Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

BÀI báo cáo dân số và PHÁT TRIỂN work

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.26 KB, 21 trang )

BÀI BÁO CÁO DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN
CƠ CẤU DÂN SỐ THEO TUỔI VÀ GIỚI TÍNH TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
A. Mở đầu
I.Khái quát chung về dân số thế giới

Hình 1: Biểu đồ dân số thế giới qua các giai đoạn từ năm . (đơn vị Triệu người)
Dân số thế giới sau CN 2 tỉ người năm 1930đến năm 2003 là 6,302 tỉ người và theo Liên
Hiệp Quốc, dân số thế giới sẽ đạt 7,2 tỷ người năm 2013 và tới năm 2100 là 10,9 tỷ
người do mức sinh tăng cao tại các nước đang phát triển.Châu Á dẫn đầu với 4,302 tỉ ;
châu Phi 1tỉ; châu Mỹ 958 triệu; châu Âu 740 triệu; châu Đại Dương 38 triệu. So với
2012 thì dân số thế giới được ước tính là 7,058 tỉ người. Dân số cao nhất vẫn phân bố tập
trung ở châu Á là 4,26 tỉ; tiếp theo là châu Phi 1,072 tỉ, châu Mỹ 948,2 triệu, châu Âu
740,1 triệu và thấp nhất vẫn là châu Đại Dương chỉ có 37 triệu người.(Số liệu này được
tổng hợp từ các nguồn thống kê của các nước, thống kê dân số 2009-2013 của Liên hiệp
quốc) dân số thế giới có sự khác biệt và phân bố rõ nét giữa hai nhóm nước phát triển và
đang phát triển. Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là trong mỗi nhóm nước mỗi quốc gia hay
mỗi vùng đều có cơ cấu dân số cũng như tỉ lệ giới tính ở mỗi độ tuổi là khác nhau.
Tuổi và giới tính là những tiêu thức quan trọng trong nghiên cứu dân số. Phụ nữ ở các độ
tuổi khác nhau sẽ có khả năng sinh đẻ khác nhau. Ở mỗi độ tuổi , khả năng lao động
của con người cũng khác nhau, nhu cầu chăm sóc và nhu cầu tận hưởng các dịch
vụ y tế - xã hội cũng khác nhau. Do đó, tỷ trọng các nhóm tuổi trong dân số cho
biết cơ cấu theo tuổi của dân số đó. Tỷ trọng nam và nữ trong tổng số dân không chỉ là
yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh mà còn là yếu tố ảnh hưởng đến mức chết và các nhu cầu
kinh tế - xã hội khác.
1 Cơ cấu tuổi
Khái niệm: Cơ cấu dân số theo độ tuổi là tập hợp các nhóm người được sắp xếp theo
những lứa tuổi nhất định. Thông qua tương quan của số dân ở các nhóm tuổi, người ta có
thể đánh giá so sánh các nhóm trong mối quan hệ qua lại với các đặc trưng dân số, xã hội
và kinh tế của dân cư.Có 2 cách phân chia độ tuổi với việc sử dụng các thang bậc khác
nhau:
+ Độ tuổi có khoảng cách đều nhau. Sự chênh lệch về tuổi giữa 2 độ tuổi kế tiếp nhau có


thể là 1 năm, 5 năm hay 10 năm (người ta thường sử dụng khoảng cách 5 năm). Cách này
được dùng để phân tích, dự đoán các quá trình dân số.
+ Độ tuổi có khoảng cách không đều nhau. Thông thường người ta chia thành 3 nhóm
tuổi:
-Dưới độ tuổi lao động (0-14 tuổi);
- Trong độ tuổi lao động (15-59 tuổi); và
- Trên độ tuổi lao động (từ 60 tuổi trở lên).
+ Kết cấu dân số theo độ tuổi được chú ý nhiều, bởi vì nó thể hiện tổng hợp tình hình
sinh, tử, khả năng phát triển dân số và nguồn lao động của một lãnh thổ. Do những khác
biệt về chức năng xã hội và chức năng dân số giữa nam và nữ, kết cấu dân số theo độ tuổi
thường được nghiên cứu cùng với kết cấu dân số theo giới tính gọi là kết cấu dân số theo
độ tuổi-giới tính.
Hình 1: Biểu đồ thể hiện cơ cấu dân số theo độ tuổi và giới tính trên thế giới năm
2010
Nhận xét bảng số liệu dân số thế giới năm 2010:
Nhóm tuổi từ 0-4 chiếm 9.5% mức sinh cao, trẻ em đông, tỉ suất sinh cao.
Nhóm tuổi >75 là 1.5% tương đối thấp chứng tỏ tuổi thọ trung bình thấp,dân số trẻ và
tăng nhanh, có sự biến động qua các năm.
Cơ cấu theo nhóm tuổi:
Tỉ lệ dân dưới độ tuổi lao động (0-14) tương đối nhỏ chiếm 27.1% trong tổng số dân
Tỉ lệ dân trong độ tuổi lao động(15-59) chiếm phần lớn trong tổng số dân 63.3%
Tỉ lệ người già >60 tương đối cao chiếm 9.6%
Dân số thế giới đang có xu hướng chuyển từ dân số trẻ sang dân số chuyển tiếp.
2 Cơ cấu giới tính.
Khái niệm: Trên một lãnh thổ, bao giờ cũng có nam giới, nữ giới. Tương quan giữa giới
này so với giới kia hoặc so với tổng số dân được gọi là kết cấu theo giới (hay kết cấu nam
nữ). Kết cấu này khác nhau tùy theo lứa tuổi.Kết cấu nam nữ được tính dựa trên số lượng
nam trên 100 nữ; hoặc số lượng nữ trên 100 nam; hoặc số lượng nam (hoặc nữ) so với
tổng số dân (tính bằng %).
Tỷ số giới tính khi sinh

