Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Dự án khu bảo tồn biển hòn mun và cấu trúc rạn san hô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.86 KB, 23 trang )

GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ HÒN MUN.
Hòn Mun là một vùng biển rộng gồm 9 đảo như Hòn Tre, Hòn
Tằm, Hòn Cau, Hòn Mun, v.v
Tổng diện tích của toàn bộ khu bảo tồn là 160 km2, trong đó 122 km2
là diện tích mặt biển, 38 km2 là tổng
diện tích của các hòn đảo.
Hòn Mun với rạn san hô và hệ sinh
vật biển đa dạng, phong phú là khu bảo
tồn biển đầu tiên và duy nhất của Việt
Nam hiện nay, đã được Quỹ Ðộng vật
hoang dã thế giới (WWF) đánh giá là
khu vực đa dạng sinh học biển bậc nhất
ở Việt Nam, đặc biệt rất phong phú về
san hô, hiện tại đã phát hiện được khoảng 350 loài. Tuy nhiên, san hô tại
đây đang ở trong tình trạng bị đe doạ nghiêm trọng do sự phát triển mạnh
mẽ của sao biển gai Acanthaster planci.
Vị trí địa lí của HÒN MUN
Nằm phía Đông Nam của Thành phố, cách bờ khoảng 12 km, đi tàu
mất 40 phút. Hòn Mun là khu bảo tồn biển đầu tiên cuả cả nước. Hòn mun
có nhiều vách đá dựng đứng, nhiều hang hóc, nhiều kiểu đá tai mèo và đặc
biệt đen tuyền như gỗ Mun nên đảo mới có tên là Hòn Mun. Hòn Mun là
nơi tập trung và phát triển của nhiều loại san hô và các loài cá cảnh sống
theo rạn san hô đủ màu, đủ sắc tạo thành một quần thể sinh vật biển tuyệt
vời. Vào những hè nắng tốt, nước trong xanh, ngồi trên tàu bạn có thể nhìn
thấy những rạn san hô dưỡi đáy biển và nhiều loài cá đủ màu sắc bơi lội
dưới nước. Nhưng muốn tận hưởng được sự tuyệt vời của Thế giới đại
dương bạn phải trực tiếp bơi lặn để ngắm nhìn và khám phá sự tuyệt đẹp
của những rạn san hô, cá cảnh đủ màu sắc trong làn nước trong xanh của
biển cả. Đồng thời trong khi bơi thỉnh thoảng bạn sẻ cảm nhận được dòng
nước lạnh, nhưng khi bơi một lúc bạn sẽ gặp dòng nước ấm. Vì hai dòng
nước nóng và lạnh chảy qua khu này. Một dòng nước lạnh từ phương Bắc


chảy xuống và một dòng nóng từ xích đạo chảy ngược lên tạo cho bạn một
cảm giác ngạc nhiên và thích thú.
DỰ ÁN KHU BẢO TỒN HÒN MUN
. Dự án Khu bảo tồn biển Hòn Mun được tiến hành trong 4 năm, bắt
đầu vào tháng 6/2001 với sự tham gia của Bộ Thuỷ sản, UBND tỉnh
Khánh Hoà và một số tổ chức quốc tế.
Dự án KBTB Hòn Mun do Bộ Thủy sản, UBND tỉnh Khánh Hòa và Tổ
chức Bảo tồn thiên nhiên Thế giới (IUCN) thực hiện từ năm 2001 - 2005,
được Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) tài trợ. Sau khi dự án kết thúc,
KBTB Hòn Mun được đổi thành KBTB vịnh Nha Trang.
A_HIỆN TRẠNG
1- TRƯỚC KHI CÓ KHU BẢO TỒN
Một đánh giá về đa dạng sinh học biển của các nhà khoa học được
thực hiện mới đây cho thấy trong vịnh Nha Trang có 350 loài san hô, 250
loài cá biển, 122 loài giáp xác, 27 loài da gai, 112 loài nhuyễn thể, 69 loài
rong biển, ngoài ra còn có các hệ sinh thái rừng ngập mặn và thảm cỏ biển.
Đây là một vùng biển có đa dạng sinh học được đánh giá là cao nhất ở
nước ta.Vì vậy, Hòn Mun - vịnh Nha Trang được chọn để bảo tồn một khu
vực “mẫu” đặc trưng về đa dạng sinh học biển. Theo đó, Hòn Mun sẽ trở
thành một KBTB có phân vùng và đa dụng nhằm bảo vệ các hệ sinh thái
rạn san hô, rừng ngập mặn và cỏ biển tốt nhất còn lại của nước ta và có ý
nghĩa quốc tế quan trọng; đồng thời tạo nên một mô hình đồng quản lý
KBTB tại Việt Nam để có thể nhân rộng sang các khu vực khác.
2- SAU KHI CÓ KHU BẢO TỒN
Ở nước ta khái niệm bảo tồn biển còn rất mới mẻ, vì vậy trong giai
đoạn đầu triển khai dự án thí điểm KBTB Hòn Mun, BQL dự án cũng như
BQL KBTB Hòn Mun đã gặp không ít khó khăn và thách thức. Hiện nay,
KBTB Hòn Mun đang bị đe doạ bởi các phương thức khai thác hải sản bất
hợp pháp (như đánh cá bằng chất nổ, chất độc), neo đậu tàu thuyền trực
tiếp trên các rạn san hô, chưa có những phương án xử lý chất thải từ đất

