ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
LÊ THỊ SƯƠNG
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC TINH DẦU
CÂY HƯƠNG NHU TÍA (
Ocimum tenuiflorum
L.)
Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH HỌC: HĨA HỌC
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN:
ThS. ĐẶNG THỊ THANH NHÀN
Huế, Khóa học 2010 - 2014
Khóa luận tốt nghiệp Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
Bài khóa luận này được hoàn thành
dưới sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của
ThS. Đặng Thị Thanh Nhàn. Tôi xin phép
được gửi đến Cô lời cảm ơn chân thành và
lòng biết ơn sâu sắc.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn quý
thầy cô giáo khoa Hóa, trường ĐHSP Huế,
NGƯT Đỗ Xuân Cẩm - nguyên GV trường
ĐH Nông lâm Huế đã tạo mọi điều kiện để
tôi hoàn thành công việc học tập, nghiên
cứu của mình. Cuối cùng, tôi xin chân
thành cảm ơn những người thân, bạn bè đã
quan tâm, giúp đỡ và động viên tôi trong
suốt thời gian học tập vừa qua.
Vì điều kiện khách quan, chủ quan với
những khó khăn nhất định, chắc chắn khóa
luận không tránh khỏi những thiếu sót, hạn
chế. Tôi mong nhận được sự góp ý của quý
thầy cô giáo và những người quan tâm.
Xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Sương
SVTH: Lê Thị Sương
Lời Cảm Ơn
Khóa luận tốt nghiệp Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
• Bảng biểu
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Hình
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 5 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sử dụng thực vật phục vụ cho cuộc sống chính là nội dung quan trọng
bậc nhất trong văn hóa ứng xử của người dân Việt Nam đối với môi trường tự
nhiên [19]. Từ thời xa xưa, thực vật cung cấp thức ăn, chất đốt và dược liệu.
Đến nay, chúng tiếp tục là nguồn dược liệu phong phú, cung cấp nhiều thảo
dược chữa bệnh cho con người. Ở Việt Nam đã phát hiện được 1863 loài thảo
dược của 238 họ thực vật [15], đó chính là một nguồn tài nguyên to lớn và có
giá trị thực tiễn cao.
Các phương thuốc từ thảo dược là cách điều trị chính trong y học cổ truyền,
chúng được sử dụng hàng nghìn năm nay và có nhiều đóng góp to lớn trong việc
bảo vệ sức khỏe con người [40]. Khoảng 80% dân số thế giới, phần lớn ở các
nước đang phát triển vẫn dựa vào các loại phương thuốc này để đáp ứng nhu cầu
chăm sóc sức khỏe của họ [33]. Theo một cuộc điều tra của tổ chức Y tế thế giới
(WHO), các bác sĩ y học cổ truyền đã điều trị khoảng 80% bệnh nhân ở Ấn Độ,
85% ở Miến Điện và 90% ở Băng-la-đét [46].
Với những lợi ích như vậy, ngay từ thế kỉ XVI, con người đã tiến hành
việc chưng cất tinh dầu, một hỗn hợp các chất có giá trị ứng dụng rất cao, từ
các loại cây và thảo dược thiên nhiên [5]. Việc xác định thành phần hóa học
của các cây này từ tinh dầu của chúng có ý nghĩa rất to lớn, góp phần cung
cấp những hợp chất có giá trị cho công nghiệp hoá dược, công nghiệp thực
phẩm, hương liệu, mỹ phẩm…[42]
Hương nhu tía (hay còn gọi là é tía) là loại thảo mộc phổ biến được dùng
trong chữa bệnh và nghiên cứu [48]. Theo kinh nghiệm dân gian, cây có vị
cay, ấm được dùng để trị hôi miệng, hạ sốt, chữa cảm nhất là cảm nắng, nhức
đầu, đau bụng, nôn mửa, phù thũng…[53]. Ngoài ra, nó còn là gia vị không
thể thiếu trong các món ăn.
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 6 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
Trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu về loài hương nhu tía
(Ocimum tenuiflorum L.) [23], [24], [29], [34], [38], [41], [45], [47] nhưng ở
Việt Nam và đặc biệt ở tỉnh Thừa Thiên Huế, việc nghiên cứu này chưa được
phổ biến và có hệ thống.
Từ những thực tiễn đó, chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu thành phần
hóa học tinh dầu cây hương nhu tía (Ocimum tenuiflorum L.) ở tỉnh Thừa
Thiên Huế” với mục tiêu xác định thành phần hóa học, các chỉ số hóa học và
chỉ số vật lí tinh dầu cây hương nhu tía. Những kết quả thu được của đề tài sẽ
góp phần làm cơ sở khoa học cho việc gây trồng, khai thác và sử dụng có hiệu
quả cây hương nhu tía ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Tinh dầu lá và thân cây hương nhu tía (Ocimum tenuiflorum L.) ở tỉnh
Thừa Thiên Huế.
2. Mục đích nghiên cứu
- Xác định thành phần hóa học, các chỉ số vật lý và chỉ số hóa học của
tinh dầu lá hương nhu tía ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Xác định thành phần hóa học của tinh dầu thân hương nhu tía ở tỉnh
Thừa Thiên Huế.
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu đặc điểm hình thái thực vật, thành phần hóa học và ứng dụng
của họ Hoa môi (Lamiaceae), một số loài thuộc chi Húng (Ocimum).
- Tìm hiểu về tinh dầu, tính chất, phương pháp tách chiết và ứng dụng,
bảo quản tinh dầu.
- Xác định tên khoa học loài hương nhu tía đang nghiên cứu ở tỉnh Thừa
Thiên Huế.
- Tách và xác định hàm lượng tinh dầu của lá và thân cây hương nhu tía
ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 7 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
- Xác định thành phần hóa học, các chỉ số vật lý, chỉ số hóa học của tinh
dầu lá hương nhu tía.