Phần lớn các quốc gia trên thế giới có TSGTKS dao động ở mức 104-106 trẻ em trai cho
100 trẻ em gái. Những dao động nhỏ quan sát được này là do tác động của yếu tố sinh
học, tuổi, thứ tự sinh, và các yếu tố chưa rõ khác. Tuy nhiên, TSGTKS đã tăng dần trong
25 năm qua ở một số quốc gia châu Á, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ. TSGTKS ở một
số vùng của hai quốc gia này rất cao, đạt mức trên 125 hoặc 130. Đáng chú ý nhất là các
vùng phía Đông Trung Quốc hay Tây Bắc Ấn Độ, có TSGTKS tăng liên tục từ những
năm cuối thập kỷ 80 và đạt mức cao trên 120 từ năm 2000 đến nay.
Tỷ số giới tính khi sinh ở một số quốc gia, 2004-2009
Nguồn: Văn phòng Thống kê, UNFPA (2010), Eurostat

Tỷ số giới tính của Việt Nam và một số nước trên thế giới năm 2010. Nguồn: Word
Population Prospects: The 2008 Revision Population Database, United Nations, 2009.
II.Các nước phát triển
Cơ cấu dân số các nước phát triển theo giới và tuổi biến động theo thời gian và
khác nhau giữa các khu vực, giữa thành thị và nông thôn. Nhìn chung ở các nước
phát triển, nữ nhiều hơn nam ( châu Âu, Bắc Mĩ, Nhật Bản ). Ngược lại những
nước có số nam trội hơn nữ thường là những nước đang phát triển.
Nguyên nhân chủ yếu là do yếu tố kinh tế-xã hội ( việc chăm sóc, bảo vệ bà mẹ
trẻ em chưa tốt, mức chết của bà mẹ và bé gái còn cao, phong tục tập quán ) do
chiến tranh, tai nạn, do tuổi thọ trung bình của mỗi giới, do chuyển cư
• Các nước phát triển có cơ cấu dân số già.
• Tỉ lệ dân số dưới tuổi 15 thấp
• Tỉ lệ người già cao
• Nhiều quốc gia có tỉ lệ trẻ em thấp ở mức báo động như Italia (14%), Tây
Ban Nha, Hi Lạp, Bungari, Moonaco, Nhật Bản (15%)
• Xu hướng già hóa dân số do mức sinh thấp và tiếp tục giảm
 Dân số già có tỉ lệ phụ thuộc già ít, không chịu sức ép về giáo dục, chất lượng
cuộc sống được đảm bảo. Song các nước này đang phải đối mặt với những vấn đề
thiếu lao động, hỗ trợ và chăm sóc y tế cho người già và nguy cơ suy giảm dân số.
Hình 2 biểu đồ thể hiện cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính các nước phát triển