liền đổ ra biển hoặc từ các khóm đảo và từ các hoạt động du lịch mà san
hô là loài động vật rất nhạy cảm, dễ bị phá huỷ hoặc tổn thương bởi những
tác động đó. Mặt khác, trình độ hiểu biết của cộng đồng địa phương không
cao, cơ sở hạ tầng còn rất nghèo nàn; khi thực hiện bảo tồn, do có nhiều
khu vực bị hạn chế khai thác nên ít nhiều đã ảnh hưởng đến đời sống của
ngư dân, trong khi đó việc chuyển đổi nghề của họ lại gặp không ít khó
khăn. Đó là chưa kể đến một bộ phận không nhỏ dân cư sống ven vùng dự
án nhưng có các hoạt động khai thác tài nguyên trong vùng dự án cũng cần
sự giúp đỡ cải thiện sinh kế.
Kinh nghiệm từ các KBTB ở một số nước trong khu vực cho thấy sau một
vài năm bảo vệ, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái cỏ biển và hệ sinh thái
rừng ngập mặn sẽ được khôi phục. Với KBTB Hòn Mun cũng sẽ như vậy.
Khi đó khách du lịch sẽ được thụ hưởng một môi trường nước trong sạch
với nhiều rạn san hô đẹp và nhiều loài sinh vật biển phong phú; ngư dân
địa phương sẽ có những nguồn thu nhập bền vững, nguồn lợi hải sản sẽ
tăng cao và đa dạng sinh học trong vùng sẽ được bảo tồn cho các thế hệ
mai sau.
MỤC ĐÍCH CỦA DỰ ÁN
Mục đích của dự án là bảo tồn những loài đặc trưng có ý nghĩa quốc
tế về đa dạng sinh học biển, trong tổng số 193 loài san hô và 176 loài
cá biển sinh sống trong vùng này. Dự án còn nhằm nâng cao đời sống
của cộng đồng dân cư địa phương và hợp tác với các ngành liên quan để
bảo vệ, quản lý hiệu quả đa dạng sinh học tại Hòn Mun và các đảo lân cận
như một mô hình thí điểm về quản lý Khu bảo tồn biển Việt Nam.
Việc xây dựng các khu bảo tồn biển (KBTB) là nhằm bảo tồn đa dạng sinh
học biển phục vụ nghiên cứu khoa học, giáo dục; phát triển nguồn lợi thuỷ
sản, du lịch.
Việc thiết lập KBTB nhằm mục đích bảo tồn đa dạng sinh học, phục vụ
cho các hoạt động nghiên cứu, giáo dục và phục vụ cho phát triển du lịch,
dịch vụ vui chơi giải trí đồng thời cải thiện đời sống của ngư dân trong

vùng.
. Chính vì thế, để duy trì đa dạng sinh học và phát triển nguồn lợi thuỷ sản,
chúng ta cần xây dựng các KBTB quốc gia.
HIỆN TRẠNG CỦA HÒN MUN
kết quả khảo sát vừa qua của Viện Hải dương học Nha Trang cho thấy,
nhiều rạn san hô đẹp và hấp dẫn đã bị chết hoặc bị tàn phá do các hoạt
động huỷ diệt như: Khai thác hải sản bằng chất nổ, hoá chất độc và các
nguyên nhân khác. Trong đó, vùng phía bắc đảo Hòn Tre bị tàn phá nặng
nề nhất. Các rạn san hô bị chết chiếm một diện tích rộng và có rất
nhiều hố lớn do chất nổ gây ra. Việc thả neo bừa bãi của một số tàu
thuyền du lịch cũng làm các rạn san hô bị gãy nát nhiều. Quần thể
“nhím bà” (một loài sao biển ăn san hô) phát triển nhanh cũng đang
huỷ hoại các rạn san hô Các hoạt động khai thác hải sản quá mức đã
làm cạn kiệt nguồn lợi: các rạn san hô, tôm hùm, các loại nhuyễn thể và
hải sâm
không một ai đủ tự tin khẳng định ngăn chặn triệt để tình trạng khai
thác san hô. Vì hiện nay tại khu bảo tồn sinh vật biển này, nhiều cán bộ tại
địa phương đã thẳng thắn rằng: "Cấm đoán được gì đâu. Bắt hôm trước
hôm sau thấy dân ra lấy san hô lại. Bắt dân tận diệt san hô còn khó khăn
hơn bắt lâm tặc nên các cơ quan chức năng cứ ngó lơ." Theo lời 1 quan
chức có thẩm quyền dự tính: "Mỗi năm, mất hơn 50 tấn san hô chưa kể
mất san hô đen ở Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ninh, Hải Phòng, theo
đà này 20 năm nữa san hô không còn trong vùng biển Việt Nam ".
CẤU TRÚC RẠN SAN HÔ
Rạn san hô là cấu trúc aragonit được tạo bởi các cơ thể sống. Các
rạn san hô thường được thấy ở các vùng biển nhiệt đới nông mà trong
nước có ít hoặc không có dinh dưỡng. Mức dinh dưỡng cao chẳng hạn như
nước thải từ các vùng nông nghiệp có thể làm hại rạn san hô do sự phát
triển nhanh của tảo.
[1]

