, để thuận tiện cho việc sử dụng thời
hạn của hợp đồng kỳ hạn thường là 1 tháng, 2 tháng… Tuy nhiên, trên thị trường liên ngân hàng,
vẫn có thể có những hợp đồng có kỳ hạn dưới 1 tháng và một số ít hợp đồng có thời hạn không
phải là bội số 30 ngày. Tại Việt Nam, thị trường hối đoái có kỳ hạn chưa phát triển mạnh mẽ. Do
vậy, thời hạn giao dịch theo bội số 30 ngày chưa được áp dụng phổ biến, mà thường theo thỏa
thuận giữa hai bên. Thường là không quá 180 ngày.
b. Hợp đồng hoán đổi ngoại hối:
Giao dịch hoán đổi ngoại hối là việc đồng thời mua vào và bán ra một đồng tiền nhất
định. Trong đó ngày giá trị mua vào và ngày giá trị bán ra là khác nhau. Như vậy, hoán đổi ngoại
hối là việc hoán đổi một lượng cố định một đồng tiền này lấy một lượng biến đổi đồng tiền khác
trong một thời gian xác định bằng cách ký cùng một lúc hai hợp đồng. Bao gồm: hợp đồng mua
bán giao ngay và hợp đồng bán mua kỳ hạn tương ứng để phòng ngừa rủi ro biến động tỷ giá.
Căn cứ vào đặc điểm ngày giá trị, giao dịch hoán đổi gồm 2 loại: Spot – forward swap và
Forward – forward swap. Spot – forward swap bao gồm 1 giao dịch giao ngay và 1 giao dịch kỳ
hạn. Ví dụ như hợp đồng hoán đổi giao ngay – kỳ hạn giữa đồng VND và USD. Mua USD giao
ngay tại thời điểm t
0
và bán USD kỳ hạn tại thời điểm t
1
. Forward – forward swap bao gồm 2

giao dịch kỳ hạn được ký vào cùng một ngày nhưng có ngày giá trị khác nhau. Ví dụ: Hợp đồng
hoán đổi kỳ hạn – kỳ hạn giữa VND và USD: tại thời điểm t
0
ký kết hai hợp đồng, một hợp đồng
mua USD kỳ hạn có ngày giá trị là t
1
và hợp đồng bán USD kỳ hạn có ngày giá trị là t
2
.
Đặc điểm cơ bản của hoán đổi ngoại hối:
- Là giao dịch bao gồm đồng thời cả về mua và bán
- Số lượng một trong hai đồng tiền mua bán là cố định
- Tỷ giá Spot áp dụng trong mua và bán là như nhau
- Ngày giá trị của mua và bán là khác nhau
- Trong thời gian hiệu lực của hợp đồng, không có luồng tiền nào xảy ra trừ hai luồng tiền
duy nhất xảy ra khi thực hiện mua và bán. Điều này có nghĩa lãi suất phát sinh trong thời
hạn hợp đồng được thanh toán một lần tại thời điểm hợp đồng đáo hạn.
Hóan đổi tiền tệ là loại hợp đồng có những đặc điểm tương tự như hợp đồng hoán đổi
ngoại hối. Tuy nhiên, thời hạn của hợp đồng hoán đổi tiền tệ thường là dài hạn. Nên khoản lãi
phát dinh được thanh toán định kỳ trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng. Khoản gốc chỉ được
hoán đổi khi hợp đồng đáo hạn. Vậy, hợp đồng hoán đổi tiền tệ được xem như hợp đồng hoán
đổi ngoại hối dài hạn và lãi suất được thanh toán định kỳ thong khoảng thời gian hợp đồng có
hiệu lực. Điểm khác biệt cơ bản giữa hai giao dịch này là: Giao dịch hoán đổi ngoại hối được
thực hiện trên thị trường ngoại hối. Giao dịch hoán đổi tiền tệ được thực hiện trên thị trường
hoán đổi.
c. Hợp đồng giao sau:
Hợp đồng này là một thỏa thuận về việc mua hoặc bán một tài sản trong tương lai với
một mức giá nhất định (giá đã được thỏa thuận). Nhưng việc giao nhận tài sản và thanh toán sẽ
xảy ra tại thời điểm nhất định trong tương lai. Các hợp đồng tương lai được giao dịch trên nhiều
sở giao dịch khác nhau trên toàn cầu.

Khác với hợp đồng kỳ hạn và những hợp đồng hoạt động trên thị trường phi tập trung,
hợp đồng giao sau đã được tiêu chuẩn hóa và được giao dịch trên các sở giao dịch. Trong đó,
6
người mua và người bán không có ý định thực sự giao trả tiền đã ghi trong hợp đồng. Người mua
hợp đồng giao sau thường bán lại hợp đồng khi gần đáo hạn để kiếm lợi nhuận bù trừ cho phần
lỗ mà họ có thể phải gánh chịu từ việc biến động tỷ giá. Và người bán hợp đồng thường mua lại
hợp đồng này với mục đích tương tự. Những nghiệp vụ này được gọi là nghiệp vụ phòng ngừa
rủi ro tỷ giá. Điều bắt buộc trong giao dịch giao sau là người mua và bán phải có tài khoản ký
quỹ và phải trả phí giao dịch. Khoản ký quỹ này được duy trì trên tài khoản đã được mở tại nhà
môi giới. Nhà môi giới sẽ ký quỹ tại nhà thanh toán bù trừ của sở giao dịch. Tại đây, nhà thanh
toán bù trừ đối chiếu các lệnh mua và bán. Sau đấy tiến hành giao dịch các lệnh khớp. Nếu số dư
trên tài khoản ký quỹ giảm xuống dưới mức quy định, người nắm giữ hợp đồng sẽ nhận được
lệnh yêu cầu nộp khoản ký quỹ bổ sung. Ngược lại nếu giá trị thị trường của hợp đồng tăng,
người nắm giữ có thể rút ra. Nếu người nắm giữ hợp đồng không thực hiện đúng nghĩa vụ ký quỹ
bổ sung, nhà môi giới sẽ thanh lý hợp đồng.
Đối với hợp đồng giao sau, thanh toán lãi lỗ vào cuối mỗi ngày như việc tất toán trước
hạn: kết thúc hợp đồng kỳ hạn cũ có thời hạn (t + 1) để ký hợp đồng kỳ hạn mới có thời hạn t
nhưng có cùng ngày giá trị với hợp đồng kỳ hạn cũ. Ngoài ra, mọi hợp đồng giao sau giữa hai
bên mua và bán đều được sở giao dịch đảm bảo. Nếu một trong hai người mua hoặc bán mất khả
năng thanh toán hợp đồng, thì vẫn được đảm bảo bởi công ty thanh toán bù trừ sẽ chịu trách
nhiệm. Thời hạn tối đa cho một hợp đồng giao sau là 12 tháng trong khi hợp đồng kỳ hạn có thể
kéo dài đến 20 năm. Tuy nhiên các hợp đồng giao sau ít khi được thanh toán tại thời điểm đến
hạn. Và nếu như được thanh toán tại thời điểm đến hạn, rủi ro điều chỉnh giá trị theo điều kiện thị
trường vẫn tồn tại vì sự bù đắp vào khoản lãi, lỗ trên tài khoản ký quỹ và sự biến động tỷ giá
giao ngay trên thị trường không phải lúc nào cũng hoàn hảo.
d. Hợp đồng hối đoái quyền chọn:
Hợp đồng quyền chọn cho phép người mua hợp đồng có quyền, nhưng không có nghĩa vụ
mua hoặc bán một loại ngoại tệ nhất định, tại một mức tỷ giá xác định đã được thỏa thuận từ
trước trong tương lai. Trong giao dịch quyền chọn, người mua quyền chọn có quyền lựa chọn:
giao dịch theo tỷ giá đã thỏa thuận trong hợp đồng hoặc để hợp đồng hết hạn mà không thực hiện

