Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

xây dụng các khu bảo tồn thiên nhiên đẻ bảo vệ các nguồn tài nguyên đó là là rất cần thiết và quan trọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.32 MB, 42 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 3
B. NỘI DUNG 3
I. Giới thiệu về khu dự trưc sinh quyển thế giới 3
1.1. Khái niệm 3
1.2. Các tiêu chí để trở thành khu dự trữ sinh quyển thế giới 4
1.3. Chức năng của khu dự trữ sinh quyển thế giới 4
1.4. Đặc trưng 5
II. Các khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam 6
2.1. Khu dự trữ sinh quyển Cần Giới 6
2.1.1. Vị trí địa lý 6
2.1.2. Sự hình thành 7
2.1.3. Hệ sinh thái 7
2.1.4. Các vùng của khu dự quyển 10
2.1.5. Du lịch sinh thái 12
2.2. Khu dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng 13
2.2.1. Tổng quan 13
2.2.2. Hệ sinh tháí 14
2.2.3. Các vùng của khu dự quyển 16
2.2.4. Tiềm năng du lịch 17
2.3. Khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An 18
2.3.1. Tổng quan 18
2.3.2. Đa dạng sinh học 19
2.4. Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Các Bà 20
2.4.1. Tổng quan 20
2.4.2. Đa dạng sinh học 21
1
2.4.3. Các vùng trong khu dữ trữ sinh quyển 24
2.4.4. Phát triển các loại hình du lịch 25
2.5. Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm 26
2.5.1. Tổng quan 26


2.5.2. Đa dạng sinh học 27
2.5.3. Các vùng của khu dự trữ sinh quyển 28
2.5.4. Phát triển các loại hình du lịch 28
2.6. Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang 30
2.6.1. Tổng quan 30
2.6.2. Đa dạng sinh học 30
2.7. Khu dự trữ sinh quyển Cát Tiên 33
2.7.1. Đa dạng sinh học 34
2.7.2. Các vùng trữ sinh quyển 35
2.7.3. Du lịch sinh thái 36
2.8. Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau 37
2.8.1. Tổng quan 37
2.8.2. Đa dạng sinh học 38
C. KẾT LUẬN 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO 41
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên. Sự đa dạng và phong
phú của các loại tài nguyên đã đem lại cho nước ta những lợi ích kinh tế - xã hội
không nhỏ, phục vụ cho đời sống của người dân, cộng đồng và sự phát triển đất
nước. Ở đây tập trung nhiều loại động thực vật quý hiếm đang đứng trước nguy cơ
bị tuyệt chủng.
Đứng trước nguy cơ đó thì việc xây dụng các khu bảo tồn thiên nhiên đẻ bảo
vệ các nguồn tài nguyên đó là là rất cần thiết và quan trọng.
Khu bảo tồn thiên nhiên là vùng đất hay vùng biển đặc biệt được dành để bảo
vệ và duy trì tính đa dạng sinh học, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, kết hợp với
việc bảo vệ các tài nguyên văn hoá và được quản lí bằng pháp luật hoặc các phương
thức hữu hiệu khác. Theo nghĩa hẹp, khu bảo tồn thiên nhiên còn gọi là khu dự trữ
tự nhiên và khu bảo toàn loài sinh cảnh, là vùng đất tự nhiên được thành lập nhằm
mục đích đảm bảo diễn thế tự nhiên.

Và ở nước ta đã xây dụng được một số khu dự trữ sinh quyển đã được
UNESCO công nhận
B. NỘI DUNG
I. Giới thiệu về khu dự trưc sinh quyển thế giới
1.1. Khái niệm
3
Khu dự trữ sinh quyển thế giới là một danh hiệu do UNESCO trao tặng cho
các khu bảo tồn thiên nhiên có hệ động thực vật độc đáo, phong phú đa dạng. Theo
định nghĩa của UNESCO, Khu dự trữ sinh quyển thế giới là những khu vực hệ sinh
thái bờ biển hoặc trên cạn giúp thúc đẩy các giải pháp điều hòa việc bảo tồn sự đa
dạng sinh học với việc phát triển bền vững khu vực đó có giá trị nổi bật, được quốc
tế công nhận
Khu dự trữ sinh quyển được tổ chức thành 3 vùng:
- Vùng lõi: nhằm bảo tồn lâu dài đa dạng loài, các cảnh quan, hệ sinh thái.
- Vùng đệm: nằm bao quanh hoặc tiếp giáp vùng lõi. Ở đây, có thể tiến hành
các hoạt động kinh tế, nghiên cứu, giáo dục và giải trí nhưng không ảnh hưởng đến
vùng lõi.
- Vùng chuyển tiếp: nằm ở ngoài cùng. Tại đây, các hoạt động kinh tế vẫn
duy trì bình thường trên cơ sở phát triển bền vững nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên
mà khu dự trữ sinh quyển đem lại.
1.2. Các tiêu chí để trở thành khu dự trữ sinh quyển thế giới
Gồm 7 tiêu chí:
- Khu vực đề cử có đại diện đa dạng các hệ sinh thái của những khu vực địa lý
sinh vật chính, bao gồm cả những giai đoạn phát triển có sự tác động của con người.
- Khu vực đề cử có giá trị bảo tồn đa dạng sinh học cao.
- Khu dự trữ sinh quyển đó có thể thực hiện phát triển theo hướng bền vững
tại khu vực.
- Khu dự trữ sinh quyển có diện tích thích hợp để đáp ứng được ba chức
năng của khu dự trữ sinh quyển.
- Khu vực đó có đủ những vùng thích hợp.