Tại hầu hết các rạn san hô, sinh vật thống trị là các
loài san hô đá, các quần thể thích ti tạo ra bộ xương ngoài bằng cacbonat
canxi (đá vôi). Sự tích lũy các chất tạo xương, bị phá vỡ và dồn đống bởi
sóng biển và sự xâm thực sinh học, tạo nên cấu trúc đá vôi lớn nâng đỡ san
hô đang sống và làm chỗ trú ẩn cho rất nhiều loài động thực vật khác
Các rạn san hô được tạo dựng từ các bộ xương san hô và được gắn với
nhau bởi các lớp cacbonat canxi do tảo coralline (họ Corallinaceae) tiết ra.
Rạn san hô là các hệ sinh thái biển cực kỳ đa dạng, là nơi sinh sống của
hơn 4.000 loài cá, vô số loài thích ti (Cnidaria), thân mềm, giáp xác và
nhiều động vật khác.
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA RẠN
SAN HÔ
Những mối đe dọa
1- ẢNH HƯỞNG CỦA TỰ NHIÊN
Xâm thực sinh học (sự phá hủy san hô) kiểu
này có thể do hiện tượng san hô bạc mầu gây ra.
San hô rất nhạy cảm với các thay đổi trong môi
trường tự nhiên. Các nhà khoa học đã tiên đoán
rằng đến năm 2030 hơn 50% các rạn san hô trên thế giới có thể bị hủy
diệt
[15]
; do đó, chúng thường được các luật môi trường bảo vệ. Một rạn san
hô có thể dễ dàng bị ngập trong tảo nếu trong nước có quá nhiều dinh
dưỡng. San hô cũng sẽ chết nếu nhiệt độ nước thay đổi vượt quá 1-2 độ ra
ngoài khoảng bình thường, hoặc nếu độ mặn trong nước giảm. Dấu hiệu
ban đầu của ứng suất môi trường là việc san hô thải tảo vàng đơn bào;
không có tảo đơn bào cộng sinh của mình, các mô san hô sẽ mất mầu và để
lộ mầu trắng của bộ xương cacbonat canxi, một hiện tượng được gọi là san
hô bạc màu.Cuối cùng, nhiệt độ nước cao hơn bình thường do các hiện
tượng khí hậu như El Nino và sự ấm lên toàn cầu có thể làm san hô bạc

mầu.
2- ẢNH HƯỞNG CỦA CON NGƯỜI
Các hoạt động của con người tiếp tục là mối đe dọa lớn nhất và duy nhất
đối với các rạn san hô trong các đại dương của Trái Đất. Cụ thể, sự ô
nhiễm và lạm dụng nghề cá là những mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối
với các hệ sinh thái này. Sự phá hoại về vật lý đối với các rạn san hô do
giao thông hàng hải gây ra cũng là một vấn đề. Ngành kinh doanh hải sản
tươi sống đã được xem là một nguyên nhân của sự suy thoái do việc sử
dụng xyanua và các hóa chất khác khi đánh bắt các loài cá nhỏ. .
Nhưng mối đe dọa lớn không kém là những hoạt động diễn ra hàng ngày .
Các tàu thuyền đánh cá, du lịch xả rác, dầu máy ra vịnh, phòng vệ sinh
trên tàu không có két chứa. Chất thải từ thức ăn thừa của tôm cá và chất
thải sinh hoạt của con người.
Theo The Nature Conservancy, nếu sự phá hủy tăng lên theo tốc độ hiện
hành, 70% các rạn san hô trên thế giới sẽ biến mất trong vòng 50 năm tới.
Sự mất mát này sẽ là một thảm họa kinh tế đối với những đất nước ở vùng
nhiệt đới. Hughes, (2003), viết rằng "với dân số thế giới ngày càng tăng và
các hệ thống vận tải và lưu trữ ngày càng phát triển, ảnh hưởng của con
người đối với các rạn san hô sẽ có quy mô tăng theo cấp lũy thừa."
[9]
Hiện nay, các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu mức độ ảnh hưởng của
các nhân tố khác nhau đối với các hệ thống rạn san hô. Có nhiều nhân tố,
trong đó có vai trò của các đại dương như chìm lún điôxít cacbon, các thay
đổi trong khí quyển Trái Đất, tia cực tím, sự axít hóa đại dương, virus sinh
học, ảnh hưởng của bão cát, các chất ô nhiễm khác nhau, ảnh hưởng của
sự bùng nổ tảo v.v.
Tuy san hô được tìm thấy ở cả các vùng biển nhiệt đới cũng như ôn đới,
nhưng các rạn san hô chỉ hình thành ở khu vực hai bên đường xích đạo trải
từ vĩ độ 30° Bắc đến 30° Nam; mặc dù các loại san hô tạo rạn không sống
tại các độ sâu quá 30 m (100 ft) nhiệt độ có ảnh hưởng ít hơn đến phân bố