- Xác định thành phần hóa học của thân cây hương nhu tía ở tỉnh Thừa
Thiên Huế.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu lí thuyết
- Phương pháp nghiên cứu các hợp chất tự nhiên.
- Tổng quan tài liệu về đặc điểm thực vật, phân bố, ứng dụng của họ Hoa
môi (Lamiaceae), chi Húng (Ocimum), một số loài trong chi Ocimum.
- Tổng quan tài liệu thành phần hóa học, ứng dụng của một số nghiên cứu đã
có về cây hương nhu tía (Ocimum tenuiflorum L.) ở trong nước và trên thế giới.
2. Nghiên cứu thực nghiệm
- Phương pháp tách tinh dầu: Chưng cất lôi cuốn hơi nước.
- Phương pháp xác định thành phần hóa học của tinh dầu: Phương pháp
sắc kí khí - khối phổ liên hợp (GC/MS).
- Phương pháp xác định các hằng số vật lý: Xác định chỉ số khúc xạ, tỉ
trọng của tinh dầu.
- Phương pháp xác định các chỉ số hóa học: Xác định chỉ số axit, chỉ số
este, chỉ số xà phòng hóa của tinh dầu.
V. BỐ CỤC KHÓA LUẬN
Khóa luận gồm 50 trang, trong đó có 11 hình và 10 bảng biểu.
Phần mở đầu: 3 trang.
Phần nội dung: 40 trang, chia làm 3 chương.
Chương 1. Tổng quan tài liệu, 16 trang.
Chương 2. Thực nghiệm, 10 trang.
Chương 3. Kết quả và thảo luận, 14 trang.
Kết luận và kiến nghị: 2 trang.
Tài liệu tham khảo: 5 trang.
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 8 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái quát về tinh dầu
1.1.1. Khái niệm
Tinh dầu là một loại chất lỏng được tinh chế từ lá cây, thân cây, hoa, vỏ
cây, rễ cây, hoặc những thành phần khác của thực vật [51].
Tinh dầu được phân bố rộng rãi trong hệ thực vật, đặc biệt tập trung ở
một số họ như họ Hoa Tán, họ Cúc, họ Hoa môi, họ Gừng, họ Long não, họ
Sim, họ Cam,… Một số động vật cũng có chứa tinh dầu như hươu xạ, cà
cuống,…[14]
Tinh dầu có trong tất cả các bộ phận của cây như lá (bạc hà, tràm, bạch
đàn,…); hoa (hoa hồng, nhài, bưởi,…); nụ hoa (đinh hương,…); quả (sa nhân,
thảo quả, hồi,…); vỏ quả (cam, chanh,…); vỏ thân (quế,…); gỗ (long não, vù
hương,…); rễ (thiên niên kiện, thạch xương bồ,…); thân rễ (gừng, nghệ,…) [14].
Các loại cây có tinh dầu được phân bố rộng trong thiên nhiên. Hàm
lượng tinh dầu cũng phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên: khí hậu, thổ nhưỡng…
Cây mọc ở vùng nhiệt đới thường có hàm lượng tinh dầu nhiều hơn ở vùng ôn
đới. Ngay trong một cây, thành phần và lượng tinh dầu các bộ phận khác nhau
cũng khác nhau. Ngoài ra lượng tinh dầu còn phụ thuộc vào các điều kiện
như: phương pháp bảo quản, chăm sóc, thu hoạch, cách tách chiết…[21]
1.1.2. Tính chất của tinh dầu [14], [16]
- Hàm lượng: Hàm lượng tinh dầu thường dao động từ 0,1-2%. Ngoài ra
một số cây có hàm lượng tinh dầu lớn hơn như quả hồi (5-15%) và đinh
hương (15-25%),…
- Về trạng thái: Ở điều kiện thường đa số tinh dầu tồn tại ở dạng lỏng,
một số thành phần trong tinh dầu ở thể rắn như: menthol, borneol, camphor,
vanillin, heliotrophin,…
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 9 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
- Về màu sắc: Tinh dầu thường không màu hoặc có màu vàng nhạt. Do
hiện tượng oxi hóa, tinh dầu có thể chuyển sang màu sẫm hơn. Một số hợp
chất trong tinh dầu có màu đặc trưng như azulen có màu xanh mực.
- Về mùi vị: Đa số tinh dầu có mùi thơm dễ chịu, một số có mùi hắc khó
chịu (tinh dầu giun, tinh dầu hẹ…). Tinh dầu có vị cay, một số có vị ngọt (tinh
dầu quế, hồi).
- Về khả năng bay hơi: Tinh dầu dễ bay hơi ở nhiệt độ thường.
- Về tỉ trọng: Tinh dầu thường có tỉ trọng nhỏ hơn 1, một số lớn hơn 1
như tinh dầu quế, đinh hương, hương nhu.
- Về tính tan trong nước: Tinh dầu tan rất ít trong nước, tan nhiều trong
ancol và các dung môi hữu cơ khác.
- Về chỉ số khúc xạ: Chỉ số khúc xạ của tinh dầu thường khoảng từ
1,45-1,56.
1.1.3. Bảo quản tinh dầu [3], [8], [9]
Tinh dầu dễ bị oxi hóa hoặc các este có trong tinh dầu dễ bị hơi nước
thủy phân hoặc các gốc trong tinh dầu sẽ kết hợp với nhau làm giảm chất
lượng tinh dầu. Những hiện tượng này thường xảy ra ở nhiệt độ cao, có nhiều
không khí, hơi nước, ánh sáng. Do đó, để bảo quản tinh dầu người ta thường:
- Loại hết nước có trong tinh dầu.
- Bảo quản ở nơi thoáng mát, tránh tiếp xúc với ánh sáng; đựng trong
các chai lọ, bình có thể tích vừa phải, miệng nhỏ, thủy tinh màu vàng.