giao dịch. Tuy nhiên người bán hợp đồng phải luôn sẵn sàng thực hiện giao dịch khi người mua
có yêu cầu.
Trong hợp đồng đối hoái quyền chọn có hai quyền chọn:
- Quyền chọn mua (bao gồm hai đối tượng):
Người mua quyền chọn mua: có quyền nhưng không bắt buộc phải mua một lượng ngoại tệ
nhất định theo một tỷ giá nhất định vào một ngày đã xác định trong tương lai hoặc trước ngày đó
Người bán quyền chọn mua: có trách nhiệm phải bán một lượng ngoại tệ nhất định, theo một
giá đã xác định trước tại một ngày xác định hoặc trước ngày đó khi người mua có nhu cầu thực
hiện giao dịch.
- Quyền chọn bán (gồm hai đối tượng):
Người mua quyền chọn bán: có quyền nhưng không bắt buộc phải bán một lượng ngoại tệ
nhất định, theo một tỷ giá xác định trước vào một ngày đã xác định trong tương lai hoặc trước
ngày đó
Người bán quyền chọn bán: có trách nhiệm phải mua một lượng ngoại tệ nhất định tại một
ngày xác định hoặc trước ngày đó khi người mua quyền chọn bán có nhu cầu thực hiện quyền.
7
Mỗi giao dịch diễn ra, luôn bao gồm cả hai quyền chọn mua và quyền chọn bán. Ví dụ: Ông
A mua hợp đồng quyền chọn mua USD (có nghĩa là A đồng thời mua quyền chọn bán VND, và
ngược lại nếu A mua hợp đồng quyền chọn mua VND là đồng thời mua quyền chọn bán USD).
Do vậy, khi nói đến hợp đồng quyền chọn mua, nghĩa là mua đồng yết giá – bán đồng định giá;
hợp đồng quyền chọn bán là bán đồng yết giá – mua đồng định giá.
- Tỷ giá quyền chọn: áp dụng trong hợp đồng quyền chọn. Tỷ giá này khác với tỷ giá
trong các hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau, do ngoài yếu tố cung cầu thị trường, tỷ
giá quyền chọn còn phụ thuộc vào mức phí quyền chọn cao hay thấp. Vì vậy, nó có thể
thấp hơn hoặc cao hơn đáng kể so với tỷ giá giao ngay, tỷ giá kỳ hạn hoặc tỷ giá hợp
đồng giao sau. Tỷ giá quyền chọn có thể thay đổi miễn là người mua và bán chấp nhận, vì
giữa tỷ giá quyền chọn và phí quyền chọn luôn có quan hệ tỷ lệ nghịch. Người bán
thường sẵn sàng chấp nhận tỷ giá quyền chọn mà người mua đề nghị, nhưng áp dụng mức
phí hợp lý để có lãi.
- Phí quyền chọn: hay còn gọi là giá hợp đồng quyền chọn. Là khoản tiền mà nguwoif mua

phải trả cho người bán. Giá hợp đồng quyền chọn phải là lượng tiền hợp lý để có thể bù
đắp rủi ro xét từ góc độ người bán và không quá đắt đối với người mua. Nếu hợp đồng
đáo hạn mà không có giao dịch xảy ra thì chỉ có một luồng tiền duy nhất là khoản phí
quyền chọn mà người mua trả cho người bán.Phí quyền chọn là khoản tiền không truy đòi
và thường được thanh toán một lần vào thời điểm ký kết hợp đồng. Phí quyền chọn được
xác định trên nguyên tắc: Nếu xác suất xảy ra càng cao và/hoặc lãi suất dự tính phát sinh
từ thực hiện quyền chọn càng lớn thì phí quyền chọn càng cao. Từ đó chỉ ra những yếu tố
ảnh hưởng đến phí quyền chọn là:
• Tỷ giá giao ngay: Tại mỗi mức tỷ giá giao dịch, nếu tỷ giá giao ngay càng
cao thì xác suất xảy ra việc thực hiện hợp đồng quyền chọn mua càng lớn,
phí giao dịch quyền chọn mua càng cao và ngược lại đối với quyền chọn
bán.
• Tỷ giá quyền chọn: Nếu tỷ giá trong hợp đồng quyền chọn mua càng cao
thì xác suất thực hiện giao dịch càng thấp. Do đó phí quyền chọn thấp.
• Thời gian đến hạn: Thời gian đến hạn càng dài thì khả năng tỷ giá trên thị
trường biến động lên cao hơn mức tỷ giá quyền chọn trong quyền chọn
mua càng lớn. Do đó phí quyền chọn mua càng cao
• Sự biến động của tỷ giá: Tỷ giá biến động mạnh thì xác suất để tỷ giá giao
ngay vượt qua tỷ giá quyền chọn tại thời điểm hợp đồng đáo hạn càng lớn.
Do đó phí quyền chọn mua cao
• Lãi suất của đồng yết giá: Nếu hợp đồng mua được thực hiện thì người giữ
hợp đồng sẽ nhận được một số lượng đồng tiền yết giá tăng làm cho giá trị
hiện tại của đồng tiền này giảm, dẫn đến các hợp đồng quyền chọn mua
trở nên kém hấp dẫn, phí quyền chọn mua giảm.
• Lãi suất của đồng định giá: Nếu hợp đồng mua được thực hiện thì người
nắm giữ hợp đồng sẽ phải chia ra một lượng đồng tiền định giá khi hợp
đồng đáo hạn, do đó nếu mức lãi suất đồng tiền định giá tăng thì giá trị
hiện tại của đồng tiền này giảm, hợp đồng quyền chọn mua trở nên hấp
dẫn, phí quyền chọn mua tăng.
3. Cách thức thực hiện các giao dịch phái sinh

3.1 Thị trường phái sinh hàng hóa:
8
a. Hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau:
- Thỏa thuận mua bán theo hợp đồng kỳ hạn thực ra phát sinh rất nhiều trong đời sống kinh tế
hàng ngày ngay cả trong xã hội Việt Nam từ rất xa xưa. Ví dụ: Ngày 1 tháng 9, ông A ký hợp
đồng kỳ hạn mua của B 10 tấn cà phê kỳ hạn 3 tháng (tức là vào ngày 1/12) với giá 925
USD/tấn. B được gọi là người bán trong hợp đồng kỳ hạn, A là người mua trong hợp đồng. Sau 3
tháng B phải bán cho A mười tấn cà phê với giá 925 USD/tấn và A phải mua 10 tấn cà phê với
giá đã thỏa thuận. Cho dù giá cà phê trên thị trường khi đấy có biến động chênh lệch với giá hai
bên thỏa thuận trước đó.
- Hợp đồng giao sau: Vào ngày 28/2, A ký hợp đồng giao sau mua 100 cổ phiếu XYZ với giá
tương lai là F
0
= 80.000 đồng/cổ phiếu. Để hạn chế rủi ro, Sở giao dịch yêu cầu khhi ký hợp
đồng, A phải ký quỹ một khoản tiền trong tài khoản bảo chứng tại công ty thanh toán bù trừ.
Mức bảo chứng là 1 triệu đồng. Sau mỗi ngày, nếu có lãi, khoản lãi sẽ được cộng vào tài khoản.
Nếu có lỗ, cũng sẽ bị trừ vào tài khoản. Nếu giá trị trong tài khoản bảo chứng giảm xuống tới
một mức giới hạn, ví dụ 0.8 triệu đồng. Nhà đầu tư sẽ được yêu cầu ký quỹ thêm cho đạt mức 1
triệu đồng lúc ban đầu. Hàng ngày, trong thời hạn hợp đồng, công ty thanh toán bù trừ sẽ ghi
nhận giá cổ phiếu trên thị trường so với giá hôm trước để tiến hành ghi Nợ hoặc Có vào tài
khoản tương đương với các khoản lãi lỗ của A.
Ngày Giá cổ
phiếu
Lãi, lỗ hàng ngày Giá trị tài khoản
bảo chứng
Ghi chú
28/2 80.000 1.000.000
1/3 89.000 100×(89.000 – 80.000) 1.900.000
2/3 90.000 100×(90.000 – 89.000) 2.000.000
3/3 80.000 100×(80.000 – 90.000) 1.000.000