của san hô, nhưng người ta thường cho rằng không có san hô sống trong
những vùng nước có nhiệt độ dưới 18°C.
Các loài san hô tạo rạn hoặc san hô hermatypic chỉ được tìm thấy ở những
vùng có ánh sáng (độ sâu tối đa 50 m), độ sâu đủ ánh sáng mặt trời cho sự
quang hợp.
ĐA DẠNG SINH HỌC Ở RẠN SAN HÔ
Brian Huse, giám đốc điều hành Liên minh Rạn San hô tại San Francisco
(Mỹ), cho biết: "Rạn san hô là hệ sinh thái phức tạp bậc nhất trên Trái
đất. Chúng chỉ chiếm chưa
đầy 1% diện tích đại
dương, nhưng lại là mái
nhà cho 25% các loài sinh
vật biển. Và chúng tôi cũng
không biết được một cách
đầy đủ các loài đấy: các
loài mới vẫn liên tục được
xác định.”
Đàn cá Pennantfish, Pyramid và Milletseed butterflyfish
Tuy ở tại các vùng nước
nhiệt đới ít dinh dưỡng, các
rạn san hô hỗ trợ một hệ
thống đa dạng sinh học đặc
biệt. Quá trình luân chuyển
dinh dưỡng giữa san hô, tảo
đơn bào, và các sinh vật khác
sống trong rạn giải thích tại
sao các rạn san hô sinh sôi
nảy nở tại những vùng nước này; sự tái sử dụng làm giảm tổng lượng dinh
dưỡng cần cho cả cộng đồng.
Vi khuẩn lam cũng cung cấp các muối nitrat hòa tan cho rạn san hô bằng

quá trình cố định nitơ. San hô hút các chất dinh dưỡng trực tiếp từ nước,
trong đó có nitơ và phốtpho vô cơ, và ăn các sinh vật phù du theo nước trôi
ngang qua các polip.
[6]
Do đó, hiệu suất sơ cấp của một rạn san hô là rất
cao, dẫn đến giá trị cao nhất trên mỗi mét vuông ở mức 5-10g C m
-2
/ngày.
[7]
Các "nhà sản xuất" trong các cộng đồng rạn san hô gồm có tảo đơn bào
cộng sinh, tảo san hô, và nhiều loại rong biển, cùng một số tảo loại nhỏ.
[6]
Các rạn san hô là nơi trú ngụ của nhiều loài cá nhiệt đới hoặc cá chuyên
sống trong rạn san hô, chẳng hạn như các loài cá bướm (Chaetodontidae),
cá thia (Pomacentridae), cá bướm đuôi gai (Pomacanthidae), cá mó
(Scaridae) nhiều màu sắc. Ngoài ra còn có các nhóm cá khác như cá mú
(Epinephelinae), cá hồng (Lutjanidae), Haemulidae và cá bàng chài
(Labridae). Hơn 4.000 loài cá sống tại các rạn san hô.
[4]
Các rạn san hô còn là
nhà của nhiều loại sinh
vật khác, trong đó có
bọt biển, một số loài
thích ti (san hô và
sứa), giun, một số loài
giáp xác (tôm, tôm
rồng, và cua), động vật
thân mềm (động vật
chân đầu
(Cephalopoda), động vật da gai (sao biển, nhím biển và hải quỳ), động vật

có bao (Tunicata), rùa biển và rắn biển. Động vật có vú ít gặp trên các rạn
Các rặng san hô cung cấp chỗ trú ẩn và thức ăn
cho cá, tôm cua và nhiều loài sinh
vật khác.
san hô, ngoại trừ các loài thuộc bộ Cá voi thỉnh thoảng ghé qua, trong đó
cá heo là nhóm chính. Một số loài trực tiếp lấy san hô làm thức ăn, trong
khi một số loài khác ăn tảo và tham gia vào các lưới thức ăn phức tạp.
Nhiều loài động vật không xương sống trú ngụ ngay tại nền đá san hô,
hoặc khoét vào trong bề mặt đá vôi, hoặc sống trong các hốc và khe có
sẵn. Các động vật khoét đá gồm có bọt biển, động vật thân mềm 2 mảnh
vỏ, và các loài thuộc nhóm sá sùng (Sipuncula). Sống trên rạn san hô còn
có nhiều loại khác, đặc biệt là các loài giáp xác và giun nhiều tơ
(Polychaeta).
[5]
TÁC DỤNG CỦA RẠN SẠN HÔ
Một rạn san hô có thể là một ốc đảo cho sinh vật biển.
Trên phạm vi toàn cầu, chúng là môi trường sống cho hơn 4.000 loài
cá, 700 loài san hô, hàng ngàn loài động vật và thực vật khác. Rạn san hô
được ví như là kho báu dưới đáy đại dương đối với các nhà nghiên cứu y
học, đê chắn sóng che chở cho các vùng duyên hải.
Rạn san hô dưới đáy biển có tầm quan trọng như rừng nhiệt đới đầu nguồn
ở trên cạn.
Rạn san hô là ngôi nhà chung của rất nhiều loài hải sản biển. Chất lượng
các rạn san hô liên quan đến 50% sản lượng nguồn lợi thuỷ sản trên thế
giới. Ngoài ra, rạn san hô, là bức tường bảo vệ dải thềm lục địa, ngăn chặn
sự xâm lấn của biển cả vào đất liền.
NHŨNG QUẦN THỂ CHÍNH Ở RẠN SAN HÔ
1. SAN HÔ
a) ĐỊNH NGHĨA
San hô là các sinh vật biển thuộc lớp San hô (Anthozoa) tồn tại dưới dạng