- Vì tinh dầu có thể hòa tan cao su nên tuyệt đối không dùng nút cao su
để đậy lọ tinh dầu.
1.1.4. Vai trò của tinh dầu [49], [52], [53]
1.1.4.1. Đối với thực vật
Vấn đề vai trò của tinh dầu trong đời sống của thực vật đã được đề cập
nhiều trong các công trình nghiên cứu. Vai trò đó chủ yếu được qui tụ trong
các nội dung sau đây:
- Bảo vệ cây khỏi các tác động của sâu bệnh
- Che phủ các vết thương ở cây gỗ
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 10 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
- Ngăn chặn các bệnh do nấm
- Biến đổi sức căng bề mặt của nước trong cây, thúc đẩy sự vận chuyển
nước, tăng hiệu quả của các phản ứng enzym.
Charabot cho rằng, tinh dầu đóng vai trò như các chất dự trữ trong cây,
nó có khả năng vận chuyển đến các phần khác nhau của cây, tại đây tinh dầu
được sử dụng như một nguồn năng lượng hay tạo thành các sản phẩm mới có
cấu trúc gần với nó.
Còn theo Coxtrisep (1937), tinh dầu có thể được xếp vào 2 nhóm
chức năng:
- Nhóm các tinh dầu có chức năng sinh lý được cây sử dụng trong quá
trình sinh trưởng.
- Nhóm các tinh dầu không có chức năng sinh lý, không được cây sử
dụng, chúng đơn thuần chỉ là các chất tiết của cơ thể thực vật và được tích lũy
trong các bể chứa tinh dầu.
Như vậy, các thành phần của tinh dầu được tích lũy trong tuyến tiết
không có vai trò sinh lý trong hoạt động sống của cây. Trong khi đó, tinh dầu
thực vật chính là sản phẩm của quá trình tổng hợp và tích lũy do các cơ quan
tiết đảm nhiệm, cụ thể:
- Tinh dầu tham gia vào các quá trình sinh lý hóa bên trong tế bào.
- Tinh dầu thường là một hỗn hợp có thành phần cấu tạo phức tạp,
chúng thường gồm rất nhiều hợp chất ở dạng tự do hoặc liên kết.
- Các thành phần tinh dầu được tích lũy trong tuyến tiết không phải là các
chất tiết cố định mà còn tham gia tích cực vào quá trình trao đổi chất của cây, do
vậy thành phần hóa học của tinh dầu ở trong cây luôn luôn được đổi mới.
1.1.4.2. Đối với con người
Tinh dầu được ứng dụng rộng rãi trong nhiều ngành công nghiệp
khác nhau.
Tinh dầu được dùng làm hương liệu trong thực phẩm: gia vị làm sẵn,
thức ăn nhanh, nước ngọt, đồ hộp, kem lạnh, đồ ngọt tráng miệng, bánh kẹo,
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 11 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
rượu mùi, nước sốt, nước chấm, ; trong mỹ phẩm như trong dầu thơm, kem
dưỡng da, bình xịt khử mùi, kem đánh răng, dầu gội đầu, keo xịt tóc, son,
phấn,…; tạo mùi dễ chịu cho nước lau sàn nhà, bột giặt, xà phòng, nước rửa
chén, nước xả quần áo,…
Trong y học, tinh dầu dùng để át mùi thuốc, sát trùng, chất dẫn dụ đặt
trong các bẫy, bình xịt xua đuổi côn trùng,…
Ngoài ra tinh dầu còn là nguyên liệu để tách, chuyển hóa hoặc tổng hợp
nhiều chất thơm quan trọng được ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp.
1.2. Phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước [3], [9]
1.2.1. Nguyên tắc [3], [9]
Dựa trên nguyên tắc một hỗn hợp hai chất lỏng bay hơi được không
trộn lẫn vào nhau (nước và tinh dầu). Khi áp suất hơi bão hòa bằng áp suất khí
quyển, hỗn hợp bắt đầu sôi và hơi nước kéo theo tinh dầu.
Áp suất hơi bão hòa của hỗn hợp chất lỏng tan vào nhau được xác định
bằng tổng áp suất hơi của các cấu tử riêng theo định luật Rault: P = P
A
+ P
B
nên áp suất hơi của hỗn hợp lớn hơn áp suất hơi từng cấu tử, còn nhiệt độ sôi
lại nhỏ hơn nhiệt độ sôi của từng cấu tử.
Chưng cất lôi cuốn hơi nước là phương pháp dùng để tách biệt hỗn hợp
chất, trong đó có một chất dễ bay hơi với nước, có thể chưng cất dưới áp suất
thường hay trong chân không.
Phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước được ứng dụng nhiều trong
việc tách chiết tinh dầu. Nguyên liệu được cho vào bình cầu cùng với nước,
sau đó lắp ống nhánh, ống sinh hàn hồi lưu nước và đun trên bếp điện, khi hỗn
hợp sôi thì hơi nước bay lên sẽ cuốn theo tinh dầu ngưng tụ ở nhánh hứng.
1.2.2. Yêu cầu [3], [9]
- Kích cỡ nguyên liệu cho vào bình chưng cất có kích thước phù hợp
với bản chất nguyên liệu.
- Thời gian chưng cất tùy theo bản chất nguyên liệu và tinh dầu.