4/3 77.000 100×(77.000 – 80.000) 700.000 Giá trị xuống dưới
0,8 triệu đồng, ký
quỹ thêm 300.000
để đạt 1 triệu đồng
5/3 70.000 100×(70.000 – 77.000) 300.000 Giá trị xuống dưới
0,8 triệu đồng, ký
quỹ thêm 700.000
để đạt 1 triệu đồng
6/3 77.800 100×(77.800 – 70.000) 1.780.000
7/3 77.600 100×(77.600 – 77.800) 1.760.000
8/3 78.200 100×(78.200 – 77.600) 1.820.000
9/3 88.600 100×(88.600 – 78.200) 2.860.000
10/3 98.400 100×(98.400 – 88.600) 3.840.000
Ví dụ trong hợp đồng giao sau, X là người mua và Y là người bán. Theo hợp đồng, X
phải mua 1 đơn vị tài sản cơ sở (1 Kg gạo) với giá tương lai là F = 5000 vào thời điểm đáo hạn T
= 3 tháng. Vậy giá trị nhận được đối với mỗi bên là như sau:
- Đối với người mua X:
9
Sau 3 tháng, giá gạo trên thị trường là S
T
. X phải mua gạo của Y với giá đã thỏa thuận F, và
có thể bán gạo ra thị trường với giá S
T
. Giá trị X nhận được sẽ là S
T
– F. Nếu S
T
< F  X
được lợi từ hợp đồng. Nếu S
T

> F  X bị lỗ.
- Đối với người bán Y: Y có thể bán gạo ra thị trường với giá S
T
. Tuy nhiên theo hợp đồng,
Y phải bán 1 Kg gạo cho X với giá đã thỏa thuận F. Giá trị Y nhận được từ hợp đồng sẽ
là F – S
T
. Nếu S
T
< F  Y được lợi từ hợp đồng. Nếu S
T
> F  Y bị lỗ từ hợp đồng
- Định giá hợp đồng giao sau: Gọi giá tài sản cơ sở hiện hành là S
0.
Công ty A vay S
0
đồng
với lãi suất r
f
. Dùng tiền này để mua tài sản cơ sở và bán hợp đồng giao sau tài sản cơ sở
với giá F
0
. Kỳ hạn bằng kỳ hạn vay tiền. Trong suốt thời gian đến khi hợp đồng giao sau
đáo hạn, tài sản cơ sở tạo ra khoản lãi D. Tại thời điểm đáo hạn, giá tài sản trên thị trường
là S
T.
10
Giá trị người mua
nhận được
S

T
– F
S
T
F
Giá tài sản cơ sở khi
đáo hạn
Giá trị người bán nhận
được
Giá tài sản cơ sở khi
đáo hạn
F
S
T
F -
Dòng tiền đầu kỳ Dòng tiền cuối kỳ
Vay S
0
S
0
- S
0
(1+r
f
)
Mua với giá S
0
- S
0
S

T
+ D
Bán hợp đồng giao sau tài sản cơ sở F
0
– S
T
CỘNG 0 F
0
– S
0
(1+r
f
) + D

Theo nguyên tắc không thể thu lợi từ chênh lệch giá đưa đến kết luận: Đầu kỳ ta bỏ ra 0
đồng, cuối kỳ nhận được 0 đồng. Vậy nên:
F
0
= S
0
(1+r
f
) - D
b. Hợp đồng quyền chọn:
Ngày 1/3 ông X mua quyền chọn mua (kiểu Mỹ) 100 cổ phiếu IBM với giá thực hiện 50
USD, trong thời hạn 3 tháng, tức là đáo hạn vào 1/6. Trong suốt khoảng thời gian hợp đồng có
hiệu lực, ông X có quyền mua 100 cổ phiếu IBM với giá 50 USD vào bất cứ thời điểm nào cho
đến hết ngày đáo hạn, và bất chấp giá thị trường của cổ phiếu là bao nhiêu. Việc ông X có thực
hiện quyền chọn của mình hay không tùy thuộc vào quan hệ giữa giá thị trường cổ phiếu IBM và
giá thực hiện.

Giá trị nhận được của quyền chọn mua vào lúc đáo hạn:
T = Thời điểm đáo hạn
S
T
= giá trị thị trường của tài sản cơ sở lúc đáo hạn
X = giá thực hiện
V
T
= giá trị nhận được của quyền chọn vào lúc đáo hạn
- Mua quyền chọn mua: Nếu thực hiện quyền vào lúc đáo hạn, người mua sẽ mua tài sản
cơ sở với giá X. Nếu mua trên thị trường, người mua sẽ trả với giá S
T
. Nếu S
T
> X, người
mua sẽ mua với giá X. Khoản lợi thu được là S
T
– X > 0. Vậy giá trị người mua nhận
được sẽ là V
T
= S
T
– X. Nếu S
T
≤ X, người mua sẽ không thực hiện quyền và nhận được
V
T
= 0
Vì vậy, ví như vào ngày đáo hạn, giá cổ phiếu tại thị trường là 60 USD, X sẽ thực
hiện quyền để mua được cổ phiếu với giá 50 USD như đã thỏa thuận. Khoảng lợi thu

được là S
T
– X = 10 USD. Ngược lại, ví như giá cổ phiếu tại thời điểm đáo hạn tại thị
trường là 40 USD. Ông X sẽ không thực hiện quyền và giá trị nhận được sẽ bằng 0.
11
S
T
- X
S
T
X
- Bán quyền chọn mua: Vào lúc đáo hạn nếu S
T
> X thì ông X sẽ thực hiện quyền ( mua tài
sản cơ sở). Trong trường hợp đó, người bán quyền chọn mua sẽ phải bán tài sản cơ sở
cho người mua quyền ở mức giá X, trong khi lẽ ra có thể bán ra thị trường với giá S
T
.
Người bán quyền chọn mua bị lỗ S
T
– X, hay nhận được giá trị V
T
= X – S
T
. Nếu S
T
≤ X,
người mua sẽ không thực hiện quyền. Do vậy giá trị người bán nhận được là 0. Giá trị
người bán nhận được lúc đáo hạn là:
V

T
= min[(X – S
T
);0]
- Mua quyền chọn bán:Vào lúc đáo hạn, người mua nếu thực hiện quyền sẽ bán tài sản với
giá X đã thỏa thuận. Lúc bấy giờ, giá của tài sản trên thị trường là S
T
. Trường hợp S
T
≥ X,
người mua quyền chọn bán sẽ không thực hiện quyền và nhận giá trị V
T
= 0. Trường hợp
S
T
< X, người mua quyền chọn bán sẽ thực hiện quyền và nhận được giá trị V
T
= X – S
T
.
Giá trị nhận được đối với người mua quyền chọn bán là:
V
T
= max[(X – S
T
);0]
- Bán quyền chọn bán: Nếu S
T
≥ X, người nắm giữ quyền sẽ không thực hiện quyền vì vậy
người bán quyền cũng sẽ nhận giá trị V

T
= 0. Trường hợp S
T
< X, người mua sẽ thực hiện
quyền và người bán sẽ buộc phải mua tài sản cơ sở với giá X đã thỏa thuận. Trong trường
hợp này người bán quyền chọn sẽ bị lỗ, nhận được giá trị V
T
= S
T
– X. Giá trị nhận được
đối với người bán quyền chọn là:
V
T
= min[(S
T
– X);0]
3.2 Thị trường phái sinh ngoại hối:
12
S
T
X
X - S
T
X - S
T
S
T
X
a. Hợp đồng kỳ hạn:
Giả sử một công ty nhập khẩu Việt Nam phải thanh toán tiền hàng cho công ty xuất khẩu Mỹ

số tiền 10.000 USD sau thời hạn 1 năm.
- Tỷ giá giao ngay = S (USD/VND) = 18.500
- Tỷ giá kỳ hạn 1 năm = F (USD/VND) = 19.000
Bằng cách mua kỳ hạn USD, sau 1 năm, công ty Việt Nam cần bỏ ra 19.000 × 10.000 =
190.000.000 để thanh toán cho nhà xuất khẩu. Nếu không mua hợp đồng kỳ hạn, sau một năm, tỷ
giá biến động có thể đẩy tỷ giá giao ngay thực tế lên cao hơn mức tỷ giá hiện tại, công ty sẽ phải
chi trả một khoản tiền lớn hơn. Nếu tỷ giá giao ngay thực tế nhỏ hơn, công ty phải chi trả một số
tiền cao hơn so với nếu mua với tỷ giá thị trường lúc bấy giờ. Tuy nhiên, việc mua hợp đồng kỳ
hạn nhập khẩu, sẽ đảm bảo chắc chắn lượng tiền cần để mua được 10.000 USD thanh toán.
Cách xác định tỷ giá kỳ hạn:
F = S
Dựa theo công thức trên, rút ra một số nhận xét sau:
• Lãi suất đồng định giá lớn hơn lãi xuất đồng tiền yết giá: r
d
> r
y
 >  > 1  F > S 
có điểm gia tăng tỷ giá kỳ hạn
• Lãi suất đồng định giá nhỏ hơn lãi suất đồng yết giá: r
d
< r
y
 <  < 1  F < S  có
điểm khấu trừ tỷ giá kỳ hạn
• Vậy tỷ giá kỳ hạn được tóm tắt là F = S + điểm kỳ hạn. Trong đó, điểm kỳ hạn có thể dương hoặc
âm, được xác định dựa trên cơ sở tỷ giá giao ngay và sự chênh lệch giữa đồng yết giá và định giá.
P = S
Ví dụ: Ngày 4/8, có hai khách hàng liên hệ giao dịch ngoại tệ kỳ hạn:
 Công ty A bán 90.000 EUR kỳ hạn 6 tháng
 Công ty B mua 100.000 EUR kỳ hạn 3 tháng