các thể polip nhỏ giống hải quỳ, thường sống thành các quần thể gồm
nhiều cá thể giống hệt nhau. Các cá thể này tiết ra cacbonat canxi để tạo bộ
xương cứng, xây nên các rạn san hô tại các vùng biển nhiệt đới.
Một "đầu" san hô thực tế được tạo từ hàng ngàn cá thể polip có cấu tạo gen
giống hệt nhau, mỗi polip chỉ có dường kính vài milimet. Sau hàng ngàn
thế hệ, các polip này để lại một khung xương là đặc trưng về loài của
chúng. Mỗi đầu san hô phát triển nhờ sự sinh sản vô tính của các polip.
San hô còn sinh sản hữu tính bằng các giao tử, được giải phóng đồng thời
trong một thời kì từ một đến vài đêm liên tiếp trong kì trăng tròn.Tuy san
hô có thể dùng các tế bào châm (nematocyst) tiết chất độc tại các xúc tu để
bắt phù du, loại động vật này thu nhận phần lớn dưỡng chất từ loại tảo đơn
bào cộng sinh có tên tảo vàng đơn bào (zooxanthella). Do đó, hầu hết san
hô phụ thuộc vào ánh sáng mặt trời và phát triển ở các vùng nước trong và
nông, thường ở độ sâu không tới 60 m
b) CẤU TẠO
Cấu tạo của một polip san hô
Tuy một đầu san hô trông như
một cơ thể sống, nhưng nó
thực ra là đầu của nhiều cá thể
giống nhau hoàn toàn về di
truyền, đó là các polip. Các
polip là các sinh vật đa bào với nguồn thức ăn là nhiều loại sinh vật nhỏ
hơn, từ sinh vật phù du tới các loài cá nhỏ.
Polip thường có đường kính một vài milimet, cấu tạo bởi một lớp biểu mô
bên ngoài và một lớp mô bên trong giống như sứa được gọi là ngoại chất.
Polip có hình dạng đối xứng trục với các xúc tu mọc quanh một cái miệng
ở giữa - cửa duy nhất tới xoang vị (hay dạ dày), cả thức ăn và bã thải đều
đi qua cái miệng này.
Dạ dài đóng kín tại đáy polip, nơi biểu mô tạo một bộ xương ngoài được
gọi là đĩa nền. Bộ xương này được hình thành bởi một vành hình khuyên

chứa canxi ngày càng dầy thêm (xem ở dưới). Các cấu trúc này phát triển
theo chiều thẳng đứng và thành một dạng ống từ đáy polip, cho phép nó co
vào trong bộ xương ngoài khi cần trú ẩn.
Polip mọc bằng cách phát triển khoang hình cốc (calices) theo chiều dọc,
đôi khi chia thành vách ngăn để tạo một đĩa nền mới cao hơn. Qua nhiều
thế hệ, kiểu phát triển này tạo nên các cấu trúc san hô lớn chứa canxi, và
lâu dài tạo thành các rạn san hô.
Sự hình thành bộ xương ngoài chứa canxi là kết quả của việc polip kết
lắng aragonit khoáng từ các ion canxi thu được từ trong nước biển. Tuy
khác nhau tùy theo loài và điều kiện môi trường, tốc độ kết lắng có thể đạt
mức 10 g/m² polip/ngày (0,3 aoxơ/ yard vuông/day). Điều này phụ thuộc
mức độ ánh sáng, sản lượng ban đêm thấp hơn 90% so với giữa trưa.
C) PHÂN LOẠI
San hô nằm trong lớp Anthozoa và được chi thành hai phân lớp, tùy theo
số xúc tu (tua cảm) hoặc những đường đối xứng, và một loạt các bộ tương
ứng với kiểu xương ngoài, loại tế bào châm và phân tích di truyền ti thể.
Phân lớp san hô với 8 xúc tu được gọi là san hô tám ngăn (Octocorallia)
hay san hô mềm (Alcyonaria) và bao gồm các bộ san hô mềm
(Alcyonacea), san hô sừng (Gorgonacea) và san hô lông chim
(Pennatulacea). Những loài có nhiều số xúc tu lớn hơn 8 và là bội của 6
được gọi là san hô sáu ngăn (Hexacorallia) hay san hô tổ ong
(Zoantharia). Nhóm này bao gồm các loài san hô đá (san hô tạo rạn)
(Scleractinia), san hô tổ ong (Zoanthidea) và hải quỳ.
2. CÁC LOẠI CÁ
Nguồn lợi hải sản quan trọng nhất của hệ sinh thái rạn san hô là cá.
Ngoài cá san hô, rạn còn cung cấp nhiều hải sản có giá trị kinh tế cao như
tôm hùm, trai ngọc, bào ngư, hải sâm, ốc tù và cùng nhiều loại rong biển.
HÌNH THỨC SINH SẢN CỦA SAN HÔ
Hữu tính
San hô chủ yếu sinh sản hữu tính, với