- Có sự sắp xếp theo cấp độ của những thành phần liên quan, những người
tham dự, những đối tượng quan tâm tại những khu vực phù hợp để cùng thực hiện
những chức năng của khu dự trữ sinh quyển.
- Cơ chế thực hiện việc quản lý và bảo tồn được UNESCO chấp nhận.
1.3. Chức năng của khu dự trữ sinh quyển thế giới
4
Mỗi khu dự trữ sinh quyển có 3 chức năng:
- Chức năng bảo tồn: đóng góp vào việc bảo tồn đa dạng di truyền, loài, hệ
sinh thái và cảnh quan.
- Chức năng phát triển: thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững về sinh thái cũng
như các giá trị văn hoá truyền thống.
- Chức năng hỗ trợ: tạo điều kiện cho các hoạt động nghiên cứu, giám sát,
giáo dục và trao đổi thông tin giữa các địa phương, quốc gia và quốc tế về bảo tồn
và phát triển bền vững.
1.4. Đặc trưng
Khu dự trữ sinh quyển thế giới có những nét giống và khác với một vườn
quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên như sau:
- Vườn quốc gia hay khu bảo tồn thiên nhiên chỉ là một phần trong một khu
dự trữ sinh quyển. Mỗi khu dự trữ sinh quyển có thể có nhiều vùng lõi là các vườn
quốc gia hay khu bảo tồn thiên nhiên,
- Vườn quốc gia hay khu bảo tồn thiên nhiên chỉ thực hiện một trong ba chức
năng của một khu dự trữ sinh quyển, đó là chức năng bảo tồn. Trong khi khu dự trữ
sinh quyển, ngoài chức năng bảo tồn thiên nhiên còn thực hiện chức năng phát triển
(kinh tế, văn hóa, du lịch sinh thái ) và chức năng hỗ trợ nghiên cứu khoa học, giáo
dục
- Khu dự trữ sinh quyển còn là một cách tiếp cận bảo tồn và phát triển bền
vững tương đối mới (ra đời từ năm 1971) so với cách tiếp cận tập trung vào mục
tiêu bảo tồn đa dạng sinh học của các vườn quốc gia hay khu bảo tồn thiên nhiên -
vốn xuất phát từ khái niệm khu bảo vệ, vốn đã có lịch sử hình thành và tiến hóa qua
nhiều thế kỷ.

• Các khu dự trữ sinh quyển thế giới được điều phối bởi Ủy ban MAB của
UNESCO trong khi các khu bảo vệ (PA) được điều phối bởi IUCN.
Danh sách các khu dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam
Miền Bắc Khu dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng
Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà
Miền Trung Khu dự trữ miền tây Nghệ An
Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm
5
Miền Nam Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ
Khu dự trữ sinh quyển Cát Tiên
Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau
Khu dự trũ ven biển và biển đảo Kiên Giang
II. Các khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam
2.1. Khu dự trữ sinh quyển Cần Giới
Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ còn gọi là Rừng Sác là một quần thể gồm
các loài động, thực vật rừng trên cạn và thuỷ sinh, được hình thành trên vùng châu
thổ rộng lớn của các cửa sông Đồng Nai, Sài gòn và Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây.
UNESCO đã công nhận đây là khu dự trữ sinh quyển thế giới với hệ động thực vật
đa dạng độc đáo điển hình của vùng ngập mặn. Nơi đây được công nhận là một khu
du lịch trọng điểm quốc gia Việt Nam.
Tên chính thức: Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ, TP Hồ Chí
Minh
Tên ngắn gọn: Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ
Ngày được UNESCO công nhận : 21/01/2000
2.1.1. Vị trí địa lý
Khu dự trữ sinh quyển rừng mặn Cần Giờ được hình thành ở hạ lưu hệ
thống sông Đồng Nai – Sài Gòn nằm ở cửa ngõ Đông Nam Thành phố Hồ Chí
Minh Tọa độ: 10°22’ – 10°40’ độ vĩ Bắc và 106°46’ – 107°01’ kinh độ Đông.
Cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 40 km, khu dự trữ sinh
quyển Cần Giờ giáp tỉnh Đồng Nai ở phía Bắc, giáp biển Đông ở phía Nam, giáp

tỉnh Tiền Giang và Long An ở phía Tây và giáp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu ở phía Đông.
Tổng diện tích khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ là 75.740 ha,
trong đó:
Vùng lõi 4.721 ha
Vùng đệm 41.139 ha
Vùng chuyển tiếp 29.880 ha.
6
Hình 1: Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ
2.1.2. Sự hình thành
Trước chiến tranh, Cần Giờ là khu rừng ngập mặn với quần thể động thực vật
phong phú. Nhưng trong chiến tranh bom đạn và chất độc hóa học đã làm nơi đây
trở thành “vùng đất chết”. Năm 1978, Cần Giờ được sáp nhập về Thành phố Hồ Chí
Minh, và năm 1979 UBND thành phố Hồ Chí Minh phát động chiến dịch trồng lại
rừng Cần Giờ, thành lập Lâm trường Duyên Hải (đóng tại Cần Giờ, thuộc Ty Lâm
nghiệp) với nhiệm vụ khôi phục lại hệ sinh thái ngập mặn
.
Diện tích rừng đã phủ
xanh hơn 31 nghìn héc-ta, trong đó có gần 20 nghìn héc-ta rừng trồng, hơn 11 nghìn
héc-ta được khoanh nuôi tái sinh tự nhiên và các loại rừng khác.
Ngày 21/ 01/ 2000, khu rừng này đã được Chương trình Con người và Sinh
Quyển - MAB của UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển đầu tiên của Việt
Nam nằm trong mạng lưới các khu dự trữ sinh quyển của thế giới.
Sự khôi phục và phát triển cũng như bảo vệ của khu rừng này ghi nhận sự
đóng góp rất lớn của lực lượng thanh niên xung phong thành phố Hồ Chi Minh và
nhân dân Cần Giờ. Hiện khu rừng đã được giao cho chính người dân nơi đây chăm
sóc và quản lý.
2.1.3. Hệ sinh thái
Rừng ngập mặn Cần Giờ có điều kiện môi trường rất đặc biệt, là hệ sinh thái
trung gian giữa hệ sinh thái thủy vực với hệ sinh thái trên cạn, hệ sinh thái nước
ngọt và hệ sinh thái nước mặn. Rừng Cần Giờ nhận một lượng lớn phù sa từ sông