năm 2010 ( Đơn vị %)
Nhận xét bảng số liệu dân số nhóm nước phát triển năm 2010:
- Tỉ suất sinh thấp, tỉ suất tử thấp ở nhóm trẻ nhưng cao ở nhóm tuổi già, song nhìn
chung tương với tỉ suất sinh và trong nhiều nam không thay đổi, tuổi thọ trung
bình cao, dân số ổn định cả về quy mô và cơ cấu, dân số già và tăng chậm.
• Nhóm tuổi 0-4 chiếm 5.8% thấp, trẻ em ít, tỉ suất sinh thấp
• Nhóm >75 chiếm 3.3% cao điều đó chứng tỏ tuổi thọ trung bình cao, dân số
tăng chậm.
- Cơ cấu theo tuổi:
• Tỉ lệ dân dưới độ tuổi lao động( 0-14 ) ít chiếm 17.1% trong tổng số dân.
• Trong khi đó tỉ lệ người già >60 lớn chiếm 18.3%.
• Số người trong độ tuổi lao động ( 15- 59 ) chiếm phần lớn trong tổng số dân
64.5%.
- Cơ cấu theo giới:
• Tỉ số giới tính: SR=96.8 điều này cho biết trong tổng dân số thì trung bình cứ 100
nữ thì có 96.8 nam.
• Tỉ lệ giới tính: trong tổng dân số thì dân số nam chiếm 49.2% ít hơn so với dân số
nữ chiếm 50.8%.
• Tỉ lệ nam trong độ tuổi lao động là 32.2%, nữ là 32.4%, như vậy sự chênh lệch
trong độ tuổi lao động giữa nam và nữ không lớn.
• Tỉ lệ tuổi thọ của nữ giới cũng như thế giới và các nước đang phát triển thì nước
phát triển nữ giới có tuổi thọ cao hơn nam.
 Như vậy các nước phát triển có cơ cấu dân số già, tỉ lệ người già cao và dân số
tăng chậm, ít có sự biến động.
2 Nước đang phát triển
Hình 3 biểu đồ thể hiện cơ cấu dân số theo độ tuổi và giới tính các nước đang phát
triển. ( đơn vị %)
Các nước đang phát triển có kết cấu dân số trẻ vì lứa tuổi dưới 15 chiếm khoảng 40%
tổng số dân. Với lực lượng trẻ tiềm tàng như vậy, dù có giảm tỉ suất sinh tới mức chỉ đủ
để tái sản xuất dân cư giản đơn (2 con/gia đình), số dân vẫn cứ tiếp tục tăng trong một

khoảng thời gian dài trước khi đạt tới sự ổn định.
Già hóa dân số ngày càng diễn ra với tốc độ nhanh hơn, đặc biệt là tại các nước đang phát
triển. Liên Hợp Quốc đã nghiên cứu và dự báo thế kỷ XXI là thế kỷ già hóa, vì thế nhiều
nước trên thế giới rất quan tâm đến vấn đề già hóa dân số và tìm biện pháp ứng phó với
vấn đề này. Tốc độ gia tăng dân số cao tuổi ngày càng mạnh và nhanh hơn các nhóm tuổi
khác.
Ở các nước phát triển, việc giảm mức sinh đã bắt đầu từ đầu những năm 1900, kết quả là
mức sinh ở các nước này hiện đã thấp hơn mức sinh thay thế, đạt tỷ lệ hai đứa trẻ sinh ra
sống cho mỗi người phụ nữ trong suốt cuộc đời sinh đẻ. Nhưng sự phát triển dân số đáng
ngạc nhiên trong 20 năm qua là tốc độ suy giảm mức sinh ở nhiều nước kém phát triển.
Đến năm 2006, tổng tỷ suất sinh đã đạt được hoặc dưới mức sinh thay thế ở 44 nước kém
phát triển. Kết quả là số người cao tuổi tại các nước nghèo tăng nhanh.
VI Việt Nam;
Cùng với sự ổn định về chính trị, xã hội sau khi đất nước thống nhất và triển khai mạnh
mẽ của các chính sách DS - KHHGĐ, hơn 30 năm qua dân số Việt Nam có những sự thay
đổi rõ rệt. Tổng tỷ suất sinh (TFR) giảm từ 4,81 vào năm 1979 xuống 3,8 vào năm 1989
và 2,03 vào năm 2009. Tốc độ tăng dân số trung bình giảm từ 2,21%/năm giai đoạn
1976-1985 xuống mức 1,6% giai đoạn 1985-2008 và chỉ ở mức 1,1% vào năm 2009. Hệ
quả là cơ cấu tuổi dân số Việt Nam biến đổi mạnh với xu hướng giảm tỷ lệ trẻ em (0-14
tuổi), tăng tỷ lệ dân số trong tuổi lao động (15-59 tuổi) và dân số cao tuổi (trên 60 tuổi)
cũng tăng lên. Như vậy, cấu trúc tuổi dân số Việt Nam đang có sự thay đổi từ dân số trẻ
sang “cơ cấu dân số vàng” cùng với già hóa dân số.
Dân số và cơ cấu dân số Việt Nam theo nhóm tuổi, 1979-2009
Năm
Số người (triệu người) Tỷ lệ (% tổng dân số)
Tổng 0-14 15-59 60+ 0-14 15-59 60+
1979 53,74 23,40 26,63 3,71 41,8 51,3 6,9
1989 64,38 24,98 34,76 4,64 39,2 53,6 7,2
1999 76,33 25,56 44,58 6,19 33,0 58,9 8,1
2009 85,85 21,03 57,09 7,73 24,5 66,5 9,0