25% san hô phụ thuộc tảo (san hô đá) tạo
thành các quần thể đơn tính trong khi
phần còn lại là lưỡng tính.
[8]
Khoảng 75%
san hô phụ thuộc tảo "phát tán con giống"
bằng cách phóng các giao tử (trứng và tinh trùng) vào trong nước để phát
tán các quần thể san hô ra xa. Các giao tử kết hợp với nhau khi thụ tinh để
hình thành một ấu trùng rất nhỏ gọi là planula, thường có mầu hồng và
hình ôvan; một quần thể san hô cỡ trung bình mỗi năm có thể tạo vài nghìn
ấu trùng này để vượt qua xác suất rất nhỏ của việc ấu trùng tạo được một
quần thể mới.
[9]
Ấu trùng planula bơi về phía ánh sáng,
thể hiện quang xu hướng tính dương, lên
đến vùng nước bề mặt nơi chúng trôi dạt
và phát triển một thời gian trước khi bơi
trở lại xuống phía đáy biển để tìm một
bề mặt mà nó có thể bám vào đó và xây
dựng một quần thể mới. Nhiều giai đoạn
của quá trình này có tỷ lệ thất bại lớn,
và mặc dù mỗi quần thể san hô phát tán
hàng triệu giao tử, chỉ có rất ít quần thể mới được hình thành. Thời gian từ
khi phóng giao tử cho đến khi ấu trùng định cư thường là 2 hoặc 3 ngày,
nhưng có thể kéo dài đến 2 tháng
[10]
. Ấu trùng san hô phát triển thành một
polip san hô và cuối cùng trở thành một đầu san hô bằng cách sinh sản vô
tính tạo các polip mới.
Hầu hết các loài san hô, mà không phải san hô đá, đều không phát tán giao

tử. Các loài này phóng tinh trùng nhưng giữ trứng, cho phép phát triển các
ấu trùng planula lớn hơn để sau này khi thả ra sẽ đủ sẵn sàng để lắng
xuống
[7]
. Ấu trùng phát triển
thành polip san hô và cuối
cùng trở thành đầu san hô
bằng mọc chồi vô tính và phát
triển để tạo ra các polip mới.
Các khoang hình cốc (đĩa nền)
của Orbicella annularis cho
thấy 2 phương pháp nhân
giống: mọc chồi (khoang nhỏ ở giữa) và phân chia (khoang đôi lớn).
Việc phóng giao tử đồng bộ thường xảy ra và rất điển hình tại các rạn san
hô, ngay cả khi tại rạn có nhiều loài, tất cả san hô trên rạn phóng giao tử
vào cùng một đêm. Sự đồng bộ này rất thiết yêu để các giao tử đực và cái
có thể gặp nhau để tạo thành ấu trùng planula. Những dấu hiệu hướng dẫn
cho việc phóng giao tử rất phức tạp, nhưng xét thời gian ngắn, nó bao gồm
các thay đổi về mặt trăng, thời gian mặt trời lặn, và có thể cả tín hiệu hóa
học
[8]
. Việc phóng giao tử đồng thời có thể tạo ra kết quả là sự hình thành
các dạng san hô lai, có lẽ tham gia vào quá trình tạo loài san hô mới
[11]
. Tại
một số nơi, hiện tượng san hô phóng giao tử có thể rất nổi bật, thường xảy
ra vào ban đêm, nước biển vốn trong trở nên mờ đục bởi các "đám mây"
giao tử.
San hô phải phụ thuộc vào các dấu hiệu môi trường, tùy theo từng loại, để
xác định thời gian chính xác để giải phóng các giao tử vào trong nước. Có