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 12 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng [6], [50]
* Sự khuếch tán
Ngay khi nguyên liệu được làm vỡ vụn thì chỉ có một số mô chứa tinh
dầu bị vỡ và cho tinh dầu thoát tự do ra ngoài theo hơi nước lôi cuốn đi. Phần
lớn tinh dầu còn lại trong các mô thực vật sẽ tiến dần ra ngoài bề mặt nguyên
liệu bằng sự hòa tan và thẩm thấu. Von Rechenberg đã mô tả quá trình chưng
cất hơi nước như sau: “Ở nhiệt độ nước sôi, một phần tinh dầu hòa tan vào
trong nước có sẵn trong tế bào thực vật. Dung dịch này sẽ thẩm thấu dần ra bề
mặt nguyên liệu và bị hơi nước cuốn đi. Còn nước đi vào nguyên liệu theo
chiều ngược lại và tinh dầu lại tiếp tục bị hòa tan vào lượng nước này. Quy
trình này lặp đi lặp lại cho đến khi tinh dầu trong các mô thoát ra ngoài hết.
Như vậy, sự hiện diện của nước rất cần thiết, cho nên trong trường hợp
chưng cất sử dụng hơi nước quá nhiệt, chú ý tránh đừng để nguyên liệu bị
khô. Nhưng nếu lượng nước sử dụng thừa quá thì cũng không có lợi, nhất là
trong trường hợp tinh dầu có chứa những cấu phần tan dễ trong nước.
Ngoài ra, cần làm cho lớp nguyên liệu có một độ xốp nhất định để hơi
nước có thể đi xuyên ngang lớp này đồng đều và dễ dàng.
Vì các cấu phần trong tinh dầu được chưng cất hơi nước theo nguyên
tắc nói trên cho nên thông thường những hợp chất nào dễ hòa tan trong nước
sẽ được lôi cuốn dễ dàng hơn.
* Sự thủy giải
Những cấu phần este trong tinh dầu thường dễ bị thủy giải cho ra axit
và ancol khi đun nóng trong một thời gian dài với nước. Do đó, để hạn chế
hiện tượng này, sự chưng cất hơi nước phải được thực hiện trong một thời
gian càng ngắn càng tốt.
* Nhiệt độ
Nhiệt độ cao làm phân hủy tinh dầu. Do đó, khi cần thiết phải dùng hơi
nước quá nhiệt (trên 100
o
C) nên thực hiện việc này trong giai đoạn cuối cùng
của sự chưng cất, sau khi các cấu phần dễ bay hơi đã lôi cuốn đi hết. Thực ra,
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 13 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
hầu hết các tinh dầu đều kém bền dưới tác dụng của nhiệt nên vấn đề là làm
sao cho thời gian chịu nhiệt độ cao của tinh dầu càng ngắn càng tốt.
Tóm lại, dù ba ảnh hưởng trên được xem xét độc lập nhưng thực tế thì
chúng có liên quan với nhau. Khi tăng nhiệt độ, sự khuếch tán thẩm thấu sẽ
tăng, sự hòa tan tinh dầu trong nước sẽ tăng nhưng sự phân hủy cũng tăng theo.
1.2.4. Ưu điểm và nhược điểm [3], [9]
* Ưu điểm
- Đơn giản, tiết kiệm, có thể áp dụng được trong công nghiệp.
- Có khả năng tách tinh dầu tốt.
- Có thể tách các cấu tử trong tinh dầu thành từng phần riêng biệt tinh
khiết hơn dựa vào tính chất bay hơi của chúng.
- Thiết bị gọn nhẹ, thời gian tương đối nhanh, không đòi hỏi vật liệu
phụ như phương pháp tẩm trích, hấp phụ.
* Nhược điểm
- Không áp dụng được với những loại tinh dầu dễ bị phân hủy bởi nhiệt
khi đun nóng.
- Không lấy được các loại nhựa và sáp có trong nguyên liệu (đó là
những chất định hương thiên nhiên rất có giá trị).
- Tiêu tốn một lượng nước khá lớn để làm ngưng tụ hỗn hợp hơi.
1.3. Khái quát về họ Hoa môi
1.3.1. Sơ lược về họ Hoa môi
Họ Hoa môi, tên khoa học là Lamiaceae hay Labiatae, còn được gọi
bằng nhiều tên khác nhau như họ Húng, họ Bạc hà… Đây là họ lớn nhất thuộc
bộ Hoa môi (Lamiales) với khoảng 200 chi, gần 3500 loài, phân bố rộng khắp
các vùng trên trái đất, nhưng phổ biến nhất là ở vùng Địa Trung Hải và Trung
Á [41]. Ở Việt Nam, theo Hoàng Thị Sản [18], họ Hoa môi gồm 40 chi và 145
loài, theo Trần Đình Lý [13] thì có khoảng 40 chi và 150 loài, còn theo Vũ
Xuân Phương [17] thì Việt nam hiện có 143 loài và 40 chi.
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 14 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
1.3.2. Đặc điểm thực vật họ Hoa môi
Tên gọi nguyên gốc của họ Hoa môi là Labiatae, do hoa của chúng
thông thường có các cánh hoa hợp thành môi trên và môi dưới. Nhưng hiện
nay, người ta hay dùng chúng dưới tên gọi là Lamiaceae. Hoa môi là một họ
thực vật có hoa; hầu hết là cây thân cỏ, có khi cây nửa bụi, cây bụi hoặc cây
gỗ, hiếm gặp hơn là các dạng dây leo [4].
Thân cây thường 4 cạnh; lá mọc đối hay mọc vòng, đơn; không có lá
kèm; hoa lưỡng tính, đối xứng hai bên, ở nách hay mọc vòng; đài tồn tại gồm
5 lá đài hợp nhiều kiểu khác nhau, thường tạo thành 2 môi hay ít khi 1 môi;
nhị trên ống tràng, 4 hay 2; bao phấn 1-2 ô; các ô thường choãi ra, nẻ dọc, bầu
thượng gồm 2 lá noãn có thùy sâu, vòi (đính gốc) mọc lên từ gốc trong của
các thùy; núm nhụy phần nhiều chẻ đôi; noãn 4 trong mỗi bầu, mọc đứng; quả
gồm 4 hạch con giống như quả bế, rời hay dính thành đôi; hạt có 1 phôi
thường thẳng, không có nội nhũ, hay nội nhũ rất ít [4].