Số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ trẻ em năm 2009 đã giảm 17% so với 30 năm về trước.
Trong khi đó, tỷ lệ dân số cao tuổi tăng 2,1% và tỷ lệ người trong độ tuổi lao động tăng
15%. Sau 3 thập kỷ, bình quân cứ 100 người dân Việt Nam thì có thêm 15 người bước
vào độ tuổi lao động. Một công cụ hữu ích để mô tả cơ cấu dân số theo tuổi là tháp dân
số, hay còn gọi là tháp tuổi.
Cơ cấu dân số theo giới tính và nhóm tuổi phản ánh bức tranh tổng quát về mức sinh,
mức chết và tốc độ gia tăng dân số của các thế hệ sinh cho đến thời điểm điều tra. Một
công cụ hữu ích để mô tả cơ cấu dân số theo giới tính và nhóm tuổi làtháp dân số, hay
còn gọi là tháp tuổi.
Do mức độ sinh gần đây đã giảm đáng kể trong khi tuổi thọ trung bình ngày càng tăng
đã làm cho dân số nước ta có xu hướng già hoá với tỷ trọng dân số trẻ giảm và tỷ trọng
người già ngày càng tăng. Sự thu hẹp của ba thanh ở đáy tháp năm 2013 so với các năm
1989, 1999 và 2009 đối với cả nam và nữ chứng tỏ rằng mức sinh của dân số nước ta
giảm liên tục và nhanh.
Do mức độ sinh gần đây đã giảm đáng kể trong khi tuổi thọ trung bình ngày càng tăng
làm cho dân số nước ta có xu hướng già hóa với tỷ trọng dân số trẻ giảm và tỷ trọng già
ngày càng tăng

Tháp dân số Việt Nam 1950, 2010, 2020 và 2050. Trong mỗi biểu đồ, các thanh phía bên
trái thể hiện phần trăm nữ, và bên phải thể hiện phần trăm nam, tính trên toàn dân số
Cơ cấu dân số Việt Nam biến đổi rất lớn từ năm 1950 đến 2050 .Năm 1950, “tháp dân số”
Việt Nam có hình tam giác cân, với số người cao tuổi rất thấp và số người trẻ tuổi, kể cả
niên thiếu, rất cao. Đến năm 2010, tháp dân số vẫn có hình dạng gần giống hình tam giác,
nhưng dân số trong độ tuổi 15-24 chiếm đa số so với các độ tuổi khác. Tháp dân số năm
2020 cũng không khác mấy so với năm 2010, nhưng số người trong độ tuổi 20-34 bắt đầu
gia tăng đáng kể. Đến năm 2050 thì tháp dân số hoàn toàn “biến dạng” so với năm 1950,
với số người trên 50 tuổi bắt đầu chiếm đa số. Hệ quả của sự biến động trong cơ cấu dân
số này là sự lão hóa, với đặc điểm tăng tuổi trung bình và tăng tuổi thọ.
Cơ cấu dân số theo nhóm tuổi còn được sử dụng để tính tỷ số phụ thuộc, một chỉ tiêu
biểu thị gánh nặng của dân số trong tuổi lao động. Chỉ tiêu này phản ánh tác động của