hai phương pháp mà san hô dùng để sinh sản hữu tính, chúng khác nhau ở
chỗ giao tử cái có được giải phóng hay không:
• San hô gieo rắc, phần lớn trong chúng sinh sản hàng loạt, phụ thuộc
nặng nề vào các dấu hiệu môi trường, do ngược lại với san hô ấp
trứng, chúng giải phóng cả tinh trùng lẫn trứng vào trong nước. San
hô sử dụng các dấu hiệu dài hạn như độ dài thời gian ban ngày, nhiệt
độ nước, và/hoặc tốc độ thay đổi nhiệt độ; và dấu hiệu ngắn hạn
thông thường nhất là chu kỳ trăng, với lúc mặt trời lặn điều khiển
thời gian giải phóng
[8]
. Khoảng 75% các loài san hô là san hô gieo
rắc, phần lớn trong chúng là phụ thuộc tảo vàng đơn bào hay san hô
tạo rạn
[8]
. Các giao tử với sức nổi dương trôi nổi về phía bề mặt nơi
sự thụ tinh diễn ra để tạo thành các ấu trùng planula. Các ấu trùng
planula bơi về phía ánh sáng bề mặt để đi vào các dòng chảy, nơi
chúng ở lại khoảng 2 ngày, nhưng có thể tới 3 tuần, và trong một
trường hợp đã biết là 2 tháng
[10]
, sau đó chúng chìm xuống và biến
hóa thành các polip và tạo thành các quần thể mới.
• San hô ấp trứng thông thường nhất là không phụ thuộc tảo vàng
đơn bào (không tạo rạn), hoặc một số san hô phụ thuộc tảo vàng đơn
bào trong các khu vực có tác động của sóng hay luồng chảy mạnh.
San hô ấp trứng chỉ giải phóng tinh trùng, với sức nổi âm, và có thể
lưu trữ trứng đã thụ tinh trong vài tuần, giảm bớt nhu cầu đối với các
sự kiện sinh sản đồng bộ hàng loạt, nhưng nó vẫn có thể xảy ra
[8]
.

Sau khi thụ tinh thì san hô giải phóng các ấu trùng planula đã sẵn
sàng chìm lắng xuống.
Vô tính
Tại các đầu san hô, các polip giống hệt nhau về di truyền sinh sản vô tính
để phát triển quần thể. Điều này được thực hiện bằng nảy mầm hay mọc
chồi (khi một polip mới mọc ra từ một polip trưởng thành), hoặc phân chia
(thành 2 polip lớn bằng polip ban đầu), cả hai được minh họa trong hình về
Orbicella annularis
[9]
.
• Mọc chồi: Mở rộng kích thước của quần thể san hô. Nó diễn ra khi
corallite mới mọc ra từ polip trưởng thành. Khi polip mới phát triển
nó sinh ra xoang vị (dạ dày), tua cảm và miệng. Khoảng cách giữa
các polip mới và trưởng thành tăng lên, và cùng với nó là coenosarc
(cơ thể chung của quần thể; xem hình minh họa tại phần cấu tạo).
Việc mọc chồi có thể diễn ra theo các cách sau:
• Phân chia theo chiều dọc bắt đầu với mở rộng polip ra, sau đó phân
chia xoang vị. Miệng phân chia và các tua cảm mới hình thành. Khác
biệt với điều này là mỗi polip phải hoàn thiện phần bị mất của mình
về cơ thể và bộ xương ngoài.
• Mọc chồi nội tua cảm hình thành từ các đĩa miệng của polip, nghĩa là
cả hai polip có cùng kích thước và nằm trong cùng một vòng tua
cảm.
• Mọc chồi ngoại tua cảm tạo thành từ đáy của polip, và các polip mới
là nhỏ hơn.
• Phân chia theo chiều ngang diễn ra khi các polip và bộ xương ngoài
phân chia theo chiều ngang thành hai phần. Điều này có nghĩa là một
polip có đĩa nền (đáy) còn polip kia có đĩa miệng (đỉnh). Hai polip
mới cũng phải tự hoàn thiện các phần bị mất.
• Phân đôi diễn ra ở một số san hô, đặc biệt là trong họ Fungiidae,

trong đó quần thể có khả năng tự tách thành 2 hay nhiều quần thể
trong các giai đoạn đầu của sự phát triển của chúng.
Cả quần thể san hô có thể sinh sản vô tính qua sự phân mảnh hay thoát ra
ngoài, khi một mảnh vỡ từ một đầu san hô được sóng đem đi nơi khác có
thể tiếp tục phát triển tại địa điểm mới.
• Polip thoát ra ngoài diễn ra khi một polip từ bỏ quần thể và tái thiết
lập trên một nền mới để tạo ra quần thể trưởng thành mới.
Phân mảnh, trên thực tế có thể coi như là một kiểu của phân đôi, với các
cá thể bị vỡ ra khỏi quần thể do bão hay trong các tình huống khác mà việc
vỡ ra này có thể xảy ra. Các cá thể tách biệt có thể bắt đầu cho các quần
thể mới
CÁC BIỆN PHÁP PHỤC HỒI RẠN SAN HÔ Ở HÒN MUN –
KHÀNH HÒA.