Các loài thực vật trong họ Hoa môi nói chung có hương thơm trong mọi
bộ phận của cây. Đây là một trong những họ có tầm quan trọng lớn, nhiều loài
cho các loại tinh dầu khác nhau, hạt của một vài loài chứa dầu béo rất quý.
Một số loài được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực như húng quế, bạc hà, hương
thảo, xô thơm, hương nhu tía, tía tô, hương nhu,…[51]
1.4. Khái quát về chi Ocimum
1.4.1. Sơ lược về chi Ocimum [1]
Những cây trong chi này thường là cây cỏ hay cây bụi nhỏ, sống hàng
năm hay sống nhiều năm. Thân thường vuông, nhẵn hay có lông. Lá mọc đối,
mép nguyên hay xẻ răng cưa, có lông hay nhẵn, thường có các điểm tuyến
tròn trên phiến. Cụm hoa dạng chùy hay hình tháp, gồm các sim bó tạo thành
các vòng giả, mỗi vòng thường có 6 hoa. Lá bắc tồn tại hay sớm rụng. Đài
hình chuông, thường có lông và điểm tuyến ở phía ngoài, 2 môi: môi trên một
thùy lớn ít nhiều men xuống ống; môi dưới 4 thùy, với 2 thùy bên nhọn ngắn,
2 thùy dưới nhọn, dài. Tràng có ống thò khỏi đài, nhẵn hay có lông, 2 môi:
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 15 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
môi trên 4 thùy ngắn; môi dưới một thùy dài và lớn hơn môi trên, hơi cong và
lõm hình thuyền. Nhị 4, hướng xuống môi dưới; chỉ nhị ít nhiều thò khỏi ống
tràng; bao phấn hình trứng hay hình thận, 1 mô. Bầu nhẵn, vòi nhụy xẻ 2 thùy
ở đỉnh. Đĩa mật có thùy trước lớn. Quả hình trứng hay gần hình cầu, nhẵn,
nằm trong đài đồng trưởng.
Chi Ocimum có khoảng 150 loài, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới
châu Phi và Nam Mỹ. Ở Việt Nam có 4 loài: cây é Châu Mỹ (Ocimum
americanum L.), cây húng quế (Ocimum basilicum L.), cây hương nhu tía
(Ocimum tenuiflorum L.), cây hương nhu trắng (Ocimum grasstinum L.).
1.4.2. Một số loài thuộc chi Ocimum
1.4.2.1. Cây é Châu Mỹ
Giới thiệu [1], [51]
Tên khoa học: Ocimum americanum L.
Tên khác: é hoang
Đặc điểm thực vật [1]
Hình 1.1. Cây é Châu Mỹ
Cây thảo đứng, cao 20-60cm. Lá mọc đối, phiến hình trứng, ngọn giáo,
dài 1-1,7cm; rộng 0,5-1cm, đầu nhọn, gốc tù hay hình nêm, máp xẻ răng cưa,
nông hay lượn sóng; mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông tơ rải rác và có điểm
tuyến, gân bên 4-5 đôi, cuống lá dài 8-15mm, có lông.
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 16 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
Cụm hoa dạng chùm ở ngọn, dài 8-20cm, gồm nhiều vòng, mỗi vòng 6
hoa. Hoa nhỏ, có cuống ngắn, đài hình chuông, có 10 gân, 2 môi; môi trên 1 thùy
lớn, môi dưới 4 thùy, tràng màu trắng, ống tràng có lông ở phía ngoài, 2 môi, môi
trên 4 thùy, môi dưới thuôn hơi lõm hình thuyền; nhị 4, thò khỏi ống tràng. Gốc
của đôi nhị trên có u lồi, bầu nhẵn, vòi xẻ đôi. Quả hình trứng màu đen.
Cây ưa sáng và ẩm thích hợp với đất phù sa. Ra hoa tháng 6-8.
Phân bố [1]
Loài của các nước châu Mỹ, châu Phi và châu Á. Phân bố ở Ấn Độ,
Myanmar, Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Indonesia. Ở nước ta, cây có ở
Hà Nội và vùng Cam Ranh, Khánh Hòa.
Thành phần hóa học
Năm 2004, E. Shadia và các cộng sự tiến hành xác định thành phần hóa
học của tinh dầu cây é Châu Mỹ (Ocimum americanum L. var pilosum
(Willd) A. J. Paston) ở Ai Cập [44]. Bằng kỹ thuật phân tích hiện đại sắc ký
khí lỏng GLC, thu được thành phần chính trong tinh dầu là eugenol (28,46%),
metyl chavicol (17,34%), tecpineol (15%). Ngoài ra còn có các thành phần
khác như các secquitecpen (farnensen chiếm 9,2%; -bisabolen chiếm 4,5%),
các monotecpen như limonen chiếm 7,53%…
Cũng trong đề tài trên, người ta tiến hành thu hái ở hai thời điểm vào
tháng 7 và tháng 10. Mỗi thời điểm, người ta thu hái hai lần để so sánh hàm
lượng và sản lượng tinh dầu thu được. Kết quả cho thấy, các thông số tăng
trưởng của lần thu hái đầu tiên cao hơn so với lần thứ hai trong cả hai thời
điểm. Hàm lượng tinh dầu dao động từ 0,175% đến 0,253% trong khi sản
lượng tinh dầu nằm trong khoảng từ 27,8 đến 41,69 lit/fed. Tổng sản lượng
của tinh dầu trong tháng 7 và tháng 10 tương ứng đạt 60 và 76 lit/fed.