Đồng Nai, cùng với ảnh hưởng của biển kế cận và các đợt thủy triều mà hệ thực vật
7
nơi đây rất phong phú với trên 150 loài thực vật, trở thành nguồn cung cấp thức ăn
và nơi trú ngụ cho rất nhiều loài thủy sinh, cá và các động vật có xương sống khác.
* Hệ thực vật:
Trước ngày 30/4/1975, rừng ngập mặn Cần Giờ có 40.000 ha; tán rừng dày,
với cây rừng cao trên 25 m, đường kính 25-40 cm, Đước đôi (Rhizophora
apiculata) là loài chiếm ưu thế, cùng với các quần xã khác như Bần đắng
(Sonneratia alba), Mắm trắng (Avicennia alba), Đưng (R. mucronata), Vẹt
(Bruguiera spp.), Xu (Xylocarpus spp), Cóc (Lumnitzera spp.), Chà là (Phoenix
paludosa). Giá (Excoecaria agallocha) v.v Ngoài rừng ngập mặn, khu vực huyện
Cần Giờ còn có các vùng đồi đất đỏ bazan như Giồng Chùa. Giồng Ao v.v có các
loại cây cỏ, cây bụi và các loài cây tái sinh tự nhiên thuộc rừng mưa ẩm, nhiệt đới.
Từ năm 1964 đến 1970, đế quốc Mỹ đã dùng chất độc hoá học rải dọc theo
trục sông Lòng Tàu sâu vào rừng mỗi bên vài trăm mét. Các đợt rải được tiến hành
nhiều lần bằng máy bay làm rừng ngập mặn Cần Giờ bị huỷ diệt hoàn toàn, hầu hết
các loại cây rụng lá và chết. Các loài cây như Đước, Đưng gần như biến mất. Một
số ít cây Dà (Ceriops spp), Giá (Excoecaria agallocha) ven bờ kênh rạch tái sinh
theo từng cụm nhỏ, nơi đất ngập triều có Mắm, trên đất cao có Chà là nước
(Phoenix paludosa) và các loài Ráng đại (Acrostichum aureum), Dây mủ
(Gymnanthera mitida), Cóc kèn (Derris trifoliata), Chùm lé (Azima sarmentosa),
Lức (Pluchea indica), Chùm gọng (Clerodendrum inerme)…
Hình 2: Cây đước
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 30/4/1975, rừng ngập mặn Cần
Giờ thuộc địa phận huyện Duyên Hải, tỉnh Đồng Nai. Đến năm 1978, huyện Duyên
Hải được giao lại cho thành phố Hồ Chí Minh với tổng diện tích toàn huyện lúc đó
là 71.361 ha, trong đó diện tích rừng ngập mặn và đất lâm nghiệp là 34.468 ha. Lâm
8
trường Duyên Hải lúc đó trực thuộc Ty Lâm nghiệp thành phố Hồ Chí Minh được
thành lập vào năm 1978. Để bắt đầu công tác trồng rừng, trụ mầm Đước phải mua

và vận chuyển từ tỉnh Minh Hải (Cà Mau) vì nguồn giống tại chỗ ỏ Cần Giờ không
đủ cung cấp. Đến năm 1990 mới có nguồn giống Đước tại chỗ. Từ năm 1984 trở đi,
một số loài cây khác như Gõ biển (Intsia bijuga), Dà vôi (Ceriops tagal), Dà quánh
(C. decandra), Cóc trắng (Lumnitzera racemosa), Xu ổi (Xylocarpus granatum),
Tra (Thespesia populnea). v v cũng được trồng để phủ xanh các vùng đất cao, ít
ngập triều.
Hình 3: Cây chà là nước
* Hệ động vật:
Khu hệ động vật thủy sinh không xương sống với trên 700 loài, khu
hệ cá trên 130 loài, khu hệ động vật có xương sống có 9 loài lưỡng thê, 31 loài bò
sát, 4 loài có vú. Trong đó có 11 loài bò sát có tên trong sách đỏ Việt Nam như: tắc
kè (Gekko gekko), kỳ đà nước (Varanus salvator), trăn đất (Python molurus), trăn
gấm (Python reticulatus), rắn cạp nong (Bungarus fasciatus), rắn hổ mang (Naja
naja), rắn hổ chúa(Ophiophagus hannah), vích (Chelonia mydas), cá sấu hoa
cà (Crocodylus porosus)… Khu hệ chim có khoảng 130 loài thuộc 47 họ, 17 bộ.
Trong đó có 51 loài chim nước và 79 loài không phải chim nước sống trong nhiều
sinh cảnh khác nhau
9


Hình 4: Hệ động vật cỉa khu dự trữ
2.1.4. Các vùng của khu dự quyển
a) Vùng lõi (4.721 ha)
Vùng này đặc trưng cho các hệ sinh thái rừng trồng và đặc biệt là rừng ngập
mặn tái sinh tự nhiên dọc theo các kênh rạch và bìa rừng với đa dạng sinh học cao
về thành phần các loài động vật, thực vật, vi sinh vật với cảnh quan rừng ngập mặn
đa dạng và hấp dẫn. Các chức năng chính bao gồm:
- Bảo tồn hệ sinh thái rừng ngập mặn bao gồm cả rừng trồng và rừng tự
nhiên;
- Bảo tồn cảnh quan rừng ngập mặn với các môi trường sống của động vật