mức độ sinh và mức độ chết đến cơ cấu tuổi và lực lượng lao động. Tỷ số phụ thuộc
chung cho biết, cứ 100 người ở nhóm tuổi 15-64 có bao nhiêu người dưới 15 tuổi (0-14)
và từ 65 tuổi trở lên.
Một trong những chỉ tiêu quan trọng biểu thị xu hướng già hoá của dân số là chỉ số già
hoá3. Chỉ số già hoá đã tăng từ 18,2% năm 1989 lên 24,3% năm 1999 và đạt 43,5% năm
2013, cho thấy xu hướng già hoá dân số ở nước ta diễn ra khá nhanh trong hai thập kỷ
qua. Tuổi thọ tăng và mức sinh giảm chính là yếu tố dẫn đến sự già đi của dân số. Già
hóa ở nước ta hiện nay tuy chưa ở mức nghiêm trọng, song nó sẽ tăng rất nhanh trong
thời gian tới và sẽ trở thành vấn đề lớn nếu chúng ta không chuẩn bị trước một hệ thống
an sinh xã hội thật tốt dành cho người già.
Xu hướng dân số Việt Nam, 1970-2040
Nguồn
: World Population Prospects, 2010
Với xu hướng biến đổi cơ cấu tuổi dân số thể hiện trên, Việt Nam sẽ trải nghiệm cơ cấu
dân số vàng cùng với già hóa dân số. Dân số trẻ em, đặc biệt là trẻ em dưới 5 tuổi và học
sinh tiểu học sẽ giảm mạnh trong thời gian tới. Cùng với đó, lực lượng lao động tăng
mạnh và dân số cao tuổi cũng tiếp tục tăng nhanh. Tỷ số phụ thuộc dân số đạt mức 48,5%
vào năm 2010 và tăng trở lại ở mức 50,8 vào năm 2040. Có thể nhận thấy rõ sự xuất hiện
của thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” bắt đầu khi tỷ số phụ thuộc trẻ em giảm mạnh và thời
kỳ này kết thúc khi tỷ số phụ thuộc người cao tuổi tăng mạnh.
3. Cơ cấu dân số vàng
Theo định nghĩa của Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc: Một nước được coi là có “cơ hội dân
số vàng” khi tỉ số phụ thuộc dân số của nước đó nhỏ hơn 50, tức là một người ngoài độ
tuổi lao động sẽ được hỗ trợ bởi hơn hai người trong độ tuổi lao động.
Tổng cục thống kê VN xác định rõ hơn “Cơ hội dân số vàng” xảy ra khi tỷ lệ trẻ em (từ 0
đến 14 tuổi) thấp hơn 30% và tỷ lệ người cao tuổi (65 tuổi trở lên) thấp hơn 15%.
Theo Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc, năm 2010, trên 60% người VN ở tuổi lao động (15–
64 tuổi). Giai đoạn năm 2011–2020, lực lượng lao động VN tăng 1% năm tương ứng
47,82 triệu người (2011), 50,4 triệu người (2015) và 53,15 triệu người (2020).
Như vậy, “cơ hội dân số vàng” của VN đang diễn ra từ 2010 đến 2040, trong vòng 30

năm tới. Do đó, chúng ta cần xây dựng chiến lược phát triển đất nước phù hợp với xu thế
hội nhập, trên cơ sở lấy khoa học – công nghệ hiện đại làm động lực thúc đẩy năng suất
lao động cao cho nguồn nhân lực dồi dào có nghề nghiệp và kỹ năng đủ sức cạnh tranh
quốc tế, để từng bước chuyển sang kinh tế tri thức, phát triển bền vững.
“Cơ hội dân số vàng” diễn ra trong giai đoạn đất nước đang công nghiệp hóa và hiện đại
hóa mạnh mẽ, đồng thời cũng ở thời điểm VN vừa bước ra khỏi ngưỡng cửa của những
quốc gia có thu nhập thấp toàn cầu, nhằm hướng đến nước có công nghiệp tiên tiến vào
năm 2020. Chúng ta cần “nội lực” lẫn “ngoại lực”. “Nội lực” là nguồn nhân lực hùng hậu
có nghề nghiệp và kỹ năng cao, làm chủ được khoa học công nghệ hiện đại. “Ngoại lực”
là sự chi viện và hợp tác quốc tế để hoàn thiện kết cấu hạ tầng về sản xuất và giao thông
tốt hơn, cũng như ứng phó với Biến đổi khí hậu toàn cầu để xây dựng và phát triển một
nền kinh tế hiệu quả, một xã hội công bằng, văn minh, bảo vệ, giữ gìn môi trường sinh
thái trong sạch. Kỳ vọng “cơ hội dân số vàng” sẽ là điểm tựa vững chắc để phát huy sức
mạnh tiềm năng của dân tộc VN
2. Cơ cấu dân số theo giới tính
Số liệu về cơ cấu dân số theo giới tính 2 có ý nghĩa quan trọng trong phân tích thống kê
quá trình tái sản xuất dân số nói chung và phân tích từng hiện tượng sinh, chết, hôn nhân
và di cư nói riêng. Mặt khác, đây còn là cơ sở để phân tích mối quan hệ giữa dân số với
các vấn đề kinh tế - xã hội khác như quản lý và sử dụng lao động, lập kế hoạch phát triển
kinh tế. Theo kết quả điều tra năm 2013, dân số nam chiếm 49,5% và dân số nữ chiếm
50,5%.
Cơ cấu dân số theo giới tính được đo bằng tỷ số giới tính, được định nghĩa là số lượng
nam giới trên 100 nữ giới.
Hình 2.1: Tỷ số giới tính của dân số Việt Nam, thời kỳ 1960-2013
Tỷ số giới tính của toàn bộ dân số nước ta từ trước đến nay luôn nhỏ hơn
100. Ngoài nguyên nhân chủ yếu (nam giới có mức tử vong cao hơn nữ giới), hiện tượng
này của Việt Nam còn bị ảnh hưởng của các cuộc chiến tranh trong Thế kỷ 20 của Thập
niên trước. Tuy nhiên, tỷ số giới tính có xu hướng tăng liên tục sau khi Việt Nam thống
nhất vào năm 1975. Cụ thể, tỷ số giới tính thu thập được của các cuộc Tổng điều tra dân
số (TĐT DS) năm 1989, 1999, 2009 và Điều tra BĐDS năm 2010, 2011, 2012 và 2013