Năm 2006, J. C. Matasyol và các cộng sự tiến hành phân tích tinh dầu
lá é Châu Mỹ ở Tây Kenya bằng phương pháp GC/MS [37]. Kết quả nhận
thấy có 36 cấu tử được định danh chiếm 88,51% thành phần hóa học của tinh
dầu. Thành phần chính là tecpinen-4-ol (43,21%), tiếp đến là 1,8-cineol
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 17 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
(16,13%) và -tecpineol (4,01%). Trong đó, có 18 cấu tử là các dẫn xuất chứa
oxi của monotecpen chiếm đến 71,24%, còn các dẫn xuất không chứa oxi
khác chỉ chiếm 5,76%.
Công dụng [1]
Cây cho tinh dầu và lá được dùng để trị các bệnh ngoài da.
1.4.2.2. Cây húng quế
Giới thiệu [1], [51]
Tên khoa học: Ocimum basilicum L.
Tên khác: Húng quế, húng giỗi, húng chó, é quế
Đặc điểm thực vật [1]
Hình 1.2. Cây húng quế
Cây thảo mọc đứng, thân phân nhánh ngay từ gốc, thành từng cụm, cao
20-60cm. Lá mọc đối, phiến lá hình trứng nhọn hay thuôn, dài 2-5cm, rộng 1-
2,5cm, đầu nhọn, gốc hình nêm, mép nguyên hay lượn sóng, cả hai mặt đều
nhẵn; gân bên 4-5 đôi; cuống lá dài 1-2cm.
Cụm hoa dạng chùm đơn ở ngọn, dài 15-20cm, gồm những vòng 5-6
hoa, cách xa nhau. Lá bắc rụng sớm. Hoa có cuống ngắn, đài hình chuông, dài
4-5mm chia 2 môi: môi trên 1 thùy lớn, môi dưới 4 thùy không bằng nhau,
tràng màu trắng hay hồng, có ống dài 6-7mm, phiến chia 2 môi: môi trên 4
thùy, môi dưới 1 thùy; nhị 4, hơi thò ra ngoài, gốc của đôi nhị trên có u lồi;
bầu nhẵn, vòi nhụy xẻ đôi. Quả hình trứng, màu đan nhánh. Cây ưa sáng và
ẩm, ưa đất phù sa và đất thịt.
Ra hoa tháng 7-9, có quả tháng 10-12.
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 18 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
Phân bố [1]
Phân bố ở Ấn Độ, Myanmar, Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia,
Thái Lan, Indonesia, Philipin và các nước châu Phi. Ở nước ta có gặp từ Hà
Giang, Hà Nội, Thừa Thiên Huế, Ninh Thuận, thành phố Hồ Chí Minh và
Long An. Cây cũng được trồng ở nhiều nơi.
Thành phần hóa học
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về húng quế. Năm 1989, Akglvà các
cộng sự nghiên cứu xác định thành phần hóa học chính trong cây húng quế là
linalool chiếm 45,7%, eugenol chiếm 13,4%, metyl eugenol chiếm 9,57% [22].
Năm 1995, Khatri cùng các cộng sự nhận thấy trong tinh dầu húng quế có đến
87,3% metyl chavicol, linalool chỉ chiếm 5,4% và metyl eugenol là 1,5% [31].
Tương tự, năm 2000, theo Keita và các cộng sự thì tinh dầu cây húng quế chứa
đến 69% linalool trong khi eugenol chỉ chiếm 10% [30].
Năm 2002, theo nghiên cứu của Musa can và Jean-Clause Chalchat,
bằng phương pháp GC/MS xác định trong tinh dầu cây húng quế có 49 cấu tử
được định danh trong đó thành phần chính là metyl eugenol (78,02%),
-cubeben (6,17%), nerol (0,83%)…[39]
Một công trình khác đã nghiên cứu khá đầy đủ về thành phần hóa học
của cây húng quế từ tinh dầu và từ dịch chiết trong các dung môi khác nhau.
Năm 2011, N. Dev và các cộng sự tiến hành phân tích GC/MS các mẫu trên
[25]. Kết quả, trong tinh dầu cây húng quế, thành phần chính là eugenol
(61,76%), isopropyl panmitat (11,36%). Trong dịch chiết với n-hexan (H-1),
cấu tử 1,2-đimetoxi-4-(1-propenyl)benzen chiếm 35,82% và pentan-2-on
chiếm 27,06%. Với dung môi etyl axetat (EA-1) là 1,2-đimetoxi-4-(1-
propenyl)benzen chiếm 53,06% và pentan-2-on chiếm 18,06%. Trong dung
môi clorofom (C-1) là 1,2-đimetoxi-4-(1-propenyl)benzen chiếm 29,69%.
Công dụng [1]
Cây cũng được trồng làm rau gia vị. Hạt được dùng để chế biến nước
giải khát. Cành lá làm thuốc trị sổ mũi, đau đầu, đau dạ dày, đầy bụng, viêm
ruột, ỉa chảy, kinh nguyệt không đều, chấn thương bầm giập. Hoa dùng tốt
cho người bại thần kinh, trẻ em ít ngủ, còn giúp tiết sữa ở các bà mẹ thiếu sữa.
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 19 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
1.4.2.3. Cây hương nhu trắng
Giới thiệu
Tên khoa học: Ocimum gratissimum L. [1], [51]
Tên khác: é trắng, é lá lớn [1]
Đặc điểm thực vật [1]
Hình 1.3. Cây hương nhu trắng
Cây thảo, sống nhiều năm, cao 1-2m, thân vuông, hóa gỗ ở gốc, có lông
tơ ở phần non. Lá mọc đối chéo hình chữ thập, phiến hình trứng - mũi giáo,
dài 5-10cm, rộng 2-6cm, đầu nhọn, gốc hình nêm, mép xẻ răng cưa, ở cả hai
mặt đều có lông và điểm tuyến; gân bên 5-7 đôi, cuống lá dài 2-5cm.