hoang dã, đặc biệt là chim nước;
- Bảo tồn hệ thống thuỷ vực, các bãi bồi dọc bờ sông và ven biển nơi kiếm ăn
và sinh đẻ của các loài động vật vùng triều;
- Tiến hành một số công trình nghiên cứu khoa học về sức bền hệ sinh thái và
du lịch sinh thái có giới hạn.
10
b) Vùng đệm (37.339 ha)
Với chức năng phục hồi các hệ sinh thái, vùng đệm có vai trò quan trọng
trong bảo tồn vùng lõi. Các hoạt động du lịch sinh thái, thăm quan và nghiên cứu có
thể triển khai ở Khu căn cứ địa kháng chiến, đặc khu Rừng Sác, thăm vườn chim,
vườn cò, vườn dơi sẽ góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, nâng cao ý thức
và hiểu biết giá trị của công tác bảo tồn góp phần làm giảm sức ép lên vùng lõi của
khu dự trữ sinh quyển. Mặt khác, vùng đệm còn tạo không gian cho thú hoang dã
như khỉ, rái cá, kỳ đà … kiếm ăn. Khi các khu vực này trở nên ổn định, có thể bổ
sung vào vùng lõi nếu cần thiết, đồng thời tạo cảnh quan tự nhiên và hoạt động văn
hoá phục vụ cho du lịch sinh thái. Ngoài ra, các mô hình lâm ngư kết hợp thân thiện
với môi trường cũng được ứng dụng, trình diễn cho nhân dân địa phương đến tham
quan, học tập và trao đổi kinh nghiệm.
c) Vùng chuyển tiếp: 29.310 ha
Vùng chuyển tiếp bao gồm các khu vực còn lại của huyện Cần Giờ bao gồm
các vùng bãi bồi, giồng, bãi cát, các khu vực sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản, diêm
nghiệp và dân cư dọc theo ven biển Cần Giờ. Đây là vùng chuyển tiếp có nhiều tiềm
năng cho hoạt động kinh tế, đặc biệt là phát triển du lịch sinh thái, phát triển nông
nghiệp, ngư nghiệp và thuỷ sản bền vững. Hệ thống nhà nghỉ, khách sạn, nhà hàng
vùng ven biển Cần Giờ rất hấp dẫn khách du lịch.\
11
Bảng : Danh mục các loài sinh vật quí hiếm ở Khu dự trữ sinh quyển rừng
ngập mặn Cần Giờ
Tên địa phương Tên khoa học
Lớp bò sát Reptilia

Tắc kè Gekko gecko
Kỳ đà nước Varanus salvator
Trăn đất Python molurus
Trăn gấm Pythonreticulatus
Rắn cạp nong Bugaris fasciculatus
Rắn hổ mang Naja naja SĐVN xếp T
Rắn hổ chúa Ophiophagus hannah
Vích Chelonia mydas
Đồi mồi Eretmochelis imbricata
Quân đồng Lepidochelus olivacea
Cá sấu hoa cà Crocodylus porosus
Lớp chim Aves
Bộ nông chân xám Pelecanus philppensis
Giang sen Mycteria leucocephala
Cò lạo xám Mycteria cinerea
Già đảy nhỏ Leptoptilos Javanicus
Choắt lớn mỏ vàng Tringa guttifer
Ác là Pica pica
Lớp thú Mammalia
Rái cá thường Lutra lutra
Rái cá vuốt bé Aouyx cinerea
Mèo cá Felis viverrina
Mèo rừng Felis bengulensis
Nguồn: Bùi Lai và cộng sự. 1996, (MAB Vietnam, 1998. Proposed Biosphere
Reserve of Can Gio Mangroves. HCM City)
2.1.5. Du lịch sinh thái
Đặc khu ‘rừng sác’ đã đi vào lịch sử như một chứng tích về lòng quả cảm,
anh dũng ngoan cường của quân và đân ta trong chiến tranh chống Mỹ. Di tích lịch
sử này cùng với giá trị khảo cổ về văn hoá Óc eo càng tôn thêm giá trị của khu
sinh quyển thế giới. Ngược lại, khu dự trữ sinh quyển lại nâng cánh cho các giá trị

lịch sử văn hoá này bay tới các miền, vùng xa xôi trên khắp thế giới. Đây chính là
tiềm năng du lịch sinh thái rất lớn của khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ.
12
Trong những năm qua một số đoàn giáo viên, học sinh Nhật Bản đã đến Cần
Giờ để tham gia phong trào trồng cây ngập mặn, giao lưu với các trường phổ thông
và nhân dân địa phương góp phần thắt chặt tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
Các địa danh thu hút nhiều khách du lịch đến thăm quan như Khu du lịch Vàm Sát,
Lâm Viên Cần Giờ và nhiều vùng rừng tái sinh tự nhiên dọc sông Đồng Tranh. Mặc
dầu còn một số hạn chế về mặt tổ chức nhưng quang cảnh rừng phục hồi đã gây
được những ấn tượng tốt đẹp cho khách.
2.2. Khu dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng
Tên chính thức: Khu dự trữ sinh quyển đất ngập nước ven biển liên tỉnh
châu thổ sông Hồng, thuộc 5 huyện Thái Thụy, Tiền Hải (Tỉnh Thái Bình); Giao
Thủy, Nghĩa Hưng (Tỉnh Nam Định) và Kim Sơn (Tỉnh Ninh Bình).
Tên ngắn gọn: Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng
Ngày được UNESCO công nhận : 02/12/2004
2.2.1. Tổng quan
Đây là khu dự trữ sinh quyển liên tỉnh bao gồm cả Vườn quốc gia Xuân
Thuỷ, Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Tiền Hải và các vùng phụ cận, Khu
Ramsar Xuân Thuỷ cũng nằm trong khu dự trữ sinh quyển này. Đây là khu Ramsar
được công nhận vào năm 1989, là khu đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam tính đến
thời điểm này. Ramsar là tên Công ước bảo vệ những vùng đất ngập nước có tầm
quan trọng quốc tế, đặc biệt là nơi cư trú của những loài chim nước, do các nước
tham gia ký tại T.P Ramsar, Cộng hoà Hồi giáo I ran. Xuân Thuỷ cũng là khu
Ramsar đầu tiên của Đông Nam Á và thứ 50 của thế giới.
Tổng diện tích của khu dự trữ sinh quyển này lớn hơn 105.558 ha, trong đó
có 66.256 ha là đất liền ven biển và 39.302 ha mặt nước biển thuộc 25 xã của các
huyện Kim Sơn (Ninh Bình); Nghĩa Hưng, Giao Thủy (Nam Định); Tiền Hải, Thái
Thụy (Thái Bình). Vùng lõi có diện tích hơn 14.000 ha, vùng đệm gần 37.000 ha,
vùng chuyển tiếp trên 54.000 ha, có số dân trên 128 000 người (2004).