tương ứng là 94,7; 96,4; 97,6; và 97,7; 97,9; 97,9và 97,9 nam/100 nữ.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tỷ số giới tính của Việt Nam tăng liên tục sau
khi Việt Nam thống nhất vào năm 1975. Một trong những nguyên nhân chủ yếu
là tình trạng phân biệt giới. Việt Nam không phải là quốc gia đầu tiên đối mặt với vấn đề
mất cân bằng giới tính khi sinh nhưng sự thật đây là một thách thức rõ ràng và ngày càng
tăng lên. Hiện nay, toàn Châu Á đang thiếu hụt khoảng 117 triệu phụ nữ do mất cân bằng
giới tính khi sinh. Có một bằng chứng cụ thể ở Châu Á và Việt Nam cho thấy, mất cân
bằng giới tính khi sinh chủ yếu là do việc lựa chọn giới tính trước khi sinh, do những
quan niệm có từ lâu đời về việc ưa thích con trai và đánh giá thấp giá trị trẻ em gái.
Những quan niệm này đã tạo nên áp lực to lớn về việc phải sinh được con trai đối với phụ
nữ và cuối cùng ảnh hưởng tới địa vị kinh tế - xã hội, đời sống sinh sản cũng như sức
khỏe và sự sinh tồn của họ.
2.1 Sự phân chia cơ cấu giới tính.
2.1.1 Cơ cấu giới tính chia theo nhóm tuổi

Bảng 1: cơ cấu dân số theo giới tính và nhóm tuổi
Đơn vị %
Nhóm tuổi Tổng số Nam Nữ
Tổng số 100,0 100,0 100,0
0-4 8,0 8,5 7,5
5-9 7,9 8,3 7,4
10-14 8,2 8,6 7,7
15-19 9,2 9,5 8,8
20-24 8,5 8,6 8,4
25-29 8,5 8,6 8,5
30-34 7,9 7,9 7,8
35-39 7,6 7,7 7,5
40-44 7,3 7,2 7,3
45-49 6,8 6,8 6,7
50-54 6,2 5,9 6,5

55-59 4,2 4,1 4,4
60-64 2,8 2,7 3,2
65 trở lên 6,9 5,6 8,3
Nguồn: Điều tra biến động dân số - kế hoạch hóa gia đình 1/4/2011, Tổng cục Thống kê
Hình 2.2 Biểu đồ thể hiện cơ cấu dân số chia theo giới tính và nhóm tuổi
2.1.2 Cơ cấu giới tính chia theo thành thị và nông thôn
Bảng 2: Tỷ số giới tính chia theo thành thị và nông thôn
(Đơn vị Số nam/100 nữ)
Năm Tổng số Thành thị Nông thôn
2005 96,8 96,1 97,2
2006 96,9 96,4 97,4
2007 96,9 96,2 97,2
2008 97,2 96,3 98,2
2009 97,8 94,4 99,1
2010 97,8 94,7 99,1
2011 97,8 94,9 99,3
2012 97,9 94,8 99,4
Sơ bộ - Prel. 2013 98,2 95,1 99,2
Bảng 3: Tỷ số giới tính của dân số phân theo địa phương
Cấu trúc tuổi của dân số phụ thuộc vào mức độ sinh, mức độ chết và mức độ di dân của
dân số. Do tỷ suất di dân quốc tế của Việt Nam khá thấp nên cấu trúc tuổi của dân số cả
nước chủ yếu phụ thuộc vào mức độ sinh và mức độ chết2. Tuy nhiên, di dân lại tác động
đáng kể đến cấu trúc tuổi và giới tính của dân số nông thôn, thành thị, các vùng địa lý, và
nhiều tỉnh/thành phố trong cả nước.
(Đơn vị nam/100 nữ)
Năm
Vùng
2005 2010 2011 2012 2013
Cả nước 96,8 97,8 97,8 97,9 98,2
ĐBSH 96,3 97,2 97,5 96,8 98,1