Cụm hoa dạng chùy ở ngọn, dài 15-20cm, gồm các vòng cách nhau,
mỗi vòng 6 hoa. Hoa nhỏ có cuống ngắn; đài hình chuông, có lông và điểm
tuyến, phiến 2 môi: môi trên 1 thùy lớn, môi dưới 4 thùy, tràng màu trắng ngà
hay vàng nhạt, có hai môi: môi trên 4 thùy ngắn, môi dưới 1 thùy dài; nhị 4,
gốc đôi, nhị trên có u lồi và có lông, bầu nhẵn, vòi nhụy xẻ đôi. Quả gần hình
cầu, màu nâu đậm.
Cây mọc hoang và được trồng. Cây ưa sống ở những nơi sáng và ẩm,
thường gặp trên các bãi hoang, ven đồi núi, bờ ruộng. Ra hoa tháng 7-10, có
quả tháng 11-12.
Phân bố [1]
Phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan,
Malaysia, Indonesia và một số nước thuộc châu Phi. Ở nước ta cây thường
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 20 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
gặp ở Hà Giang, Sơn La, Lạng Sơn, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội cho đến
thành phố Hồ Chí Minh.
Thành phần hóa học [21]
Năm 2012, Lê Thị Thanh Xuân đã tiến hành xác định thành phần hóa
học tinh dầu hương nhu trắng bằng phương pháp sắc kí khí - khối phổ liên hợp
(GC/MS). Kết quả phân tích thấy trong tinh dầu hương nhu trắng đang nghiên
cứu có 35 cấu tử nhưng chỉ có 31 cấu tử được xác định tên. Thành phần chính
là metyl eugenol (chiếm 31,08%), eugenol (chiếm 28,84%).
Ngoài ra, đề tài nghiên cứu đã tiến hành tách và làm giàu metyl eugenol
bằng phương pháp kết tủa rồi sục CH
3
Br vào. Kết quả đem phân tích tại Viện
Khoa học và Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh, nhận thấy hàm lượng metyl
eugenol tăng đáng kể từ 31,08% lên đến 69,83%.
Công dụng [1], [21]
Cây thường được trồng để chiết eugenol dùng trong nha khoa và tổng
hợp vanilin. Ngoài ra, cây còn được dùng làm thuốc giải cảm, ra mồ hôi; cành
lá dùng cất tinh dầu thơm.
1.4.2.4. Cây hương nhu tía
Giới thiệu
Tên khoa học: Ocimum tenuiflorum L. [1], [51]
Tên đồng nghĩa: Ocimum sanctum L. [1], [51]
Tên khác: é tía, é đỏ, é rừng [1]
Đặc điểm thực vật [1], [4], [48], [51]
Hình 1.4. Cây hương nhu tía
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 21 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
Toàn thân có mùi thơm, cây bụi cao hơn 1m; thân già hơi tròn với khía
rõ, thưa lông; thân non 4 cạnh, có 4 rãnh cạn, màu tím sẫm với nhiều lông tơ
trắng. Lá mọc đối, có phiến xoan dài 1,5-4cm, rộng 1-2cm, đỉnh hơi tù, đáy
gần tròn hoặc hình nêm, mặt dưới màu xanh có lông rất mịn, mặt trên màu
xanh khi non, màu tím sẫm khi trưởng thành, mép có răng cưa thưa; gân bên
ít, chỉ 4-5 cặp nổi rõ ỏ mặt dưới; cuống lá dài 1-2cm. Hoa dạng chùm có phân
nhánh ở ngọn thân, ngọn cành, dài 10-20cm, mang nhiều vòng hoa, mỗi vòng
thường có 6 hoa nhỏ cao 2-3mm, rộng 1,5-2mm, mọc hướng về phía đối đất,
cuống hoa ngắn 2-3mm, mọc thẳng; đài 2 môi có lông tơ mịn, môi trên 1 thùy
lớn hình quạt, màu tím, môi dưới 4 thùy, màu xanh; tràng hoa hai môi màu
tím nhạt, môi trên 4 thùy, môi dưới 1 thùy, 4 nhị mọc thò ra khỏi tràng.
Phân bố [1]
Ở Việt Nam cây thường thấy từ Hòa Bình, Bắc Giang, Hà Nội, Ninh
Bình vào Khánh Hòa, Ninh Thuận, thành phố Hồ Chí Minh cho đến An
Giang. Loài này cũng được trồng ở nhiều nơi.
Trên thế giới cây được tìm thấy ở Ấn Độ, Trung Quốc, Lào,
Campuchia, Philippin, Indonesia và các nước châu Phi, châu Úc.
Thành phần hóa học
Thân và lá hương nhu tía chứa nhiều thành phần hóa học đa dạng có
hoạt tính sinh học, như saponin, flavonoit, tritecpenoit và tannin [28].
Năm 2005, Ramesh S. và các cộng sự tiến hành phân tích cây hương
nhu tía ở phía Nam Ấn Độ [41]. Kết quả đo bằng phương pháp GC và
GC/MS, xác định trong tất cả các tinh dầu lá, thân, hoa và toàn cây đều có
thành phần chính là metyl eugenol theo thứ tự phần trăm là 72,5%, 75,3%,
83,7% và 65,2%. Thành phần chính thứ hai -caryophyllen là 5,5%, 6,4%,
2,7%, 12,0%.
Theo nghiên cứu khác ở nhiều quốc gia, thành phần hóa học chính
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 22 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
trong hương nhu tía ở Úc là metyl chavicol (chiếm 87%)[23], ở Băng-la-đét là
eugenol (chiếm 41,7%) và các secquitecpen chiếm 45,9% trong hương nhu tía
lá xanh; eugenol chiếm 77,5% trong hương nhu tía lá tím [38]. Ở Cuba,
eugenol chiếm 34,3%, -elemen 18% và -caryophyllen 23,1% [29]. Ở Đức,
eugenol 24,2%, -bisabolen 10,6%, -bisabolen 15,4% và metyl chavicol 11,6%
[34].