Khu dự trữ sinh quyển đồng bằng sông Hồng gồm 3 phân vùng riêng biệt,
thuộc các cửa sông Đáy, cửa Ba Lạt và cửa Thái Bình.
• Vùng ven biển cửa sông Đáy nằm trên 7 xã thuộc huyện Kim Sơn và 6 xã
thuộc huyện Nghĩa Hưng.
13
• Vùng ven biển cửa cửa Ba Lạt nằm trên 4 xã thuộc huyện Giao Thủy và 3
xã huyện Tiền Hải.
• Vùng ven biển cửa cửa Thái Bình nằm trên 5 xã thuộc huyện Thái Thụy.
Có 3 đô thị loại V thuộc khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng là thị
trấn Bình Minh, thị trấn Rạng Đông và thị trấn Diêm Điền.
Hình 5: Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng
2.2.2. Hệ sinh tháí
* Hệ thực vật: sinh cảnh đặc sắc nơi đây là những cánh rừng ngập mặn rộng
hàng ngàn ha, đầm lầy mặn, bãi bồi ven biển và cửa sông với những cái tên nghe
đầy ấn tưọng của một vùng mà biên giới quốc gia đang mở rộng ra biển 60-100
m/năm: Cồn Lu, Cồn Ngạn, Cồn Mờ, Cồn Xanh…Những cánh rừng này được ví
như bức tường xanh bảo vệ đê biển, làng xóm khỏi bị tàn phá bởi gió bão, nước
biển dâng, và cả thảm hoạ sóng thần nếu xảy ra.

14
Hình 6: Hệ thực vật của khu dự trữ sinh quyển
* Hệ động vật: Khu dự trữ sinh quyển này hiện đang lưu giữ những giá trị đa
dạng sinh học phong phú với các loài quý hiếm và có tầm quan trọng quốc tế. Các
công trình nghiên cứu đã công bố khoảng 200 loài chim, trong đó có gần 60 loài
chim di cư, hơn 50 loài chim nước. Nhiều loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ thế
giới. Có thể dễ dàng phát hiện ở nơi đây như Cò thìa (Platalea minor), Mòng bể
(Larus ichthyaetus), Rẽ mỏ thìa (Tringa orchropus), Cò trắng bắc (Egretta
eulophotes).
Rừng ngập mặn cũng là nơi nuôi dưỡng sinh đẻ của các loài hải sản. Như
một vườn ươm cho sự sống của biển, rừng ngập mặn cung cấp nguồn lợi thuỷ sản

phong phú cùng với 500 loài động thực vật thuỷ sinh và cỏ biển cung cấp nhiều loài
thuỷ hải sản có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, cá biển, vạng, trai, sò, cá tráp, rong
câu chỉ vàng Cá heo sông là loài động vật được dân chài địa phương tôn thờ,
chúng quẫy mình và nhẹ nhàng bơi quanh mạn thuyền du khách mỗi khi chiều
xuống.

15

Hình 7: Hệ động vật của khu dự trữ sinh quyển
2.2.3. Các vùng của khu dự quyển
a) Vùng lõi
Vùng lõi có diện tích 14.167 ha. Mục tiêu quản lý vùng lõi là bảo tồn đa
dạng sinh học, hạn chế các hoạt động của con người. Khu dự trữ sinh quyển châu
thổ sông Hồng có hai vùng lõi, là Vườn Quốc gia Xuân Thủy và Khu Bảo tồn thiên
nhiên đất ngập nước Tiền Hải
Việc bảo tồn đa dạng sinh học vùng lõi gắn liền với việc bảo tồn rừng ngập
mặn và những bãi bồi ven biển, cửa sông. Không giống như các khu bảo tồn trong
nội địa, vùng lõi trong khu dự trữ sinh quyển này vẫn thường xuyên chịu sức ép của
việc khai thác và đánh bắt thuỷ sản quá mức. Có thể nói rất khó phân chia diện tích
vùng lõi hay vùng đệm, bởi vì việc đánh bắt thuỷ sản ở vùng đệm sẽ trực tiếp làm
suy giảm đa dạng sinh học vùng lõi. Các bãi bồi nuôi vạng hay các loài thuỷ sản
khác không chỉ làm mất đi vẻ đẹp cảnh quan mà còn làm đảo lộn các chuỗi và lưới
thức ăn trong tự nhiên.
b) Vùng chuyển tiếp
Vùng chuyển tiếp có diện tích 54.541 ha còn được gọi là vùng phát triển bền
vững, nơi cộng tác của các nhà khoa học, nhà quản lý và người dân địa phương. Tạo
điều kiện thuận lợi và đẩy mạnh các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch, dịch vụ đi
đôi với tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng. Khu dự trữ sinh
quyển châu thổ sông Hồng có năm vùng chuyển tiếp thuộc địa giới hành chính của
5 huyện. Ranh giới vùng chuyển tiếp được xác định dựa trên địa giới hành chính xã