- Tỷ giá giao ngay USD/VND: 15.888 – 15.890
- Tỷ giá giao ngay EUR/USD: 1,2248 – 1,2298
- Lãi suất kỳ hạn 3 tháng và kỳ hạn 6 tháng của VND và EUR như sau:
Kỳ hạn EUR (%/năm) VND(%/tháng)
Tiền gửi Cho vay Tiền gửi Cho vay
3 tháng 4,5 6,2 0,65 0,96
6 tháng 4,8 6,5 0,68 0,98
- Vào ngày thỏa thuận, dựa vào thông tin tỷ giá và lãi suất, ngân hàng xác định tỷ giá kỳ
hạn cho khách hàng:
• Công ty A với tỷ giá mua giao ngay EUR/VND = EUR/USD × USD/VND =
1,2248 × 15.888 = 19.459. Tỷ giá kỳ hạn:
F
m
= S
m
+
= 19.459 +
13
= 19.621
• Công ty B với tỷ giá bán giao ngay EUR/VND = EUR/USD × USD/VND =
1,2298 × 15.890 = 19.542. Tỷ giá kỳ hạn:
F
b
= S
b
+
= 19.542 +
= 19.885
- Nếu ngân hàng và khách hàng đồng ý giao dịch thì vào ngày đáo hạn sẽ chuyển giao
ngoại tệ như sau:

• Công ty A giao cho ngân hàng 90.000 EUR, ngân hàng thanh toán cho công ty
A số tiền:
90.000 19.621 = 1.765.890.000 VND
• Công ty B nhận 100.000 EUR và thanh toán cho ngân hàng số tiền:
100.0 19.885 = 1.988.500.000 VND
b. Hợp đồng hoán đổi:
Quy trình giao dịch hoán đổi tại ngân hàng diễn ra theo các bước:
• Khách hàng liên hệ với phòng kinh doanh tiền tệ của ngân hàng
• Căn cứ vào cung cầu mua bán, phòng kinh doanh đưa ra mức giá và kỳ hạn cụ
thể
• Khách hàng đồng ý  ký kết hợp đồng hoán đổi.
Ví dụ: Công ty A có nhu cầu giao dịch:
• Bán 90.000 USD giao ngay để lấy VND chi tiêu ở thời điểm hiện tại
• Mua 80.000 USD kỳ hạn để có USD thanh toán hợp đồng nhập khẩu sẽ đến hạn sau 3
tháng nữa.
Vào ngày hiệu lực, ngân hàng thông tin tỷ giá USD/VND là 15.805 – 15.810 và lãi suất USD là
4,6% – 5,2%. VND là 7,8% - 10,6%. Hai bên thỏa thuận giao dịch hoán đổi với thời hạn 3 tháng
như sau:
• Ngân hàng mua giao ngay 80.000 USD theo tỷ giá USD/VND = 15.805 và nhận 80.000
USD
• Công ty A nhận được: 80.000 15.805 = 1.264.400.000 VND và chi ra 80.000 USD
• Ngân hàng xác định và đưa ra tỷ giá bán kỳ hạn:
F
b
= 15.810 + = 16.047
Vào ngày đáo hạn 3 tháng sau:
• Ngân hàng giao lại 80.000 USD cho công ty A và nhận số tiền VND là:
80.000 16.047 = 1.283.760.000 VND
• Công ty A thanh toán cho ngân hàng số tiền 1.283.760.000 VND để nhận lại 80.000 USD
c. Hợp đồng giao sau:

Vào ngày thứ ba, một nhà đầu tư trên thị trường giao sau Chicacgo mua một hợp đồng
giao sau trị giá 125.000 CHF với tỷ giá 0,75 USD cho 1 CHF. Hợp đồng này sẽ đến hạn vào
ngày thứ năm. Để bắt đầu, nhà đầu tư phải bỏ vào tài khoản ký quỹ 2.565 USD. Biết rằng mức
ký quỹ tối thiểu mà nhà đầu cơ phải duy trì đối với hợp đồng giao sau là 1.900 USD. Nhà đầu tư
14
0,04
-0,04
-0,02
0,02
0
phải sẵn sàng nộp thêm khoản tiền nếu tài khoản ký quỹ xuống dưới mức 1.900 USD. Sau khi
mua hợp đồng, việc thanh toán sẽ diễn ra hàng ngày và có 3 việc sẽ xảy ra:
• Thứ nhất, hàng ngày nhà đầu cơ sẽ nhận được tiền hoặc sẽ phải chi trả tiền tùy theo
khoản lãi lỗ xảy ra.
• Thứ hai, hợp đồng giao sau với giá 0,75USD/CHF sẽ bị hủy bỏ vào cuối ngày giao dịch.
• Thứ ba, nhà đầu cơ sẽ nhận được hợp đồng giao sau theo giá mới được thiết lập vào cuối
ngày giao dịch.
Thời gian Hoạt động Thanh toán
Sáng thứ ba • Nhà đầu tư mua hợp
đồng giao sau, đến hạn
vào chiều ngày thứ năm
với tỷ giá 0,75USD/CHF
• Nhà đầu tư ký quỹ
2.565USD
Cuối thứ ba Giá CHF tăng đến
0,755USD, vị trí của nhà đầu
tư được ghi nhận
NĐT nhận: 125.000 (0,755 – 0,75) =
625USD
Cuối thứ tư Giá CHF giảm còn

0,752USD
NĐT trả: 125.000 (0,755 – 0,752) =
375USD
Cuối thứ
năm
Giá CHF giảm còn 0,74USD
• Hợp đồng đến hạn thanh
toán
• Nhà đầu tư nhận ngoại tệ
chuyển giao
• NĐT trả: 125.000 (0,752 – 0,74) =
1500USD
• 125.000 0,74 = 92.500 USD
d. Hợp đồng quyền chọn:
Giá trị của quyền chọn tùy thuộc vào tỷ giá thực hiện và sự biến động của tỷ giá trên thị
trường. Nếu gọi E là tỷ giá thực hiện và S là tỷ giá thị trường. Ta có:
• Quyền chọn mua:
S > E  Hợp đồng sinh lời
S < E  Hợp đồng lỗ vốn
S = E  Hợp đồng hòa vốn
• Quyền chọn bán:
S < E  Hợp đồng sinh lời
S > E  Hợp đồng lỗ vốn
S = E  Hợp đồng hòa vốn
Quyền chọn mua: Nhà đầu cơ mong đợi ngoại tệ tăng giá có thể mua quyền chọn mua. Giả sử
nhà đầu cơ có USD, kỳ vọng GBP tăng giá nên đã mua quyền chọn mua GBP với giá thực hiện
là 1,5 USD. Phí quyền chọn là 0,02 USD. Ta có sơ đồ lãi lỗ quyền chọn như sau:
15
Lãi ròng đơn vị
-0,02