Năm 2011, G. Devendran và các cộng sự đã nghiên cứu thành phần hóa
học lá hương nhu tía ở Ấn Độ từ dịch chiết bằng phương pháp GC/MS. Kết
quả cho thấy thành phần chính trong lá hương nhu tía là eugenol (43,88%),
caryophyllen (26,53%), 1,2,4-trietenylxiclohexan (15,31%)…[24]
Năm 2014, bằng phương pháp GC/MS, Vivek Sharma và các cộng sự
tiến hành xác định thành phần hóa học của hai loại hương nhu tía (Ocimum
sanctum L.) ở Bắc Ấn Độ là Ocimum sanctum White (OSW) và Ocimum
sanctum Black (OSB) [45]. Kết quả chỉ ra rằng, trong tinh dầu OSW có đến
26 cấu tử được xác định tên chiếm 97,75%, còn trong OSB chỉ có 19 cấu tử
được xác định tên chiếm 96,17%. Người ta cũng ghi nhận sự có mặt của
eugenol, chiếm tỉ lệ phần trăm khá cao trong tinh dầu cả hai loài.
Công dụng [52], [53]
Theo Đông y, hương nhu có vị cay, tính hơi ấm, vào 3 kinh phế, tỳ và
vị. Có tác dụng làm ra mồ hôi, chữa cảm mạo, giảm sốt, lợi thấp hành thủy.
Một số bài thuốc thường dùng [42]
• Chữa cảm lạnh hoặc đi mưa bị nhiễm lạnh
Hương nhu tía 500g, hậu phác tẩm gừng nướng 200g, bạch biển đậu (đậu
ván trắng) sao qua 200g, tất cả 3 vị tán nhỏ trộn đều. Mỗi lần dùng 8-10g pha
với nước sôi để uống. Ngày uống 2 lần vào buổi trưa và tối sau bữa ăn. Dùng
từ 2-3 ngày.
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 23 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
Hoặc hương nhu tía 100g, tán nhỏ, mỗi lần dùng 8g, pha với nước sôi
uống. Ngày uống 2 lần, uống khi nào mồ hôi ra được là khỏi bệnh.
• Chữa cảm nắng, nôn mửa, tiêu chảy
Hương nhu 12g, tía tô (lá và cành) 9g, mộc qua 9g, sắc nước uống trong
ngày.
• Chữa cảm sốt nhức đầu
Dùng lá hương nhu tươi một nắm, giã nhỏ, chế thêm nước sôi, vắt lấy
nước cốt uống, bã đắp lên đầu, trán, và hai bên thái dương. Nếu sốt có mồ hôi
thì thêm củ sắn dây tươi 20g, cùng giã vắt nước uống.
• Chữa phù thũng, tiểu tiện đỏ, không mồ hôi
Hương nhu 9g, bạch mao căn (rễ cỏ tranh) 30g, ích mẫu thảo 12g, sắc
nước uống thay trà trong ngày. Dùng liên tục từ 10 ngày.
• Chữa hôi miệng
Hương nhu 10g sắc với 200ml nước. Dùng súc miệng và ngậm ngày 2
lần vào buổi sáng và trước khi đi ngủ, dùng liên tục trong 15 ngày.
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 24 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
Chương 2
THỰC NGHIỆM
2.1. Xác định tên khoa học cây đang nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành xác định tên khoa học của loài đang nghiên cứu ở
tỉnh Thừa Thiên Huế dưới sự giúp đỡ của thầy giáo Đỗ Xuân Cẩm. Mẫu cây
khi đã trưởng thành đầy đủ rễ, thân, lá, hoa, chọn và thu hái một cây tươi để
dựa vào các hình thái thực vật, kết hợp các tài liệu tham khảo tiến hành xác
định tên loài.
Hình 2.1. Toàn cây hương nhu tía Hình 2.2. Lá hương nhu tía
Hình 2.3. Hoa hương nhu tía
2.2. Thu thập và xử lí mẫu thực vật
SVTH: Lê Thị Sương
Khóa luận tốt nghiệp 25 Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
Cây hương nhu tía được thu hái vào tháng 04/2014 tại tỉnh Thừa Thiên
Huế. Sau khi thu hái phần cây trên mặt đất, rửa sạch, để ráo nước rồi phân ra 3
bộ phận là thân, lá và hoa. Sau đó, thái nhỏ và tiến hành chưng cất lôi cuốn
hơi nước trong thời gian khoảng từ 3-5 giờ.
2.3. Tách và định lượng tinh dầu
2.3.1. Tách tinh dầu
• Dụng cụ:
- Bình cầu đáy tròn dung tích 1000ml.
- Bếp điện, giá sắt, kẹp sắt.
- Ống sinh hàn hồi lưu nước, nhánh hứng.
• Nguyên liệu:
- Cây hương nhu tía: thân, lá.
• Cách tiến hành:
Lấy 150g đối với lá, 200g đối
với thân hương nhu tía đã qua xử lí,
thái nhỏ rồi cho vào bình cầu đáy
tròn dung tích 1000ml. Thêm nước
cất đến khoảng 2/3 bình cầu. Lắp
ống sinh hàn và nhánh hứng có thiết
bị hồi lưu hơi nước.
Kiểm tra hệ thống để đảm bảo
độ kín. Đun trên bếp điện 3-5 giờ.
Tinh dầu cùng với hơi nước bay lên
ngưng tụ bởi hệ thống sinh hàn rồi
chảy xuống nhánh hứng. Tinh dầu thu
được không tan trong nước.
Khi lượng tinh dầu không tăng thêm nữa thì ngừng đun, để nguội và
đọc thể tích tinh dầu thu được trên vạch.
SVTH: Lê Thị Sương
Hình 2.4. Thiết bị chưng cất tinh dầu