Từ các kết quả thu được trong
phòng thí nghiệm, tháng 7 các kỹ
sư của Viện Hải dương học đã tiến
hành triển khai trồng san hô tại 2
điểm là Hòn Mun (Khánh Hoà) và
Hòn Ngang (Bình Định). Ba loại
rạn nhân tạo được sử dụng là các trụ bê tông, gạch 6 lỗ và các lốp ôtô cũ
buộc lại với nhau. Một ngư dân được huấn luyện sẽ lặn xuống tận đáy
biển, buộc các nhánh san hô mầm vào các rạn nhân tạo này.
Sau 3 tháng triển khai phục hồi và trồng mới 100 ha tại Hòn Ngang, kết
quả kiểm tra cho thấy tỷ lệ sống trung bình của san hô là 88%. Tại Hòn
Mun, diện tích phủ bề mặt san hô đã đạt được 13 – 27%. Một số loài sinh
vật biển chuyên sống trong rạn như cá mú, huệ biển, ốc đụn, cầu gai, tôm
bác sỹ đã bắt đầu tập trung tại các rạn nhân tạo với mật độ khá cao: từ 141
– 740 con/400 m2 tại Hòn Mun, 205 – 230 con/400 m2 ở Hòn Ngang.
HƯỚNG GIẢI QUYẾT

Ban quản lý dự án đang xây dựng chiến lược phát triển các hoạt động nuôi
trồng hải sản và du lịch sinh thái, nhằm tạo thu nhập phụ thay thế cho cộng
đồng dân cư trên các khóm đảo, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động giáo
dục khác, để nâng cao nhận thức cho cư dân tại đây.
Quy hoạch tổng thể và phân vùng chức năng để quản lý: Theo đó, KBTB
sẽ được phân chia thành 3 vùng với chế độ quản lý khác nhau: vùng bảo vệ
nghiêm ngặt, vùng hạn chế khai thác và vùng sử dụng chung. Việc quy
hoạch và phân vùng chức năng được sự tham gia rộng rãi của cộng đồng
dân cư trong vùng dự án. Bằng cách phân vùng, kế hoạch, KBTB sẽ bảo
vệ các giá trị đa dạng sinh học cấp thiết của Hòn Mun, trong khi đó vẫn tạo
ra khả năng khai thác hợp lý và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên.
- Xây dựng và triển khai chương trình tạo thu nhập thay thế cho ngư dân
trong vùng dự án: Bao gồm các hoạt động nuôi trồng thuỷ sản (trai ngọc,
hàu, cua biển, tôm hùm, các loài cá có giá trị cao); làm nghề thủ công mỹ
nghệ và dịch vụ du lịch (chèo thuyền, hướng dẫn lặn du lịch, buôn bán
nhỏ, nhà hàng, khách sạn, các hoạt động hỗ trợ du lịch khác ). Nội dung
này cần có sự hợp tác rất quan trọng của ngành du lịch, vì ngành này có
thể tiếp nhận, đào tạo các em học sinh từ các khóm đảo làm dịch vụ du lịch
trong tương lai, góp phần tạo thu nhập thay thế và nâng cao đời sống cho
cộng đồng dân cư vùng dự án.
- Triển khai các hoạt động giám sát: Đội quy hoạch cưỡng chế của BQL
KBTB Hòn Mun đang triển khai các hoạt động tuần tra bảo vệ có sự tham
gia của các đồn biên phòng, Chi cục bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và người
dân các khóm đảo nhằm ngăn chặn các hoạt động khai thác thuỷ sản trái
phép, bảo vệ môi trường và nguồn lợi biển. Hoạt động giám sát sẽ được
mở rộng với sự tham gia của thanh tra môi trường, thanh tra giao thông và
giám sát môi trường nước, hệ sinh thái trong KBTB. Tương lai, trong hệ
thống giám sát và thi hành, các cộng đồng địa phương sẽ giữ vai trò chủ
chốt, với sự cộng tác của cơ quan quản lý KBTB và các cơ quan khác.
Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền để nâng cao nhận thức của

cộng đồng về bảo vệ nguồn lợi, môi trường sinh thái biển: Đây là nội
dụng trọng tâm mà trong thời gian qua BQL dự án đã tập trung chỉ đạo
thực hiện. Hoạt động này nhằm làm cho mọi người trong cộng đồng hiểu
về sự cần thiết phải thiết lập KBTB, lợi ích của KBTB đối với đời sống
của cộng đồng trong tương lai và cộng đồng sẽ phải làm gì để bảo vệ tốt
KBTB Hòn Mun.
Nhiệm vụ trước mắt là phải cấm mọi hành vi xả chất thải ra biển;
Khuyến khích cộng đồng dân cư địa phương cùng tham gia quản lý, bảo vệ
khu bảo tồn biển; Hằng ngày, cho tàu đi dọn dẹp rác thải; Duy trì và phát
triển các loài sinh vật địch hại chuyên ăn trứng của sao biển gai, bao gồm
ốc tù và Charonia tritonis, các loài cá sống trong các dải đá ngầm
(Arothron hispidus, Balistoides viridescens, Pseudobalistes
flavimarginatus), tôm Hymenocera picta và giun Pherecardia striata

×