0,02
0
1,54
1,50
Lãi ròng đơn vị
Giao ngay trong tương lai
-0,04
-0,02
0,02
0
1,54
1,50
Lãi ròng đơn vị
Giao ngay trong tương lai
- Nếu tỷ giá tăng lên mức 1,54 thì nhà đầu cơ thu lời: 1,54 – (1,50 + 0,02) = 0,02
- Nếu tỷ giá giảm xuống còn 1,46  nhà đầu cơ nếu thực hiện quyền sẽ lỗ (1,50 + 0,02) –
1,46 = 0,06.  Nhà đầu cơ không thực hiện quyền chọn và chi chịu thiệt hại mức phí
quyền chọn là 0,02 USD
Như vậy người mua quyền chọn lỗ tối đa là khoản phí quyền chọn, còn lợi nhuận tối
đa là không xác định.
Tương tự, nếu nhà đầu cơ dự báo GBP giảm, thì sẽ bán quyền chọn mua
Người bán quyền chọn lãi tối đa là khoản phí quyền chọn. Nếu tỷ giá tăng cao
(>1,50 + 0,02) thì người mua quyền chọn sẽ thực hiện quyền và người bán quyền
chọn chịu lỗ.
Quyền chọn bán:
Các doanh nghiệp xuất khẩu có khoản phải thu có thể mua quyền chọn bán để phòng
ngừa các khoản phải thu giảm giá do biến động tỷ giá
16
1,50
1,54 Giao ngay trong

tương lai
-0,02
0,02
0
1,54
1,50
Lãi ròng đơn vị
Giao ngay trong tương lai
Nếu tỷ giá giảm xuống dưới 1,50 – 0,02 = 1,48 thì doanh nghiệp sẽ thực hiện quyền chọn
để có thể bán ở mức giá cao hơn thị trường. Còn nếu tỷ giá tăng thì người mua quyền chọn bán
sẽ không thực hiện, chấp nhận mất khoản phí quyền chọn đã trả.
Nhà nhập khẩu có thể bán hợp đồng quyền chọn bán để phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho
khoản tiền nhập khẩu bằng ngoại tệ.
Nếu tỷ giá giảm, người mua quyền chọn sẽ thực hiện quyền chọn bán cho nhà nhập khẩu.
Khi đó, nhà nhập khẩu sẽ bị lỗ. Ví như tỷ giá là 1,46 thì khoản lỗ là: 1,50 – 0,02 – 1,46 = 0,02.
Nếu tỷ giá tăng, người mua sẽ không thực hiện quyền, khi đó nhà nhập khẩu nhận được lãi khoản
phí quyền chọn.
II. THỰC TRẠNG
1. Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh tại Việt Nam:
Thị trường phái sinh chỉ mới hình thành trên trên lĩnh vực ngoại hối và gần đây bắt đầu trên
thị trường hàng hóa (cà phê). Các giao dịch phái sinh chủ yếu là hợp đồng kỳ hạn, quyền lựa
chọn còn hợp đồng giao sau và hợp đồng hoán đổi chưa được thực hiện.
Đối với thị trường ngoại hối, hợp đồng hoán đổi và hợp đồng kỳ hạn trên thị trường ngoại hối
được Ngân hàng Nhà nước cho phép từ năm 1998 theo quyết định số 17/1998/ QĐ-NHNN7
ngày 10/1/1998. Với quyết định này, cho phép các ngân hàng thương mại triển khai các nghiệp
vụ hoán đổi lãi suất và mua bán ngoại hối kỳ hạn với khách hàng là các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, nhờ vậy, đã giúp cho các doanh nghiệp hạn chế được rủi ro trong bối cảnh khủng hoảng
kinh tế Đông Nam Á. Đến năm 2002, được sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
Ngân hàng TMCPXuất nhập khẩu Eximbank đã tiến hành thí điểm giao dịch quyền lựa chọn
17

(options). Mặc dù mới đưa vào giao dịch trên thị trường, cơ chế còn khá mới mẽ nhưng bước đầu
đã được nhiều khách hàng tham gia. Sang năm 2004, trước tình hình biến động giá cà phê trên
thị trường gây rủi ro cho nông dân và các công ty xuất khẩu cà phê, Ngân hàng TMCP Kỹ
thương đã đứng ra làm đầu mối tổ chức cho các doanh nghiệp thực hiện giao dịch phái sinh trên
thị trường London, bước đầu mang lại hiệu quả đáng kể.
Giao dịch tài chính tiền tệ là lĩnh vực chưa có sự xuất hiện của các nhà bảo hiểm bởi tính biến
động khôn lường của nó. Các chủ thể tham gia không còn cách nào khác ngoài việc tự bảo hiểm
cho mình bằng việc chuyển hẳn hoặc san sẻ 1 phần rủi ro cho thị trường bằng các Công cụ tài
chính phái sinh. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, mức độ áp dụng các Công cụ phái sinh ở
Việt Nam còn rất hạn chế. Nhiều ý kiến cho rằng, xuất phát điểm nền kinh tế lạc hậu chưa cho
phép chúng áp dụng các kỹ thuật tài chính hiện đại. Nói cách khác, thói quen và tập quán kinh
doanh là những cản trở lớn đối với quá trình phổ biến các Công cụ tài chính phái sinh ở Việt
Nam.
Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên ở Việt Nam
theo quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Các giao dịch kỳ hạn được thực hiện
trong hợp đồng mua bán USD và VND giữa ngân hàng thương mại với doanh nghiệp xuất nhập
khẩu hoặc với các ngân hàng thương mại khác được phép của ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên,
Hợp đồng kỳ hạn ít được sử dụng, một phần là do thị trường liên ngân hàng ở VN chưa phát
triển, một phần do những hạn chế vốn có của nó trong việc phòng chống rủi ro tỉ giá và những
hạn chế của Ngân hàng Nhà nước. Vì thế, các giao dịch kỳ hạn chỉ chiếm khoảng 5-7% khối
lượng giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo quyết định số 430/QĐ-NHNN13 ngày
24/12/1997 và sau này là quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/7/2001 của thống đốc
Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên đây chỉ là những giao dịch hoán đổi thuận chiều giữa Ngân
hàng Nhà nước và Ngân hàng Thương mại. Nó chỉ được sử dụng trong trường hợp các Ngân
hàng Thương mại dư thừa ngoại tệ và khan hiếm VND.
Các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá ngoại tệ tiếp tục xuất hiện ở VN và được các ngân
hàng sử dụng do nhu cầu nội tại của các Ngân hàng Thương mại nhằm theo kịp chuẩn mực hoạt
động ngân hàng quốc tế. Ngân hàng Nhà nước đã cho phép các Ngân hàng Thương mại thực
hiện một số nghiệp vụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Theo quyết định

số 1133/QĐ- NHNN ngày 30/09/2003 về quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép
mở rộng danh mục các Ngân hàng Thương mại và các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp được
sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất. Hoán đổi lãi suất được thực hiện đối với cả VND và ngoại tệ
giữa các ngân hàng với doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng, giữa Ngân hàng với những doanh
nghiệp vay vốn tại các tổ chức tín dụng khác, kể cả vay vốn nước ngoài; giữa các Ngân hàng
trong nước với nhau và giữa các ngân hàng thương mại trong nước với các tổ chức tín dụng nước
ngoài. Trên cơ sở nới lỏng quản lý của Ngân hàng Nhà nước, nhiều Ngân hàng Thương mại đã
triển khai cung cấp Hợp đồng hoán đổi lãi suất cho các doanh nghiệp, tìm kiếm đối tác là các tổ
chức tín dụng nước ngoài để ký kết hợp tác. Tuy nhiên, giao dịch phái sinh trong đó có hoán đổi
lãi suất được coi là hoạt động ngoại bảng của Ngân hàng do đó hướng dẫn hạch toán từ phía
NHNN đối với các nghiệp vụ này đang được xem là điều kiện đủ để các Ngân hàng Thương mại
đẩy mạnh cung cấp dịch vụ này cho khách hàng.
Từ khi Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trên thị trường
Việt Nam (từ 1/2003), đã có một só ngân hàng như ABN, Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất
trong phạm vi đồng USD từ ngày 1/3/2005 tới 2/2006. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi lãi suất
18
giữa 2 đồng tiền USD và VND (hoán đổi lãi suất chéo) đã được thực hiện, từ trước khi có quy
định chính thức của ngân hàng nhà nước. Cho tới lần đầu tiên, khi được Ngân hàng Nhà nước
cho phép, HSBC đã cung cấp gói Swaps tiền Đồng cho một công ty đa quốc gia với số vốn lên
tới 15 triệu USD trên tại trường Việt Nam. Theo đó, HSBC sẽ đưa VND và nhận USD từ khách
hàng, tới tháng 12/2007, HSBC sẽ đưa USD và nhận lại VND từ khách hàng. Với giao dịch này,
khách đã đạt được mức lãi suất cạnh tranh nhất trên thị trường nội địa cho việc vay vốn tiền
Đồng kỳ hạn 3 năm mà không chịu bất cứ một rủi ro nào về tỷ giá USD/VND.
Chính hành động của HSBC, tạo ra nền tảng phát triển cho các giao dịch hoán đổi sau này.
Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa hai
đồng tiền chéo đối với các khoản vay ngoại tệ của khách hàng sử khi khách hàng vay ngoại tệ.
Và trong tương lai, Standard Chartered sẽ còn cung cấp nhiều sản phẩm phái sinh nữa trên thị
trường Việt Nam, hứa hẹn tương lai phát triển thị trường.
Ở một mức cao hơn, các công cụ lai tạp có nguồn gốc từ hoán đổi như hoán đổi lãi suất cộng
dồn, hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn, hoán đổi lãi suất bắt đầu thực hiện trong