nằm dọc theo đê biển.
16
c) Vùng đệm
Vùng đệm có diện tích 36.849 ha. Là vùng tiếp giáp với vùng lõi, có thể tiến
hành các hoạt động kinh tế, nghiên cứu, giáo dục và giải trí nhưng không ảnh hưởng
đến mục đích bảo tồn trong vùng lõi. Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng có
năm vùng đệm thuộc địa giới hành chính của 5 huyện: Thái Thuỵ và Tiền
Hải - Thái Bình; Giao Thuỷ và Nghĩa Hưng - Nam Định; Kim Sơn - Ninh Bình.
Ranh giới vùng đệm được tính từ đê biển ra phía ngoài bãi bồi thấp nhất khi nước
triều xuống. Toàn bộ diện tích rừng ngập mặn được khôi phục và trồng mới cùng
với các bãi nuôi vạng, hệ thống đầm nuôi thuỷ sản giáp chân đê biển đều nằm trong
vùng đệm. Đây là khu vực rất quan trọng cho các loài chim di cư từ vùng lõi cũng
như các nơi khác đến kiếm ăn và trú ngụ. Việc quản lý đặt dưới sự chỉ đạo của cơ
quan và chính quyền địa phương trong việc kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế
tạo nguồn thu nhập cho người dân địa phương và bảo tồn rừng ngập mặn vừa có tác
dụng phòng hộ vừa góp phần tăng nguồn lợi thuỷ hải sản.
2.2.4. Tiềm năng du lịch
Cách Hà Nội hơn 100 km, du khách có thể tới vùng đất ngập nước ven biển
cửa sông Hồng bằng cả đường bộ và đường thuỷ. Với một hệ thống các đền, chùa,
lễ hội của vùng châu thổ sông Hồng, khu dự trữ sinh quyển này có tiềm năng rất to
lớn về du lịch sinh thái. Du khách có thể ngắm nhìn những đàn chim di cư. những
loài chim nước kiếm ăn, bay lượn và cũng có thể thưởng thức các đặc sản biển ngay
giữa vùng đất ngập nước này.
17
Trong số 12 kiểu sinh cảnh chính của khu khu dự trữ sinh quyển, nhũng bãi
bùn, bãi cát ngập triều, trảng cỏ, sậy và rừng ngập mặn với hơn 30 loài, các cồn cát
phi lao (Casuarina equisetifolia) rất đặc trưng cho vùng cửa sông ven biển nhiệt
đới, là nơi kiếm ăn của các loài chim di cư, chim nước.
Mới đây, các chuyên gia của tổ chức UNESCO cho rằng việc xây dựng ‘Con
đường di sản’ vùng ven biển miền Bắc bao gồm: Khu khu dự trữ sinh quyển châu

thổ Sông Hồng, khu khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà, khu Di sản Thiên
nhiên Hạ Long, Vườn quốc gia Bái Tử long sẽ làm nên một dải địa hình ven biển
đầy cảnh sắc và có sức hấp đẫn du lịch đến kỳ lạ.
Ý tưởng về một tua du lịch tổng hợp dọc sông Hồng đã hình thành từ những
danh thắng cảnh quan, văn hoá, lịch sử dọc sông Hồng, con sông đầy ắp những sự
kiện lịch sử từ vùng Lào Cai biên giới qua những vùng đất trung du nơi khai sinh
của một nền văn minh lúa nước từ thời các vua Hùng dựng nước, xuôi dòng tới
vùng châu thổ mà mỗi làng, mỗi xã đều có đình làng, miếu mạo, nhà thờ họ tộc
đặc biệt là những làng nghề nổi tiếng như gốm Bát
Tràng, Vải tơ Nam Định tạo nên một không gian
văn hoá với những lễ hội dân gian mà du khách
không bao giờ hết ngạc nhiên.
2.3. Khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An
Tên chính thức: Khu dự trữ sinh quyển thế
giới Miền Tây Nghệ An, Tỉnh Nghệ An
Tên ngắn gọn: Khu Sinh quyển Tây Nghệ An
Ngày được công nhận : 18/09/2007
Tổng diện tích & Dân số: 1,303,285 ha, dân số: 473,822 người
2.3.1. Tổng quan
Khu DTSQ này bao gồm: Vườn Quốc gia Pù Mát, thác Khe Kèm, suối Nậm
Mọc, sông Giăng, đập Phà Lài, bản Cò Phạt.
Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An là khu dự trữ sinh quyển có diện
tích lớn nhất khu vực Đông Nam Á với tổng diện tích 1.303.285ha, là hành lang
xanh nối kết 3 vùng lõi gồm: Vườn quốc gia Pù Mát, Khu bảo tồn thiên nhiên Pù
Huống và Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt tạo nên sự liên tục về habitas và các
18
sinh cảnh duy trì hiệu quả bảo tồn đa dạng sinh học thông qua việc giảm bớt khó
khăn về chia cắt nơi sống do các hoạt động kinh tế của con người tạo ra.
Khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An có diện tích 1.303.285ha, thuộc địa
bàn 9 huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Thanh Chương, Quỳ Hợp, Quỳ

Châu, Quế Phong, Tân Kỳ, Anh Sơn; trong đó Vườn quốc gia Pù Mát làm trung
tâm đang lưu giữ nhiều nguồngen quý về động, thực vật với đầy đủ đại diện của 4/5
lớp quần hệ (rừng thưa, rừng kín, cây bụi và cây thảo)
Hình 8: Vườn quốc gia Pùmát
2.3.2. Đa dạng sinh học
Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An có tính đa dạng sinh học rất cao đại
diện cho hầu hết các kiểu rừng của rừng mưa nhiệt đới, các sinh cảnh sống rất đa
dạng bao gồm: núi, đất ngập nước, suối và sinh cảnh khác. Đây là khu vực duy nhất
của miền Bắc còn lại một diện tích lớn rừng nguyên sinh đang được bảo vệ tốt, đặc
biệt là khu vực dọc biên giới Việt Lào
*Hệ thực vật:
. Trong khu vực có 1.297 loài thực vật đã được điều tra và ghi nhận. Một báo
cáo gần đầy nhất thì khu vực này có khoảng 2.500 loài, trong đó có khoảng 2.000
loài thực vật bậc cao (74%)
Vườn quốc gia Pù Mát có hệ thực vật rất đa dạng: 1513 loài thực vật bậc cao
thuộc 159 họ 545 chi, 220 loài cây thuốc quý: hà thủ ô, thổ phục linh, quế, hoài sơn,
… các loài cây lấy gỗ, và cây ăn quả các loại.
* Hệ động vật
Động vật ở đây cũng khá phong phú, bao gồm: Hệ động vật hiện có 130 loài
thú lớn, nhỏ, 295 loài chim, 54 loài lưỡng cư và bò sát, 84 loài cá, 39 loài dơi, 305
loài bướm ngày, 14 loài rùa, hàng ngàn loài côn trùng khác.
19
Đặc biệt, vườn Quốc gia Pù Mát là nơi có đàn voi lớn nhất Việt Nam cùng
các loài chim quý như: trĩ sao, gà lôi, gà tiêu…