Trung du miền
núi phía bắc
98,6 99,6 99,4 99,3 99,3
Bắc Trung Bộ và
Duyên Hải Miền
Trung
96,6 97,9 98,0 98,0 98,1
Tây Nguyên 101,9 102,7 103,4 104,2 104,4
Đông Nam Bộ 95,4 94,5 94,0 95,0 95,1
ĐBSCL 96,0 98,8 98,8 98,7 98,8
Nguồn :tổng cục thông kê điều tra dân số và nhà ở.
Tỷ số giới tính của Việt Nam và một số nước trên thế giới năm 2010
Nguồn: Word Population Prospects: The 2008 Revision Population Database, United
Nations, 2009
2.2 Tỷ số giới tính khi sinh (SRB)
Sự gia tăng bất thường về tỷ số giới tính khi sinh (SRB)13 của Việt Nam trong những
năm gần đây đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập chính sách, các cơ quan
thông tin đại chúng cũng như các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Mất cân bằng giới
tính khi sinh dẫn đến tình trạng thừa nam thiếu nữ trong tương lai, không chỉ ảnh hưởng
đến cuộc sống của cá nhân, gia đình, dòng tộc mà còn ảnh hưởng tiêu cực đối với dân tộc
và sự phát triển bền vững của đất nước.
Bảng 4: Tỷ số giới tính khi sinh, thời kỳ 1999 – 2013
(Đơn vị tính: Số bé trai/100 bé gái)
Năm Tỷ số giới tính khi sinh Năm Tỷ số giới tính khi sinh
1999 107,0 2007 111,6
2000 107,3 2008 112,1
2001 109,0 2009 110,5
2002 107,0 2010 111,2
2003 104,0 2011 111,9
2004 108,0 2012 112,3

2005 106,0 2013 113,8
2006 109,8
Bảng số liệu cho thấy, trong giai đoạn đầu từ năm 1999 đến năm 2005, xu hướng biến
động SRB của Việt Nam không rõ ràng và dường như dao động trong khoảng 104 đến
109 bé trai/100 bé gái. Tuy nhiên, từ năm 2006 đến nay, SRB của Việt Nam bắt đầu có
dấu hiệu tăng đáng kể. Năm điều tra 2013, SRB duy trì ở mức khá cao với 113,8 bé
trai/100 bé gái. Từ năm 2009 đến nay, mặc dù đã có nhiều cảnh báo về hệ lụy của sự mất
cân bằng giới tính khi sinh nhưng tình trạng này dường như chưa hề được khắc phục.
Việc lựa chọn giới tính trước sinh phản ánh tình trạng bất bình đẳng giới sâu
sắc. Các nghiên cứu của quốc tế và Việt Nam cũng đã chỉ ra các hệ lụy trong tương lai
của tình trạng mất cân bằng giới tính hiện nay. Rõ ràng là tình trạng thiếu hụt số trẻ em
gái quan sát được gần đây ở nhiều quốc gia sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt phụ nữ ở tất cả
các nhóm tuổi trong tương lai. Cấu trúc dân số trong những thập kỷ tới sẽ mang dấu ấn
của việc lựa chọn giới tính hiện tại, với quy mô dân số nam vượt trội trong một thời gian
dài. Theo các nhà khoa học xã hội, tác động chính của hiện tượng mất cân bằng giới tính
sẽ liên quan tới quá trình hình thành và cấu trúc gia đình, đặc biệt là hệ thống hôn nhân.
Nam giới trẻ tuổi sẽ bị dư thừa so với nữ do tỷ lệ nữ giới đang giảm dần trong cùng một
thế hệ, và kết quả là họ có thể phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng khi tìm
kiếm bạn đời. Trì hoãn hôn nhân trong nam giới hoặc gia tăng tỷ lệ sống độc thân là
những khả năng có thể xảy ra trong tương lai do tình trạng thiếu phụ nữ trong độ tuổi kết
hôn. Điều này sẽ tác động ngược lại hệ thống gia đình trong tương lai, nhất là trên thực
tế, các xã hội này đều có hệ thống gia đình phụ hệ (theo họ cha) và trước kia hầu hết nam
giới đều lập gia đình.
Trước thực trạng đáng quan ngại nêu trên, Chính phủ Việt Nam rất quan tâm đến vấn đề
mất cân bằng giới tính khi sinh. Lựa chọn giới tính trước sinh là nguyên nhân trực tiếp
của hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh. Đây là một hành vi phạm pháp và trái với
đạo đức con người . Do đó, số liệu theo dõi các diễn biến của tỷ số giới tính khi sinh là
cần thiết,nhằm đưa ra các can thiệp kịp thời về chính sách và chương trình
Bảng 5: Tỷ số giới tính của trẻ em mới sinh phân theo vùng
(Số bé trai/100 bé gái)