tương lai …cũng đã xuất hiện và triển khai trên thị trường ngoại hối trong thời gian gần đây.
Điều đặc biệt là các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng đã được thí điểm áp dụng tại Việt Nam
theo công văn 3324/NHNN-CSTT, tháng 4/2006 cho phép HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí
Minh thực hiện. Mặc dù là một loại hoán đổi nhưng hoán đổi rủi ro tín dụng thực sự lại giống
một chính sách bảo hiểm hơn. Tức một bên nắm giữ trái phiếu hoặc các khoản vay, định kỳ sẽ
thanh toán cho bên kia. Trường hợp trái phiếu bị đánh giá thấp hay các khoản vay trên bị vỡ nợ,
bên bảo hiểm ở đây là HSBC sẽ trả cho bên đối tác, khách hàng các khoản bù trừ lỗ.
Sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng của HSBC Việt Nam chỉ gắn với rủi ro tín dụng của các
loại trái phiếu do chính phủ hoặc các doanh nghiệp Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường
quốc tế, các khoản vay dài hạn của doanh nghiệp Việt nam tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại
Việt Nam. Khách hàng chuyển nhượng rủi ro tín dụng cho HSBC là các tổ chức tín dụng hoạt
động tại Việt Nam và bên nhận chuyển nhượng là các chi nhánh HSBC ở nứơc ngoài. Thời hạn
của giao dịch không quá 5 năm.
Khách hàng mua loại công cụ này cũng giống như thực hiện một khoản đầu tư gián tiếp. Việc
tiếp cận với các công cụ này cho phép nhà đầu tư có cơ hội tìm kiếm những mức lợi nhuận cao
hơn so với hoạt động tín dụng tiền gửi bình thường, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của
các tổ chức tín dụng. Hơn nữa, việc sử dụng các công cụ mới này còn góp phần nâng cao mức độ
tín nhiệm của chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam khi phát hành trái phiếu ra thị trường
quốc tế.
Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng dường như là những công cụ phái sinh được thị trường
hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của nó trong bối cảnh lãi suất và
tỷ giá và giá vàng luôn ở trạng thái tăng liên tục. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
(BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Các giao dịch
quyền chọn lãi suất được phép thực hiện đối với những khoản cho vay và đi vay trung hạn (dưới
5 năm) bằng USD hoặc bằng EURO và chỉ được thực hiện đối với các doanh nghiệp hoạt động
tại Việt Nam, các Ngân hàng thương mại hoạt động ở Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước cho
phép và các Ngân hàng ở nước ngoài. Sau BIDV là hàng loạt các Ngân hàng thương mại khác,
bao gồm cả Ngân hàng thương mại cổ phần cũng được cho phép thực hiện nghiệp vụ này.
Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ cũng được nhiều ngân hàng cung cấp, điển
hình là BIDV, Eximbank, ACB, Techcombank, Agribank, Citibank, Vietcombank, ICB, và ngân

hàng Hồng Kông bank chi nhánh thành phố HCM. Nguyên tắc chính của loại quyền chọn này là
các doanh nghiệp và cá nhân được quyền đặt mua hay đặt bán USD với VNĐ thông qua một tỷ
19
giá do khách hàng tự chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện. Đặc biệt, quyền chọn USD và VNĐ đáp
ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập
khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. Sau khi NHNN cho phép ACB, Sacombank
và Agribank thực hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày 10/12/2004 ACB là ngân hàng đầu tiên
công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế
giá vàng liên tục tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian để đo lường mức độ đón nhận của thị
trường đối với công cụ. Tới nay, đã có rất nhiều ngân hàng được phép của Ngân hàng nhà nước
cho phép thực hiện các nghiệp vụ Option. Đặc biệt, Ngân hàng nhà nước cũng đã cho phép thực
hiện các Options tiền Đồng tại BIDV, ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, ngân hàng cổ
phần thương mại quốc tế. Với nghiệp vụ này, chắc chắn tương lai sẽ được mở rộng bởi khi đó
VND sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trường tài chính thế giới. Vị thế của VND và Việt Nam cũng
qua đó mà tăng lên. Tuy nhiên, vì đang trong giai đoạn thí điểm nên các ngân hàng này bị giới
hạn bởi thời gian thực hiện. Nhìn chung, hoạt động này đang đem lại một cơ cấu sản phẩm hiện
đại cho các ngân hàng trong điều kiện hội nhập. Hơn nữa, nhu cầu của khách hàng đối với các
giao dịch Options đang có xu hướng tăng, do vậy ngân hàng nhà nước đã tiến hành gia hạn thí
điểm hợp đồng các nghiệp vụ này.
Quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó quyền
chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. Sau khi
NHNN cho phép ACB, Sacombank và Agribank thực hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày
10/12/2004 ACB là ngân hàng đầu tiên công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung ra
trong bối cảnh trong nước và quốc tế giá vàng liên tục tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian để
đo lường mức độ đón nhận của thị trường đối với công cụ này.
Điểm lại nhưng mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh ở Việt Nam, dễ nhận thấy rằng
nó chưa được thị trường đón nhận như là công cụ không thể thiếu trong phòng ngừa rủi ro. Thực
trạng đó đặt ra nhiều câu hỏi. Phải chăng các doanh nghiệp chưa thực sự có nhu cầu phòng
chống rủi ro? Phải chăng khoảng cách giữa mong muốn phòng ngừa rủi ro của các doanh nghiệp
và các công cụ phái sinh còn quá lớn? Phải chăng sự hiểu biết của các doanh nghiệp đối với các

Công cụ phái sinh, từ đó là những chính sách sử dụng nó còn yếu kém? Phải chăng điều kiện
kinh tế, đặc biệt là sự phát triển ở Việt Nam còn hạn chế? Phải chăng là việc hạch toán những
nghiệp vụ ngoại bảng này còn nhiều bất cập khiến các ngân hàng còn nhiều lúng túng trong việc
triển khai các dịch vụ phái sinh ? Phải chăng những quy định pháp lý hiện nay còn hạn chế sự
hoạt động của các công cụ phái sinh?
Nếu sử dụng sai mục đích và không được giám sát chặt chẽ, các công cụ phái sinh, từ chỗ là
công cụ phòng chống rủi ro sẽ mang đến những mầm hoạ khôn lường cho nền kinh tế. Do vậy,
để tránh điều đó, chúng ta cần xây dựng những trụ cột cơ bản đảm bảo việc triển khai các công
cụ tài chính phái sinh được bền vững.
Với tình hình hoạt động của thị trường các chứng khoán phái sinh ở Việt Nam thời gian qua
có thể tổng kết được những thành tựu và hạn chế sau:
- Những thành quả bước đầu:
+ Nhận thức về các công cụ phái sinh và sự vận dụng chúng vào trong hoạt động kinh doanh
ngày càng phổ biến và hiệu quả. Bằng việc đưa các công cụ phái sinh hoán đổi (swap), kỳ hạn
(forward) và quyền lựa chọn (options) vào giao dịch trên thị trường, bước đầu ngân hàng đã tạo
được nhận thức cho khách hàng trong việc vận dụng chúng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh
20
hạn chế rủi ro do biến động tỷ giá. Trên cơ sở những thành quả đạt được trên thị trường ngoại
hối hoạt động giao dịch phái sinh được triển khai sang lĩnh vực thị trường hàng hóa, cụ thể là sản
phẩm cá phê trên thị trường London được ngân hàng kỹ thương áp dụng, Ngân hàng Á châu thực
hiện nghiệp vụ quyền lựa chọn mua bán vàng.
+ Cung ứng thêm các công cụ tài chính, góp phần làm phong phú và đa dạng sản phẩm dịch
vụ của ngân hàng trên thị trường ngoại hối. Một số ngân hàng năng động, giờ đây không chỉ tập
trung vào những sản phẩm kinh doanh ngân hàng truyền thống mà còn hướng tới nghiên cứu
triển khai các phái sinh hiện đại.
- Những hạn chế:
+ Khối lượng giao dịch còn quá nhỏ so với như cầu thực tế: Các giao dịch kỳ hạn và giao
dịch hoán đổi được triển khai từ năm 1998 đến nay nhưng khối lượng các giao dịch này ở các
ngân hàng thương mại vẫn còn rất ít, vẫn chưa tạo được sự hấp vẫn đối với khách hàng. Điều
này, xuất phát từ những nguyên nhân sau: Tỷ giá giữa USD/VND được Ngân hàng Nhà nước can