Hình 10: Hệ động vật của khu dự trữ sinh quyển
Khu DTSQ này có rất nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển loại hình du
lịch sinh thái, du lịch khám phá thăm và tìm hiểu phong tục tập quán của các bản
dân tộc.
Đặc biệt, khu DTSQ có đặc trưng văn hóa-nhân văn nổi bật của cộng đồng

người Thái, với những giá trị bản địa sâu sắc và không thể bỏ qua giá trị cội nguồn
của tộc người Ơ Đu có dân số ít nhất trong cộng đồng dân cư Việt Nam.
2.4. Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Các Bà
Tên chính thức: Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà, TP Hải Phòng
Tên ngắn gọn: Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà
Ngày được UNESCO công nhận : 02/12/2004
2.4.1. Tổng quan
Quần đảo Cát Bà là quần thể gồm 367 đảo trong đó có đảo Cát Bà ở phía
Nam vịnh Hạ Long, ngoài khơi thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, cách
trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 30 km, cách thành phố Hạ Long khoảng 25
km. Về mặt hành chính, quần đảo thuộc huyện đảo Cát Hải, thành phố Hải Phòng.
Quần đảo có tọa độ 106°52′- 107°07′Đông, 20°42′- 20°54′độ vĩ Bắc. Diện
tích khoảng gần 300 km². Dân số 8.400 người (năm 1996). Các đảo nhỏ khác: hòn
Cát Ông, hòn Cát Đuối, hòn Mây, hòn Quai Xanh, hòn Tai Kéo, Cát Bà, còn gọi
là đảo Ngọc, là hòn đảo lớn nhất trên tổng số 1.969 đảo trên vịnh Hạ Long.Theo
truyền thuyết địa phương thì tên Cát Bà còn được đọc tên Các Bà. Vì có một thời
20
các bà, các chị ở đây đứng ra lo việc hậu cần cho các ông đánh giặc trên một hòn
đảo lân cận. Đảo có tên là đảo các Ông. Như vậy, Cát Bà là đọc chệch của các Bà.
Hình 11: Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà
2.4.2. Đa dạng sinh học
Theo các kết quả nghiên cứu, cho đến nay riêng khu vực Cát Bà đã thống kê
được 2320 loài động vật và thực vật đang sinh sống, gồm:
Thực vật trên cạn 741 loài
Động vật sống trong khu vực rừng 282 loài
Thực vật ngập mặn 23 loài
Rong biển 75 loài
Thực vật phù du 199 loài
Động vật phù du 89 loài
Động vật đáy 538 loài

Cá biển 196 loài
San hô 177 loài

*Hệ thực vật:
Cát Bà có 620 loài thực vật bậc cao phân bố thuộc 438 chi của 123 họ. Đây
là loại rừng mưa nhiệt đới thưòng xanh trên núi đá vôi hợp thành từ nhiều kiểu phụ
như rừng trên đỉnh và sườn núi đá vôi, rừng kim giao, rừng ngập nước trên núi (ao
ếch) và rừng ngập mặn. Rừng ngập mặn nằm ở phía Tây Bắc đảo, các loài chủ yêu
bao gồm đước, trang, ô rô, ráng, sú đặc trưng của vùng bờ biển Đông Bắc bộ.
Dưới biển là các hệ sinh thái san hô, cỏ biển, tảo phù du, tảo đáy Đây là môi
trường lý tưởng cho các loài thuỷ hải sản. Có giả thuyết cho rằng bò biển (Dugong
dugon) đã từng sống ở đây cùng với cá heo và một số loài động vật khác.
21
Rừng ở đây được phân chia thành nhiều loại khác nhau như: rừng trên đỉnh
và sườn núi đá vôi, rừng kim giao, rừng ngập nước trên núi và rừng ngập mặn.
*Hệ động vật:
Quần đảo Cát Bà còn có tới 32 loài thú, 69 loài chim và 20 loài bò sát, lưỡng
cư. Nhiều loài quý hiếm như: voọc đầu trắng, sơn dương, rái cá, báo, mèo rừng, cầy
hương, sóc đen,… Đặc biệt voọc đầu trắng (Trachypithecus francoisi
polyocephalus) là loài đặc hữu ở Cát Bà, nên nó được mang tên Voọc Cát Bà.
Nhiều loài chim quý cũng cư trú hoặc di cư đến đây như sâm cầm, khướu, chim cu
xanh, cu gáy,…
Hình 12: Vooc đầu vàng
Gần 60 loài đã được coi là các loài đặc hữu và quý hiếm đã được đưa
vào Sách đỏ Việt Nam như các loài động vật: ác là, quạ khoang, voọc đầu
vàng, voọc quần đùi trắng và các loài thực vật như chò đãi, kim giao (Podocarpus
fleurii), lá khôi (Ardisia spp.), lát hoa (Chukrasia tubularis),dẻ hương, thổ phục
linh, trúc đũa, sến mật. Ngoài ra còn 8 loài rong, 7 loài động vật đáy cũng cần được
bảo vệ.
Các loài thú quy hiếm đã được đưa vào Sách đỏ

Những loài động vật trên cạn: Khoảng 30 loài
Bậc E:
22
Là những loài đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt gồm ĐồI mồI (Eretmochelys
imbricata), Quản đồng (Carreta olivacea), Rùa da (Dermochelys coreacea), Ác là
(Pica pica sericea), Qụa khoang (Corcus torquatus), Voọc đầu trắng (Presbytis
francoisis delacauri).
Bậc V:
Những loài có nguye cơ bị tổn thất gồm 13 loài: Kỳ đà nước (Varanus
salvator), Trăn đất (Python molurus), Răn hổ chúa (Ophiophaus hannab), Đẻn vẩy
bụng không đều (Thaláophina viperina), Vích (Chelonia mydas), Khỉ mặt đỏ
(Macaca aretoides), Khỉ đuôi lợn (Macaca nemestrina), Sơn dương (Capricornis
sumatraesis), Hươu sao (Cervus nippon), Hoẵng (Muntiaccus muntijak), Tê tê vàng
(Manis pentadactyla), Sóc bụng đỏ (Calloscirus erythraeus castancoventris).
Bậc R:
Loài có vùng phân bố hẹp số lượng ít gồm 4 loài: Cốc đế (Phalacrocorax
carbosinensis), Cò thìa (Platalea monor), Yến núi (Callocalia brevirostris
innominata), Mòng biển đen (Larus saudersi).
Bậc T:
Loài tương đối an toàn gồm 7 loài: Tắc kè (Gecko gecko), Rắn ráo thường
(Ptyas korros), Rắn ráo nâu (Ptyas mucosus), Rắn cạp nong (Bugarus fasciatus),
Rắn hổ mang (Naja naja), Le khoang cổ (Nettapus coronmandelianus), Rái cá
thường
Các hoạt động nhằm bảo vệ và nhân nhanh đàn giống Voọc đầu trắng sang
các khu vực khác đã được IUCN tài trợ.
Các loài thực vật trên cạn gồm 27 loài, điển hình là Chi đài (Annamocarya
sinensis), Kim giao (Najeia fleuryi), Lát khối (Ardisia), Lát hoa (Chukrasia
tubularis), Re hương (Cinnamonum pathoroxylon), Thổ phục linh (Smilax glabra),
Trúc đũa (Sava japonica), Sến mật (Madluca pasquiern).v.v
Các loài rong biển:

8 loài rong được đưa vào Sách đỏ để bảo vệ: Rong đai bò (Codium repeus),
Rong ruột nho (Caulerpa racemrosa), Rong đá cong (Gelidella acerosa), Rong mơ
mềm (Sargassum tenerrimum), Rong chủn dẹp (Gratelonpia livida), Rong thun thút
23
(Catenela nipae), Rong nhút (Dermonema pulvinata), Rong thuốc giun (Caloglossa
leprienrri).
Các loài động vật đáy:
7 loài bao gồm Ốc đụn đực (Trochus pyramis), Ốc đụn cái (Trochus
niloticus), Trai ngọc (Pinctada margannitofera), Bàn mai (Pinna atropurpurea),
Con sút (Anomalodiscus squamosa), Vẹm xanh (Mytillus smaragdinus), Mực nang
vân hổ (Stepia tigris).
2.4.3. Các vùng trong khu dữ trữ sinh quyển
a) Vùng lõi
Là vùng không có tác động của con ngườI, trừ các hoạt động nghiên cứu và
giám sát, có thể duy trì một số hoạt động truyền thống của người dân địa phương
cho phù hợp.
Khu dự trữ sinh quyển thế giới Quần đảo Cát Bà có hai vùng lõi; Vùng lõi
phía Đông Nam có diện tích 6.900 ha, trong đó có 5.300 ha thuộc phần đảom 1.600
ha phần biển và vùng lõi phía Tây Bắc có diện tích 1.600, trong đó 1.200 ha thuộc
phần đảo, 400 ha phần biển,
b) Vùng đệm
Khu dự trữ sinh quyển Quần đảo Cát Bà có hai vùng đệm. Vùng đệm trung
tâm nằm giữa vùng lõi Đông Nam (Vùng đệm Việt Hải) có diện tích 141 ha và vùng
đệm tiếp giáp có diện tích 7.600 ha, trong đó có 4.800 ha phần đảov à 2.800 ha phần
biển. Đây là vùng có chức năng phát triển điều hoà, tôn trọng hiện trạng, phù hợp
với tiêu chí bảo tồn của vùng lõi, vì vậy phải bảo đảm sự phát triển hạn định trong
vùng này.
c) Vùng chuyển tiếp
Là vùng ngoài cùng, các hoạt động kinh tế ở đây vẫn duy trì bình thưonừg,
trong đó nhân dân địa phưonưg cùng với các nhà khoa học, bảo tồn, công ty tư

nhân, các tổ chức xã hội thoả thuận để cùng quản lý và phát triển bền vững nguồn
lợi tài nguyên thiên nhiên mà khu dự trữ sinh quyển đem lại.
Khu dự trữ sinh quyển thế giới Quần đảo Cát Bà có hai vùng chuyển tiếp.
Vùng chuyển tiếp phía Bắc (xã Gia Luận) có diện tích 1.300 ha, trong đó có 1.000
ha phần đảo và 300 ha phần biển và vùng chuyển tiếp phía Nam có 8.700 ha trong
24
đó có 4.500 ha phần đảo và 4.200 ha phần biển. Vùng chuyển tiếp này tập trung
đông dân cư nên chú trọng khuyến khích phát triển cộng đồng, vùng nông thôn :
Nuôi trồng thuỷ sản, dịch vụ du lịc, đào tạo lao động có tay nghề kỹ thuật cao để
phát triển nghề cá khơi và du lịch, dịch vụ.
2.4.4. Phát triển các loại hình du lịch
Cát Bà được thiên nhiên ưu đãi với nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, hùng vĩ,
tài nguyên thiên nhiên rừng và biển rất phong phú. Những cánh rừng xanh nhiệt đới
nằm giữa một vùng trời nước với hàng trăm đảo lớn, nhỏ làm nên vẻ đẹp của khu
dự trữ sinh quyển. Từ trung tâmVườn Quốc gia du khách có thể lựa chọn một trong
5 tuyến du lịch để khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên. những cánh rừng với các cây
cổ thụ nghìn năm tuổi, nhiều tầng, tán.
Biển Cát Bà có nhiều loài nổi tiếng như Sò huyết, Tu hài, Ngao, Cá Mực, Tôm
Hùm, Cua biển, Cá song, Cá chim v.v Các rạn san hô vùng biển Đông-Nam đảo Cát
Bà kéo dài đến Hang Trai- đầu Bê rất có giá trị cho bảo tồn và du lịch sinh thái.
Cơ sở hạ tầng tại Vườn quốc đã được nâng cấp. Du khách có thể nghỉ lại
trong Vườn hoặc ngoài Thị trấn với đầy đủ khách sạn, nhà nghỉ. Từ Hải Phòng bạn
có thể đến đảo Cát Bà bằng tầu cao tốc. hay đi ô tô.
Các hoạt động du lịch tại khu dự trữ sinh quyển Cát Bà.
- Nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, hoạt động thể thao dã ngoại ở các khu đệm.
25

×