Năm
Vùng 2005 2010 2011 2012 2013 (sơ bộ)
CẢ NƯỚC 105,6 111,2 111,9 112,3 113,8
Đồng bằng
sông Hồng
109,3 116,2 122,4 120,9 124,6
Trung du và
miền núi
phía Bắc
101,8 109,9 110,4 108,2 112,4
Bắc Trung
Bộ và duyên
hải miền
Trung
104,7 114,3 103,3 112,1 112,3
Tây Nguyên 108,5 108,2 104,3 98,4 114,1
Đông Nam
Bộ
106,8 105,9 108,8 111,9 114,2
Đồng bằng
sông Cửu
Long
103,8 108,3 114,9 111,5 103,8
tỷ số giới tính khi sinh phân theo vùng năm 2011
Hậu quả:
Việc lựa chọn giới tính trước sinh phản ánh tình trạng bất bình đẳng giới sâu sắc, ngoài ra
các nhà khoa học cũng lưu ý các nhà lập chính sách về các hệ lụy trong tương lai của tình
trạng mất cân bằng giới tính. Rõ ràng là tình trạng thiếu hụt số trẻ em gái quan sát được
gần đây ở nhiều quốc gia sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt phụ nữ ở tất cả các nhóm tuổi
trong tương lai. Cấu trúc dân số trong những thập kỷ tới sẽ mang dấu ấn của việc lựa

chọn giới tính hiện tại, tạo nên một tình trạng nhân khẩu-xã hội chưa từng có tiền lệ với
quy mô dân số nam vượt trội trong một thời gian dài. Theo các nhà khoa học xã hội, tác
động chính của hiện tượng mất cân bằng giới tính sẽ liên quan tới quá trình hình thành và
cấu trúc gia đình, đặc biệt là hệ thống hôn nhân. Nam giới trẻ tuổi sẽ bị dư thừa so với tỷ
lệ nữ giới đang giảm dần trong cùng một thế hệ, và kết quả là họ có thể phải đối mặt với
những khó khăn nghiêm trọng khi tìm kiếm bạn đời. Trì hoãn hôn nhân trong nam giới
hoặc gia tăng tỷ lệ sống độc thân là những khả năng có thể xảy ra trong tương lai do tình
trạng thiếu phụ nữ trong độ tuổi kết hôn. Điều này sẽ tác động ngược lại hệ thống gia
đình trong tương lai, nhất là trên thực tế, các xã hội này đều có hệ thống gia đình phụ hệ
(theo họ cha) và trước kia hầu hết nam giới đều lập gia đình. Một tỷ lệ lớn nam giới độc
thân sẽ không thể duy trì gia đình phụ hệ kiểu truyền thống.
3. Các giải pháp quan trọng
+ Tuyên truyền, vận động, giáo dục người dân thay đổi định kiến "trọng nam, khinh nữ",
thích sinh con trai- đây là nguyên nhân căn bản, hàng đầu và cũng là tập tục truyền thống
lâu đời ở nhiều nước châu Á. Thay đổi được nhận thức hành vi của người dân là việc lâu
dài, không thể tiến hành trong một sớm một chiều.
+ Đảng và Nhà nước cần có những chính sách cụ thể nâng cao vị thế của phụ nữ về mọi
mặt.
+ Chú trọng chính sách an sinh xã hội cho người cao tuổi, đặc biệt là ở nông thôn (chiếm
70% dân số) vì người cao tuổi chủ yếu vẫn sống dựa vào con cái mà chủ yếu là con trai.
+ Ban hành và thực thi các văn bản qui phạm pháp luật nghiêm cấm việc lựa chọn giới
tính thai nhi dưới mọi hình thức.
1. Kết Luận
Có thể thấy rằng, cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính mang lại rất nhiều lợi tức cho nước
ta, đó là một nguồn lao động dồi dào cùng với tỉ lệ dân số tham gia lực lượng lao động
tương đối cao. Tuy nhiên, những lợi tức dân số đó vẫn chưa được khai thác một cách hiệu
quả nhất. Tốc độ tăng trưởng GDP vẫn chưa đi đôi với tăng trưởng việc làm. Vì thế, trong
những năm tới, nhà nước cần phải áp dụng những chính sách để cụ thể hóa lợi tức dân số
thành lợi tức kinh tế, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng GDP và GDP/người của tăng nhanh hơn
nữa. Trong đó, vấn đề mấu chốt là tạo sự bền vững trong tăng trưởng GDP đi đôi với tăng

trưởng việc làm, đề ra những chính sách đón đầu và tận dụng cơ hội “vàng” do cơ cấu
tuổi và giới tính mang lại.

×