thiệp khá ổn định với mục đích hỗ trợ cho xuất khẩu; nhận thức về các công cụ phái sinh nhưng
chưa phổ biến và chưa am hiểu sâu sắc về các công cụ từ khách hàng; tính hiệu quả kém của thị
trường, làm cho các giao dịch phái sinh không phát huy hết vai trò là công cụ dự trên những biến
động ngẫu nhiên của thị trường để hạn chế rủi ro và tạo ra lợi nhuận; hệ thống thông tin thị
trường chưa kịp thời và đầy đủ…
+ Giao dịch phái sinh chủ yếu trên thị trường ngoại hối còn lại trên các thị trường khác vẫn
chưa hình thành hoặc trong giai đoạn phôi thai. Điều này một phần xuất phát từ nguyên nhân về
khung pháp lý điều chỉnh hoạt động giao địch chứng khoán phái sinh chưa đầy đủ, quyền lợi và
trách nhiệm của các chủ thể tham gia chưa được đảm bảo, do đó chưa tạo được sự quan tâm của
các định chế tài chính cũng như các nhà đầu khi tham gia trên thị trường chứng khoán, trong vận
dụng các biện pháp để hạn chế rủi ro và đầu tư kiếm lợi.
+ Khung pháp lý điều chỉnh các giao dịch phái sinh trên thị trường chưa được hoàn thiện. Các
giao dịch phái sinh mà các ngân hàng thương mại kinh doanh trên thị trường ngoại hối, được
điều chỉnh bởi các văn bản pháp lý của ngân hàng nhà nước, còn lại trên các thị trường khác vẫn
chưa có văn bản pháp lý nào điều chỉnh hoạt động của các giao dịch này.
2. Thị trường phái sinh hàng hóa:
Thị trường phái sinh hàng hóa (PSHH) trên thế giới đã xuất hiện từ thế kỷ thứ 19 tại Hoa
Kỳ và ngày càng phát triển cùng với việc mở rộng giao thương và tự do hóa thương mại trên
toàn cầu. Tại Việt Nam, thị trường PSHH chính thức xuất hiện từ giai đoạn 2005, 2006 với sản
phẩm hợp đồng tương lai hàng hóa được cung cấp bởi những nhà môi giới là các ngân hàng
thương mại như: Techcombank, BIDV, VCB,…và gần đây nhất Sàn giao dịch (SGD) hàng hóa
Việt Nam ra đời vào tháng 10/2010.
Việt Nam là một trong số những quốc gia dẫn đầu thế giới về xuất khẩu nông sản với
danh mục sản phẩm đa dạng từ cà phê, cao su, đến hạt điều, đậu tương, Đặc điểm của các mặt
hàng nông sản là sản lượng không ổn định, phụ thuộc nhiều vào thời tiết, giá cả biến động
21
nhanh, mạnh. Thực tế kinh doanh nông sản Việt Nam trong những năm vừa qua đã chứng kiến
nhiều địa phương, doanh nghiệp (DN) do không ổn định đầu ra nên sản xuất còn tự phát, nông
dân bị cuốn vào vòng luẩn quẩn “trồng – chặt – trồng” và “được mùa mất giá, mất mùa được
giá” khiến việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, định giá rất bị động, thu nhập người sản xuất

và kinh doanh nông sản đều bấp bênh. Ngoài ra, do không có SGD hàng hóa đúng nghĩa và liên
thông với thị trường quốc tế nên nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
luôn phải bán dưới giá bình quân thế giới. Những bất cập trên đã cho thấy nhu cầu phát triển thị
trường PSHH cho các DN để quản lý rủi ro biến động giá hàng hóa, tạo điều kiện cho các DN và
người sản xuất tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi với chiến lược phát triển dài hạn và
tạo sự bình đẳng cho các DN Việt Nam khi tham gia cuộc cạnh tranh gay gắt với các DN nước
ngoài trong thị trường hàng hóa liên tục biến động.
Xét ở góc độ tổng thể của nền kinh tế, thị trường công cụ phái sinh đóng góp cho tăng
trưởng kinh tế thông qua việc phát huy tốt các chức năng của hệ thống tài chính, đó là: Cầu nối
giữa tiết kiệm và đầu tư; Sàng lọc, chuyển giao và phân tán rủi ro; Giám sát doanh nghiệp, tăng
tính thanh khoản của các công cụ tài chính (vận hành Hệ thống thanh toán thông suốt).
Mô hình sở giao dịch hàng hóa là phương thức giao dịch hiện đại đang rất phổ biến trên thế
giới nhất là giao dịch hàng hóa phái sinh, có tác dụng lớn trong việc thúc đẩy giao thương, rào
chắn rủi ro, kiếm lời từ hoạt động đầu tư của các đối tượng tham gia. Tuy nhiên, ở Việt Nam đây
vẫn còn là một hoạt động khá mới mẻ với sự ra đời của một số sàn giao dịch ở TP.HCM, Đaklak
nhưng hoạt động cũng chỉ cầm chừng và chưa thực sự hiệu quả.
Nội dung Địa điểm Năm thành lập
Sàn giao dịch hàng hóa TP.HCM 2002
Sàn giao dịch thủy sản Cần Giờ TP.HCM 2004
Sàn giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC) Đaklak 2004
Sàn giao dịch thép của Sacombank ( Sacom-STE) TP.HCM 2009
Sàn giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX) TP.HCM 2010
Nguyên nhân là do các Sàn giao dịch bị quản lý chồng chéo bởi các quy định của nhiều bên
liên quan như các Bộ, Ngân hàng nhà nước, doanh nghiệp; hầu hết các sàn giao dịch trước đây
chỉ áp dụng phương thức giao dịch là giao ngay nên chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của
khách hàng; chưa có kinh nghiệm trong việc triển khai hoạt động của cũng như trong công tác
phát triển thành viên cũng như khách hàng của Sàn giao dịch hàng hóa.
Trong đó, sự ra đời của VNX đánh dấu một bước ngoặt mới trong việc hình thành và phát
triển thị trường phái sinh tại Việt Nam.
- Điểm khác biệt của VNX so với các Sàn giao dịch hàng hóa trước đây:

+ Đối với riêng VNX, tiền thân là Sở Giao dịch hàng hóa Triệu Phong, đây là Sở giao dịch hàng
hóa đầu tiên được Bộ Công Thương cấp phép hoạt động theo tinh thần luật thương mại với chức
năng và quy mô lớn hơn các sàn giao dịch hàng hóa đã và đang hoạt động. Các mục tiêu chính
trong 5 năm tới là tăng vốn điều lệ 150 tỷ đồng hiện nay lên 300 tỷ đồng năm 2012 và 1.000 tỷ
đồng năm 2015, niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam vào năm 2014.
22
+ Đặc biệt, khác với các sàn hàng hóa trước kia được lập ra bởi các công ty chỉ đóng vai trò là
broker cho các Sở giao dịch hàng hóa nước ngoài, VNX còn đóng vai trò là nhà tổ chức. Đây là
điểm khác biệt quan trọng nhất.
+ Ngoài ra, thay vì chỉ thực hiện các hợp đồng giao ngay (hàng hóa thật), VNX tập trung cung cấp
các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến phái sinh hàng hóa ( hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn,
quyền chọn, hoán đổi đối với hàng hóa)  đây là một hình thức giao dịch, công cụ tài chính bảo
hiểm rủi ro về giá cho nhà sản xuất, kinh doanh mà còn là hình thức đầu tư tài chính hiệu quả
dành cho các nhà đầu tư.
+ Bên cạnh đó, một trong các lợi thế của VNX là có sự kết hợp chặt chẽ với các hiệp hội cà phê,
cao su, thép. Thông qua các hiệp hội này, VNX sẽ tìm được những nhà sản xuất kinh doanh phù
hợp và đảm bảo hệ thống kho bãi, nguồn nguyên liệu để có thể cân đối được tính thanh khoản
cho các giao dịch hàng hóa thông qua Sàn và cung cấp thông tin tốt hơn cho các hộ nông dân,
những nhà sản xuất nhỏ tại các vùng nguyên liệu chưa tiếp cận được thông tin đầy đủ về thị
trường.
3. Thị trường phái sinh ngoại hối:
a. Đối với Ngân hàng
Quyết định số 107/QĐ-NH ngày 16/8/1991 do NHNN ban hành về “Thành lập trung tâm
giao dịch ngoại tệ” là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự hình thành một thị trường ngoại hối có tổ
chức ở Việt Nam. Với nhu cầu quan hệ giao dịch và thanh toán ngoại tệ của nền kinh tế như một
tổng thể, nhu cầu hội nhập, mở cửa kinh tế khu vực và quốc tế để phù hợp với quá trình phát
triển thị trường toàn cầu. “Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng” được thành lập vào ngày
20/9/1994 theo Quyết định số 203/QĐ-NH thay thế cho trung tâm giao dịch ngoại tệ và Quy chế
tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được ban hành, đã đánh dấu bước
ngoặt lịch sử trong quá trình hình thành và phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam theo các

chuẩn mực quốc tế.
Giao dịch kỳ hạn và hoán đổi:
Hai loại giao dịch này hiện đã được phát triển mạnh mẽ và đóng góp một vai trò quan
trọng trên thị trường ngoại hối. Các nhà XNK và đầu tư quốc tế đã sử dụng thị trường kỳ hạn và
hoán đổi ngày càng tăng. Hai loại giao dịch này rất hiệu quả trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá
đối với các khoản thu chi XNK bằng ngoại tệ. Nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi còn là công cụ để
các nhà đầu cơ kiếm lời, nên càng khiến cho thị trường này hoạt động hiệu quả. Tuy nhiên, tại
Việt Nam vẫn chưa phát triển được như vậy. Điều này được thể hiện qua bảng tổng kết sau:
Năm Vai trò của Forward Tỷ trọng mua bán Forward
Tổng doanh
số mua bán
Tỷ lệ mua
bán Forward
Mua
Forward
Bán
Forward
1998 100% 10,6% 38% 62%
1999 100% 2,8% 39% 61%
2000 100% 5,5% 24% 76%
2001 100% 5,6% 19% 81%
2002 100% 5,6% 14% 86%
2003 100% 4,9% 17% 83%
2004 100% 6,0% 16% 84%
23
2005 100% 5,5% 25% 75%
Tổng 100% 5,3% 23% 77%
Như vậy, giao dịch kỳ hạn và hoán đổi chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trên tổng doanh số giao
dịch ngoại tệ của các NHTM. Tỷ trọng mua bán kỳ hạn chênh lệch. Trong đó mua kỳ hạn chiếm
23%, bán kỳ hạn chiếm đến 77%. Điều này cho thấy, ngoài mục đích phòng ngừa rủi ro tỷ giá,

các đơn vị kinh tế tham gia hợp đồng kỳ hạn chủ yếu là nhằm có được ngoại tệ trong tương lai để
thanh toán cho nước ngoài.
Quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ:
Trong giai đoạn thí điểm, các NHTM muốn thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ với
ngoại tệ phải là ngân hàng đã được phép kinh doanh ngoại hối, có vốn tự có tối thiểu là 2000 tỷ
VNĐ. Kinh doanh ngoại tệ có lãi ít nhất là 5 năm gần nhất về doanh số mua bán ngoại tệ của
năm trước tối thiểu là 1 tỷ USD. Ngoài ra NHTM phải lập quy trình nghiệp vụ quyền chọn ngoại
tệ với ngoại tệ và trình cho thống đốc NHNN chấp thuận bằng văn bản.
Mặc dù lợi ịch phòng ngừa rủi ro tỷ giá của các công cụ ngoại tệ phái sinh là rất rõ ràng
nhưng tính đến tháng 6/2004, số lượng hợp đồng ký kết chỉ là 50 hợp đồng quyền chọn với
doanh số thực hiện 50 triệu USD của Eximbank ký kết với doanh nghiệp kinh doanh XNK trong
thời gian thí điểm hợp đồng quyền chọn.
Từ năm 2004 đến 2007 mặc dù không còn giới hạn số lượng NHTM được cung cấp dịch
vụ bán hợp đồng quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ nhưng thực tế cho thấy các hoạt động mua bán
này không sôi động, chỉ tập trung vào các ngân hàng nước ngoài như HSBC, Citibank và một số
NHTM Việt Nam như Eximbank và Vietcombank.
Quyền chọn ngoại tệ với VND:
Mặc dù được triển khai từ 2005, nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ vẫn chưa được phát triển
sâu rộng, doanh số mua bán thực tế của các NHTM không đáng kể, số lượng hợp đồng ít, giá trị
hợp đồng nhỏ. Hầu hết các giao dịch là quyền chọn theo kiểu Mỹ. Ngay cả 2 NHTM được coi là
mạnh về lĩnh vực này là Vietcombank và Eximbank thì doanh số hoạt động cũng rất nhỏ. Năm
2006, Vietcombank chỉ đạt khoảng 37,53 triệu USD. Eximbank cũng chỉ đạt khoảng 0,8% tổng
số giao dịch ngoại tệ.
b. Đối với doanh nghiệp:
Có thể nói rủi ro tỷ giá có ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp XNK, doanh nghiệp đầu tư và tín dụng liên quan đến ngoại tệ. Thế nhưng thực tế, qua
khảo sát nghiên cứu hoạt động sử dụng công cụ phái sinh tiền tệ để phòng ngừa rủi ro tại các
doanh nghiệp hoạt động tại TP.HCM đưa ra kết quả sau:
Số lượng NHTM Phần trăm Phần trăm tích
lũy

Chưa nghe nói đến 6 5,3 5,3
Có nghe nhưng không quan
tâm
27 23,7 29
Có nghe và có quan tâm 51 44,7 73,7
24
Có nghe và thực sự lo lắng 30 26,3 100
Tổng 114 100
Kết quả đưa ra có 26,3% doanh nghiệp thực sự lo lắng về vấn đề rủi ro tỷ giá. 44,7%
doanh nghiệp có quan tâm nhưng chưa lo lắng đến vấn đề rủi ro tỷ giá, và có tới 29% doanh
nghiệp trả lời họ không quan tâm đến vấn đề rủi ro tỷ giá, và có đến 73,7% doanh nghiệp chưa
hề thực hiện bất kỳ động thái nào để phòng nừa rủi ro tỷ giá cho các hoạt động kinh doanh liên
quan đến tiền tệ. Kết quả này cho thấy, do chính sách điều hành và tỷ giá khá an toàn, ổn định
của NHNN khiến cho các doanh nghiệp hầu như chưa thật sự lo lắng gì về rủi ro tỷ giá. Thực tế
này rất đáng lo ngại, bởi vì hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp lớn nhỏ đều liên quan đến
ngoại tệ. Tỷ giá biến động sẽ ảnh hưởng lớn đến doanh thu của các doanh nghiệp.
Loại
ngoại tệ
Số lượng
doanh nghiệp
Phần trăm (%)
USD 114 100
EUR 52 45,6
JPY 28 24,6
Ngoại tệ khác
AUD 8 7
CAD 5 4,4
CHF 4 3,5
GBP 11 9,6
SGD 15 13,2

Bảng trên cho thấy 100% doanh nghiệp có sử dụng USD thường xuyên. Khoảng 45,6%
doanh nghiệp sử dụng EUR thường xuyên và 24,6% doanh nghiệp sử dụng JPY thường xuyên.
Kết quả đưa ra được ngày nay hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp hầu hết đều liên quan
đến ngoại tệ. Những biến động tỷ giá và lãi suất của ngoại tệ nói chung và đặc biệt là USD,
EUR, JPY sẽ có ảnh hưởng lớn đến doanh số và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
25

×